HỒI ỨC LÍNH TÂY NAM XUÂN TÙNG
Tôi vĩnh biệt tuổi thơ bằng một cú va chạm mạnh.
Miền Bắc hồi đó, chị em toàn dùng một loại “quang treo” (áo nịt ngực) cùng kiểu, cùng size. Nó dày, các lớp vải thô được "tích- kê" đồng tâm chặt với nhau thành hình nón. Đặc biệt cái mũi cứng và nhọn hoắt nên cái sơ mi mặc ngoài tại vị trí đó sờn trước tiên. Bác nào ham sưu tầm các tranh cổ động, tranh “bờ hồ” thời đó hẳn biết cái soutien đó nó ảnh hưởng đến nền mỹ thuật hội hoạ tuyên truyền cổ động của chúng ta như thế nào. Trên các tranh này thể hiện rất rõ sự tấn công hùng tráng của “núi đôi”, với sự trợ giúp đắc lực của cặp phụ tùng này...
Tôi năm đó 18 tuổi, đang học lớp 10 trường Phan Đình Phùng – Hà Nội (hệ 10 năm). Thằng con trai 18 tuổi thời đó ngu lắm, không quái như bọn trẻ con bây giờ. Vẫn dở ông dở thằng, vẫn đôi khi còn mặc quần đùi thông lổng ra hồ Hoàn Kiếm câu tôm trong những ngày nghỉ. Một lần, cùng bọn con trai đuổi nhau trong trường, tôi chạy ngoặt qua cái góc cầu thang gỗ thì va đánh ầm vào một cô giáo thực tập đang đi lên. Tôi đỡ cô giáo dậy, lúng búng xin lỗi rồi biến mất. Nhưng cái "vết thương" do hai quả “ngư lôi” gây ra trên ngực tôi thì không biến mất. Từ hôm đó, mặt tôi cứ thộn ra, thỉnh thoảng lại sờ tay lên ngực... Tính tình trở nên trầm hẳn.
Ôi thôi rồi cái vết thương thời áo trắng!
Thời đó áo trắng cũng hiếm. Vì thực ra gần nửa thời gian thơ ấu của tôi sống cùng Hà nội trong bom Mỹ thả. Rồi đi sơ tán...Áo trắng của tôi bị mẹ nhúng vào chậu xanh-mê- ti- len do bố mang về để nguỵ trang.
Điều đó quả thật không may cho một đứa trẻ con. Nhưng có vẻ chính những trận bom ấy, tầm cao xạ ấy, tiếng B.52 rền rền ấy làm cho mình không bị bất ngờ trước những tiếng nổ sau này. Cũng chính cuộc sống nơi sơ tán thôn quê đã giúp mình tự lập, thay đổi thói quen, thích nghi với những hoàn cảnh khó khăn dã ngoại.
Và cũng có thể các cuốn truyện thiếu nhi rất hay thời đó : Đất rừng phương Nam; Cuộc truy tầm kho vũ khí; Rô bin sơn Cru xô; Ti mua và đồng đội... cũng làm mình trong gian khổ vẫn thoáng thấy niềm khao khát tìm hiểu các địa danh, các miền đất lạ, những thú vật, cây cỏ nơi xa lắc… Kể cả cái thú xem, tìm hiểu bản đồ hay thiên văn thường thức. Ngần ấy thứ gộp lại bằng 10%, cộng với 90% là do may mắn, có lẽ thế, đã giúp tôi được trở về.
Sau kỳ thi đại học năm 1978, tôi đi nghỉ hè trên chỗ viện bố tôi công tác ở Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Rồi một ngày chủ nhật, tôi theo công nhân viên của viện ông lên Tam Đảo chơi. Tháng tám, đang mùa thu hoạch cây xuyên khung. Có ai còn nhớ thuốc cảm Khung Chỉ thời đó không? Đó là do ta bào chế từ cây xuyên khung và bạch chỉ nên đặt tên như thế! Thị trấn trên núi vắng teo, thơm ngát mùi xuyên khung héo, phơi đầy trên những con đường dốc…
Chiều tối hôm đó, khi trở về gần đến Vĩnh Yên thì trời đổ mưa. Từ cửa sổ xe ca hồng thập tự, tôi thấy một đoàn quân đang lặng lẽ hành quân đi trong mưa. Họ trùm nilon sù sù, cắm cúi bước trên con đường loáng ánh đèn pha. Trong xe thật ấm. Và chỉ một chút nữa thôi là về đến nhà. Là có thể duỗi dài đôi cẳng đã mỏi nhừ vì leo xuống thác Bạc. Là mở cái đài Hồng Đăng trong phòng bố nghe ca nhạc.... Khi so vai trong phòng ấm, nhìn ra màn mưa dày ngoài kia, khi ta đang an toàn sung sướng, nhìn thấy người ta gian lao vất vả, không biết mọi người nghĩ gì? Nhưng có một điều gì đó như dự cảm đồng vọng, bắt tôi phải nhìn theo mãi đoàn quân ấy. Có biết đâu rằng chỉ vài ngày nữa thôi, là thành đồng đội. Chỉ bốn tháng nữa, là cũng đi rạc rài hơn thế, là chui hầm ngủ đất, là không biết sống chết thế nào ở một nơi xa lắc rồi…
Về đến viện gặp bố. Ông bảo:”Mai về Hà nội, con có lệnh nhập ngũ”.
Suốt đời, tôi không thể quên được cái buổi chiều hôm chủ nhật ấy. Có thể xuyên gắn chúng lại với nhau bằng những từ đơn giản : Tháng tám Tam Đảo mùi xuyên khung đoàn quân mưa ướt giấy gọi nhập ngũ.
VÙNG QUÊ YÊN TĨNH Sẽ là một thiếu sót lớn trong câu chuyện biên giới Tây Nam khi không nhớ gì, không nhắc gì đến cái làng quê mà chúng tôi huấn luyện ở tại đó trước khi vào chiến trường. Cái xóm Núi, thôn Lãm gần ga Bình Lục ấy…Một làng quê Bắc bộ vùng đồng chiêm trũng điển hình. Những ngọn đồi thấp cắm chân thẳng xuống đồng sâu. Tre gai bao bọc lấy làng thành luỹ dày ngăn ngắt.
Đoàn tân binh Hà Nội vừa xuống khỏi mấy chiếc xe ca Ba đình, được tập trung tại sân kho. Những đồ lính được phát ngay lập tức gồm: bát sắt, chiếu đơn hoa, màn xô trắng, chăn chiên sợi Nam định màu đỏ nhạt. Đũa thì tự đi mà tìm lấy…Quân phục, mũ, sao, tiết vẫn chưa được phát. Chúng tôi vẫn mặc thường phục ở nhà mang đi. Chiều tối hôm đó đơn vị không nấu cơm. Phát cho mỗi người hai cái bánh mỳ to tổ bố.
Chúng tôi được biên chế thành tiểu đội, trung đội ngay. Lính các tiểu khu (phường bây giờ) được xáo trộn, về các đơn vị khác nhau. Chắc để cho khỏi tụ bạ làm loạn hoặc để chia dễ trị… Chưa được phát ba lô, mấy thằng chúng tôi ôm tất cả các thứ đồ đó trên tay, lếch thếch đi theo các cán bộ về các nhà dân ở.
Dân làng nghèo, nhiều nhà phải ngả cả cánh cửa xuống, lấy chỗ nằm cho bộ đội. Tôi với thằng T. Anh được anh Ly tiểu đội trưởng đưa về nhà một chị có chồng cũng đi lính chống Mỹ. Chị ấy có thằng bé con năm đó mới đi học lớp Một. Thằng T. Anh cho nó cái bánh mỳ. Nó nhìn mẹ nó rồi ngập ngừng cầm lấy.
Đã ba năm kể từ ngày thống nhất mà chồng chị ấy vẫn không có tin tức gì. Rất ít nói, rất buồn, cứ như một cái bóng. Mờ đất, khi chúng tôi nghe tiếng còi báo thức sáng của anh Ly thì chị ấy đã cuốn xà cạp vào chân, loạt soạt kéo cái rào rong lấp cổng ra đồng rồi…Xà cạp là cái miếng vải cuốn vào bắp chân, cao đến tận đùi để chống đỉa. Đồng chiêm trũng nên đỉa rất nhiều. Đỉa hẹ nhỏ, mỏng như cái que, hai lườn vàng choé nhưng rất thính, động nước là lao đến liền. Con này rất sợ vì nó tham ăn, lại hay luồn lách được vào những chỗ không ngờ. Đỉa trâu thì quả là nỗi khủng khiếp! Khi đói nó co lại có khi chỉ bằng cái *** mít. Nhưng khi đã no máu thì nó trương lên cỡ chục lần, bằng quả chuối tiêu.
Những buổi chiều, chúng tôi tập xong ngồi nghỉ ở sân kho cũng là lúc đàn trâu hợp tác đi cày về. Cũng dồn ở sân kho như bộ đội, trệu trạo nhai lại, hay ngửi hít, cọ sừng cồng cộc với nhau. Trên đùi bọn này là một túm đỉa lúc lỉu căng máu, to như quả chuối tiêu cỡ bự. Ấy thế mà bọn trẻ trâu nó cứ mặc kệ. Tôi kinh tởm nhất cái giống này…Bẻ một cành rong, cùng anh em hò nhau đi bắt đỉa cho từng con. Con khủng long rơi xuống, lấy chân dẵm lên day day. Hai tia máu đỏ phọt ra từ cả hai đầu thành vòi vụt xa đến cả mét. Vẫn chưa hả, chúng tôi đốt rơm, gắp chúng nó thảy vào. Một lúc, những con đỉa nổ trong lửa bụp bụp, tiết dở sống dở chín văng tung toé. Trung đội 2 có thằng Trương xếch, muốn thể hiện bản lĩnh trước anh em. Nó nướng cháy từ từ một con đỉa cho đến khi vỏ ngoài thành than. Hắn bóc cái vỏ đen đen đó, cầm miếng tiết trâu nóng hôi hổi cho thẳng vào mồm, mặt nhăn nhăn nhở nhở. Tởm chết mẹ!
Nhưng cũng có những thằng sợ đỉa. Một lần, thằng T. Anh đang tập ngắm bia số 1 ngoài bờ cùng trung đội thì đau bụng. Nó đi loanh quanh tìm chỗ rồi chúi trong đám cỏ năn nước xâm xấp, bị đỉa bâu mà không biết. Đến khi phát hiện ra thì máu đã chảy ròng ròng trên bắp chân. Nó rú lên, không kịp xốc quần, chạy cà giựt cà tang về phía các chị em xã viên đang ngồi nghỉ. Các bà này thấy thế cũng hoảng, ôm nón chạy toá ra, vừa chạy vừa cười rũ rượi. Cả trung đội trưởng tôi cũng cười rồi xô vào gỡ cho nó. Nhưng anh Cường chính trị viên (dân phố Cầu Gỗ- Hà nội) thấy thế tức lắm! Hôm sau cho nó nghỉ tập ra sân kho, bắt gỡ đỉa cho trâu bằng tay dưới sự giám sát của cán bộ. Nó sợ đỉa chứ không sợ cán bộ, dứt khoát không làm. Vùng vằng mãi rồi suýt đập cả a trưởng.
Tối đại đội gọi lên thì nó nói thẳng là bảo nó làm gì cũng được, kể cả bốc ***. Nhưng nếu cứ bắt nó làm như thế thì nó sẽ đào ngũ. Hình phạt ấy về sau phải bỏ. Có những nỗi sợ vô thức đâu đó trong con người, trong từng khoảng khắc, nó bất chấp cả kỷ luật. Tôi cũng sợ đỉa nhưng không đến mức như nó…
Một tuần sau, thấy chúng tôi ở nhà chị ấy có vẻ không tiện, anh Ly a trưởng lại lôi hai thằng tôi về ở cùng…
Nhà này khá to. Ông chủ nhà là chủ nhiệm hợp tác xã có con đi bộ đội trong Nam. Hai ông bà cùng cô con gái út 17 tuổi tên là Độ ở nhà trên. Bọn tôi được xếp ở nhà ngang phía dưới. Toàn bộ khu nhà đó nằm thoải từ chân núi xuống cái giếng cạnh đường làng. Cái giếng chết tiệt này nó sâu lắm ! Dây thì lại ngắn vừa phải, nên mỗi lần em Độ cúi nhoài người để giật cái gàu cho nó ụp xuống múc nước thì lại lạnh lưng hở sườn. Những ngày mưa ngâu, chúng tôi không ra thao trường được. Nằm tập ngắm bia con, chấm bút bi ở trong nhà sao cho nó chụm. Ngắm bia thì ít, mà ngắm cái trăng trắng dưới vạt áo đang múc nước ngoài kia thì nhiều. Nó trắng hơn bia là cái chắc. Anh Ly dân Hải Phòng bực mình, nổi máu quân tử mã thượng, đi mua một cái chạc dài thay dây gàu. Lại bắt tụi tôi mỗi đứa mỗi ngày hai gánh nước đổ lên bể trên cho nhà cô Độ.
Lần đầu tiên tôi phải đi gánh nước. Đau vai thì không nói làm gì,.nhưng mấy cái bậc đá trơn leo dốc làm tôi ngã sóng xoài, sứt mất phần ba cái răng cửa. Hít ra hít vào nó buốt lên tận óc. Thành ra ăn cơm ngô, tôi trệu trạo đưa đẩy răng hàm mấy cái rồi nuốt chửng. Đến giờ răng cửa vẫn nguyên cái miếng mẻ to tướng ấy.
Em Độ, lạy giời, không cảm cái oai với sợi thừng dài của anh Ly, mà đâm thông cảm với cái thằng vì sườn mình mà răng nó sứt. Ngày đó quán bà bóp cây đa đầu tiên bán 2 hào quả bưởi. Sau khi bộ đội về làng, bà điều chỉnh giá lên kịch đường tàu thành 5 hào. Tôi với thằng T.A ở đó thích là có bưởi ăn liền, khỏi mua vì cô Độ cho. Bưởi đầy sau núi vườn nhà. Tối thứ Tư sinh hoạt trung đội, đọc báo sân kho. Tôi cáo ốm không đi. Lúc về lão Ly đi khẽ, lia đèn pin, thấy tôi không ốm, đang ngồi chén bưởi rinh rích vô tư cùng ẻm trên bực giếng. Anh ấy mới hầm hầm ra cái lệnh: Từ nay ngồi "tìm hiểu" hay nói chuyện với phụ nữ, với nữ đoàn viên thanh niên địa phương ban tối thì phải đốt đèn dầu. Đèn dầu phải để giữa hai người...
Từ đó ra đường quốc lộ 1 là 7 km, đến thị xã Phủ lý thêm 4 km nữa. Tổng cộng là 11 km. Ấy thế mà mấy đứa bạn gái cùng lớp các bạn ấy dám đến đơn vị thăm chúng tôi đấy. Đầu tiên đi xe ca từ Hà nội đến Phủ lý. Sau đó thì đi bộ 11km vào đơn vị. Bọn chúng tôi có 4 đứa trai cùng lớp chơi thân với nhau gồm tôi, Votmuoi, thằng T (B trưởng trinh sát D4b mà tôi đã bốt ảnh bên Quân sử vn) với thằng T.A. Sau thêm một nhóm bốn bạn gái nữa thành một nhóm.
Chiều tà tiễn nhau ra bến xe để về nhà. Tôi xin phép cho đi tiễn nhưng anh Ly sợ chúng tôi bám váy trốn theo nên không cho. Chúng tôi cứ lẳng lặng đi. Đồng tháng 10 đang mùa gặt. Rơm phơi đầy trên đường làng, rơm quấn lấy bước chân người. Thơm thơm lãng mạn ghê lắm nhé! Đi giày quân đội như tụi tôi bước còn khó. Huống hồ đi guốc gỗ vẽ sơn mài con cá vàng thì chỉ có mà nhờ dịch vụ cõng. Bao nhiêu guốc các nàng đành tháo ra hết. Tôi lấy sợi lạt bó lúa xâu cả lại xách toòng teng. Gần ra đến ngã ba thì anh Ly mượn xe đạp của dân đuổi kịp. Tôi bảo anh cứ đi về đi, tiễn đến ngã ba thì tụi em trở về. Anh ấy không tin, cứ dắt xe đạp đi sau tụi tôi một đoạn. Đội hình đầu nhọn đuôi dài như truyện Con Ngỗng Vàng của Gờ Rim với cha xứ đi sau cùng
Năm đó cũng cữ này thì chúng tôi đi bắn đạn thật. Trường bắn cách chỗ tôi đóng quân 4km, nằm phía sườn đông dãy núi Khe Non. Từ mấy hôm trước, BCH đại đội cùng thằng Trung liên lạc bò ra cắt dán những bông hoa hồng màu đỏ, có cái đuôi nheo vàng để phát cho những thằng bắn đạt loại giỏi đeo trên ngực. Thằng Trung là em một cô bạn cùng lớp với chúng em, nhà ở số 9 phố Đồng Xuân. Năm đó nó mới 16 tuổi mà không hiểu sao người ta cũng cho đi bộ đội.
Ngày bắn đã đến. Chúng tôi dậy và hành quân từ 5 h sáng sau khi đã chén xong suất ngô sáng. Toàn tiểu đoàn bắn trong một ngày. Đến nơi, tôi giật mình vì ông D trưởng cầm khẩu AK bắn chỉ thiên ba phát. Tiếng súng dội đi dội lại theo sườn núi ào áo chứ không đanh. Tôi vào vị trí bắn thì cũng run. Anh Toại B trưởng nằm xuống cạnh bảo "kệ mẹ cho chúng nó bắn trước để quen tiếng nổ đã". Lão ấy lấy kính kiểm tra gài lên súng tôi, thấy đầu ruồi rung quá mới bảo; " Cứ bình tĩnh. Nếu thiếu tự tin phát nào tao bù đạn cho. Trong túi tao đầy đạn". Bên cạnh tôi, chúng nó nổ súng đùng đùng. Biết đếch thằng nào bắn ba viên, thằng nào bắn năm viên mà lo. Cha chả các bố huấn luyện ! Đơn vị nào cũng có mánh để nâng thành tích của đơn vị mình. Trách gì cái bệnh hình thức của toàn xã hội ta bây giờ. Tôi còn nghe có đứa nó bảo là mấy thằng báo bia còn lấy que thông nòng súng dùi lỗ trên bia để nâng thành tích thêm nữa. Không biết có đúng hay không ?
Hôm đó tôi cũng chỉ bắn 3 viên, được 26 điểm, cũng đạt giỏi. Cũng được đeo một bông hồng giấy trên ngực lấy le với mấy em xã viên
Sau kỳ đó thì chúng em tập nhàn hẳn. Buổi sáng lười, trốn tập thể dục không ai nói. Chúng tôi có thời gian lần mò cải thiện tẩm bổ. Mưa thì mượn lưới dân đi lưới cá ở ao Hợp tác vượt ra mương. Đất vùng chiêm trũng. Những buổi trưa nắng thu hanh gắt, nắng rám trái bòng. Những con ốc bươu, ốc nứa vỏ mỏng vàng xọng, tích khí bên trong vỏ, từ từ nổi lên trên mặt nước. Để nhờ cơn heo may dài rộng mà đủng đỉnh làm chuyến viễn du trên mặt sóng lăn tăn. Nghỉ trưa là tụi tôi mang vợt ra đi vớt. Ốc mùa này béo lắm ! Trong những bó rạ được người ta buộc túm, bỏ lại trên ruộng, chờ khô để rải liếp màu, là nơi trú ngụ của cua đồng. Nhấc ra là túm được dăm con. Còn trong những dấu thụt chân người đọng nước trên mặt bùn đã xanh rêu, thọc tay khua khoắng cũng túm được mấy con cá đòng đong, mài mại hay cá giếc nhỏ... đem về nhờ kho khế.
Những chiều cuối thu, nằm dài trên bờ mương dưới bóng bạch đàn ngắm bia mẹ con. Đồng đã gặt xong vắng tênh. Trong không gian bắt đầu chuyển lạnh thấy rõ. Mà đất chỗ tôi ở cách Bình Luc, Yên Đổ quê cụ Tam Nguyên chưa đến 4 cây số. Hẳn ngày xưa, cụ cũng sống trong cái không gian đồng đất xóm mạc cuối thu buồn bã này, nên mới cảm mà viết nên những tuyệt phẩm Thu Vịnh, Thu Điếu...
