Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100) Đề cương chi tiết thảo luận
Họ tên Học viên: Lê Thị Tuyết Mai
Đơn vị: Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (STP)
Lớp: TC 137
Số thứ tự Học viên: 28
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Môn: Đường lối chính sách của Đảng về Quốc phòng, an ninh
Câu 1. Phân tích mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
1. Khái niệm "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc"
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng –an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc
- Học thuyết Mác – Lenin và tư tưởng HCM về Bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Đường lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng đất nước và tăng cường QPAN bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình hình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Về đối tượng của CMVN:
+ Xác định đối tượng, đối tác: những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt nam điều là đối tác của chúng ta. Ngược lại, bất kể thế lực thù địch nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
+ Một chủ thể có thể vừa là đối tác vừa là đối tượng. Hai mặt đối tác và đối tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Tình hình trong những năm tới trên thế giới cũng như trong nước có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
+ Tình hình thế giới:
Hòa bình, hợp tác và hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc khó lường.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố,… có thể gia tăng.
Cục diện thế gới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vửa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh chiến lược, tập hợp lực lượng mới trong khu vực.
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gây gắt.
+ Tình hình trong nước:
Ổn định chính trị tiếp tục được giữ vững, kinh tế-xã hội phát triển, tiềm lực của đất nước được tăng lên; nhưng đất nước sẽ phải đối đầu với những khó khăn thách thức mới.
3. Mục tiêu chung trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:
a) Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam:
Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm lược, giải phóng Tổ quốc, tư duy chiến lược của chúng ta về bảo vệ Tổ quốc thiên về dùng vũ trang chống lại sự tấn công từ bên ngoài là chủ yếu. Ngày nay, trong điều kiện rất mới của quốc tế và trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống; mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới. Chúng ta nhận thức về đối tượng và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy rõ vai trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện, sâu sắc, biện chứng hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đó là một thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
b)Bảo vệ Đảng, NN, nhân dân và chế độ XHCN:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất.
Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: "Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo" và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.
c) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới CNH –HĐH:
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
d) Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc
Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi chông gai, quyết phấn đấu thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để chúng ta phân định những việc cần phải làm và những việc cần phải tránh, như lời Bác Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh; là tiêu chuẩn để chúng ta nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác, ai là đối tượng trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể; những quan điểm của Đảng ta: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Làm trái thế, xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với tổ tiên, các thế hệ cha ông, là phụ lại lòng tin và sự ủy thác của hơn 90 triệu đồng bào!
e) Bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An toàn XH và nền VH Việt Nam
Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây dựng "thế trận lòng dân", xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đi kèm với đó, quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
f) Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định hước XHCN:
Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận thấy là nội hàm mục tiêu của quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta rất rộng, rất toàn diện và ngày càng sâu sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;… Nhưng trên hết là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
4. Liên hệ thực tế về mục tiêu Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã hội, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân.
Kết hợp chặt chẽ an ninh với quốc phòng; an ninh – quốc phòng với kinh tế
Quan tâm phát triển các vùng nông thôn, vùng núi, biên giới, hải đảo.
Câu 2. Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
I. Đặc điểm tình hình:
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố khó lường. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được những thành tựu quan trọng: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững; nội lực, tiềm năng của đất nước lớn và còn có thể phát huy mạnh hơn; uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN tiếp tục được củng cố, tăng cường.
Đó là những thuận lợi rất cơ bản, tạo cơ sở vững chắc để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới; đồng thời, cũng phải thường xuyên đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hòa bình" rất nguy hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN.
Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt và nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; để trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đạt hiệu quả thiết thực. Trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đề ra các quan điểm chỉ đạo, cần quán triệt gồm:
II. Các quan điểm chỉ đạo
1. Quan điểm thứ nhất:Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của NN, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ.