Chiều vãn tập, chuẩn bị về nhà chờ đi ăn cơm. Trung đội ngồi quây quần trên núi đó cùng với B trưởng Toại tán dóc. Lão này là cán bộ B nhưng hóa vẫn còn nghịch dại, đem giấu khóa nòng khẩu AK của một thằng tôi không nhớ tên trong trung đội. Nó sợ, kêu toáng lên là chỉ có em với anh ở đây, lại mới vừa tháo lắp súng thấy đủ. Vậy nó đi đằng nào ? Chỉ có anh giấu thôi ! Ông Toại cứ cãi sống chết. Bọn tôi bênh nó, vào hùa làm ầm lên. Một lúc sau thì lão ấy đành xì ra và bảo đừng có báo cáo đại đội. Báo cáo thì ông ấy đi theo anh em vào chiến trường là cái chắc. Giống như trường hợp của mấy ông A trưởng huấn luyện như Ánh Hải phòng, Kính Hải phòng...
Chúng tôi không báo. Nhưng tối đi sinh hoạt đại đội ngoài sân kho, đang lộn xộn đi qua bờ cây tối thì nghe đánh "Ủm". Rồi tiếng lão Toại chửi rầm lên...
Cóc biết đứa nào dám đẩy ông Toại lăn xuống cái ao đang ngâm tre. Tre đang ngấu, thối lắm !
Lão ấy cũng không báo đại đội hoặc làm căng với tụi tôi. Thế là HÒA !
Thời gian huấn luyện những năm đó khẩu phần ăn của các anh thế nào ?
Chúng tôi thì như sau: Bữa sáng ăn ngô xay nấu như kiểu nấu cơm. Có cho chút vôi để ngô mềm. Thường thường là nát như bánh đúc. Gác ca cuối thì mò vào cạy cửa bếp ăn vụng cháy. trên mỗi chậu nhôm chia ngô, chị nuôi úp một miếng cháy. Cháy ngô nấu chảo gang dày khi ăn nóng khá giòn và ngon. Bữa trưa và chiều thì cơm ngô theo tỷ lệ 50-50. Thức ăn là rau muống chấm "nước mắm" gạo rang. Một chút cá khô mục nữa. Còn thịt hồi đó được định nghĩa: là thức ăn hằng ngày của nhân dân, mà bằng mắt thường ta không thể nào nhìn thấy được
Thằng Long "Nhuận" ở 54 Hàng Giấy, gần hiệu sách Yên Sơn, có mang theo một cây guitar. Nó là học trò ông Văn Vượng, chơi classic khá hay. Ngón trémolo những bài "Bài ca hy vọng", "vũ khúc Tây ban nha".... nghe không khác trên đài là mấy. tôi cũng mới tập tọe học chơi. Nhai đi nhai lại mấy cung Am, Dm, C, E7 rồi lộn về Am là hết vốn. Đã thế lại còn thích sáng tác. Một sáng tác của tôi theo giai điệu bài "Hạ Trắng" của Trịnh Công Sơn thế này:
Tuyệt quá.....! Bữa cơm chúng mình Toàn rau muống xanh
Bát cơm ngô vàng Đệm cho món canh Tép kho hôi rình
Ngửi sao thấy tanh
Nghẹn không muốn nuốt Biết sao bây giờ...?
Cho nên em buồn Cho nên em chuồn Về nơi phố cũ....
Cho nên em khùng Cho nên em bùng Đường xa sá chi Đường ta cứ đi Nắng không ngại gì
Biến xa đơn vị Em hãy cùng đi...
Phải nói là tôi có công phổ cập âm nhạc Trịnh Công Sơn. Kể ra thì nhiều lão cáu nhưng quả thật nhiều thằng không biết Hạ Trắng là cái gì, nhưng lại thuộc lòng cái lời xuyên tạc chết tiệt này.
Một tối, đang gân cổ say sưa trình tấu thì anh Cường CTV vồ được. Anh ấy hỏi thằng nào sáng tác bài hát này? Tôi bảo là Trịnh Công Sơn. Anh ấy bợp tai tôi phát, bảo là mày đừng có bố láo. Đại đội này không có quân nhân nào tên là Trịnh Công Sơn cả. Mai đi làm cỏ lúa !
Ba hôm liền, cứ sau bữa trưa, mọi anh em về đánh giấc thì tôi ra ruộng làm lao công dưới sự giám sát của anh Ly. Lão ấy cứ lầm bầm chửi tôi là tiên sư mày, vì mày mà bố mày khổ lây.
Nào, tiếp nhé ! Thời đó quân tân binh huấn luyện chúng ta học chính trị những gì? Xem nào: Tất nhiên là 10 lời thề danh dự của QQĐNDVN, các bài hành khúc quân đội...Rồi các bài giảng về kẻ thù lâu dài là đế quốc Mỹ, kẻ thù trực tiếp là bọn bá quyền bành trướng TQ cùng tay sai là bè lũ Pôn Pốt - Iêng Sa ry. Nhiều kẻ thù lắm...Rồi đụng độ hàng nguội, căng thẳng biên giới phía Bắc; anh hùng CAVT Lê Đình Chinh; đánh địch lấn chiếm biên giới Tây nam; người Hoa, người Việt gốc Hoa bỏ nhà cửa, công việc ùn ùn kéo về biên giới Lạng Sơn...Bác gái tôi, gọi bà ngoại tôi bằng dì ruột lấy chồng là người Hoa, cũng bỏ nhà ở ngõ Phất Lộc, theo con trai đi đợt này...Tóm lại, một bầu không khí làm xáo động mọi người lớn trong gia đình tôi, hơi pha chút âu lo.
Hồi đó, dù đã đi bộ đội, có lẽ chúng tôi vẫn còn "hơi sữa" thời học sinh nên cũng chẳng thấy lo lắng gì sất. Mình với TQ chỉ dậm dọa thế thôi chứ đời nào nó dám tẩn mình? Còn bọn Pôn Pốt nó ở đâu đó xa lắm. Chỉ cần vài loạt bom hay pháo của kho vũ khí tối tân Mỹ nó để lại đầy tổng kho Long Bình là chúng nó tan xác pháo. Chuyện chủ quan hay tâm lý tự mãn ấy là có thật đấy! Trong các câu chuyện thời sự vỉa hè mọi người rỉ tai nhau cũng hay bàn nhiều đến các vũ khí này. Và bọn lính mới tò te, như một lẽ tự nhiên, nghĩ rằng có đánh nhau cũng chẳng đến lượt mình. Có đánh thì một phát nó tan ngay... đời lính đẹp và hào hùng như các tác phẩm văn học chiến tranh dạy trong nhà trường.
Thế thì các "em" lớp dưới_ lớp 9D trường Phan Đình Phùng thấy chúng tôi đi bộ đội, cũng theo không khí chung thời đó, ra hiệu ảnh thuê quân phục làm phát cho nó thỏa mơ ước quân hành. Hặc hặc, quân phục thuê đắt ngang áo dài cưới đấy! Hội này nghe pháo Miên nó đề pa phát chắc chạy phọt guốc. Trường sáng về muộn, cố rình trường chiều xem đứa nào ngồi cùng chỗ, viết thư tình để trong ngăn bàn của mình. Cũng có một đôi nên duyên chồng vợ. Đó là thằng 16 phát B41/ ngày với cô bạn ngoài cùng bên phải tấm hình. Chẳng biết khi giải ngũ nó có bắn nổi 2 phát/ngày không ?
Những tối tập báo động di chuyển ! Kẻng báo động chiến đấu thì keng keng keng_ keng keng keng...giật hồi ba tiếng một. Báo động di chuyển hình như năm tiếng một hay sao ấy nhẩy? Quên rồi ! Nhưng tối có báo động di chuyển thì thể nào tôi cũng biết vì có thằng cu Trung liên lạc nó thông báo trước. Ăn cơm chiều xong. Lên gửi nhà chủ những đồ linh tinh và cái chăn dạ cho đỡ phải đeo nặng. Nhưng cái chiếu gập đôi lồng cồng bên ngoài vẫn phải có để không bị lộ là bỏ lại đồ. Tập trung ở sân kho. Cán bộ phổ biến mệnh lệnh hành quân, tốc độ hành quân, hướng hành quân...là lên đường.
Đi dọc mương ra đường đất lớn. Cắt qua mấy mảnh ruộng khô. Qua bãi tha ma xứ đạo có những ngôi mộ to, những cây thập ác khổng lồ lạnh lẽo dưới trăng rồi vọt ra phố Động. Cái phố này bây giờ chuyên làm đồ đá, bán non bộ, tạc tượng Phật tượng Chúa đủ loại... Thỉnh thoảng điên lên cán bộ hô chạy! Thế là chạy hồng hộc một đoạn như một bọn phát rồ. Tôi còn nhớ là có lần hành quân đêm qua trại thương binh, lúc anh em vừa tan buổi chiếu phim tối, đưa gái làng về. Mấy thằng lính Hà Nội nghịch ngợm đi qua, trêu "mẻng" của các đàn anh chiến trận. Họ gom lại vung tó chiến đấu quên mình nhưng cũng không lại với mấy thằng tân binh đầu gấu. Cứ mũ cối gia công Đội Cấn chúng nó lao vào đập, chẳng kiêng dè các đàn anh gì cả.
Trận hỗn chiến cuối cùng thành cuộc rút quân mau lẹ của đại đội tôi. Vì trong số thương binh đó có anh chạy được về trại, gọi thêm quân cứu viện. Thế là chúng tôi chạy. Cán bộ cũng chạy. Không chạy thì họ vớ được thịt ngay. Đừng có dại. Ở đó họ nhiều lần quậy tưng mà xã huyện còn không dám nói gì nữa là! Quân số bổ sung ra đến nơi thì chúng tôi chân lành rút lâu rồi. Trại thương binh hôm sau tuyên bố sẽ sang ăn gỏi mấy thằng lính mới. Chúng tôi cũng chuẩn bị tinh thần tiếp đón, nhưng không thấy các anh ấy sang...
Sau thời gian đó, chúng tôi được chuyển ra phía ngoài Mậu Chử. Vào đúng cái làng mà lão ( tên bạn tác giả ) ở. Cái làng có cây cầu xi măng bắc qua ao đầu làng. Lúc đó đơn vị Votmuoi chắc đã hành quân vào Nam. Đêm nằm nghe tiếng còi tàu rít u u ...Chẳng biết bao giờ đến lượt đơn vị mình lên đường
Chúng tôi chuyển đơn vị ra Mậu Chử, gần đường cái (QL1) hơn. Một lần, nhân dịp hội thao trung đoàn, đơn vị cho chúng tôi vượt cầu phao sông Đáy sang trung đoàn bộ xem bóng đá. Trận đấu Thể Công gặp Quân khu Tả ngạn. Cũng như truyện "Tinh thần thể dục" của cụ Nguyễn Công Hoan. Chúng tôi dậy từ lúc gà gáy, ăn cơm, điểm danh, lục suc cờ quạt khẩu hiệu để hành quân. Tôi chẳng nhớ gì tỷ số trận đó cả. Chỉ nhớ chúng nó hô: Bền ! Bền ! Các bác mê bóng đá, mê Thể Công có nhớ anh Thái Nguyên Bền tóc xoăn trắng trẻo đẹp giai lai Pháp đá hay không ạ? Anh ấy trước đá Thể công, sau hình như bị kỷ luật gái gú gì gì đó nên phải sang đá cho Quân khu Tả ngạn.
Đó là chúng nó giải thích cho tôi thế! Tôi không biết gì chuyện đó. Nhưng biết rất rõ là hôm đó trời đổ cơn mưa lớn. Chúng tôi ướt như chuột lột. Về đơn vị tôi bị trận sốt to mấy ngày mới khỏi. "Ốm tha già thải" là chế độ quân đội ta, được lính thành ngữ hóa. Ốm trong đơn vị cũ còn có vẻ có lợi chứ ở đơn vị mới này thì khỏe cũng nghỉ mà ốm cũng nghỉ. Chắc là gần đến ngày đi nên chẳng ai bắt chúng tôi tập tành gì nhiều nữa. Chỉ lo đảm bảo quân số đã là một thành công lớn vì độ này tụi nó bùng nhiều lắm!
Đêm cuối thu càng lúc càng lạnh. Tiếng chó sủa ong óc lúc xóm gần, lúc làng xa như có động vì lính trốn, vì quân cảnh đuổi bắt. Một số tiểu đoàn đã lục tục lên đường. Cái dự cảm lên đường hồi hộp nao lòng, bắt đầu từ những tiếng chó sủa đêm đêm. Từ những đoàn gia đình nhà lính vào thăm ngày càng nhiều. Bố mẹ tôi cũng vào thăm một lần. Tôi gửi lại cây guitar mang theo vào đơn vị cho bố mang về. Cây đàn này nay vẫn còn, đang treo trên tường. Chiều hôm đó song thân ra về. Tôi tiễn ra đến đường cái quan. Nhớ mãi hình ảnh bố gò lưng đạp cái xe nam ngược gió ra ga Phủ Lý, đèo mẹ đằng sau tay chống cây đàn...
Bố mẹ tôi là viên chức nghèo nên không có tiền nhiều để cho. Nhưng một số anh em gia đình buôn bán, "phe phẩy" (!?), hay có nghề phụ gia công... thì được cho khá nhiều. Chúng tôi gom tiền, mua hàng mũ trứng vịt luộc ăn với nhau. Rồi Chủ nhật đụng luôn con chó gié nhà chủ. Bác chủ nhà đứng ra gọi người làm hộ, vì bọn tôi có biết thịt chó bao giờ đâu? Bên bờ ruộng khô trắng vì gió bắc đầu mùa, anh ba toa rút những nắm rơm nhỏ, đốt quạt phành phạch, lật đi lật lại con chó để thui lại những chỗ còn da trắng. Chúng tôi lui cui vây xung quanh,
nghịch đốt những cây muồng khô. Qủa muồng nổ lốp đốp trong lửa. Da chó dần vàng rộm, căng rồi nứt ra vì quá lửa. Mùi rơm đốt, mùi quả muồng cháy, mùi chó thui bên bờ ruộng quẩn quanh rặng bạch đàn...Ôi chao là chủ nhật làng quê !
Có lẽ đó là ngày Chủ nhật cuối cùng yên bình nhất. Mấy ngày hôm sau, các “tham mưu con” đoán già đoán non, phấp phỏng. Tôi thì nghĩ đơn giản là nếu được vào miền Nam thì cũng tốt. Một vùng đất mới chỉ biết qua sách vở vừa được quân ta giải phóng. Vào đó may có khi được đi Sài Gòn xem dinh Độc Lập, đi Cà Mau xem sân chim hay xuống Cần Thơ chỗ anh Phát tôi đóng quân, ăn trái cây “một bụng” ngon hết sảy như anh ấy kể…Hoàn toàn không có một khái niệm gì về cuộc chiến tranh biên giới Tây nam. Các vụ lấn chiếm lẻ tẻ của Pôn Pốt mà báo đài đưa tin không gây một ấn tượng gì. Dẹp mấy vụ đó có các sư đoàn thiện chiến hùng mạnh, cùng một đống vũ khí tối tân của Mỹ chúng ta vừa thu được. Liệu bọn nó sức mấy? Đơn vị mình vào đó có khi chỉ làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế là cùng. Ấy, hồi đó không chỉ tôi mà nhiều thằng cứ nghĩ như thế đấy!
Sáng hôm 18/11/78, cả tiểu đoàn huấn luyện báo động chiến đấu, hành quân ra thị trấn Phủ Lý. Từ Mậu Chử đến thị xã chỉ khoảng 6 km, nên đến gần trưa đã tới đó. Đến nơi thì thấy các tiểu đoàn khác trong trung đoàn huấn luyện (E104) đã tập kết đầy đủ trong sân vận động. Tiểu đoàn tôi vào nốt. Cổng sân vận động được đóng chặt lại. Trưa hôm đấy, trung đoàn ăn bánh mỳ trừ bữa. Đến khoảng 2h chiều, một đoàn văn công bắt đầu đến biểu diễn trên sân khấu. Lòng dạ đâu mà nghe hát lúc này? Một số thằng lính nghịch tinh, ngồi gần sân khấu còn ném xương khẩu mía nhai dở lên ầm ầm...
Đến 4h chiều, đơn vị hành quân ra ga Phủ lý, giữa hai hàng vệ binh lưỡi lê tuốt trần. Từ sân vận động ra ga tàu chỉ khoảng 1 km. Tôi vừa đi trong đội hình hành quân, vừa ngoái lại. Nhìn thấy con em gái với mẹ thằng Thắng Hàng Bè, gia đình thằng Lâm và một số gia đình khác đuổi theo hàng quân. Thằng Thắng học khác lớp nhưng cùng trường với tụi tôi. Họ xông vào thì vệ binh gạt ra ngay. Mấy thằng lính Hà Nội nổi khùng vặc lại. Họ quấn túm lấy nhau. Chao ôi là nước mắt...!
Thành ra bây giờ cứ xem lại đoạn đầu đặc tả cảnh tòng quân trong phim "Đàn sếu bay qua" thì cổ họng tôi nó như nghẹn lại…Một cô gái váy trắng lớ ngớ, len lỏi tìm người yêu tòng quân giữa hai hàng thiết giáp. Tiếng kèn vang vọng lên hành khúc. Và hộp bánh bích-quy sinh nhật tặng người yêu của cô đổ òa, tan vụn dưới xích xe tăng, tan vụn dưới những gót quân hành.
CHUYẾN TÀU QUÂN SỰ Có bốn đứa cùng lớp, cùng đơn vị thì bị tách thành hai nhóm. Khi lên tàu yên vị, tôi với thằng T.Anh ngồi cạnh nhau. Còn thằng Bình với thằng Hiệp ngồi hình như ở toa khác. Các cửa toa đóng lại. Lát sau con tàu bắt đầu chuyển bánh. Hàng lính cảnh vệ, và những người thân hôm đó vô tình lên thăm bộ đội, ráng ở lại đến cuối chiều chờ phút chia ly trên sân ga… lùi dần, lùi dần…
Đến ga Nam Định, tàu dừng một lát ngắn. Rất đột ngột, bố T.Anh xuất hiện ở ngay đầu toa. Chúng tôi cùng chạy đến. Ông đã từng học ngành đường sắt ở Bắc Kinh. Lúc đó, ông làm cán bộ điều độ tại ga Hàng Cỏ nên biết rõ hành trình của các chuyến tàu. Chỉ ông mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn cần thiết để lên toa quân sự này. Người cho chúng tôi một ít tiền và dặn rằng: anh em chúng mày, dù ở đâu cũng phải phải bao bọc lấy nhau.
Bố nó cũng như bố tôi thôi! Mấy tháng trước, khi vừa thi xong nghỉ hè. Chúng tôi toàn đạp xe lang thang ngoài đường, đi chơi về muộn. Chổng mông tắm ở máy nước công cộng cho khỏi nóng. Khuya mới về nhà nó lục cơm nguội ăn, rồi lăn ra nền ngủ. Sự hiện diện của ông tại toa này, như nhắc rằng những ngày hè cuối cấp đó còn tươi rói. Rồi ông xuống tàu, lên chuyến tàu tránh ngay tại đó ngược trở lại Hà Nội. Tôi vẫn nhớ lúc đó trời còn chưa tối hẳn, mặc dù đèn hành lang trên ga đã sáng. Nước mắt anh em tôi giàn giụa…
Đêm đó là một đêm thật buồn. Đồng bằng tối đen. Có những chấm vắng đèn đêm xa lắc, trôi ngược chầm chậm qua cửa sổ, trong tiếng bánh xe lăn ù ù...Cây đàn guitar thằng Bình Hàng Giấy mới đưa cho tôi trên sân vận động còn nguyên trên xích đông kia. Cây đàn này đã cùng chúng tôi đã hát bài Guantanamera, với bộ trống do con trai ông Cát Huyền Minh số 11 Hàng Giấy chơi trong hội diễn cuối cấp. Hy vọng là thằng Bình còn giữ hình ảnh cây đàn đó trong những tấm hình học sinh sót lại. Nếu còn thì tôi sẽ đưa lên đây như một tri ân. Nhưng từ nay, cây đàn này sẽ sống một cuộc sống khác. Để rồi nó vỡ tan hoang trong một cú đập mà tôi, trong một lúc tuyệt vọng, đã vạng không thương tiếc vào cái cột nhà sàn bên bờ sông của một đất nước khác: bờ sông Niếc Lương.
Quãng chừng khuya, tàu đang chạy chậm, chuẩn bị vượt cầu Hàm Rồng thì rầm rầm dồn toa, khựng lại bất ngờ. Có tiếng hô, tiếng quát mấy toa dưới. Đó là mấy ông lính đào ngũ sử dụng phanh khẩn cấp trong toa để dừng tàu. Họ quăng ba lô qua cửa sổ, cũng theo cửa đó tuồn ra rồi mất hút trong bóng đêm. Không ai truy đuổi theo cả. Nhốn nháo một lúc rồi tàu lại chuyển bánh… Đến sáng hôm sau thì tất cả cái sự buồn vỡ bích quy hôm trước tan biến. Khung cảnh bên đường luôn thay đổi.
Tàu chạy qua những vùng đất trước tôi chỉ biết qua sách vở, khiến lòng người háo hức. Đường sắt Quảng Bình có những đoạn chạy lút giữa những đồi gianh cao ngập đầu người. Những đoạn đường đất heo hút cắt ngang, có những em bé chỉ mặc áo mà không mặc quần, nheo nhóc đứng trông theo đoàn tàu. Những cầu sắt nhỏ, bắc qua những lạch nước bỗng réo lên ù ù khi tàu vượt qua. Sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu xanh biếc. Chỉ có những con ngòi sâu vùng thượng du mới có cái màu xanh thủy tinh đặc biệt ấy… Chắc mọi người còn nhớ là hồi đó chúng ta thường có những cuốn lịch bỏ túi xinh xắn. Bìa thường in cành đào hay hình một cô gái đẹp. Trong cuốn lịch đó có một mục thống kê các ga trên tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà nội đến Sài gòn và độ dài từng cung đường.
Tôi chúi mũi vào đó để tra tên ga xép, biết mình đang đi qua đâu. Năm ngoái, chuyến đi xa nhất về phương nam theo cơ quan bố đi nghỉ mát là mới chỉ đến Sầm Sơn, Thanh Hóa. Vậy nên tôi gần như ôm chặt cái cửa sổ, mắt hút hết cảnh vật trên đường… Một phác thảo theo ấn tượng còn lại:
Cầu Hiền Lương bé tí. Cửa Tùng bên tay trái xa kia. Nơi đó cách đây 18 năm, Nửa đêm bố đạp xe ra Hồ Xá. Đánh điện về nhà đặt tên cho mình.
Lịch kịch! Rình rình… Quảng Trị cát trắng... Những ruộng ớt đỏ. Những con đường vắng. Những nhà tôn tạm bợ không người.
“Đây là ga Huế!”. Các công tằng tôn nữ mập và hơi đen. Vị trà đá uống chưa quen. Lăng Cô: năm hào được một đống ghẹ luộc.
Hải Vân Đệ nhất hùng quan Hổn hển hai đầu tàu kéo đẩy. Chui hầm tối. Lính mồm reo... Mắt chợt khóc vì đầy bụi.
CĂN CỨ LONG BÌNH Hành trình xuyên Việt băng xe lửa kết thúc ở ga Hố Nai.
Xe tải đón về Long Bình. Ấn tượng nhất là cái cổng lớn ghép bằng những tấm ghi thô sơ, trông xấu thậm tệ. Sau mấy ngày đi tàu, mồ hôi chua loét. Cả đoàn tranh nhau ra cái giếng to tắm giặt. Lần đầu tiên biết nhai bo bo toàn tòng. Những hạt bo bo màu nâu nấu cứng, nhai lép bép trong miệng. Vậy mà mỗi đứa cũng chỉ kịp hớt hai bát là nhẵn nhụi. Ở ngoài Bắc chúng tôi ăn cơm độn ngô vàng. Còn trong này là bo bo. Lương thực cho lính như vậy là có khác nhau theo từng vùng.
Chúng nó bảo ở đây gần Sài gòn lắm rồi. Những đứa có họ hàng, người nhà, gửi đồ lại cho nhóm cạ rồi tếch đi chơi luôn. Không biết có đứa nào tếch thẳng không? Tôi không có ai quen biết nên nằm lại. Vét mấy đồng còn lại theo ra cổng ăn đậu phụng chiên da cá, uống nước rau má.
Cái nước rau mà hàn tính đó, nó xỏ tôi một vố sau này. Kể luôn là thế này: Hồi ra viện sư đoàn, trốn về Sài gòn cùng thằng Trung thì có đến ở nhà bác nó tá túc chờ tàu. Nhà chật, lại đông người. Gồm có hai bác, hai cô con gái trạc tuổi tôi. Lại thêm tôi với thằng Trung thành 6 người trong một diện tích khoảng 10m2. Tôi với thằng Trung ngủ trên gác lửng cùng ông bác. Còn bác gái với hai cô ngủ tầng trệt. Hồi cơm chiều xong, ra ngõ làm ly rau má mát lạnh cho khoái khẩu. Đến đêm thì bụng đau quặn, sôi ùng ục. Cá mắm Căm pu chia tẩn nhau với nước rau má lạnh Sài thành dữ dội. Đành ôm bụng đi xuống nhà cầu. Lối đi lại phải qua giường các quý bà. Thế mới bất tiện.
Đêm đó tôi diễu qua diễu lại cái giường đó không dưới 5 lần...Nhưng điều đó không tệ bằng cái thứ âm thanh trung thực, lại không phải tiếng vĩ cầm do tôi, đúng hơn là do rau má, phát ra từng đợt qua cái cửa tạm kề giường ngủ bằng tấm ri đô. Mặc dù tôi đã cố gắng vận hết sức để giảm thiểu volume. Báo hại là hình như càng cố gắng, khi buột ra thì nó càng vang vọng đến tàn tệ. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy xấu hổ nhục nhã. Huống hồ là khi đó mới hai chục tuổi đời sĩ diện chứ mấy. Khổ quá! Ở Sài gòn cũng có cái khổ của Sài gòn. Đâu cũng có những nỗi khổ riêng.
Thôi tiếp câu chuyện cho chóng quên.
Được mấy bữa thì xe quân sự đến đón. Cái xe ca trong này cũng khác xe ngoài Bắc. Nó dài ngoẵng và xanh xanh đỏ đỏ rất vui mắt. Lúc đó cũng chẳng biết mình được đón đi đâu. Chỉ biết xe thẳng hướng Sài gòn là thấy sướng. Nhưng nó chỉ chạy đến Thủ Đức thì rẽ phải. Chẳng thấy hòn ngọc Viễn đông trong mong ước đi qua. Dần dần thì chỉ thấy rừng cao su mút mắt. Cảm giác nữa là đường quá nhẵn, quá tốt, khác hẳn những con đường thơ ấu đầy ổ gà ngoài Bắc. Hồi nhỏ đi sơ tán theo viện bố, tôi hay được ngồi ké ghế trước cái com- măng- ca *** vuông của ông. Đường Hà nội lên Vĩnh phúc có 50 km mà nó chạy mất đến 3 tiếng lận. Đây thì xe cứ vù vù lướt êm cuốn mù bụi vàng. Bên đường thoáng qua, những quán nước có những nải chuối tây treo lủng lẳng. Thêm một nhận xét là chuối rẻ như cho, và toàn một loại chuối tây.
CĂN CỨ TRẢNG LỚN Cho đến khi chuyển từ trạm Long Bình về cứ của Sư đoàn 9 ở Trảng Lớn, Thị xã Tây Ninh năm 1978, tôi - một binh nhì 18 tuổi đời vẫn chưa có hình dung nào về chiến tranh trên bộ, về những ngày tháng mình sẽ đi qua cùng trung đoàn mình được bổ sung vào. [/FONT]
Thị xã Tây Ninh, một thị xã biên giới xinh xắn và xanh ngắt nằm yên tĩnh giữa một vùng đất đỏ. Đoàn xe quân sự vừa dừng bánh, các dì, các em chìa tận cửa xe mời mua những bịch nước mía đá, những gói kẹo đậu phộng... “Mía ghim! Mía ghim....Năm hào một cây mía ghimm...”. Xe lôi, xe thổ mộ ngược xuôi. Toà Thánh Cao Đài, chợ Long Hoa người đi lại nhộn nhịp. Đám đông dân chúng thỉnh thoảng điểm sắc lính áo xanh. Trong một vài quán cóc, dăm ba thương binh chống nạng hoăc băng tay trắng toát, phì phèo điếu thuốc rê trên môi, nhìn theo đoàn lính mới ra chiều thông cảm...
Chúng tôi được gom vào tiểu đoàn 31, một tiểu đoàn với chức năng huấn luyện bổ sung của sư đoàn tại căn cứ . Nhưng những ngày ở đó, cũng không có huấn luyện được thêm gì. Quanh khu căn cứ, có một đội quân đầu nậu thu gom "ve chai" các đồ thải, vật dụng chiến tranh, quân cụ...Tôi thấy hồi đó toàn các anh em lính cũ nằm trông cứ ở Trảng Lớn suốt ngày đi kiếm đồ trong căn cứ, giấu gom một chỗ. Đêm mang qua lỗ thủng hàng rào bán. Tấm ghi lót đường băng có giá nhất. Kế đến là tôn, cọc rào thép gai có các tai móc, cát tút đạn 105mm...Sau mót hết rồi thì đào dây điện. Thỉnh thoảng bị vệ binh rượt, bắn đùng đùng, quăng cả ghi mà chạy. Vệ binh phục ở các đường rào thủng "dân sinh" này là chắc ăn. Thu lại được thì cũng bán nhậu nốt.
Tiểu đoàn trưởng vệ binh sư 9 năm 78 tên là đại uý Thanh Nga. Ông này lúc nào cũng có mùi rượu. Nhớ cả anh Lan đội trưởng vệ binh cổng Trảng Lớn nữa... Một hôm, tôi đang ngồi uống nước mía, cái áo mút mang đi từ ở nhà khoác buộc trên cổ thì ông ấy với mấy thằng lính vệ binh xộc vào. À! Thằng này định bán quân trang! Bắt nhốt cho tao! Tội nghiệp cái thời đó! Cái áo mút cũng phải được mấy chục. Và nó không phải là quân trang mà ở nhà mang đi mặc trong quân phục cho khỏi lạnh. Thế là mình vào "boong ke", vốn là cái thùng dù tiếp vận Mỹ, chật và nóng điên người. Còn cái áo thu được thì tụi nó bán, nhậu ngay lúc đó. Cà tưng cà tưng lên rồi thì ném đá hoặc lấy thanh sắt đập vào thành boong ke làm chói ù hết tai. Nhậu tàn thì chúng nó thả tôi ra. Ông Thanh Nga lại còn ca mấy câu vọng cổ nữa, rồi chúng nó cười ầm cả lên...Tôi lủi thủi đi về tiểu đoàn huấn luyện. Ức nghẹn họng, nước mắt cứ giàn giụa vì từ bé đến lớn chưa bao giờ bị cư xử bất công như thế.
Cái nhớ nữa ở Trảng Lớn là ổ bánh mỳ suất buổi sáng của lính. Cái bánh mỳ nho nhỏ thơm dậy mùi men đặc biệt. Nhất là khi nó vừa được dỡ ra từ bao tải còn nóng hôi hổi. Suất sáng điểm tâm này chúng nó liếm một phát hết nửa cái. Còn mình cứ dè dặt nhấm nháp. Cái bánh mỳ thơm, bột trắng và vỏ giòn tan, hơn loại bánh mỳ mậu dịch mà chúng tôi gặm suốt những năm thơ ấu. Nhớ sang cả cái lúc tụi tôi 4 đứa Tùng, Vinh, Anh, Thọ trong năm học lớp 9, trong một lần trốn tiết. Đổi 8 cái tem lương thực 250g lấy 8 cái bánh mỳ sừng bò, rồi lên hàng cây cơm nguội trụi lá mùa đông trên khách sạn Thắng Lợi gặm. Từ đó kết giao thành hội VAT. Bây giờ, cả bốn đứa đều vào vùng biên giới Tây nam này.
Trảng Lớn là căn cứ cũ của sư đoàn 25 QLVNCH trước đây, nằm ngoài rìa thị xã Tây Ninh, bao gồm nhiều phân khu độc lập. Các phân khu giới hạn bởi các hàng rào thép gai phủ đầy cỏ Mỹ, vạch ngang dọc những lối chồn đi. Bấy giờ đang là mùa khô. Ngày nắng, bụi, nhưng đêm về gió chướng lùa qua lỗ vách tròn, vốn là những tấm ghi lột lên từ đường băng dã chiến cũ, lạnh gai người. Bình minh mùa khô phương nam thật lạ. Chân trời đỏ rực với những dải mây thấp, loang lổ xám. Chưa đến giờ tập thể dục. Tôi còn đang ngái ngủ bỗng dỏng tai nghe.
“Vi vi vuuut.....Oành! Oành...! Tất cả chạy nháo ra sân. Trung đội trưởng hét lên: “Tản ra! Nằm xuống! Pháo 130 ly nó giã đấy! Mấy quả nữa bắn trúng dãy nhà tôn bỏ không mé bên trái, giật tung mái bay xoang xoảng. Tôi không còn thấy sợ nữa nhưng bắt đầu hiểu rằng: Chiến tranh thực sự rồi! Nó bắn thêm mấy quả nữa rồi ngưng, chắc sợ ta dò toạ độ phản pháo hoặc oanh tạc không quân. Cỏ Mỹ khô bắt lửa cháy giần giật. Tàn lửa bay tung toé trong khói cuồn cuộn.
Ngày 25/11/1978, buổi tối, trong khi đang điểm danh đơn vị, bầu trời thị xã đột nhiên sáng bừng bởi hàng trăm vệt đạn vạch đường xé toạc màn đêm yên tĩnh. Lính mới nhốn nháo cả lên. Đại trưởng hô: “Giữ nghiêm hàng ngũ! Các đơn vị phòng không đang diễn tập đánh máy bay địch! Tiếp tục điểm danh đi”.
Đêm đó, tôi đã cảm thấy hơi thở của những ngày báo động cũ đang phả nóng tai mình. Đã sáu năm trôi qua, kể từ cuối năm 1972, bây giờ mới lại nhìn thấy đạn cao xạ vạch đỏ trời đêm.
HAI CÂY ĐÀN GUITARS Đại đội có hai cây đàn guitar. Thằng Long Hàng Giấy có một cây, thằng Bình nhóm tôi có một cây. Thằng Long là học trò thầy Văn Vượng. Như tôi đã nói ở phần trước, nó chơi cổ điển bài bản. Các bản Vũ khúc Tây Ban Nha, Arabia, Bài ca hy vọng, Cô gái vót chông….đâu ra đó. Kỹ thuật t’remolo hai ngón của nó rất nhuyễn. Tôi thì tự đọc giáo trình Maloloff cùng các thế tay, các hợp âm đơn giản ở nhà. Chủ yếu học chuyền tay mô-đẹc đường phố là chính. Nhưng khi là lính, nhất là đã nhậu sừng sừng thì “chát bùm bùm” có vẻ thích hợp hơn là “t’remolo”. Văn hóa bình dân quần chúng, ca khúc chính trị chiếm ưu thế với âm nhạc hàn lâm a ca đe my con sớt. Điều đó được thể hiện hùng hồn qua số nhóm khán giả của tôi đông hơn gấp nhiều lần. Khi thằng Long đàn thì chỉ mỗi mình nó nghe.
Còn khi tôi đàn, đúng hơn là bật bông phừng phừng phừng…thì chúng nó lăn vào vỗ thùng đàn thay trống bass. Nhiều thằng gõ thìa theo phách. Các loại khác thì gào lên một cách đáng sợ. Thế mới biết cạnh tranh nghệ thuật thật là khủng khiếp! Tôi thật khoái chí về điều này,
mặc dù vẫn vừa nể, vừa ghen tức với cái thằng đàn một mình lặng lẽ kia. Có lẽ tôi đã đi đúng với định hướng dòng chảy văn nghệ thời chiến. Đàn đi liền với hát, vừa mồm vừa tay. Tay chẳng ra gì thì đã có cái mồm kia nó giúp đỡ. Thế cũng tốt!
Một buổi tối, C bộ sau cữ nhậu gọi tôi xách đàn sang. Tôi chẳng ngần ngại gì mà không thể hiện. Xem nào? Cuộc đời vẫn đẹp sao này; Hạnh phúc ơi, mau đưa ta về chốn cũ xa xôi, mà thời gian trôi đi ta có thấy đâu…này. Rồi là: Hoàng hôn buông xuống bên sông êm đềm…mờ xa thành phố lung linh ánh đèn…Khúc ca mùa hè, nắng trong chiều về…Các bạn chắc còn nhớ những bài hát hay hay, trữ tình… trong thời gian cả nước hát hành khúc đó. Mặc dù không phát trên đài, không in các bướm nhạc, nhưng bằng cách nào đó, nó vẫn được các tay chơi nghiệp dư và không nghiệp dư hát, đàn ở các nơi không chính thống.
Chát phình phình…! C bộ ngày càng bốc. Một đám lính B tôi nữa kéo qua. Thủ trưởng ơi nhảy đi! Được! Mấy thằng em nhảy đi. Thế là chúng nó nhảy giật đùng đùng không khách khí. Sân đất bụi mù dưới trăng suông. Thằng liên lạc té nước ra sân cho khỏi bụi. Lính Hà nội lăn vào nhảy tiếp. Thủ trưởng ở đây không giống thủ trưởng ngoài Bắc, hay thật! Tàn cuộc vui, C trưởng (tệ thật, không nhớ tên) bảo tôi ở lại. Sau khi hỏi han tên tuổi trích ngang…anh ấy bảo tao sẽ gửi mày lên đội văn nghệ Sư đoàn.
Hai hôm sau, tôi khoác ba lô, đội nắng lội bộ lên đội văn nghệ đang tập trung, chuẩn bị biểu diễn cho ngày 22/12. Ối giời là giời! Mừng khấp khởi. Thằng Bình tặng cây đàn của nó cho tôi. Từ nay chia tay mấy đứa cùng lớp cũ Phan Đình Phùng. Chúng nó cũng mừng cho tôi, nhưng chắc cũng khá buồn.
Lên đến nơi thì đội đang tập. Tạm dừng mươi phút để chú phụ trách xem các giấy tờ tôi trình. Gọi là chú vì tóc chú ấy cũng có những sợi bạc rồi. Nào chơi thử một bản đi. Thế là tôi chơi bản Danube waves đúng giáo trình của F. Ianovici. Được rồi! Thử hát một bài nhé! Tôi hát: …Cả tình yêu, mang cho ta nhiều nỗi xót thương đau. Giờ đây không biết em ở phương nào…Được rồi! Đội tập tiếp nào! Còn em xuống bếp báo cơm nhé!
Ăn cơm trưa xong thì anh Đoàn, tay trống trong dàn nhạc, gọi tôi vào buồng riêng của anh ấy. Anh ấy cũng người Hà nội. Câu chuyên lan man ca khúc. Anh ấy cũng thuộc nhiều bài hát “Nhạc trẻ” thời đó. Một thời để yêu, Tình ca hồng, Trong nắng trong gió… các bài trong băng Thanh Lan, Nhạc trẻ 2… đang thịnh hành. Cuối cùng, anh ấy hỏi tôi là có vàng không? Hai chỉ thôi! Em làm gì có vàng, và để làm gì? Không có à? Được rồi, chú em có năng khiếu đấy! Để anh nói giúp cho.
Buổi chiều. Tôi được thông báo chính thức là đội văn nghệ sư đoàn đã đủ biên chế rồi. Đến khi khác có dịp thì sẽ gọi lên. Ngay chiều tối hôm đó, tôi lại vác ba lô cùng cây đàn về tiểu đoàn 31. Lòng không buồn lắm, vì lại được sum họp với mấy thằng cùng lớp. Cười lên đi em ơi! Dù nước mắt rớt trên vành môi. Hãy ngước mặt nhìn đời…Bạn có biết ca khúc này của Lê Hựu Hà không? Cuối cùng thì âm nhạc hàn lâm và ca khúc chính trị, “t’remolo” lẫn “chát phình phình” , đàn nào thì cũng đều lên đường ra chốt biên giới hết!