a. Cơ sở thực tiễn
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nước Cộng hòa XHCN Xô Viết đã vượt qua những thử thách nghiệt ngã của thời kì nội chiến, đánh bại các thế lực phản động cùng sự can thiệp của 14 nước đế quốc, vượt qua những gian khổ hi sinh vô cùng to lớn trong Đại chiến Thế giới lần thứ II , tiếp tục xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, làm nên những chiến thắng vĩ đại, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trên thế giới. Nhưng vào cuối thế kỉ XX, nhất là giai đoạn 1985-1991, khi M.Goóc-ba-chốp làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã xa rời tư tưởng của V.I.Lê-nin về quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chiến lược, nhất là xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô. Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết vào cuối năm 1991, làm cho CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng. Đây thực sự là những trang đau buồn trong lịch sử nhân loại. Trong thông điệp Liên bang năm 2005, Tổng thống Nga Pu-tin coi đó là "Thảm họa địa-chính trị khủng khiếp nhất thế kỉ…". Từ những bài học đau xót đó, các quốc gia dân tộc do Đảng Cộng sản hoặc các chính đảng theo xu hướng XHCN cầm quyền đều kiên định nguyên tắc về sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi sự nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp BVTQ. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ XHCN ở nước ta. Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh khu vực gần đây cho thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định của một quốc gia đều xuất phát từ vấn đề nội bộ. Nếu tình hình nội bộ ổn định, đất nước phát triển, đời sống nhân dân được đảm bảo và cải thiện thì lòng tin vào chế độ được giữ vững và do đó các thế lực bên ngoài không có cớ và thời cơ để can thiệp.
b. Nhiệm vụ
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh những mặt mạnh, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra là: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống". Các hiện tượng tham nhũng, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ,… tuy đã được khắc phục một bước, nhưng vẫn còn diễn ra, làm cho lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút. Do đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ, ngoài mục tiêu chung, còn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt; trong đó, mục tiêu đầu tiên là "Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Theo đó, Nghị quyết đề ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ BVTQ; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
2. Quan điểm thứ hai:Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế -xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
a. Cơ sở thực tiễn
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta từ đầu thế kỷ thứ XX. Mục tiêu độc lập dân ta đã đạt được thắng lợi quyết định. Mục tiêu CNXH đã vượt qua chặng đường đầu, đang ở chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời kỳ quá độ lâu dài. Hai mục tiêu này quan hệ khăng khít với nhau. Trong khi thực hiện mục tiêu này vẫn không quên kết hợp với mục tiêu kia. Mục tiêu độc lập dân tộc bao gồm quyền làm chủ của dân tộc đối với Tổ quốc thống nhất, quyền tự quyết định của dân tộc về con đường phát triển của đất nước; quyền bình đẳng mọi mặt trong quan hệ đối với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Độc lập dân tộc chỉ triệt để, hoàn thiện khi xây dựng thành quốc gia cường thịnh, khi không còn nguy cơ xâm lược. Điều đó chỉ đạt được khi xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta và cơ bản trên toàn thế giới. Vì vậy, hiện nay phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc bao giờ cũng gắn liền với một chế độ chính trị nhất định; trong đó, dân tộc có quyền lựa chọn cho mình một chế độ chính trị nhất định, chế độ chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được bảo vệ. Ngược lại, nếu chế độ chính trị không phù hợp, thì chính dân tộc đó sẽ quyết định việc thay thế nó bằng một chế độ chính trị khác phù hợp hơn. Đối với dân tộc ta, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới có độc lập dân tộc thực sự và sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mô hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng và trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân, nhất là đối với kiều bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên, còn có ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH. Một số người cho rằng không cần thiết phải gắn độc lập dân tộc với CNXH. Vậy nhận thức đó đúng hay sai?