RA CHỐT Ở căn cứ thêm mấy ngày nữa, ngày 8/12/1978, chúng tôi lên đường ra chốt.
Lại lên xe. Nhưng không phải xe ca nữa, mà là xe REO, loại xe vận tải quân sự của Mỹ. Chạy về hướng Sài Gòn à? Ai cũng thắc mắc, mặt trận ở hướng Tây kia mà? Lại qua những xóm ấp yên bình, những cánh đồng, trảng mía ngút tầm mắt, sông Vàm Cỏ đông nước xanh ngăn ngắt, thị trấn Gò Dầu hạ tấp nập... Chóp núi Bà Đen uy nghiêm chầm chậm xoay mình theo hướng xe lăn....
Bây giờ thì chóp núi ấy đã ở phía sau chúng tôi, hơi chếch về tay phải. Có nghĩa là trước mặt là hướng chính Tây...Đường bắt đầu vắng teo. Cánh đồng không cày cấy cỏ dại dày rịt, vàng úa. Một con đê thấp nằm chắn ngang cánh đồng, đùn lên là mấy ụ đất bao quanh mấy khẩu pháo tự hành lừng lững. Dãy lều bạt lụp xụp nửa chìm nửa nổi. Đơn vị pháo chiến dịch 175mm (pháo Mỹ) đấy! Cửa khẩu Mộc Bài đấy! Biên giới đấy! Ôi chao biên giới là thế này đây...! Nó không như hình dung của tôi. Đoàn xe bình thản vượt qua ranh giới vô hình ấy. Chúng tôi
ngoái lại nhìn nước Việt một lần nữa. Ôi đất nước mẹ tôi em tôi! Có lẽ nhiều nghìn ngày nữa, trên những con đường đầy khói bụi của chiến tranh, có thể tôi sẽ gặp, hoặc không gặp lại Người!
Đồng không mông quạnh. Thốt nốt mọc theo những bờ ruộng thành từng cụm hoặc đơn lẻ. Xe chạy nhanh và xóc lắm. Cả bọn bám thành xe, nghiêng ngả. Gần đến ngã ba Chi Phu, đoàn xe rẽ trái xuôi về hướng nam theo con đường đất chừng 1.5 km rồi dừng lại. Bộ đội xuống xe, tập trung dưới một chòm thốt nốt khá rộng. Đã có một số các “thủ trưởng” nhốn nháo chờ sẵn đón chúng tôi ở đó. Một cha gầy nhẳng, thấy tôi xách cây đàn gọi nhắng lên:”Tuấn ơi! Tuấn ơi! Lấy thằng này!”. Các anh ấy là cán bộ tiểu đoàn 4 lên thẳng trung đoàn chọn quân rôì dẫn về. Tôi và nhiều anh em Hà Nội khác được điều về tiểu đoàn 4, trung đoàn 2, sư đoàn 9 thuộc quân đoàn 4. Anh Tuấn - hỗn danh Tuấn “còi” , trung đội phó thông tin tiểu đoàn dẫn tôi và đoàn lính mới tò te băng đồng về chốt. Bố này muốn doạ , hoặc ra điều ta đây lính cũ thỉnh thoảng lại nhắc: “Bảo đi khom là đi khom, bảo chạy là chạy rõ chưa! Không 12.8 mm nó quất cho bỏ mẹ!”. Tiếng thì eo ** như con gái, nghe vừa tức, vừa buồn cười.
Xế chiều hôm đó, chúng tôi về đến chốt Long An. Địa bàn chốt giữ của tiểu đoàn nằm trọn trong vùng Mỏm Vẹt, phía nam cách ngã ba Chi Phu chừng 4 km.
Tiểu đoàn bố trí đội hình hàng ngang theo chiều dài một con đê thẳng tắp. Đại đội 2 nằm ngoài cùng, gần phum chùa có cái mái ngói đỏ. Tiếp đó là đại đội 1. Đại đội 3 nằm nhô lên phía trên đội hình tiểu đoàn chừng 350m trong một cụm nhà cũ đã bị phá huỷ. Đại đội 4 - đại đội hoả lực nằm gần tiểu đoàn bộ, hơi chếch về bên trái. Đã bắt đầu mùa khô nhưng những căn hầm nửa nổi nửa chìm tựa vào bờ đê vẫn toát lên mùi mốc ẩm. Thôi nhé từ nay vĩnh biệt thời huấn luyện! Ah ha! Cái phản lính dài dằng dặc trại Trảng Lớn trở thành niềm mơ ước. Còn cốc chè đậu đường đen thị xã Tây Ninh, trong tiếng hát ma mị Khánh Ly chừng thuộc một thế giới xa mờ. Thôi tiến lên nào, anh lính chiến!...
Chập tối. Các cán bộ lục tục về hội ý tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là anh Huỳnh Ngọc Sơn. Chính trị viên là anh Sông. Các anh ấy gọi tên hiệu anh ấy là “già như Sông”
Đêm đầu tiên lính mới về thì được nghỉ, không phải gác. Hầm thông tin thêm 6 người nên chật. Tuấn còi B phó bảo tôi ra ngoài hầm truyền đạt ngủ. Hầm này nằm ngoài cùng, cách hầm gác có 5-6m. Tôi ôm mùng ra đó nằm luôn một mình. Nửa đêm thấy lục sục trong mùng, rồi có con chết tiệt gì nằng nặng, ngồi chồm hỗm trên ngực mình. Bật quẹt lên mới thấy con chuột to kinh khủng. Nó phải to bằng bụng chân người lớn. Thấy ánh sáng, nó cuống lên nhảy tứ tung phá chạy nhưng vướng mùng không ra được. Bực cả mình! Tôi mới rình chụp tấm chăn dạ đỏ Nam định lên người nó rồi vồ được. Hai tay cứ thế bóp xiết của nợ nần nẫn ấy vì một tay không đủ vòng. Nó chết tươi ằng ặc qua lần chăn dạ. Sau tôi vất xác ra ngoài, kéo chăn ngủ tiếp.
Chuột ở chốt Long An nhiều nhưng anh Ky a phó hữu tuyến nói chưa khủng bằng chốt Ngã tư Nhà Thương. Bọn chuột xơi quen bông băng , máu mủ, thịt cắt lọc thương binh tử sỹ trong trạm phẫu nên con nào con nấy núc ních, thành tinh cả. Thằng Hải cụt dưỡng thương xong mới về đơn vị. Chưa kịp nhận nhiệm vụ thì đêm đó, một con chuột đại tướng, có lẽ là con đầu đàn, ngửi mùi da non chỗ ngón chân cái cụt của nó táp ngay một miếng. Thằng này kêu ré lên, máu tuôn ướt vạt mùng. Hôm sau lại phải cho lên K.23 điều trị tiếp. Trạm phẫu được ưu tiên thực phẩm cho anh em thương binh. Hồi đó đánh gần biên giới nên ngoài thịt hộp, mỳ tôm, rau xanh… thỉnh thoảng còn có trứng tươi do Hội Phụ nữ tỉnh Tây ninh và các má gửi cho. Các anh què đánh chén xong, vỏ hộp thịt, vỏ trứng xả bừa bãi. Đêm chuột kéo vào bãi xả càm vỏ hộp, tha vỏ trứng lục sục ầm ĩ như địch vào. Lia đèn pin, thấy khắp bãi cả đàn chuột chạy rầm rầm.
Tình hình những ngày cuối năm 1978 ở địa bàn đứng chân của trung đoàn 2 khá yên tĩnh. Ta và địch cách nhau một cánh đồng rộng khoảng 1.2km. Ngoại trừ một lần vào lúc chập tối, tiểu đoàn trưởng Sơn lệnh cho đại 3 mang cối 60 tập kích địch để thăm dò. Khẩu đội cối bò lên trước đội hình khoảng 600m, nạp liều 3 bắn chừng hơn chục quả. Địch trả lời bằng 12.8 mm toang toác suốt đêm.
Hầm của trung đội thông tin nằm gần hầm tiểu đoàn. Ban ngày, tiểu đội hữu tuyến củng cố lại dây dợ máy móc. Tiểu đội vô tuyến 2W chúi đầu học bảng mật danh mới. Thằng Vỹ, thằng Mạnh, Thằng Ban trố suốt ngày lầm bầm như cầu kinh: “01 tiểu đội, 02 trung đội, 03 tiểu đoàn, 04 trung đoàn....” Cha Nhương - tiểu đội trưởng 2W suốt ngày càu nhàu vì quân lâu thuộc. Nhưng tôi dám chắc nếu kiểm tra thì chính bố này thể nào cũng tạm tịt nhất. Đã thế lại còn cái tính hay chê, bôi bác người khác. Chẳng hạn kể chuyện anh Hoạch bên hữu tuyến, hồi mới giải phóng Sài Gòn cứ tưởng cái bồn cầu là chậu vo gạo. Thế là cứ tống gạo vào vo.
Đến khi giật nước gạo trôi đi sạch cứ thắc mắc um lên. Lại còn luôn mồm chửi tiện nghi của bọn tư bản là thâm độc. Hay chuyện Khương “khàn” dưới đại 1 dẫn lính đi khao. Không biết gọi phin cafe là gì mới e hèm cất giọng khàn khàn: “Này cô em! Cho một số cái nồi ngồi trên một số cái cốc” ! Hết biết!
Tuy tiểu đoàn bộ nằm lui về sau đội hình nhưng vẫn tổ chức gác ba vọng đề phòng địch bâu bám mật tập. Tôi đã biết định vị sao Tua Rua để căn giờ gác. Trong đêm, nếu ếch nhái đang rỉ rả ầm ĩ mà tự nhiên im bặt, hoặc chim đêm trong chòm cây phía trước bỗng dưng xao xác là phải coi chừng. Luồn hào về bấu tay anh em dậy rồi trở lại vị trí gác ngay. Hãy cúi thật thấp sát mặt đất, dùng nền trời đêm sáng mờ làm phông sẽ dễ phát hiện địch hơn.
Lại còn muỗi mới khiếp. Muỗi Chi Phu có họ với muỗi Đồng Tháp mười, con nào con nấy to như con châu chấu con. Áo ka ki ga ba đin Nam Định không là cái đinh gì. Vòi muỗi xuyên qua hết. Muỗi đốt không ngứa mà đau nhói vì toàn muỗi đói. Muỗi lăn xả cảm tử xông vào đốt người. Không được đập vì sẽ gây tiếng động. Cũng không được dùng dầu gió xoa vì ban đêm trên đầu gió, mùi dầu sẽ lan rất xa. Chỉ được phép vuốt thôi, vuốt đến đâu lép bép đến đó... Có anh (chắc là con bác Ba Phi) còn kể là hồi mùa mưa, mình nằm trong màn. Muỗi bâu kín ngoài màn hết lớp này lớp khác, một lúc thì dây màn (dây dù) đứt phựt. Lỡ để một ngón tay sát chân màn, muỗi châm ngay. Những con khác không châm được thì châm ngay vào bụng con đang hút máu mình thành một dây chuyền dài hàng mét. Tóm lại là cũng biết làm ăn theo kiểu hợp tác xã.
Tôi được điều xuống đại đội 1 cùng với anh Ky. Đại trưởng đại 1 lúc đó là anh Thẩm, người Hà Bắc. Đại đội phó là anh Liêu, người Hà Nam Ninh. Ngay ca gác đầu tiên khi phối thuộc với đại đội 1 ở chốt Long An là tôi đã nổ súng “tiêu diệt địch” rồi. Đang ngồi gà gật lơ mơ trên thành hầm quan sát sở đại đội thì giật mình có tiếng động. Thằng “địch” đen đen ngồi chồm hổm cạnh bờ ruộng. Nó còn chống nẹ, cánh tay áo phất phất...Người tôi túa mồ hôi lạnh, nhưng tay vẫn kịp xiết cò. Khẩu đại liên bên tay trái ăn theo tằng tặc một tràng. Tất cả túa ra hầm. Anh Liêu đại phó hỏi mày phát hiện hướng nào? Sao nó không bắn lại?
Tôi nói không biết! Chắc bị tiêu diệt rồi, kia kìa! Lão ấy với thằng Đồng xồng xộc vọt hào lên đấy luôn. Đ...má! Ông ấy chửi ầm ĩ... Tiêu diệt gì bay cái gốc chuối cụt? Lúc đó vừa sợ, vừa ngượng, nhưng cũng thấy thêm yên tâm ấm áp nữa. Vì lúc đó chưa hết ca, chúng nó vẫn còn lục sục thức cùng với mình chán...!
Những ngày rảnh, mà nằm chốt thì toàn những ngày rảnh. Rất khoái! Không vất vả như thời huấn luyện. Chỉ có mỗi ban đêm khổ vì gác địch. Những ngày như thế, tôi xách AK đi vẩn vơ dọc bờ mương bắn cá. Tháng 12 rồi mà sen hồng, súng hồng vẫn nở. Điều đó quả là lạ với một anh học trò mới đi bộ đội. Nhớ sen hồ Tây, cữ tháng chạp là sen tàn. Chỉ còn những cọng khô, tiêu điều xơ xác. Lá sen tàn, quăn lại trong gió bấc. Đầm sen hiu hắt, lấy chỗ cho những con le le lầm lụi, chổng mông lên lặn hụp kiếm mồi. Ở đây sen, súng vẫn rộ như mùa hè. Nước trong leo lẻo… Đứng rình một lúc, từng đàn cá “mã giáp” to cỡ bàn tay từ từ nổi lên. Thân cá dẹp, lốm đốm chấm hoa, đôi râu vây ngực dài thướt. Đích thị cá mã giáp(!). Tôi há cả mồm ra mà nhìn. Nghĩ thầm sao cá mã giáp ở đây sao nó to khủng thế?
Ngày bé, tôi ham nuôi cá cảnh. Buổi trưa hay mò ra hàng mấy bà bán cá, nơi tiếp giáp giữa chợ Đồng Xuân và chợ Bắc qua. Cá gì mà tôi không lạ? Vạn long, mã giáp, thần tiên, sê can, hồng tử kỳ, kiếm mắt đỏ, mún, ngựa vằn, hắc quần, mây chiều…Rồi chọi hồng, chọi tím than…Rẻ nhất, mắn đẻ nhất là mấy anh khổng tước. Con đực bé tí và đỏm dáng, lúc nào cũng xun xoe quanh con cái, rình húc *** vào cái bụng đầy trứng. Cái giống khổng tước cái, động tí là chửa... Tóm lại không thiếu loại gì tôi không biết. Nhưng quả thực cá “mã giáp” to như bàn tay thì chưa thấy bao giờ.
Bụp! Cá láng trắng nước. Tôi lội ào xuống vớt được mấy con chạy về khoe ầm lên. Các anh ấy ôm bụng lăn ra cười. Mày bảo gì? Cá mã giáp hả? Mã giáp là cá gì? Ối giời ơi…! Mấy con sặc bông mà bày đặt mã giáp.
Lại học được thêm một từ mới :”bày đặt”. Đơn vị năm đó toàn lính Bắc, từ quan tới lính. Nhưng ngôn từ thì điển hình rặc Nam bộ, tuy vẫn giữ giọng Bắc. Từ đó, tôi quen dần với những từ :”cà chớn”, “dễ nóng”, “bầy hầy”, “siêng nhác”, “nói nam nam”…Và cũng học thêm một điều nữa là bắn cá xong phải lấy miếng mùng rách vớt ngay.. Vì nó bị sức ép, bị choáng thôi. Chỉ một lát sau là nó hồi lại. Cá mang về đun với lá, với đài hoa cây chân vịt chua cọng tím là món ăn hàng ngày của lính chốt.
Bố Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết anh ấy kiếm đâu được quả đạn B.40 lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ TNT bắt lửa cháy thổi ra đen kịt. Thế là cha ấy gí cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống đìa. Rà đi rà lại một lúc như đi cày cho thuốc cháy hết rồi lội ào xuống. Quờ quạng,
quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ! Thôi! Để em xách cá về cho nào...
Ăn cá mãi cũng phát chán. Có thằng còn đập chết con chuột đồng. Phanh bỏ ruột, ướp ngũ vị hương, kẹp tre tươi nướng vàng lên chén ngay. Lần đầu tiên tôi mới thấy người ta ăn thịt chuột. Dù đọc hồi bé, biết rằng ở làng Đình Bảng bên Bắc Ninh, cỗ chỉ đóng tư. Và chỉ có cỗ nào to mới có thịt chuột đồng hấp, ép lá chanh dưới cối đá.
Buổi trưa nằm hầm, thiu thiu nửa ngủ nửa thức. Vẫn nhớ in cái nóng âm âm, giữa không gian tịch mịch, giữa cánh đồng chỉ nghe tiếng gió lào thào... Tịch lặng đến mức có thể nghe tiếng lá thốt nốt đang nỏ dần, cựa mình tí tách trên mái lá nóc hầm…Loạt xoạt loạt xoạt…Một cái đuôi đen dài thòng xuống, rồi cái lườn xanh bóng loáng duyên dáng ườn ra. Cái đầu nhỏ tí lại rúc vào phía trong mái. Phần thân béo núc lồ lộ. Chết mẹ mày con rắn mối! Ai cho ỉa lên đầu chúng ông? Mà phân của loài này thì rất khó ngửi. Thằng Đồng với cái que thông nòng, lấy cái thùng đại liên kê đứng lên. Roạt…! Vô mánh rồi! Cái đuôi tự rụng, văng ra giãy giãy. Nhặt lấy nốt! Nó để nguyên con kẹp cây, xuống anh nuôi cời than nướng luôn cả vỏ. Đó là kiểu nướng mọi: thơm phức, và thịt rất ngọt. Chấm muối ớt ăn thôi rồi ngon.
Cả trận địa phòng ngự chúng tôi dàn hàng ngang, tựa vào bờ đê. Nhìn về phía địch thấy một rặng cây xa mờ. Buổi trưa tan sương, thấy rõ bên đó một mái chùa đỏ ngói. Còn ban đêm, đôi khi thấy những vệt đèn pha chấp chới rồi tắt ngấm. Chúng tôi đào khoét vào thân đê những cái hố chiến đấu hình móng ngựa. Những bụi cây ráy, cây điên điển lúp xúp che khuất những bờ đất mới đắp trên ụ. Còn ngủ thì trong những cái lán nửa nổi nửa chìm. Phần nổi đắp đất dày ba mặt chống đạn nhọn. Mái lán thì úp đủ các loại: chằm lá thốt nốt, che tôn hoặc lợp rạ sơ sài. Hầm và ụ hoàn toàn không có nắp đắp như hầm phòng không thời đi sơ tán máy bay Mỹ. Hẳn là hỏa lực cối pháo địch ở đây không đáng kể. Mọi hoạt động của đơn vị hoàn toàn diễn ra sườn bên này con đê.
Có một lần, tôi không biết gì, mới mặc nguyên cái áo lót có tay còn trắng ra chỗ cây xoài cổ thụ. Chỗ đó là đài trinh sát 27 của sư đoàn. Trên đó, tổ đài làm một cái sàn nhỏ. Họ nằm cả ngày trên đó quan sát binh tình địch. Điện đàm lúc nào cũng léo nha léo nhéo. Tính leo lên theo cái thang làm bằng thân cây tre buộc vào thân, lên đó xin các ông ấy cho nhòm qua ống nhòm xem địch nó thế nào. Các anh ấy chửi um lên, bắt tôi leo xuống. Đ…má, mầy mặc áo trắng nó tỉa cho phọt óc bây giờ! Nghĩ lại thấy đúng là điếc không sợ súng. Rồi cuộc đời nó sẽ còn dạy cho nhiều bài học nữa. Thể tích hình cầu, đạo hàm f(x) bậc 2 cùng đồ thị, hay những công thức tính lượng giác của các góc đặc biệt…ở đây
chẳng có ý nghĩa gì hết. Phải nghe những người lính đi trước! Phải sống! Phải giết chết nó trước khi nó kịp giết mình là bài học có ý nghĩa nhất của chiến tranh.