Cần thấy rằng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và ở đó CNXH chưa thể hoàn chỉnh ngay được, ngay cả các đặc trưng của CNXH mà Đảng ta khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), cũng chưa phải đã thể hiện được đầy đủ. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải đầu tư nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về CNXH mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Đồng thời, khắc phục các hạn chế của nó, xây dựng CNXH thực sự ưu việt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ giữa BVTQ với các yếu tố tự nhiên, lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Như vậy có thể khẳng định bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta. Chừng nào chúng ta xa rời mục tiêu đó, tức là tách rời độc lập dân tộc với CNXH thì chừng đó sẽ chệch hướng và thất bại. Do đó, cần phải quán triệt thật sâu sắc thật vững vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Mục tiêu CNXH là đạt đến trình độ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là xã hội có hình thái kinh tế-xã hội đạt trình độ cao. Mọi người đều được giải phóng khỏi áp bức, bất công. Đó là xã hội có mô hình được xác định ở cương lĩnh năm 1991 và Đại hội X bổ sung. Đạt trình độ ấy là chúng ta có độc lập dân tộc hoàn thiện và CNXH đích thực, lịch sử dân tộc sẽ chuyển sang kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Kiên định mục tiêu có nghĩa là mục tiêu được xác định là đúng đắn. Đó là quy luật cơ bản của lịch sử Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại. Mọi mục tiêu khác đều không khách quan nên không thể chấp nhận. Độc lập dân tộc không gắn với CNXH là độc lập nửa vời, hoặc giả hiệu không thoát khỏi bàn tay chỉ huỷ của các nước lớn. CNXH không dựa trên độc lập dân tộc thì không còn là CNXH đích thực. Độc lập dân tộc và CNXH là chân lý của thời đại nên sự lựa chọn mục tiêu đó của dân tộc ta là chính xác.
+ Kiên định lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước.
b. Nhiệm vụ
Giữ nước phải giữ từ thời bình. Kế thừa tư tưởng "giữ nước từ khi nước chưa nguy", Đảng ta đã không ngừng phát triển, hoàn thiện tư duy, nhận thức của mình về BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời bình là một trong những quan điểm cơ bản. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng định: "giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước". Như vậy, theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến tranh hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước tối ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên, chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa. BVTQ từ xa không chỉ xét về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất nước đang hòa bình và phát triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh. Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và khẳng định phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để BVTQ. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
3. Quan điểm thứ ba:Kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc; phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, XH với củng cố, tăng cười QP, AN, đối ngoại.
a. Cơ sở thực tiễn
Nội dung và yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xuất phát từ quan điểm an ninh quốc gia tổng hợp và toàn diện. Bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng, làm cho mình mạnh lên. Kết hợp chặt chẽ xây dựng và bảo vệ từ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước, có lợi cho độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm. Mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại... đều phải nắm vững và thực hiện đúng yêu cầu bảo đảm an ninh trong từng lĩnh vực, từng địa phương thuộc phạm vi mình phụ trách, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu an ninh chung theo quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược; gắn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; lấy việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm nền tảng giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng làm điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng làm điều kiện để giữ vững ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội.
b. Nhiệm vụ
Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc không chỉ đối phó hành động vũ trang xâm lược từ bên ngoài mà còn đặc biệt coi trọng việc xây dựng và giữ vững bên trong, đối phó những thủ đoạn phi vũ trang của kẻ địch. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là riêng sức mạnh của lực lượng vũ trang mà là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ của đất nước làm cơ sở để kết hợp và phát huy sức mạnh thời đại vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Xây dựng, tăng cường quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Song, phải đặt nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhiệm vụ trung tâm là, phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là xây dựng Ðảng. Do vậy, tăng cường sức mạnh quốc phòng cũng có nghĩa là tập trung phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng thế trận lòng dân, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế - quốc phòng - an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, làm giàu về tiềm năng, mạnh về thực lực và lực lượng, vững chắc về thế trận. Ðặc biệt ở những nơi xung yếu về quốc phòng, an ninh như vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phải có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo bước đột phá trong xây dựng tiềm năng và thực lực, lực lượng và thế trận, cân đối, đồng bộ và bền vững.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện nay, tất yếu phải tăng cường đối ngoại về quốc phòng, nhằm tuyên truyền về quốc phòng của ta, tạo niềm tin cho bạn bè, đập tan âm mưu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch, thêm bạn, bớt thù, đồng thời trao đổi những kinh nghiệm xây dựng quốc phòng; đấu tranh ngăn chặn và giải quyết nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống; hợp tác phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ quốc phòng, quân y, phòng chống thảm họa; kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Gắn chặt hợp tác quốc phòng với hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện của đất nước.
4. Quan điểm thứ tư: Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tinh thần, kinh tế, XH, VH, QPAN, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của NN, LLVT làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực QPAN, xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân, thế trận An ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
a. Cơ sở thực tiễn
Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: "Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo" và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước.
Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải "thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội"; "củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận".
b. Nhiệm vụ
Đoàn kết các dân tộc là nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và công cuộc xây dựng đất nước nhằm mục tiêu: "Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Bởi vì một mặt, công cuộc đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế và làm cho đời sống các dân tộc được cải thiện rõ rệt. Tuy thế, do điều kiện lịch sử và sự tác động do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng làm cho sự chênh lệch về mức sống và trình độ phát triển giữa các dân tộc về một số mặt có chiều hướng tăng lên, làm nẩy sinh những vấn đề bức xúc trong mối quan hệ giữa các dân tộc đòi hỏi phải được giải quyết. Mặt khác, các phần tử xấu ở trong nước truyền bá; đưa ra chiêu bài thành lập "Nhà nước Đềga tự trị" để lừa gạt đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Thực tế đó đã cho bài học quý: chỉ có không ngừng củng cố đoàn kết các dân tộc mới "hóa giải" được những mâu thuẫn nẩy sinh trong quá trình phát triển đồng thời làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để bảo vệ những thành quả đã giành được và không ngừng đi lên phía trước. Tích cực chủ động tham gia giáo dục tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Phát huy vai trò của quân đội nhân dân trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là ở các địa phương trên các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, hải đảo.
Xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp BVTQ. Chúng ta đều biết, sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp, trong đó có sức mạnh quân sự, nhưng cần nhận thức đúng vai trò của sức mạnh quân sự trong các giai đoạn của cách mạng để không quá đề cao hoặc coi nhẹ sức mạnh này. Xét cho cùng, trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước cũng phải thông qua sức mạnh quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên chiến trường; còn trong thời bình thì sức mạnh quân sự chính là khả năng răn đe hiệu quả trong các tình huống quốc phòng, an ninh, BVTQ. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh việc tăng cường sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, vừa đủ sức BVTQ trong mọi tình huống. Để xây dựng sức mạnh quân sự phải coi trọng nhiều yếu tố; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực tiếp là Quân đội nhân dân vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính trị, bảo đảm cho lực lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại, nhất là một số vũ khí chiến lược; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới
5. Quan điểm thứ năm:Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập Quốc tế; kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác.Chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta. Phát huy truyền thống này, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về bạn, thù trước đây đến việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác. Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực hiện "trong ấm, ngoài êm", thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần "quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc".
Với đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, rộng mở, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, lần đầu tiên Việt Nam đã có quan hệ rộng rãi với tất cả các nước lớn, các chủ thể quan trọng nhất trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 172 nước, là thành viên của các tổ chức quốc tế, là đối tác thương mại, tham gia đầy đủ và tích cực vào tất cả các diễn đàn của quốc tế và khu vực; thu hút đầu tư và có quan hệ với hơn 600 tổ chức phi chính phủ tham gia trong sự nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam. Việt Nam từ một nước thuộc địa – phong kiến trở thành một quốc gia thống nhất, độc lập, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Thực lực của đất nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ví von một cách hình ảnh như "cái chiêng" đã không ngừng lớn mạnh, đó là cơ sở để "cái tiếng" của nó vang xa, đưa Việt Nam có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và được tín nhiệm hai lần là chủ tịch trong một nhiệm kỳ. Với tư tưởng là bạn của các nước, không gây thù oán với ai, với tư tưởng hòa bình, độc lập, tự chủ, rộng mở, trong những tranh chấp quốc tế Đảng ta luôn chủ trương giải quyết thông qua con đường thương lượng song phương và đa phương trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc luật lệ của Liên hợp quốc. Giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế phải trở lại quan điểm của Hồ Chí Minh theo hướng biến những vấn đề đại sự thành trung sự, tiểu sự đến vô sự, mà không làm ngược lại. Quan hệ với các nước trong đường lối đối ngoại của Việt Nam cần tránh "nhất biên đảo". Lúc này hơn lúc nào hết, chính sách đối ngoại Việt Nam phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra.