Ở đại đội 1, tôi hay mò xuống trung đội 2 chơi. Ở đấy có thằng T và thằng Căn là bạn cùng đoàn. Anh Khương khàn, lính 75 quê ở Hà tây là trung đội trưởng. Anh ấy thường lọ mọ lấy xẻng bộ binh đi đào khoai nước ven đê, tống vào thùng đại liên để luộc ăn chơi. Tiếng anh ấy nói khíu khíu như tiếng ngỗng kêu. Không tinh thì chẳng nghe được câu nào. Chắc biết thế nên anh Khương ít nói. Chỉ cười hiền, khoe hàm răng ám khói thuốc rê vàng khè. Cán bộ đơn vị chiến đấu khác hẳn cán bộ đơn vị huần luyện. Ở Phủ Lý, cỡ trung đội trưởng như anh ấy thì cứ gọi là thét ra lửa.
Một hôm, tiểu đoàn gọi xuống, lệnh cho mỗi đại đội 5 người đi lấy gạo và thực phẩm. Thằng T cùng trong quân số được phân công. Nó đi qua chỗ tôi, dúi cho cái bàn chải với túyp thuốc đánh răng Ngọc lan còn mới. Nó kéo tôi ra, thì thầm bảo là tao biến luôn đây. Tao vẫn để cái chăn sợi Nam định với bộ quần áo đang phơi lại lán để chúng nó khỏi nghi. Mai mày xuống mà lấy nốt. Nói rồi nó khoác cái ba lô lép, chạy ù theo đám vận tải về trung đoàn. Tôi không biết nói một lời nào. Chỉ mong sao cho nó đi được thuận, chứ vệ binh họ tóm được thì khổ. Mà đã trông thấy thằng địch nào đâu mà bảo sợ, bảo hèn? Đến đêm, khi anh em trở về đại đội thì không thấy nó đâu nữa. Cũng chẳng thấy ai quát nạt, kiểm điểm những người còn ở lại. Bởi có lẽ còn bao nhiêu việc phải làm.
Thằng bạn thân nhất cùng lớp đã trốn đi. Mấy đứa kia thì đã sang tiểu đoàn 6. Từ nay lớp cũ còn mỗi mình tôi. Đêm đó thật buồn! Mé đất Việt, một quầng sáng hắt lên mây một màu vàng đục. Anh Ky bảo đấy là thị trấn Mộc Hóa. Nhìn thấy cái quầng sáng mà thèm, mà nhớ quê nhà. Cái quầng sáng ấy gần lắm! Tưởng chừng chỉ băng qua cái cánh đồng đầy cỏ lác này chừng hơn tiếng là đến nơi…Trời ơi là cái cánh đồng chó ngáp. Ban ngày xanh cỏ, loáng nước chói chang nhưng yên tĩnh. Ban đêm sôi động tiếng cá ăn móng, tiếng ếch nhái côn trùng, tiếng rắn trườn hay chuột chạy bùm bũm…Những âm bè lạc điệu ấy bị nhấn chìm trong một bè chính vĩ đại, là tiếng vĩ cầm của triệu triệu con muỗi đang rung cánh vu vu…Ca gác ban đêm, thấy cái gì cũng to ra, cái gì cũng kỳ quái như chứa đầy hiểm họa…
Ngày 22/12/1978 - ngày Tết Quân đội đầu tiên. Ngoài tiêu chuẩn mà xe hậu cần B3 chở từ nước sang, chúng tôi còn tổ chức hun đìa, đánh cá cải thiện thêm. Từ “Tết Quân đội” cũng mới biết trong thời gian này. Với tôi, khái niệm tết là chỉ dành cho tết Nguyên đán, tết Trung thu. Từ nay, trong bộ đồ xanh của lính, tôi có thêm một cái tết nữa để mà mong đợi…
Tôi giúp anh Ky đánh vảy con cá “sộp” đen trũi, lớn hơn bắp tay. Cả đời chưa thấy con cá sộp nào to như thế. Các anh hẳn còn nhớ cái ngõ nối chợ Đồng Xuân với phố Hàng Chiếu? Cái ngõ hẹp ướt át, lúc nào cũng tỏa mùi tanh, thông ra ngay cạnh rạp Bắc Đô, nay nhiều quán bán bún ốc. Ở đó, các bà buôn toàn loại cá cao cấp.
Trong các thúng sơn xâm xấp nước, những con cá quả *** hơi tròn, mình vàng hoa đen, những con cá sộp đầu nhọn vằn vện, thỉnh thoảng lên cơn giãy đùng đùng. Có con còn vọt ra, toài được xuống cống…Trong đám cá siêu hạng thời bao cấp khốn khó đó, chẳng có con nào bự như những con cá “sộp” này. Giờ tốt nhất hãy gọi tên nó là cá lóc. Không có các anh ấy lại chửi cho. Hết cá “mã giáp” lại đến cá “quả”. Đừng làm khổ chúng tao! Thực ra, khi còn đi cày, đi học ở quê nhà, các anh ấy cũng vẫn gọi là cá chuối, cá quả, cá sộp, cá tràu mà thôi. Ở Phúc Yên, nơi tôi sơ tán còn gọi con cá quả bé là con cá chõn. Nhưng ngôn ngữ phương xa nó có gì đó hấp dẫn mới mẻ, nó chứng minh sự từng trải. Hẳn vì thế mà người ta ưa dùng. Hết xảy!
Đã sạch vảy, tôi nhứ nhứ con dao, định mổ bụng moi ruột thì các lão đại đội rú lên rằng thằng Ky đâu? Xem nó kìa! Thằng này đ…biết làm cá! Anh Ky cười hề hề giằng lấy dao. Hắn khứa ngang thân con cá cả hai bên những đường chéo rất ngọt. Xát hành tím khô băm nhỏ, bột ngũ vị hương, tiêu, ớt lên thân cá…Sau đó, hắn đặt cá trong nhiều lớp bẹ chuối. Phía trong có lót đầy rau ngổ hái ở bờ đê rồi bó chặt lại. Xong rồi! Mày nướng đi! Thế là tôi nướng. Trở đi trở lại trên lửa than, bẹ chuối cháy đen vỏ ngoài vỏ trong. Thế là được!
Và cũng lần đầu tiên trong cái Tết quân đội đó, tôi biết uống rượu xoay vòng bằng bát sắt của lính. Được ngồi luôn với cán bộ đại đội. Rượu các anh ấy gửi mua từ Tây Ninh. Cái men cay và đắng của rượu mía Vàm cỏ đông đó ùa ngập hồn trong thằng trai mười tám, trong buổi trưa một ngày cuối năm nắng lồng lộng. Chẳng biết là tua thứ bao nhiêu nữa? Mái hầm luyênh loang chao nghiêng, bay bổng lên… Tôi nhớ mẹ, nhớ em, nhớ nhà... Lãng đãng đâu đó, có tiếng cười xa xăm của ai đó: “Thằng này xỉn rồi….! Ha ha…!”. “Khiêng nó vứt mẹ vào góc kia..Ha ha…!”
Tôi giàn giụa nước mắt. Tôi khóc.
8.TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN – TRẬN RỪNG TRÀM Điểm qua thực binh và trang bị của trung đoàn 2 trước chiến dịch giải phóng Phnom Penh: - Trung đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Như Thạnh. - Các ban Tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần - 3 tiểu đoàn bộ binh gồm D4, D5, D6 (tiểu đoàn anh hùng) - tổng quân số khoảng 700 người - Đại đội 16: Cối 120mm - Đại đội 17: DKZ 75mm - Đại đội 18: 12.8 mm - Đại đội 19: Công binh - trang bị nhẹ. - Đại đội 20: 1 B Thông tin vô tuyến máy 15W, 1 B hữu tuyến, 1 B truyền đạt - Đại đội 21: Trinh sát - Trang bị nhẹ - Đại đội 22: Vận tải - xe REO, xe Hoàng Hà, trực thuộc B3 - Đại đội 23: Trạm phẫu, bệnh xá trung đoàn - Đại đội 24: Vệ binh - trang bị như đại đội bộ binh, bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn ,trực thuộc ban Tác chiến.
Thống kê như thế để thấy rằng tại thời điểm đó, quân số dù đã được bổ sung vẫn còn lâu mới đủ quân số theo biên chế chính thức của một trung đoàn bộ binh chủ lực. Quân số cả sư đoàn thương tử vãn sau mùa mưa ác liệt năm 1978, trong chiến dịch Prasaut.
Chúng ta đã từng xem rất nhiều phim về chiến tranh. Theo tôi, có bộ “Giải phóng châu Âu” của Liên xô có những cảnh quay chiến tranh tạm coi là thành công nhất. Còn mấy bộ phim chiến đấu nước nhà, muốn chân thực hơn có lẽ phải cho mấy bố làm phim cầm súng choảng nhau vài năm hãy cho về cầm máy quay. Làm quái gì mà đạn pháo bắn trùm lửa, khói cuộn lên như bom nấm tại điểm nổ? Đúng là đẹp như trong phim! Chớp nháng cái, đất đá chưa kịp rơi xuống hết thì đã có thằng toi rồi. Chiến tranh giản dị đến khắc nghiệt vô cùng. Diễn tiến tâm lý cũng chẳng lằng nhằng phức tạp trong thời điểm cận chiến. Mày sống tao chết hoặc ngược lại. Huy động và sử dụng tối đa các kỹ năng sống sót của con thú. Lăn đi! Nằm xuống! B.41 đâu? Bịt mồm khẩu đại liên! Mẹ kiếp!....Không sủa, không gầm gừ được thì văng tục!..... Có thế thôi! Sau này lắng lại, các xúc cảm con Người trở về, và được sự giúp đỡ của các nhà văn nhà báo lãng mạn mới hay mình đã chiến đấu vì Đất nước.
Cái thời điểm vừa chờ đợi hồi hộp, vừa sợ hãi rồi cũng đã đến. Đó là trận đánh đầu tiên.
Cán bộ tiểu đoàn đi họp quân chính về vào những ngày cuối cùng của năm 1978. Các đại đội cho người lên tiếu đoàn bộ nhận thêm một cơ số đạn. Hữu tuyến tổ chức thu dây ngay trong trưa 31/12/1978. Thông tin 2W nhận pin mới rồi xuống các đại đội nhưng cấm lên sóng. Mọi thông tin tạm thời dùng tiểu đội truyền đạt chạy bộ cho đến khi có lệnh mới. Kiểm tra toàn bộ vũ khí trang bị trước 14h. Đúng 16h30, toàn tiểu đoàn rời chốt hành quân theo dọc bờ đê về vị trí quy định. Tiểu đoàn bộ hành quân trước. Các đại đội lục tục đi sau.
Chiều hôm đó tôi đi với thằng Thống trung đội vận tải, thuộc đoàn Hải Hưng bổ sung vào đơn vị tháng 5/1978. Nó mới 17 tuổi, bé kẹ nhưng đi trước tôi ba tháng. Anh Sông thương nó nhỏ, kéo nó về làm liên lạc, sau lại thôi nên cho về B vận tải. Nắng chiều ửng sáng, gió mùa khô thổi mát mặt. Hai thằng tụt lại giữa khoảng C4 và D bộ, vừa đi vừa bắn bậy bì bọp vào những cái lá sen. Phấn khởi vô tư lắm, không biết coi địch là cái gì. Hồi vào chốt đến giờ, có biết mồm ngang mũi dọc thằng Pốt nó thế nào đâu? Đài và báo tuyền thông tin quân ta chiến thắng, giáng cho bọn lấn chiếm những đòn chí tử. Mai là trận vận động chiến. Cả sư đoàn, quân đoàn cùng nổ súng. Khoái lắm! Dần dần chúng tôi lại dấn lên bắt kịp đoàn quân. Anh Nhương chửi đ…má chúng mày bắn bậy nhưng tôi cứ phớt lờ. Nhìn tiểu đoàn dằng dặc,
B.40, B.41, DK.82, 12.8, cối 8 cối 6 lích kích, ăm ắp đạn thế kia…trông oai hùng lắm! Lòng thầm ước giá cô bạn mến thương cùng lớp được thấy tôi hành quân trong đội hình này.
Nhiệm vụ nghe lỏm từ BCH: Tiểu đoàn 6 chủ công, tiểu đoàn 5 dự bị tấn công hướng chính dọc theo lộ 1, con lộ từ Sài Gòn đi Pnom Penh. Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 3 - trung đoàn Hoa Lư) với tiểu đoàn 4 chúng tôi hộ công luồn sâu vu hồi cánh trái.
Tại vị trí tập kết, sau khi ăn tối, anh nuôi phát cho mỗi người một vắt cơm và gói bột gia vị là khẩu phần ăn ngày mai. Bữa tiệc tất niên năm 78 hoành tráng như thế đấy. Lính nằm ngồi thao thức hoặc gà gật dưới những tán cây phượng tây cổ thụ chờ lệnh xuất phát. Một cán bộ tác chiến sư đoàn được phái xuống đi cùng với mũi của chúng tôi. Lính bâu vào hỏi: “Thủ trưởng ơi! Năm nay ăn Tết ở đâu đây?” “Có thể sẽ ở tây S'vay Riêng!”. Anh ấy có cái đài bán dẫn mở nho nhỏ, đang phát đi bản tin báo gió mùa đông bắc...Chao ôi là nhớ nhà. Những giờ khắc cuối cùng của năm này, những người thân yêu của tôi đang làm gì?
Buồn ngủ quá! Muỗi lại lắm, nên tôi túm bốn góc nilon trùm lên đầu, tựa vào đống rơm ướt ngủ ngồi. Khoảng 2h30 sáng 1/1/1979, anh Ky tiểu đội trưởng vỗ mọi người dậy. Thì ra tôi cũng ngủ được một giấc. Tiểu đoàn 8 đang vượt qua đội hình chúng tôi. Kế đó đến đại đội 2 , đại đội 1.....Im lặng! Lầm lũi đi! 2W mở máy nhưng chỉ thông tin ám hiệu bằng cách bóp công tắc… Bùn lép nhép ngập cổ chân. Thỉnh thoảng đội hình dừng lại. Trinh sát đang bám địch. Lại tiếp tục đi xuyên vào một rừng tràm non cao đến ngực. Lá tràm toả mùi thơm hăng hắc. Nhưng rễ tràm nhọn hoắt mọc ngược, đâm vào đế giày đau điếng. Chả hiếu sao quân nhu hồi đấy sản xuất loại giày chết tiệt mỏng như vỏ trứng như thế!
Tiểu đoàn 8 đã sát địch rồi. Lệnh dừng lại, triển khai công sự tại chỗ. Đằng đông, sao Mai đã mọc. Đất bùn yếu nên chỉ sau 10 phút là tôi và thằng Thiệu “mù” - quê Đông Anh , Hà Nội đã khoét được một cái hố cho hai thằng nằm. Khoét sâu nữa thì nước nó rỉ ra lấp xấp. Cái hố nông, lủng củng rễ tràm. Trời sáng dần. Đã có thể quan sát thấy trước mặt chúng tôi là một cái phum rộng. Trong phum thấp thoáng mấy mái ngói đỏ khuất sau hàng cây ngoài rìa.
Lúc 5h30 - Phía bên lộ 1 hướng D6, D5, pháo 105mm của sư đoàn bắt đầu bắn chuẩn bị. Tiếng dề pa nghe ùng ùng. Cả đơn vị chộn rộn. Anh Sơn bảo truyền đạt lùa các đại đội lên máy. Dây không phải dải lên tiền tiêu. Tôi nằm im cạnh chỉ huy sở, nghe lỏm diễn biến. Cối 82 của D8 và D4 cũng lập tức lên tiếng. Địch giã lại ngay sau một lát ngắn. Cối 60 địch nện vài quả giữa đội hình tiểu đoàn tôi. Cứ mỗi lần nghe những tiếng “phọp, phọp” nhỏ xíu, khó mà nhận thấy ở đâu đó, lẫn trong nhiều tiếng nổ khác, anh Ky lại quay sang tôi hất hàm:”Nó đấy!” rồi chúi hố. Chúng tôi làm y hệt anh ấy. Nó “oành” xong phát lại ngoi đầu dậy. Trung đội thông tin không có ai bị làm sao. May nó chỉ phọp độ chục quả vào tiểu đoàn tôi, rồi thu tầm theo hướng phát triển của D8 đang xung phong.
Trinh sát đã cắt nhầm hướng. Đáng lẽ phải vòng qua sau phum này thì chúng tôi lại đâm đầu đúng vào nó. Bộ đội tiểu đoàn 8 không lên nổi vì sát phum là bãi mìn chống bộ binh dày đặc. Đạn 12.8mm và đại liên địch quất ràn rạt. Đại đội 2 tiểu đoàn 4 được lệnh xuất kích đánh vào sườn nhưng cũng bị vướng mìn không phát triển được. Địch mới được trang bị loại mìn KP.2 (còn gọi là K.978) hình trụ. Đường kính khoảng 8 cm, cao 15 cm. Dây bẫy vướng nổ sơn màu xanh lá cây nên lẫn hoàn toàn với cỏ cây. Khi vướng dây tụt chốt, liều phóng phía dưới đẩy mìn nhảy cao lên ngang ngực mới phát nổ. Văng nhiều mảnh nên gây sát thương rất lớn. Đã thế mấy thằng lính mới C1 thấy cối nó bắn lại nhảy lung tung mới bỏ mẹ. Nghe tiếng B trưởng Khương gào nghe như rít khản giọng: “Chạy đi đâu...? Nằm xuống...! Chết mẹ chúng mày hết bây giờ!”.
Lúc bắt đầu nghe tiếng nổ súng, tay tôi tự nhiên run bắn, nhưng một lúc thì cũng hết sợ. Bấy giờ, thằng Thiệu mù tư dưng dở chứng bảo tôi dịch ra cho nó đi ỉa. Tôi bảo nó bò ra đằng kia mà làm cái việc không đúng lúc ấy, chứ ai lại bĩnh vào cái công sự chung của tao với mày. Nhưng nó cứ phớt lờ đề nghị của tôi, lóng ngóng tụt quần. Tôi tức quá bò ra chỗ khác đào một lỗ khác nông choèn rồi nằm xuống. Đạn nhọn địch roàn roạt tước những mảnh lá tràm. Gí đầu những thằng lính mới chúng tôi xuống mặt công sự.
Đánh nhau cũng có “hiệp” của nó. Đến trưa nắng chang chang thì cả ta lẫn địch đều im tiếng súng để…ăn trưa. Chỉ còn vài phát súng lẻ tẻ.
Thương binh bắt đầu được cáng về. Chiều hôm đó lại đổ cơn mưa trái mùa. Mưa không to nhưng làm bọn chúng tôi khốn khổ. Vận tải cáng thương nửa nằm nửa bò, kéo trượt võng thương binh trên mặt bùn non như trâu kéo cộ. Bùn và máu bết đầy đáy võng. Về đến D bộ mới đứng dậy đi khom. Một số không có võng thì chắc chắn đó là lính mới. Không đủ võng thì bọn cáng thương buộc chân, tay thương binh treo
xỏ trên đòn cáng, như người ta khiêng heo. Những thằng còn tỉnh rên la nghe thật não nề. Thương vong khoảng gần 3 chục, chủ yếu do mìn. Tôi nhìn thấy thằng Đức “vịt” Hàng Lược nằm trong số đó. Nó bị miểng mìn chém bàn tay và mảnh găm đầy ngực.
Cũng may hoả lực địch ở hướng này không mạnh. Cả đơn vị nằm cứng giữa rừng tràm non. Lá tràm che phủ chúng tôi. Địch cũng thôi không bắn nữa. Hướng chính D5, D6 cũng thấy nghe im im. Đến chiều tối có lệnh rút quân. Tiểu đoàn 4 đi sau rút trước. Nhưng lính tiểu đoàn 8 cứ chạy tràn qua đội hình chúng tôi. Nhiều anh lính cũ bên này quay sang chửi chúng nó là “tiểu đoàn mày là tiểu đoàn chạy à” thì bị chúng nó chửi lại. Lộn xộn không ra đội hình gì cả. Quân trang đợt cuối năm phát toàn loại quần “xanh gioóc”, tụi nó cũng rục đầy mặt ruộng. Địch phát hiện nên đồng loạt khai hoả hoả lực các loại. Nghe rõ lính nó gào truy kích: “Trô..! trô..! trô..!.” Chúng tôi dừng lại cho anh em D8 đi qua trước. Anh Sơn hô 2 khẩu đội 12.8mm giá súng đứng, kiểu bắn phòng không, bắn thẳng vào phía địch. Nó chỉ hô thế thôi chứ cũng không dám đuổi theo. Thế là D4 đâm ra rút sau cùng. Mệt mỏi, bết bát… chúng tôi về lại đúng vị trí xuất phát. Tập hợp đội hình xong rồi hành quân về đội hình trung đoàn ngay trong đêm...