III. Liên hệ thực tế: TPHCM là một TP lớn Theo đó, kẻ địch và những phần tử phản động, tăng cường thâm nhập bằng nhiều con đường khác nhau để chống phá. Chúng lợi dụng những sơ hở, khiếm khuyết, sai sót của chính quyền địa phương các cấp để lôi kéo, ủng hộ, tổ chức cho nhân dân khiếu kiện...Thực tiễn đó, đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, giáo dục quốc phòng an ninh các cấp, nêu cao tình thần cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và lực lượng phản động. Phối hợp với các sở, ban, ngành và toàn dân xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nắm bắt và làm thất bại những âm mưu, hoạt động của kẻ địch. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế, xây dựng đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, văn nghệ... cho nhân dân.
IV. Kết luận: Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh vững chắc. Trong đó, phát triển kinh tế tạo ra những điều kiện vững chắc để tăng cường quốc phòng an ninh; tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh và toàn vẹn lãnh thổ tạo môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển, những vận hội mới mở ra những cũng không ít những khó khăn thách thức phải đối mặt. Trong đó, nguy cơ chống phá của chủ nghĩa đề quốc đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trở thành một trong những nguy cơ lớn. Diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ là những âm mưu, thủ đoạn được kẻ thù sử dụng như một phương pháp hữu hiệu nhất.
Trước những âm mưu đó, Đảng ta khẳng định nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Thực hiện thắng lợi đó góp phần to lớn cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Cần chủ động định hướng phát triển tiềm lực và sức mạnh quốc phòng toàn dân, đáp ứng những yêu cầu mới của nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, mục tiêu chiến lược của phát triển tiềm lực và sức mạnh quốc phòng toàn dân nhằm xây dựng nền quốc phòng Việt Nam XHCN vững mạnh, đấu tranh làm thất bại chiến lược DBHB và "cách mạng màu" của các thế lực thù địch, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống.
Câu 3: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
I. Khái niệm:
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại của xã hội loài người. Đó là toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực : kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội... nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
An ninh, trạng thái ổn định an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe doạ sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt ; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ ho t động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Cơ sở lí luận của sự kết hợp
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng - an ninh ; ngược lại, quốc phòng - an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng, an ninh. Lợi ích kinh tế, suy cho đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của quốc phòng-an ninh: Xây dựng sức mạnh quốc phòng, an ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội, xã hội chủ nghĩa quy định; còn tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp nhân lực, vật lực cho hoạt động quốc phòng - an ninh. Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạm đội"; "Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,...". Vì vậy, để xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, vật lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng - an ninh. Để xây dựng chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia của mỗi nước, phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang và vào trang bị binh khí kĩ thuật hiện có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này đều phụ thuộc vào nền kinh tế.
Quốc phòng - an ninh không chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế – xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. Quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong thời bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Tiêu dùng cho hoạt động quốc phòng, an ninh, một mặt, đặt ra cho nền kinh tế phải sản xuất ra sản phẩm, hoặc thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nó; mặt khác, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng, an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lênin đánh giá, là tiêu dùng "mất đi", không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc phòng - an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt động quốc phòng - an ninh còn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế – xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động đều có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát triển đặc thù, do đó, việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.
2. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa hề xẩy ra chiến tranh.
Tuy nhiên, các nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng ta đề ra chủ trương "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm"; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp; "Xây dựng làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.
Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay) kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được "cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc"; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày nay.
II. Quan điểm chỉ đạo kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh:
Quan điểm 1:
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến lược, các quân khu. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp đó phải được thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
+ Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng – an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
+ Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
kinh tế địa phương với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã (phường) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh (thành phố), quận(huyện)
+ Ba là, kết hợp trong quá trình phân công lạilao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
+ Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường… Bảo đảm tính "lưỡng dụng" trong mỗi công trình được xây dựng.
+ Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sang đối phó khi có chiến tranh xâm lược.
2. Quan điểm 2:
- Hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.
- Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Một là, trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn qui mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có chiến tranh.
+ Hai là, phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự…
+ Ba là, trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn kết với qui hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng – an ninh, các tổ chức chính trị, đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
+ Bốn là, việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm lược.
3. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
a) Một là, kết hợp trong công nghiệp
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của nghành công nghiệp.
+ Tập trung đầu tư một số nghành công nghiệp liên quan đến quốc phòng như: Cơ khí chế tạo, vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghiệp cao phục vụ QP- AN.
+ Phát triển công nghiệp quốc gi theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự.
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp dân dụng và ngược lại.