Đêm ấy, nằm gom sau đội hình trung đoàn nên lần đầu tiên không phải gác. Để nguyên quần áo chua loét, toàn bùn khô đóng vảy, tôi quay ra kiếm mấy cái cọc đóng 4 góc. Rồi giăng mùng trắng tinh trên mặt ruộng, trải nilon ngủ một mạch. Bất kể cuộng rạ đâm nhói cả lưng. Hôm sau mở mắt trời đã sáng rõ. Kiếm được một con lạch mùa khô nước lờ lờ đục, bộ đội ào xuống tắm giặt. Lại có mỳ tôm và rau cải xanh mới chở từ bên nhà sang nên lính tráng được một bữa nóng sốt tỉnh cả người. Buổi trưa lăn ra ngủ bù tiếp. Chiều cán bộ đi nhận nhiệm vụ về phổ biến mai đánh tiếp hướng lộ 1. Không còn hồi hộp gì nữa, cũng chẳng còn ảo tưởng gì nữa. Trận ngày hôm qua, như nó đã từng quen xảy ra nghìn lần. Cái gì đến sẽ đến, cái gì đi sẽ đi. Mặc kệ đời!
TRẬN S’VAYRIENG Rạng sáng ngày 03/01/79, cha con lục đục gọi nhau dậy từ khi trời còn tối đất. Lại lĩnh cơm vắt với bột canh. Xe trung đoàn tăng bo chở tiểu đoàn bộ ra ngã ba lộ 1 rồi quẹo trái, thẳng tiến trên mặt lộ một quãng nữa. Đổ chúng tôi xuống xong thì đỗ ở đó chờ chở thương tử. Anh Bình “cháo” quân lực tiểu đoàn ngồi phệt trên tấm nilon, tựa vào bánh xe hút thuốc, chuẩn bị sổ sách làm công việc hàng ngày của
thánh Pie. Là mở cửa Thiên đường cho những thằng kém số. Các đại đội bộ binh đã lên trước. Tiểu đoàn 6 chủ công còn đi trước nữa. Hai trận đột phá liền, tiểu đoàn 4 toàn được đi sau nên ấm gáo quá trời.
Chúng tôi vượt lên, đi khơi khơi trên mặt lộ mới bắt đầu tỏ mặt người. Ở lùm cây lúp xúp cái phum ven đường lòi ra hai khẩu 85mm nòng dài. Bọn này thuộc lữ pháo 24 đi tăng cường cho trung đoàn. Anh em pháo thủ gò lưng đẩy pháo lên tiếp trên mặt ruộng khô. Đến cái bờ thấp sau lưng đại đội 3 thì hai khẩu dàn hàng ngang dừng lại. Tụi pháo thủ đóng chốt càng pháo. Khẩu đội trưởng rút ống nhòm quan sát một lát rồi đóng mấy cái cọc tiêu pháo sơn khoanh trắng khoanh đỏ đằng trước. Chúng nó lấy hướng lấy tầm xong xuôi thì ngồi chờ. Ngó cái nòng ngoằng ngoẵng, rạp xuống sát mặt ruộng như trọng liên thế kia thì chỉ lo nó quất vào quân ta. Trên kia, tiểu đoàn 6 đang tiếp cận địch. Bộ binh tiểu đoàn 4 nửa nằm nửa ngồi, tản ra hai bên mặt lộ. Anh Trung tham mưu gom lính D bộ sang bên trái đường. Nhưng tôi khoái xem pháo 85mm nó bắn, nên cứ nấn ná nằm bên phải cho gần chúng nó. Anh Ky lại chửi đ…mẹ thằng ngu! Nằm gần đấy tý nữa nó phản pháo thì mày thấy ông bà ông vải. Sang bên này!
Hai anh em kiếm được một cái cống thủy lợi bê tông để cho nước chảy qua đường nên tấp cạnh đó, không đào công sự. Nó giã pháo cối thì chui vào đó tốt chán. Thằng Vỹ đi phụ máy đại đội 3 dự bị, nằm cạnh cái chòm thốt nốt trên tụi tôi một đoạn trông thấy anh Ky thò đầu ra trên cống. Nó nhe răng cười, quay lại xin điếu thuốc thẳng. Cho đến hồi đó, tôi vẫn chưa biết hút thuốc. Thỉnh thoảng phì phà hút vào mồm rồi thở ra cho oai chứ không nuốt khói. Tiêu chuẩn tháng được hai bao Lao Động cho hết ông Ky.
Một dây tiếng rền trầm trầm sau lưng. Tiếp một dây tiếng sấm rền nữa…Những quả đạn pháo hú gió u u qua đỉnh đầu chúng tôi rồi bựng khói đen hướng địch. Một lát mới dội lại tiếng nổ. Pháo bắn dày. Chỉ một lát là tiếng đề pa lẫn vào tiếng nổ cấp tập. Cối 8 hai tiểu đoàn cũng tong tong lên tiếng. Một tiếng nổ kép tức ngực. Hai khẩu 85 ly bên kia đường tự nhiên nhảy lên cầng cẫng. Bọn pháo thủ 85 chúng nó đã xác định được mục tiêu, cũng bắt đầu bắn. Đạn đi thấp lắm! Nhìn thấy cả cỏ, lúa và cây bụi bị hút ngả theo hướng đạn.
Bọn Pốt cũng bắt đầu chơi lại. Phát hiện được mấy khẩu 85, DK75 của địch phản luôn vài trái. Trái phá địch nổ văng bùn đất, tung tóe hoa lửa lốm đốm trước khẩu đội cả dăm chục mét. Cứ nghe “xéo” phát là tôi lại thụt đầu xuống. Có biết đâu là thụt đầu cũng vô nghĩa, vì đạn DK nó đã nổ trước cả giây rồi. Anh Ky quát mày thấy chưa hả con? Tôi chỉ gật gật đầu xác nhận. Đi với thằng phó máy ngu này thì còn phải dạy nhiều.
Chúng tôi trấn giữ cái cửa cống an toàn ấy. Bỗng từ đâu bò ra ra một anh lạ hoắc. Anh ấy bảo: “Chúng mày tránh ra cho tao vào!”. Anh Ky nhăn mặt, khó chịu né người. Anh ấy chui hẳn vào trong lòng cống, người thấy run cập cập. Đạn 12.8mm địch vẫn toác toác, xuyên lòi trắng thân các cây thốt nốt mé trên cao. Với tầm đạn đó, dẫu đứng thẳng người cũng không phải sợ. Tôi hỏi ai đấy? Anh Ky bảo ôi sời ông Thoan tham mưu tụt tạt ấy mà! Người trong cống cũng im lặng, không buồn nói gì. Tôi thầm khoái, thấy mình cũng không đến nỗi sợ như thế. Có biết đâu rằng khi người ta đã phải trải qua những tai ương đẫm máu không chịu nổi, thì đôi khi lâm vào tình trạng thần kinh ấy. Cái nhìn của anh Thoan như bảo tôi rằng: mày cứ hí hởn đi con. Rồi sẽ biết thân!
Tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 4 bắt đầu xung phong khi pháo vẫn đang còn bắn. Bộ binh phát triển đến đâu, pháo 85mm đẩy tay lên đến đấy. Tôi với anh Ky lên theo đội hình tiểu đoàn. Vừa đi vừa cố tránh xa khỏi hai khẩu pháo. Thỉnh thoảng, bọn pháo lại dừng, thổi vài trái lọng óc. Chúng nó cứ câm lặng mà làm, chẳng ai nói gì nhưng nhìn động tác rất thuần thục ăn ý. Chắc hẳn cả nhà bọn ấy bị điếc! Hướng này không thấy mìn, lại được hỗ trợ tuyệt đối của pháo binh nên bộ binh tiến khá nhanh.
Trên tuyến phòng ngự của địch, những bựng khói đen dựng lên thưa dần. DK.75 địch còn “cùng - x..**.o” vài quả nữa sau cũng tịt luôn. Loe loé đầu nòng độc nhất một khẩu 12.8mm, “toang toác_ khùng khùng” chừng thêm được vài phút thì cũng tịt nốt. Đã nghe tiếng súng con lốp bốp giòn như rang bắp. Trên cao có tiếng gầm rít của một phi đội máy bay phản lực. Tôi ngửa mặt nhìn nhưng không thấy máy bay đâu. Chúng tôi dịch dần đội hình lên trên nữa. 11h30 trung đoàn đã đánh qua lớp công sự thứ nhất. Ở mấy hầm tiền tiêu còn mấy quả bom bay đen trũi to như cái thùng phuy, bọn lính Miên chết pháo, không kịp gí. Đến 12h trưa, chịu không nổi, địch bắt đầu tháo chạy.
Xe hậu cần trung đoàn chở đạn dược bổ sung lên đến tận nơi. Trừ mỳ tôm và gạo theo khẩu phần, còn đạn không cấp phát theo định lượng cơ số mà xả thùng xe. Ai muốn lấy gì mặc lòng. Phủ phê các loại M.72, M.79, các thùng đạn K.56, cối các loại…Có cả mấy thùng lựu đạn M.67 mới khui hăng hắc mùi Mỹ. Của hiếm để đánh cá đây! Trung đội thông tin nhặt mỗi thằng 2 trái, móc lên hai quai máy 2W. Bọn bộ binh đến sau thì hết lựu đạn, bèn giật của chúng tôi rồi cười hì hì bỏ chạy. Lại phải ém vào túi cóc ba lô. Anh Ky cầm trái M.67 của tôi, xoay tháo cái mỏ vịt ra kiểm tra. Cái kíp nhôm hình trụ, có hai vòng thắt ngấn và chấm một đốm sơn xanh blue. Tốt ! Loại an toàn. Hễ thấy một ngấn thắt và chấm sơn đỏ thì đừng có mà xài nghe mày. Kẻo mà banh xác!
Lệnh trung đoàn đổi D4 chủ công, thay cho D6. Tiếp tục tiến công! Chúng tôi vượt qua người anh em cùng trung đoàn, lầm lụi bước. Bây giờ, chúng tôi là đơn vị đi đầu của sư đoàn trên hướng tiến công mặt lộ 1 này. Phát triển truy kích đến chiều tối, tiểu đoàn dừng tạm trước một con lạch nhỏ nước đục ngầu. Bên trái có lẽ là trạm phẫu tiền phương của địch. Bông băng, dụng cụ y tế quăng bừa bãi. Mùi máu tanh nồng, mùi gây gây xác người lẫn mùi hăng của thuốc tê...Những chiếc võng còn dính đầy máu chăng ngang dọc dưới chân cột nhà sàn. Hẳn bọn Pốt mới rút lui chưa lâu.
Hôm ấy tiểu đoàn bộ nằm lẫn luôn với đội hình đại đội 1, do Anh Sơn tự tay bố trí đội hình. Ba trung đội bộ binh C1 dấn lên phía trước theo hướng con lộ. Khẩu đại liên anh ấy lôi lên đặt trên cái cầu nhỏ, kiểm soát mặt lạch. Trung đội trinh sát với trung đội vận tải bung sang hai cánh ruộng bên đường. Thông tin tụi tôi nằm dưới gậm cái nhà sàn cạnh BCH tiểu đoàn. Ấm sườn sướng rên!
Tụi anh nuôi tiểu đoàn và đại đội 1 leo xuống bờ thấp, đào bếp cạnh nhau sát mặt sông. Lửa bếp chiều hôm loáng trên mặt nước. Lãng mạn y như công dân Liên xô đi cắm trại trong các tờ họa báo…Đêm sâu dần và trời tối lắm! Chỉ còn ánh sáng trắng mờ mờ, hắt lên từ mặt nước. Chúng tôi được ăn cơm nóng với canh mỳ tôm nấu loãng. Trung đoàn thông báo E3 đang nằm sườn phía bắc đường. Cẩn thận kẻo bắn nhầm. Các đơn vị nhận nhau ngoài vô tuyến điện còn bắn bắt liên lạc, cộng tròn bằng 7.
Đêm đầu tháng, như để bù lại cho buổi ban ngày, cực kỳ yên tĩnh. Hướng E3, một vài viên đạn lửa vẽ những đường cam trên bầu trời đêm thẫm tối. Không nghe thấy tiếng súng. Có lẽ họ ở khá xa chúng tôi.
Sáng sớm ngày hôm sau, có lệnh tiếp tục tiến. Đồng ruộng trống trải. đội hình hàng dọc đi trên mặt lộ như một buổi hành quân dã ngoại, mỗi lúc một rảo bước. Thị xã S'vay Rieng đã hiện ra trước mặt. Trên cây cầu sắt bắc qua sông phía xa bên phải, một đoàn quân cũng đang vượt tới. Triển khai ngay đội hình chiến đấu và bắn bắt liên lạc. Ba phát AK vang lên. Bên kia trả lời đĩnh đạc bốn phát. Ta rồi! Đó là lính tiểu đoàn 7 trung đoàn 3. Trong chiến đấu, không gì vững lòng bằng lúc gặp đơn vị bạn đang cùng hướng, cùng nhiệm vụ. Chúng tôi vòng sang, gặp nhau trên cầu sắt tiến vào vào thị xã. “Cho xin hớp nước bạn ơi!”.” Này! Dốc sang một nửa bi đông!”. Cảm động cứ như quân Đồng minh gặp nhau trên bờ sông Elber. Hồi đó cái đầu học trò chưa gột của tôi toàn những ý tưởng kỳ quái tựa tựa như thế!
Lúc 9h30 sáng ngày mùng 4 tháng một năm 1979, trung đoàn chúng tôi vào thị xã S'vay Riêng không tốn một phát súng nào.
D trưởng báo về trung đoàn rằng đã vào được thị xã. Lệnh E cho bộ đội bố trí chốt cứng, chờ hậu quân tiếp lên. Tiểu đoàn 4 rẽ trái, bố trí đội hình ở một khu phố. Ban chỉ huy nằm ở một cái nhà sàn giữa vườn dừa. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc, cách tiểu đoàn khoảng dăm chục mét. Căn nhà nhỏ nhưng đẹp ghê! Mà đối với một thằng lính cả tháng trời nằm hầm, nằm đất thì căn nhà bình thường nào chẳng đẹp? Nằm dài trên nền đá hoa mát rượi. Gối đầu lên cái ba lô, nhìn qua ô cửa sổ nắng lấp lánh, có chùm vú sữa chín trắng đong đưa. Gió chướng lùa lá dừa, xạc xào tít trên cao nữa. Giá có cái đài phát chương trình bài hát theo yêu cầu thính giả nữa thì đúng là một sáng Chủ nhật yên bình…
Tháng Ba năm 2011, sau nhiều lần trì hoãn, chúng tôi đã trở lại, đi trên con đường tiến quân ngày ấy. Ba mươi năm có lẻ. Đứa đã hy sinh về trong lòng đất, đứa còn sống đã chồn chân mỏi gối. Vẫn bờ đập ấy, bãi lầy ấy, cây cầu ấy… Hàng dầu cổ thụ vẫn mùa khô bay hoa… Song giờ đây người còn, người mất. Người trở lại âm thầm ngó chiến địa xưa:
Ta còn mãi Khúc quân hành lặng lẽ. Có vơi không Kỷ niệm Một thời trai trẻ? Trở lại trận địa xưa Vặn mình quặn nhớ Đứa mất. Đứa còn.
Bờ đất ấy Thằng dính mìn kêu ơi ới! Nắng ong ong Hững hờ đụm khói. Về với mẹ qua những cơn mơ Thỏa thích vục đầu vào vại nước mưa. Ngọt ngào và mát Như tuổi thơ.
Trở lại chiến trường xưa Hát lại khúc quân hành năm cũ Gốc cây này Đồng đội tôi nằm Như đang ngủ Bỏ lỡ lời thề về chốn cũ.
Xóm nhỏ gần Phủ Lý Có cô bé trong tấm hình nhỏ tí
Tựa ngón tay. Ngủ rất say! Mang theo tuổi mười tám. Nó đâu cần thương cảm Tít trời xanh nhẹ như áng mây
Đâu như chúng ta đây Trĩu đôi vai Canon , Nikon , Pentax Và đong đầy tình nhân thế Hát mãi khúc quân hành như thể Những người lính năm xưa.
Nằm mãi chán, tôi vùng dậy đi theo chúng nó đập vụng vú sữa và xoáy dừa xiêm. Phải đập vụng bởi đã có lệnh trên cấm vi phạm tài sản, nhà cửa, tính mạng nhân dân nước bạn. Chẳng nhớ rõ là bao nhiêu điều. Song, cứ theo cái lệnh cấm nghiệt ngã đó thì bọn lính chúng tôi chỉ được thở không khí nước bạn, được dùng nước sông, nước giếng của bạn, được lấy củi khô để nấu cơm nấu nước. Ngoài ra cấm tất! Thế nên muốn ăn vụng thì phải đi xa BCH. Không có các anh ấy biết thì kỷ luật là cái chắc. Nhưng đời là mấy tí? Cơm treo mèo nhịn với mấy thằng lính cùi nay sống mai chết thì đâu có được?
Anh Nhương túm đâu được con lợn khoảng hai chục ký vẫy tay rối rít gọi Toàn cồ. Hai người lùa nó vào trong toilet, phân công tôi đứng ngoài canh...tiểu đoàn. Một bao dứa đầy gio bếp chụp vào đầu nó, thế là con lợn Pôn Pốt chỉ còn “hập! hập…!” được mấy cái là xong đời.
Chắc xưa ở nhà hành nghề trộm lợn nên tôi thấy các ông ấy thành thạo lắm. Pha thịt chặt xương ngay trong toilet chỉ một loáng là đâu ra đấy. Gia vị chỉ có mấy gói ngũ vị hương tống vào nhưng cứ thơm phức. Lại còn mót được vài quả đu đủ non để hầm xương. Anh nuôi nhọ *** chia xong là mấy thằng vội vác chậu cơm về. Một nửa trung đội ăn trước, một nửa ăn sau. Nhớn nha nhớn nhác nhưng ngon miệng không chịu được. Thịt tươi có khác, ấm chân răng nhưng nhức, hơn hẳn thịt ôi hậu cần cấp muộn. Chén xong, thằng Ban trố đi rửa chậu về trả anh nuôi. Bố Nhương giằng lấy, khịt khịt ngửi đi ngửi lại rồi bắt nó mang xà bông đi rửa thêm lần nữa.
Một ngày có thịt tươi chén, có nước dừa uống, có vú sữa tráng miệng và được nằm nghỉ ngơi dưới mái nhà có giá đèn treo trên trần trắng. Cuộc đời vẫn đẹp sao! Chúng tôi không hề biết là sẽ đi những đâu, đánh những đâu? Bao giờ thì hết chiến dịch này cũng không biết nốt. Tôi chỉ mong đừng phải đi đánh đâu nữa. Chốt bố trong cái nhà ngon lành này, cái thị xã nhỏ xinh này cũng được. Địch nó đến thì bắn AK qua cửa kính. Khung cảnh phố thị với những ngã tư, nhà tầng, vỉa hè, cây phố nhắc tôi nhớ đến quê nhà, nhớ đến cuộc đời yên bình văn minh. Nỗi ước ao bé nhỏ thật thà của những thằng lính chiến, dù mới hôm qua còn chúi hố, lấm láp và nhớp nháp như những con sâu đất.
NEAK LUONG Khoảng 2h chiều, đang nằm khoèo đánh giấc trưa thì xe trung đoàn chuyển cứ từ Chi Phu lên đến nơi. Hậu cần trả lại các đồ nặng, đủ thứ linh tinh bỏ lại lúc đánh vận động. Lúc đó túi mìn claymore đeo hông, đựng đồ gọn nhẹ như võng nilon và tấm đắp, thường chỉ có cán bộ đại đội mới có. Tôi nhận lại cây đàn. May mà vẫn còn đủ dây. Tiểu đoàn tập trung ra ngã tư chuẩn bị hành quân tiếp. Thế là tan giấc mơ hoa nhà lầu chốt chặn.
Đủ các loại xe pháo, lính sư đoàn tập kết gần ngã tư trung tâm thị xã. Một thằng lính trung đoàn 1 mượn cây đàn của tôi, ngồi trên quầy bán hàng của một cửa hiệu hát say sưa. Mắt nó cũng bị lác như thằng Thiệu mù trung đội tôi.
Mẹ Việt nam mắt ngời sáng quắc.
Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình. Lệ nhạt nhòa đôi mắt long lanh. Nghe tin con vẫn còn ngày xanh. Một cành hoa em cài mái tóc…
Lính trung đoàn 1 ngồi bâu xung quanh. Một số đứa âm ư không thuộc nhưng vẫn gào theo. Chẳng biết ngày xanh còn được đến bao giờ? Nhưng cái trò vè văn nghệ văn gừng thì nó khích nhau ghê lắm! Anh Nhương hất hàm, ý ra hiệu cho tôi thể hiện cho bọn nó biết mặt. Ông này tính máu ăn thua quá. Tôi biết nó ở “trình” dưới nên cười xòe. Lão ấy chờ nó hát hết bài, đòi lại cây đàn hầm hầm vác đi, cứ như bảo tao đây cũng chơi tốt. Mày đã là cái gì?
Lệnh tiếp tục tiến công hướng trục lộ 1! Đổi lại, tiểu đoàn 6 đi trước, tiểu đoàn 4 đi sau. Đánh Ph’nom Penh à thủ trưởng ơi? Không biết! Cứ đi đi đã! Đi một lúc thì tiểu đoàn 6 đụng địch. Bọn Pốt trụ lại tại cái bờ đê cách thị xã khoảng 6km chặn quân hành tiến. Không nghe tiếng hỏa lực. Chỉ có tiếng đạn nhọn léc chéc trên đầu. Tiếng đề pa pháo 105mm ầm ầm sau lưng. Dừng khoảng 20 phút là đường lại thông.
Chiều tối dần. Tiếp tục hành quân thẳng tiến hướng tây. Lúc đi, lúc nghỉ mải miết. Bàn chân dần sưng phồng, mọng nước như bị bỏng. Đi nhón thì tức chân. Chọc vỡ ra thì rát. Phần da ngoài bong ra, trầy trật xót. Mắt nhắm mắt mở, thỉnh thoảng lại đụng thằng đi trước vì buồn ngủ. Hễ có lệnh nghỉ giải lao là hạ ba lô nằm thẳng cẳng trên mặt lộ, ngủ ngay được. Đến khi bị đá dậy còn càu nhàu, tưởng là mình vừa mới ngả lưng xong. Khốn khổ nhất là hoả lực cối đại 4. Mỗi thằng một gánh đòn tre kẹp 8 quả cối 82. Thằng Văn râu đỏ đồng hương Hà Nội lặc lè với cái mâm đế cối. Tướng người đậm thấp, khoác cái mâm đế trông không khác gì con rùa. Bù trừ thôi mày! Lúc bộ binh xung phong thì chúng mày chỉ mỗi việc nằm sau, ung dung thả đạn.
Lúc đêm khuya lắm, không rõ là mấy giờ thấy bọn đằng trước chộn rộn hết lên. Có tiếng mõ bò, tiếng bánh xe lăn xiết cồng cộc kèm theo một mùi khét cháy lạ thường. Anh Thưởng hét :”Dân, dân đấy! Để cho họ đi!”. Trong ánh đèn pin loang loáng, đoàn dân bạn nhếch nhác tơi tả, cắm cúi trôi ngược chiều trong câm lặng. Tiếng xe lăn, tiếng mõ bò lốc cốc tụng kinh đêm trường xa dần, xa dần…
Toác toác_khùng khùng…Một loạt 12.8mm đỏ lừ bay sạt đầu từ bên phải đường. Chúng tôi lăn giạt hết sang sườn lộ. Chẳng biết ta hay địch, cứ tranh thủ ngủ cái đã. Trinh sát tiểu đoàn bắn AK bắt liên lạc theo lệnh tham mưu. Bọn kia vẫn “toác toác khùng khùng” vào đội hình. Anh Sơn hô bọn đại đội 4 giá súng 12.8mm bắn lại, nhưng bắn cao lên. Bên kia toác toác, bên này khùng khùng trao đổi mấy loạt thì thôi. Từ đó cả hai xuống giọng, dùng AK. Bên này bốn phát, bên kia ba phát và ngược lại như quy định. Quân ta rồi! Thông tin trung đoàn thông báo đó là quân sư đoàn 7. Bắn trao đổi mãi cho tới khi bọn tôi đi xa tít. Tiếng súng gọi bầy của đơn vị bạn nhỏ dần, nhỏ dần…
Đã đi bộ qua một đêm dài dường như vô tận…
Mãi gần trưa hôm sau mới có lệnh dừng lại, nấu cơm ăn rồi chờ xe của sư đoàn. Mặt lộ cao, ngó xuống hai dãy nhà sàn mái ngói xếp hàng hai bên đường. Trong lúc chờ cơm, trèo lên một căn nhà lục lọi, tôi thấy trong bao thóc đổ có mấy cuốn truyện của Duyên Anh bèn nhét vào ba lô. Chắc chủ nhân ngôi nhà này là Việt kiều, không biết còn sống hay đã chết? Nhắm mắt định ngủ một chút bù lại một đêm thức trắng. Nhưng không hiểu sao mắt cứ chong chong. Có lẽ do hưng phấn khi đặt chân đến một miền đất mới. Một số xe đang vượt qua chỗ bọn tôi nghỉ tạm trên mặt lộ. Trong các video clip sau này được xem, thấy có cảnh hành tiến của xe tăng trên đường. Nhưng tôi có thể chắc chắn rằng trên lộ 1, từ Chi Phu cho đến Neak Luong, trong khoảng từ ngày 03/01/79 đến 05/01/79, chúng tôi không thấy một đơn vị xe tăng nào đi cùng bộ binh cả.
Quá trưa đến chiều thì bắt đầu sốt ruột. Mãi không thấy xe sư đoàn đâu. Kiểu này lại hành quân bộ quá! Y như rằng lại có lệnh lên đường. Quá ít xe nên sư đoàn sẽ chuyển tăng bo dần từng đơn vị. Lại mải miết đi...Nhưng không thấy bết như đêm hôm qua nữa. Trong một chặng nghỉ, bỗng nhiên ai cũng ngẩng lên. Dường như có hàng trăm con diều sáo vô hình đang reo lên vu vu cùng một lúc trên đỉnh trời. Mãi lúc sau mới nghe phía đằng sau lưng, rộ lên một loạt đề pa như sấm ầm ì. Tiếng hú gió của đạn pháo 130mm đến nhanh hơn tiếng nổ đầu nòng. Đạn pháo bay qua đầu chúng tôi, nổ bên kia phà Niek Luong. Anh Sơn D trưởng bảo:” Kachiusa đi em!”. Thằng Chương Thanh hóa đại đội 3, nhào đến cạnh tôi hát luôn. Đào vừa ra hoa, cành theo gió đưa vầng trăng tà. Ngoài dòng sông, màn sương trắng buông lững lờ. Tựa bến sông bóng ai in trong làn sương mờ. Cất lời ca, rằng Kachiusa đang chờ…Anh ấy mới có người yêu. Chị ấy tên Hà, là diễn viên múa đoàn ca nhạc Bông Sen thành phố Hồ Chí Minh. Và tất nhiên rất xinh. Chúng tôi hát với nhau, với phần đệm bộ dây là cây guitar lẻ loi, và bộ đồng là dàn hơi da diết đang hú ở trên đầu…
Mấy cái xe tấp đến đón chúng tôi. Tất cả leo ào lên thùng xe, duỗi đôi chân đã quá rã rời cho khoan khoái. Tôi ngồi ngó nghiêng cảnh vật thay đổi hai bên đường. Đồng ruộng tít tắp. Một dãy núi thấp xanh mờ bên phải đường, tô đẹp thêm cho cảnh chiều hôm. Đi trận mà như thế này quả là dễ chịu. Xe chạy chừng gần 1 tiếng, lắc lư trên đường đầy hố pháo. Một làn gió mát rượi đẫm hơi nước ào tới.
Hai dãy nhà bê tông bỏ hoang uốn cong theo thế mở bến phà. Những bức tường toang hoác. Mấy cây phượng tây cổ thụ um tùm che bóng. Gắt trong không gian mùi lá ngâm, mùi cá mắm, mùi khét lá quấn thuốc cò ke. Tôi biết bến phà này từ mấy năm trước, khi tô đỏ những tỉnh miền Nam được giải phóng từng ngày trên cái bản đồ.
Cuộc chiến đã cuốn chúng tôi đến đây, tới bờ sông này, trước khi đẻ chín nhánh Cửu long trên đất Việt. Chạy ào xuông dốc phà, khoả nước lên mặt. Mê Kông loang loáng chảy. Gió lồng lộng. Trên sông, đoàn tàu há mồm LCU chở quân lùi lũi ngược sóng. Hộ tống hai bên sườn là bốn chiếc khinh hạm loại nhỏ. Ba chiếc LCU khác cập bến thả cầu đón đơn vị sang sông. Thật là lạ, đến một thằng binh nhì như tôi cũng không thể hiều nổi vì sao nó không lợi dựng cái chiến hào thiên nhiên vĩ đại này để tổ chức phòng ngự? Chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn cho quân ta.
Chiều ấy, đơn vị qua sông, dừng chân ngay trái bến phà, bờ hữu ngạn...
Nhập nhoạng tối, các đại đội bố trí gác xách xong xuôi. Đội hình tiểu đoàn co cụm chứ không bung rộng. Bến phà vẫn ầm ì tiếng máy tàu, tấp nập quân sang. Lính tráng hò nhau đi tắm sông ơi ới. Bờ nước đoạn này sâu, lội ra ngoài một chút là đến ngực. Nước lạnh và chảy khá xiết. Thật khoan khoái khi ba ngày mới được tắm. Tôi làm rơi cái bát sắt xuống sông khi đang vục nước rửa. Một bà già có mái tóc bạc ngắn, ngồi trên nhà sàn sát bờ sông trông thấy, vào lấy cho ngay một cái bát khác. Cái bát sứ men hoa xanh rất nhẹ và đẹp. Anh Ky cười, “ocun” (cám ơn) hộ tôi như một quý ông thứ thiệt. Trên các ô cửa đầu thang phum này, dân bạn ngồi, tò mò nhìn những anh lính Việt. Có vẻ như không thấy gia đình nào còn đầy đủ thành viên. Dăm đứa trẻ con sán lại. Chúng tôi trêu đùa với bọn trẻ trong ánh mắt thiện cảm của những người lớn. Bọn trẻ con, và cả giống chó nữa, có vẻ rất nhạy cảm với sự tốt bụng hay thân thiện...
Các đơn vị nổi lửa nấu cơm chiều ven sông. Dọc suốt đôi bờ, những bếp lửa của lính sáng bập bùng. Các bạn của tôi, nhất là các anh đã từng là lính chiến. Các anh nghĩ gì khi ngồi bên đống lửa, ở một bến sông xa nào đó lúc chiều hôm? Hẳn là nhớ đến bếp ấm quê nhà. Có riêng thêm một niềm kiêu hãnh phiêu du ngấm ngầm của người đi biền biệt vào nơi sinh tử. Cảm xúc vị nghĩa dấn thân ấy là có thật! Đó là cảm xúc lớn của sự hy sinh, của cái đẹp tâm hồn tiềm ẩn và rất con người. Hoàn toàn không phải tư tưởng tiểu tư sản như người ta tưởng tượng hay quy kết. Nhảm nhí, phi nhân tính hết sức! Ở nhà, trong bữa cơm tối mẹ nhắc tên anh. Mẹ sợ chiến tranh, Mẹ không bao giờ muốn anh đi mất. Còn anh thì đốt lửa ngồi đây, trên bờ sông này, hay trong rừng lạnh nơi xa nào đó…Anh không thuộc về gia đình nữa mà thuộc về đồng đội. Thuộc về những thằng áo trận te tua như anh, vác nặng như anh, lấm láp như anh, ghẻ lở hắc lào như anh… Cuộc đời anh, cuộc đời những thằng lính chiến bây giờ thuộc về nhau. Bất kể anh tình nguyện hay không tình nguyện. Cuộc chiến anh theo đuổi là chính nghĩa, anh sẽ trở thành anh hùng. Là phi nghĩa, anh cũng sẽ là một kẻ thù đáng trọng, khi vẫn còn trong anh những thuộc tính của con người như thế.
Tất nhiên, bờ sông đêm hôm đó thì tôi không nghĩ như thế đâu! Kẻo các anh lại chửi tôi là đồ xét lại. Tôi chỉ thấy những đống lửa bên kia sông nhấp nháy mãi, cho đến khi mắt díp lại. Ánh lửa ấm áp trong sương, như khẳng định đích đến của hành trình. Giấc ngủ chóng đến, thật sâu và thanh thản.
Ngày 06/01/79, ai cũng yên trí rằng sẽ tiến dọc lộ 1 vào Ph’nom Penh thì trung đoàn lại lệnh xuống cho tiểu đoàn 4 xuôi cặp bờ Mekong truy quét địch. Quả là thất vọng, nhưng lệnh là lệnh. Từ Neak Lương, đơn vị ngoặt theo hướng nam, hành quân trên con đường đất dọc bờ sông. Hai bên đường, vú sữa rợp bóng, toàn những cây to, lúc lỉu quả. Khu vực các phum này bắt đầu gặp nhiều dân bạn. Họ đứng trên sàn nhà, nhìn đoàn quân đi. Không vồ vập cũng chẳng sợ sệt. Cán bộ dân vận cùng trinh sát hỏi thăm một cụ già về tình hình địch. Ông cụ cười nhe lợi: “Ruột tằng o hơi!” (chạy hết sạch rồi!). Đi một thôi nữa thì hết phum. Địa hình hai bên lau mọc um tùm cao quá đầu người. Tiếp tục đi tản ra, sẵn sàng chiến đấu.
Được khoảng dăm sáu cây số thì rẽ ngang về hướng tây. Một con đê lớn xuyên qua một cái trảng chó ngáp, song song với một con mương. Đoạn cuối con đê, chúng tôi vào một nông trường lớn. Một cái nhà xây lợp ngói đỏ, có lẽ là hội trường. Cạnh đó không xa cái nhà ăn tập thể lợp lá thốt nốt rộng mênh mông. Mấy cái nồi gang to đùng chúng nó bắn thủng hết đáy, chắc không để cho ta sử dụng được. Bọn này đúng
là thực hiện tốt việc tiêu thổ kháng chiến. Các dãy nhà sàn nhỏ đứng cách nhau đều tăm tắp, xen giữa các hàng đu đủ. Thấy cái kẻng đầu nhà ăn, Thằng Cầm anh nuôi nghịch gõ mấy tiếng. Gà nghe kẻng bỗng nhiên ở đâu đổ về đông nghịt. Giữa ban ngày ban mặt, không có vật che khuất nên thèm rỏ dãi nhưng không đứa nào dám ho he. Anh Nhương đi cùng tiểu đoàn, nhìn đám gà cứ như nhìn thấy kẻ thù giai cấp, nuốt nước bọt ừng ực. Thỉnh thoảng lại liếc anh Thưởng chính trị viên.
Trưa hôm ấy, chúng tôi hạ trại nghỉ nấu cơm ngay tại nông trang. Thực đơn bữa trưa gồm cá khô mang từ bên nước sang và món gà “ngó” trứ danh ấy. Mâm tiểu đoàn cũng cá khô như lính. Nhưng có thêm chút me thằng Điệp liên lạc hái về dầm vào cho dịu vị . Bố Nhương vẫn còn hậm hực, quay sang kháy liên lạc tiểu đoàn: Điệp! Me này mày cũng ém mang từ nước sang đấy à?
Sau này thằng Căn, lính C1 kể lại là tiểu đoàn nhịn nhưng lính không nhịn được. Trung đội nó vồ được hai con, bóp chết vặt lông nấu nồi cháo gà. Khi tống vào nồi, đang đun thì anh Síu chính trị viên đại đội đi đến hỏi chúng mày nấu gì? Trả lời rằng bọn em đun nước. Anh ấy nấn ná cố tình ngồi lại một tí thì nồi cháo sôi. Cái chân gà co lên đẩy vung bật ra. Anh Síu hầm hầm không nói không rằng, bốc nắm cát ném vào nồi rồi bỏ đi. Giời đánh còn tránh miếng ăn. Khương khàn B trưởng tức nghẹn họng. Lính trung đội lầm bầm chửi vụng, tính đòi xử ngầm khi lâm trận. Rất may là chúng nó ức quá thì nghĩ càn thế thôi. Điều đó dần nguôi nhưng ác cảm lính nuôi vẫn còn nguyên đó. Quả là một chính trị viên gương mẫu và tâm lý!
Buổi chiều hôm mùng 06/01, tiểu đoàn lại có lệnh quay lại bến phà. Gần về đến chỗ cũ thì có lệnh dừng, nghỉ đêm tại bờ sông. Lúc này các đại đội đóng gần nhau lắm. Trung đội thông tin gom đủ về tiểu đoàn bộ cả vô tuyến, hữu tuyến, truyền đạt. Gần hai chục đứa chiếm cứ cái nhà nổi trên sông. Đáy ghép bằng các thùng phuy. Mặt làm bằng các tấm ván thành một cái sàn rộng bồng bềnh. Gió sông ban đêm thổi lạnh, phải nằm sát nhau mới ấm.
Những tưởng yên vị được vài ngày thì hôm sau, ngày 07/01/79, lại có lệnh hành quân tác chiến vào đúng cái nông trang có trại gà cũ. Cha con lục đục lên đường lộn lại. Địch vẫn chẳng thấy đâu. Lính tráng vào đến cái hội trường cũ, giở cơm nắm ra ăn trưa thì lại có lệnh quay ra. Nắng mùa khô ngây ngất hoa hết cả mắt. Trảng trống tếch mênh mông, đi mãi chẳng đến nổi rặng cây xanh dọc bờ sông.
Hai ngày liền, đi đi lại lại gần năm chục cây số dưới trời nắng gắt làm tôi bết bát. Ba lô trên lưng, cuộn dây trên vai, Ruột tượng gạo năm ký quàng cổ, cái máy điện thoại TA.130 của Mỹ trẹo sườn. Tôi với anh Ky còn chung nhau một khẩu AK Liên xô có cái tay cầm nhựa màu đen nữa. Lúc tôi vác đàn thì anh ấy vác súng. Lúc tôi vác súng thì đưa anh ấy cây đàn. Tôi tháo rời cái băng đạn kép (buộc tráo đầu) của khẩu AK, gạ cho một thằng lính đại 3. Nó đếch thèm vì cũng đang thở lặc lè. Rình lúc không có ai để ý, tôi quăng tõm cái hộp tiếp đạn ấy xuống mương nước. Khẩu súng từ đó lúc nào cũng chỉ có một hộp tiếp đạn duy nhất. Lão Ky nhìn thấy thế cũng thở dài lắc đầu mà không nói gì. Trong tình thế này, cây đàn trở thành thừa và vô duyên. Đã thế nó còn bị đứt mấy dây liền do các ông tai trâu nghịch phá. Đến cái phum bờ sông đầu tiên, tôi bảo anh Ky đưa cây đàn cho em. Anh ấy vừa đưa, “Bá Nha” thả ba lô, điên tiết nghiến răng phang thẳng cánh cây đàn thân yêu vào cái cột nhà sàn. Bum một tiếng vang động. Có cả tiếng echo ngân dây cuối cùng trước khi cây đàn thoát xác. Thùng đàn vỡ toang. Lão “Tử Kỳ” rên lên: Ơ ơ mẹ cái thằng này…! Lão ấy còn xót xa hơn tôi. Nhớ những buổi trưa nằm chốt. Anh Ky tỉ mẩn rút lõi đồng điện thoại, quấn chặt từng vòng quanh cái lõi dây inox bé tí căng trên mặt ván, chế tạo cho tôi cái dây Ré, dây Mi trầm bị đứt. Khi nhàn nhã trà thuốc, chỉ yêu cầu mỗi bài: rừng cây xanh lá muôn đóa hoa tươi mừng đón xuân về…Lần nào cũng như lần nào. Anh ấy người Thái trắng, quê huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.