+ Phát triển hệ thống phòng không công nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến
+ Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
b) Hai là, kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp
+ Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và lực lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
+ Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn vói việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nần cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp phần tạo thế trận phòng thủ "thế trận lòng dân" vững chắc.
3.Quan điểm 3:
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa kinh tế; những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới; sự xuất hiện loại hình chiến tranh mới, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; sự chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Trong điều kiện đó, "tính linh hoạt" của nền quốc phòng toàn dân trở nên rất cao, nhiệm vụ quốc phòng đượcmở rộng. Nền quốc phòng toàn dân nước ta vừa phải có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, vừa phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phải có đủ sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; phát huy sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong đó xây dựng thế trận có tầm quan trọng đặc biệt. Thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới phải đáp ứng yêu cầu: Khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi chiến tranh xảy ra thì thực hiện chiến tranh nhân dân "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", tạo ra những "tấm lưới sắt", "bức thành đồng", "thiên la địa võng" bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đó là sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
4. Quan điểm 4:
- Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP- AN là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta, nhằm thực hiệ thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có sự phối hợp của các nghành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc phát triển kinh tế- xã hội, củng cố QP- AN.
Câu 4. Phân tích tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm
1. Khái niệm phòng chống tội phạm
Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
- Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính là tư tưởng chỉ đạo trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa không để tội phạm xảy ra; thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để người dân bị xử lý trước pháp luật, không bị tước quyền công dân
- Phòng ngừa mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.
- Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiện ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra tuy tố xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
Phòng chống tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau:
+ Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và phạm tội cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.
+ Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động phòng ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra. Hướng này đòi hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện.
- Phòng chống tội phạm mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các công dân.
Mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm là khắc phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội
2. Thực trạng tội phạm ở Việt Nam
Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên trách làm nòng cốt đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Cuộc đấu tranh đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, điều hành của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, động viên được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Công tác phòng ngừa xã hội mà nòng cốt là phong trào "Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục, giúp đỡ người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư" được triển khai sâu rộng, gắn với Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đ i sống văn hóa và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân đã mang lại hiệu quả rõ nét, góp phần củng cố nền tảng ngăn ngừa tội phạm ngay từ cơ sở.
Các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Hàng chục nghìn băng nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển ma túy đã được triệt phá, bóc gỡ; nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện, điều tra, xử lý; hoạt động của tội phạm có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự mang tính chất "xã hội đen" đã được ngăn chặn; tình hình tội phạm ở các thành phố lớn, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế.
Đạt được những kết quả trên là do đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh tổng hợp của xã hội và sự cố gắng, nỗ lực của các lực lượng chuyên trách.
Mặc dù vậy, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp. Nhiều loại tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế. Tội phạm có tổ chức, băng nhóm tội phạm mang tính chất "xã hội đen", tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm về ma túy hoạt động công khai, lộng hành ở nhiều thành phố lớn, trên các tuyến biên giới, trắng trợn xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và nhân dân. Tham nhũng và tội phạm tham nhũng vẫn hết sức nhức nhối, trở thành một trong những mối đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ. Tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân và sức khỏe cộng đồng. Tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm sử dụng công nghệ cao đang là một thách thức lớn.
Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp.
Dự báo trong giai đoạn tới, tình hình tội phạm ở Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm nghiêm trọng có xu hướng tăng.
Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm hình sự có tổ chức, băng nhóm "xã hội đen" gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội phạm ma túy có vũ trang ở khu vực biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm kinh tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình thành các tập đoàn tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu không được đấu tranh ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thoái đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa của xã hội.
Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước.
Thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các đối tượng chuyên nghiệp gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn chặn, làm giảm những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội và sa vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do, thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua; thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà tụ tập, lang thang, sống bầy đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức hư hỏng, thoái hóa, biến chất.
Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các tuyến trọng điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các đô thị loại 1 và các vùng chiến lược về an ninh, trật tự; trên các tuyến biên giới, quốc lộ trọng điểm, tuyến hàng không quốc tế, tuyến bưu chính - viễn thông; trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất - nhập khẩu, thương mại điện tử, tổ chức cán bộ và an sinh xã hội...
3. Quan điểm và mục tiêu phòng, chống tội phạm
a) Về quan điểm
Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm nòng cốt.
Chiến lược phòng, chống tội phạm là một nội dung quan trọng, bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, các đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường xã hội ổn định, lành mạnh phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại của đất nước.
Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính, kinh tế - xã hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phòng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
b) Về mục tiêu
Khắc phục một bước căn bản, vững chắc nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại, phát triển của các loại tội phạm, trước hết là các nguyên nhân, điều kiện do những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; kiềm chế sự gia tăng của một số loại tội nguy hiểm, từng bước làm giảm tình hình tội phạm, trước hết trên các tuyến, ở các địa bàn trọng điểm.
Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, huy động mọi nguồn lực xã hội vào công tác phòng, chống tội phạm.
Nâng cao một bước căn bản năng lực hoạt động của lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm, đủ sức đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
4. Một số nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tội phạm
Một là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị trong phòng, chống tội phạm. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng các cấp trong công tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Trước hết là trách nhiệm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, tổ chức theo yêu cầu của Bộ Chính trị được nêu trong Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng cần xác định phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và đưa vào chương trình phát triển để chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Các chỉ tiêu về phòng, chống tội phạm cần được coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm. Kiện toàn Ban Chỉ đạo 138 các cấp theo hướng sáp nhập các ban chỉ đạo về lĩnh vực phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, phòng chống tệ nạn xã hội về một đầu mối và tăng cường cán bộ có phẩm chất, nhiệt huyết, năng lực, kinh nghiệm vào Ban Chỉ đạo 138 các cấp.
Hai là, chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã hội. Coi trọng phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia đình và ở cơ sở. Rà soát, đánh giá ảnh hưởng của các chính sách phát triển và quá trình thực hiện các chính sách phát triển đến tình hình tội phạm và hoạt động phòng, chống tội phạm, đề xuất khắc phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập. Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, nhất là truyền thông giáo dục về đạo đức, lối sống, chính sách, pháp luật nhằm chống suy thoái đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần cảnh giác và trách nhiệm tham gia phòng, chống tội phạm đối với các tổ chức, cá nhân và gia đình.
Đẩy mạnh phong trào "Toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư" gắn với Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và "Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới", gắn và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp cục củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả hoạt động của các lực lượng bán chuyên trách và các tổ chức tự giác của quần chúng ở cơ sở. Đẩy nhanh quá trình "xã hội hóa" công tác phòng, chống tội phạm, huy động thêm nhiều nguồn lực cho công tác phòng, chống tội phạm.
Ba là, từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách. Rà soát, đánh giá thực trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực lượng này.
Trong đó, cần tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố trí hợp lý mô hình các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế phối hợp... theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08-11-2011, của Chính phủ về Chương trình cải cách nền hành chính quốc gia giai đoạn 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư ngân sách, mua sắm, cung ứng vật tư, phương tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm. Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm và một số đạo luật có liên quan.
Năm là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm. Trước hết, ưu tiên hợp tác với các cơ quan an ninh, cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh sát, tư pháp hình sự quốc tế để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ yêu cầu hiện đại hóa, tăng cường năng lực của các lực lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước
Đánh giá chung:Nhìn chung, theo Chỉ đạo của Chính phủ thì các bộ, ngành, địa phương cần xác định công tác phòng chống tội phạm là nhiệm vụ chính trị, thường xuyên liên tục; lấy các cơ quan chuyên trách làm nòng cốt; đồng thời, làm rõ trách nhiệm cá nhân trong công tác này nếu để xảy ra sai phạm và để tội phạm lộng hành; mỗi địa phương cần có chương trình cụ thể để nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm; đổi mới và nâng cao công tác phòng chống tội phạm của lực lượng chức năng; rà soát đánh giá thực trạng năng lực của các lực lượng chuyên trách để xây dựng đề án khắc phục yếu kém của các cơ quan tố tụng; ưu tiên đầu tư mua sắm các thiết bị, vật tư cho công tác phòng chống tội phạm; các cơ quan nội chính chủ động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mà dư luận xã hội quan tâm. cả hệ thống chính trị phải vào cuộc để đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân; do đó, các bộ, ngành, địa phương phải ra sức thi đua và làm tốt nhiệm vụ được giao.
Câu 5: Phân tích mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nhiệm vụ trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng
1. Các văn kiện chỉ đạo
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra khi đất nước ta bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Đại hội Đảng đã thông qua 3 văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Ba văn kiện quan trọng này nêu quan điểm, phương hướng cơ bản chỉ đạo cả lâu dài, trung hạn và ngắn hạn về đường lối đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất. Cương lĩnh nêu những định hướng, nguyên tắc lớn, mang tầm chiến lược cho cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020. Phần đối ngoại trong Báo cáo chính trị đề cập nhiều định hướng cụ thể cho các hoạt động đối ngoại 5 năm tới. Từ Báo cáo chính trị đến Chiến lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Đảng được đề cập phù hợp với nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương châm và những định hướng lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn kiện đó hợp thành Đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh". Báo cáo Chính trị xác định: "Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".
2. Những nội dung cơ bản
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính dưới đây:
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: "Vì lợi ích quốc gia, dân tộc". Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là "vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh". Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại "vì lợi ích quốc gia, dân tộc" được nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như vậy không có nghĩa Đảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định "Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế". Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh "bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc" là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ:"Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".
Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ "bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ". Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: "bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển", "tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc".Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn đề tồn tại trên cơ sở các "nguyên tắc ứng xử của khu vực".
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là "hội nhập quốc tế" và "thành viên có trách nhiệm".
Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác" được thông qua tại Đại hội X sang "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" . Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội…
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới.
Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác động tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như: buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Phạm vi và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao... sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc XHCN và vị thế quốc gia.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố "muốn là bạn" (Đại hội Đảng lần thứ VII), "sẵn sàng là bạn" (Đại hội Đảng lần thứ VIII), "là bạn và đối tác tin cậy" (Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là "thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế". Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương.
Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là "xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh". Tuy vậy, trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn cần được tính toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta trong từng vấn đề, từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ: trách nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, Đại hội XI nêu định hướng về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ; ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực hiện. Về đối ngoại quốc phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh", "Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc". Với định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Về định hướng tham gia trong ASEAN, Đại hội XI chỉ rõ: "Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương" . Định hướng này là bước phát triển cao hơn từ định hướng: "Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á-Thái Bình Dương" được thông qua tại Đại hội X. Bước phát triển này thể hiện, Đảng ta khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên trong ASEAN, Việt Nam tham gia các hoạt động trong ASEAN với tư cách là một thành viên có trách nhiệm; chỉ rõ mục tiêu của các hoạt động của Việt Nam trong ASEAN là xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN; xác định rõ đặc tính của Cộng đồng ASEAN mà Việt Nam phấn đấu cùng các nước xây dựng là một cộng đồng vững mạnh, có quan hệ chặt chẽ với các đối tác bên ngoài và có vai trò ngày càng quan trọng trong các cơ chế hợp tác ở khu vực; đồng thời khẳng định, phương châm tham gia hợp tác ASEAN là chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Với định hướng này, việc tham gia trong ASEAN trở thành một trong những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, ngang với "quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng chung biên giới".
Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối ngoại, Đại hội XI nêu: "Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại". Khi hội nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu phải toàn diện và để các hoạt động này không chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau thì việc triển khai phải được thực hiện đồng bộ. Tính toàn diện của đối ngoại Việt Nam được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại; tính toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và; sự đa dạng của các mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập.
Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng một nền đối ngoại toàn diện, sẽ tạo nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các kênh đối ngoại, nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không có kế hoạch tổng thể và nếu không có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, các lĩnh vực đối ngoại thì sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả của các hoạt động đối ngoại.
Coi triển khai đồng bộ và toàn diện là phương châm ưu tiên trong triển khai đối ngoại, Đại hội XI sẽ tạo ra nhận thức và đồng thuận lớn hơn trong Đảng và nhân dân về tính chất mới của sự nghiệp đối ngoại cũng như nêu rõ hơn yêu cầu tham gia tích cực và chủ động hơn của mọi lực lượng trong hoạt động đối ngoại, đồng thời đưa tới những bước tiến mạnh hơn theo hướng thống nhất chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, các Bộ/ngành và địa phương.
1
[Type the document title]