Nửa chiều, tham mưu tiểu đoàn thông báo Ph’nom Penh đã được giải phóng. Lính tráng ồ lên phấn khởi. Sống rồi! Sống rồi! Sắp được về nước rồi! Cả đoàn quân tan hết mệt nhọc, đi như bay về nơi đóng quân cũ tại gần bến phà. Trời bắt đầu tối dần. Trăng non nhấp nhóa trên lá vú sữa bóng loáng.
Ngày mùng 8/01/1979, cả đơn vị nao nức chờ đợi lệnh tiến quân về thủ đô. Cánh lính cũ được dịp ôn nghèo kể khổ. Thôi hết nhé những ngày mưa nằm chốt cầu Prasaut, ngã tư Nhà thương, giành giật với địch từng mét đường 24…Cán bộ đơn vị là lính trước năm 1975 còn sướng hơn nữa. Với suy nghĩ của các anh ấy, giải phóng Ph’nom Penh xong cũng giống như vừa giải phóng Sài gòn. Là hết chiến tranh, là im tiếng súng, là thành lập ủy ban quân quản thành phố một thời gian rồi rút về nước. Đài bán dẫn của cán bộ tiểu đoàn oang oang mở hết volume. Đại loại: Các lực lượng nổi dậy của chính phủ cách mạng nhân dân Campuchia đã giải phóng hoàn toàn thủ đô Ph’nom Penh, đập tan chế độ Pôn Pốt_Iêng Sary tàn bạo… Trong khi “các lực lượng nổi dậy” này thì vẫn đang ngồi đây, bu xung quanh cái đài, uống ca trà tàn và mong chờ xe đón.
Riêng tôi thì tưởng tượng ra cái cảnh lễ mừng trong Ngày Chiến thắng. Trung đoàn sẽ tiến vào thủ đô trên những chiếc xe thiết giáp đầy bùn đất. Lá Quân kỳ ám đen khói súng và lỗ chỗ vết đạn sẽ phủ bóng trên những gương mặt kiêu dũng của lính binh đoàn. Chúng tôi sẽ
mỉm cười với nhân dân ra đón. Và nếu như có cô gái nào đó tặng hoa, thì tôi không hiểu có nên ôm hôn cô ấy không nhỉ? Như những nụ hôn không biên giới khi Hồng quân tiến vào Budapest đã được xem trên phim. Thằng nào cũng cố chọn ra một bộ đồ tươm nhất, ngong ngóng tiếng xe. Nhưng chờ mãi chẳng có tiếng xe nào. Hóa ra xe tăng_ cái binh chủng thần tượng, tôi chỉ thấy trong viện Bảo tàng Quân đội, trong các bộ phim chiến thắng chứ chưa từng thấy nó xuất hiện trong các trận đánh cùng đơn vị. Lệnh trên cho đơn vị chúng tôi chốt tại chỗ cách bến phà 3km. Bố trí đội hình bảo vệ hướng nam bến vượt cho đến khi có lệnh mới.
Lúc ước được chốt thì phải đi rã cẳng. Lúc mong đi thì lại phải chốt. Trong tình thế thủ đô kẻ địch đã thất thủ, những người lính chốt còn biết làm gì? Chúng tôi không đào hầm phòng ngự. Thậm chí ban đêm, trung đội thông tin còn bỏ gác. Ngày ngày, học lại các điều quy định khi giúp nhân dân nước bạn làm nghĩa vụ quốc tế. Chiều thì đi xa xa khỏi BCH tiểu đoàn, ném lựu đạn đánh cá. Quãng sông này có nhiều loại cá trông giống con cá dưng to, cá dầm đất mà không biết tên nó là con cá gì. Lại có cả những con cá giống con cá nóc mồm rộng hơn thân, hàm răng lởm chởm. Nó là cá nóc nước ngọt, một loài cá đáy sống độc thân rất hung dữ. Nghe dân nói của nợ này lúc thì là cá đực, lúc khác không thích thì lại làm cá cái - một loài cá lưỡng tính cộc cằn. Nó thường nằm sát đáy, phủ cát lên mình hoặc chui hốc ém kỹ. Lượn qua lượn lại chỗ phục của nó bất kể cá to hay cá bé, ngứa mắt là nó tấn công ngay. Đôi khi nó táp chặt vào miếng bụng con cá bông lau to gấp cả chục lần nó. Dân đánh cá lôi được con bông lau lên bờ, được cả con cá nóc bám dính ngay bụng. Nhưng bất kể, cứ thảy trái “ục” phát là cá lộn trắng cả! Số cá chết trôi đi mất nhiều hơn số cá lính vớt được. Hề gì, khi đó chỉ là trò nghịch ngợm, tiêu khiển những khi đi tắm.
Anh Thào tiểu đoàn phó vần đâu đó được quả H.12 của địch. Anh ấy đặt chúc mũi nó xuống mặt nước, đấu dây điện rồi lấy pin của bọn thông tin gí điểm hỏa. Trái H.12 hú hụt một tiếng thở dài ghê người rồi phóng tọt xuống nước. Một vệt bong bóng sôi theo cho đến giữa sông. Trái hỏa tiễn ngóc đầu, bay vọt khỏi mặt nước chếch lên không, rú lên rồi bay mất tăm tích…Một số đứa khác thì ra dân xin vú sữa, mang về hàng mũ. Nhựa vú sữa dính răng dính mép cả ngày. Các lão lính giải phóng đời 75 vừa mút trái, vừa kể chuyện lính tẩy bậy bạ. Rằng hai má con nhà kia có sạp buôn vú sữa. Chú bộ đội đến tán con gái bả, mới luồn tay kiểm tra đồ tam bảo. Cô con gái kêu toáng:” Má, má! Chú đội nắn dzú con nè! Má ở gian trong mắng vọng ra:” Thì chú chọn mua thì phải cho chú nắn chớ bộ!”. Cô con gái phản ứng:” Nhưng ảnh cứ nắn bóp hoài! ****…thấy mồ!”.
Tôi lật đi lật lại cái lá vú sữa trong tay, nhớ về bài văn đã học tả giống cây này. Đâu như viết rằng mặt trên lá vú sữa màu xanh thẫm, bóng loáng. Mặt dưới lá vàng mịn, như nước phù sa của dòng sông Cửu Long đắp bồi nước Việt…Với riêng tôi, sông nước Mekong tuổi trẻ đầu đời là một dòng sông trong vắt, với đôi bờ dốc, dựng bời bời lau trắng. Hoa lau tung trời xơ xác trong gió chướng mùa khô.
PH’NOM PENH Không có ngày lễ chiến thắng nào với đơn vị tôi hết! Chỉ có Lễ chiến thắng trên đài và trên TV thôi.
Gần một tuần sau, xe trung đoàn đón chúng tôi. Gần đến Ph’nom Penh. Bên phải là bãi sông xanh. Bên trái là bãi lầy có những khu rừng thấp, ngập trong nước tù. Các ngôi nhà sàn không người ở, ngồi trên những cột bê tông cao. Đế cột cũng dầm chân trong nước. Nối nhà với đường 1 hoặc nối các nhà với nhau là những cái cầu dài lót ván gỗ, có hàng lan can mỏng mảnh. Những thân cây cổ thụ trụi lá màu thắng toát, vượt hẳn trên đám cây xanh thấp bên dưới, chen giữa khu nhà hoang vắng. Sau này được biết nó trở thành Cây Số 11. Một khu ăn chơi đèn đỏ, khu nhà thổ rẻ tiền mà không hiếm các anh lính hậu cần lắm tiền nhà ta đã từng thăm viếng.
Tiểu đoàn chốt lại phía đông cầu Sài Gòn khoảng 6 km bên bờ sông Mê kông. Chốt đằng sau vì mình đánh nhanh quá, sợ những đơn vị lẻ của địch bây giờ mới chạy đến thủ đô đánh tập hậu - (hồi đó gọi là đánh bọc *** - sở trường của địch). Đơn vị nằm giữa vườn sa bô chê rậm rạp, cạnh một trại nuôi gà. Đời lính của tôi chưa bao giờ có những ngày sung sướng đến thế.
Mắc võng giữa vòm cây xanh mát. Trên đầu, sóc đi tìm quả chín chạy loạt soạt. Những quả sóc ăn làm rụng ngọt đến nhức răng. Trung đội nằm lẫn luôn với dân. Ban ngày, tôi vào nhà một ông già sống độc thân chơi. Ông già đãi tôi món khô cá kìm nướng nhậu với nước thốt nốt chua. Để làm được thức uống trứ danh này (được mệnh danh là bia Pochentong) là cả một kỳ công. Đầu tiên, người ta đi chặt những cây tre đực già, có gióng rất đều, tỉa cành đi rồi buộc áp vào thân cây thôt nôt. Có những cây có thể cao hơn 20m nên phải hai, ba cây tre mới leo đến ngọn cây. Hoa thốt nốt ra buồng. Người ta dùng hai thanh tre cứng kẹp lấy cuống hoa. Ngày nào cũng kẹp nhẹ nhàng như nặn trái vú sữa vậy, cho đến khi cuống hoa thốt nốt mọng lên, ứa ra nước là cắt cuống, treo ống lồ ô vào. Ống tre đựng phải xông khói lòng trong ống để nước ngọt khỏi bị lên men. Sáng hôm sau đã đầy ống nước ngọt, dùng để nấu đường. Còn muốn làm nước thốt nốt chua, bỏ thêm vào ống mấy mảnh vỏ cây có tác dụng lên men (tôi không biết là vỏ cây gì), là có “bia” uống ngay. Thứ nước này sinh ga rất mạnh. Tôi đã
chứng kiến có lần lính ta mang một can 20 lít nước thốt nốt chua ra sân phơi nắng để uống cho thêm bốc. Một lát sau, cái can nhựa từ từ phồng lên hết cỡ rồi nổ cái bùm. Thế là công toi…nghỉ uống.
Ngồi uống một vài bát, mặt tôi đã thấy nong nóng. Anh Ky, với thứ ngoại ngữ chủ yếu bằng tay, hỏi cụ già về cái mồi nhậu đặc biệt kia. Cụ già dẫn chúng tôi ra sông. Một con thuyền nhỏ, một cái “te” hình chữ V bằng tre đan gióng trước mũi thuyền. Đàn cá kìm đang ve vẩy ngược sóng. Thân hình chúng trông giống như quả tên lửa, gần như trong suốt với cái mồm dài ngoằng. Một con to nhất đàn đang cặp ngang một con cá nhỏ bằng cái miệng đặc biệt ấy. Te từ từ nâng lên. Xong rồi! Mang về làm sạch, phơi qua một nắng và đưa lên gác bếp xông khói. Không còn gì phải bàn nữa! Giống cá này khi tươi mùi khá tanh. Nhưng khi đã hong khói cho khô thì thịt rất dai và ngọt.
Đóng quân sát thủ đô mà không được vào thành phố quả là một nỗi khó chịu. Có lệnh cấm các đơn vị không có trách nhiệm không được vào Ph’nom Penh. Song bọn lính chúng tôi vẫn cứ tổ chức nhỏ lẻ “tập kích” thủ đô kiếm đồ. Có bọn còn mang đủ hỏa lực trung đội, sẵn sàng chơi nhau với quân cảnh nếu bị ngăn cản. Chúng tôi chặn xe hậu cần, xin ít dầu đổ cho thuyền dân rồi nhờ họ chạy thẳng, cập bến Hoàng cung. Một số khác thì đi bộ. Tôi không ham đồ, nhưng ham nhìn thấy những khung cảnh thành phố quen thuộc. Tôi nhớ các vỉa hè, các cột đèn, ngã tư đông đúc… Ban đêm nhìn thấy ánh đèn điện sáng bên sông là lòng lại bồn chồn không nhịn được. Thế là cũng theo chúng nó trốn đơn vị vào thăm thú.
Ph’nom Penh là một thủ đô chết. Chỉ có tiếng léc chéc đạn nhọn của mấy thằng lính ta đi lục lọi kiếm ăn bắn bậy gọi nhau đầu đường cuối phố. Một thành phố ma hoang vắng không một bóng người. Lính ta chỉ cho nhau các chỗ có kho vải, kho đường, kho sữa, kho rượu…Một số bắn tan các cửa kính trên tầng 2 xem trên đó có gì. Một bọn khác nghịch ngợm phi các đèn ống từ trên lầu xuống cho nó nổ bùm bụp. Anh Nhương cũng vớ đâu được cái Honda đam, chạy loạn lên cho hết xăng rồi rục. Nghe chừng hả hê lắm! Chúng tôi tha về đủ các loại bật lửa KAI, vải võng, đường sữa, rượu Napoléon chai sương mù, lá thuốc Ara, Con gà…Lắm thằng còn xách cả một bịch lớn kim máy khâu. Bảo rằng ở Việt nam thứ này đắt lắm. Thời gian đó, cả tiểu đoàn tôi khá lướt khướt vì cái món rượu “còn gì nữa đâu, sương mù đã lâu” kia. Anh Khanh C1 còn pha rượu với sữa đặc để uống. Lão ấy say cắm đầu rơi từ trên nhà sàn xuống nước. Hai thằng liên lạc lao xuống vớt lên còn lè nhè khoe:”Tao rớt ngọt như trái mít!”. Rượu thì tuy không công khai, nhưng cán bộ cũng uống và có vẻ ngấm ngầm mặc cho lính uống…Uống say thì lại nhớ các điều cấm, tung võng vùng dậy loạng choạng đi soi xem thằng lính nào bắt gà trộm. Uống thì được mà ăn lại cấm. Tréo ngoe thế mới là say. Thiệt tình khỏi chê! Giá mà hồi đó lắm chim câu thế này thì chết với bọn tôi
Một đêm gần Tết Nguyên đán. Gió chướng lao rao trên các vòm lá. Buổi đêm lạnh nên hay ngót bụng thèm ăn. Dường như không chịu được nữa, anh Tuấn còi trung đội phó thông tin sai tôi với thằng Tường lé mò xuống trại gà. Vừa sờ lườn được vài con thì hướng tiểu đoàn thấy có ánh đèn pin loang loáng đi xuống. Bỏ mẹ! Tôi với thằng Tường vội trèo ngay lên sàn gà đậu, nằm im không dám thở. Anh Thào, tiểu đoàn phó cùng thằng Điệp liên lạc đang xuống kiểm tra. Tay vung vẩy khẩu K.59, anh ấy quát hú hoạ, giọng đã tây tây: “Mấy thằng mò gà đâu ra ngay! Tao bắn bể sọ!” Im lặng đến nghẹt thở. Đám gà mé bên kia tự nhiên loác quác. Ánh đèn rê theo hướng ấy, quét đi quét lại vài lần . Có cái gì buồn buồn ngang lưng. Tôi rờ rẫm chạm phải cái gì lành lạnh bỗng rủn người hất xuống. “Xoạch! Phì… phì ì …!”. Thằng Điệp quay ngoắt lại, lia đèn vào chỗ phát ra tiếng động. Một con rắn đang lắc lư trên nền đất. Nó lia đèn loanh quanh một chút rồi chĩa thẳng vào mặt tôi. Hai thằng im lặng nhìn nhau nửa giây. Rồi ánh đèn chĩa ra hướng khác. “Rắn! Anh ạ! Nó vào mò trứng gà thôi!”. Tiếng chân bước xa dần…
Tôi và thằng Tường tụt xuống. Đêm lạnh nhưng mồ hôi ra ướt đẫm cả người. Hai thằng bóp cổ chết năm con gà mái tha về trung đội. Về đến nơi, cổ gà đã gần như đứt đôi vì tôi bóp chặt quá. Nước đã sôi sùng sục. Tuấn còi chửi “Làm chó gì mà lâu thế?” Tôi nói không ra hơi, chỉ tay về hướng tiểu đoàn. Anh Hoạch chồm dậy, dụi bớt lửa. Bố Nhương lấy tấm liếp thốt nốt che chắn xung quanh rồi sai thằng Vỹ ra gác. Lông gà và lòng mề chôn ngay. Một lát sau, nồi cháo thịt gà nhiều hơn gạo đã ngấu. Cả trung đội đang sì sụp ăn vụng bỗng giật nảy mình. Thằng Điệp liên lạc, không biết bằng cách nào, đã đứng lù lù trước đống lửa. Nó nhe răng cười và chìa bát sắt ra. Hú hồn! Mẹ thằng này khôn thật! Cả về sau này, có lẽ chẳng còn bát cháo gà nào với tôi, ngon như thế nữa. Tìm một bát sắt cháo gà năm cũ trên phố này bây giờ khó thay!
B3 hậu cần trung đoàn 2 lập một kho gạo, đạn lẻ ngay trên đường 1, ở quãng giữa đội hình chốt của tiểu đoàn 4 với cầu Sài gòn. Tối tụi tôi đi chơi từ Ph’nom Penh về qua đó, thấy một đám lính có cây guitar Yamaha khá tốt. Họ đốt lửa đun trà và từng tưng đàn sáo. Tôi nhớ đàn, ghé vào xin chơi. Được vài bản thì một anh đứng lên gọi “Long ơi! Long ơi!”. “Long ơi” từ đâu đó đến liền, gật gù và chìa tay. Tôi trao lại cây đàn. Hắn thể hiện các bài theo Carulli method rất điêu luyện. Trình độ mình ở dưới là cái chắc nên im re thưởng thức. Sau này, tôi biết tên hiệu của anh ấy là “Long trố”, lính Quảng Ninh đoàn 1975. Cả đám hậu cần đàn hát trà lá đến khuya. Khi tụi tôi chào ra về, một số ông đã lăn ra, quấn bạt kho ngáy khò khò. Kho lẻ mà họ bất cần đời, có mấy mống mà dám bỏ gác. Không biết xung quanh đó có đơn vị trung đoàn nào cận đấy không? Chứ còn từ chỗ họ về tiểu đoàn tôi khoảng gần 3km thì tuyệt không có một đơn vị nào hết. Xung quanh chỉ là nhà hoang và đồng trống.
Ban ngày. Xe pháo vẫn chạy rầm rầm trên đường 1. Nhưng đối với chúng tôi, chiến tranh dường như đã kết thúc. Tôi viết thư về nhà, nói rằng đơn vị con đang được vinh dự bảo vệ Thủ đô Ph’nom Penh. Rằng quân Kh’mer đỏ không chịu nổi sức tiến của chiến xa và pháo nặng đã tan chạy. Những cụm từ kêu, nghe lỏm được từ đài BBC đại đội…Cũng qua đài, tôi biết Tết đang dần đến. Cánh đồng ngoại thành đang chuẩn bị rau Tết cho Hà Nội. Nhà máy nọ hoàn thành kế hoạch Xuân sớm…vv…Nhưng phải nói là cái cảm giác mong Tết tuổi thơ không còn nữa. Bởi khung cảnh, khí hậu và sinh hoạt quân đội chẳng có gì liên quan đến Tết cả. Cứ bao giờ xe hậu cần chở trà thuốc sang là Tết. Mà cũng lạ! Viết thư về nhà nhiều thế, nhưng chúng tôi lại không nhận được một lá thư hậu phương nào cho đến tận tháng Ba của năm sau.
Mùa khô. Không gian rộng dài, khô thoáng và êm ả. Đất phù sa bờ bãi đi chân trần mát mịn. Chỉ cần ba xoa hai đập là sạch. Leo lên võng, trùm qua tấm đắp là có thể chìm sâu vào những suy nghĩ, tưởng tượng riêng tư. Gió đêm lạnh thoáng co vai, nhưng lại chóng lùa giấc ngủ đến nhanh. Chớm nghe chưa hết tiếng trái chín rụng đầu đêm thì bình minh đã dựng đỏ. Đã lại bắt đầu một ngày mới, trên một miền đất mới.
Ảo tưởng chiến thắng hòa bình tan biến trong buổi trưa ngày ngày 25/01/79, tức là ngày 27 Tết Kỷ Mùi. Đơn vị nhận lệnh hành quân chiến đấu gấp. Nhìn cái đống “đồ cổ” nặng trịch tham lam gom được ở Ph’nom Penh, nhiều thằng tiếc ngẩn người. Cuối cùng thì chén bát kiểng quất, trôn chén có bốn chữ mà lính đọc ”có ngày ăn bốc” là thứ quăng đi đầu tiên. Sau đó là trăm thứ bà rằn: rèm cửa, kim máy, đi ốt bán dẫn, vòi nước mạ... Có thể nhìn thấy cả một cái đèn hình 17’’ đã tháo rời lăn chỏng trơ không rõ của thằng nào? Nhưng lá thuốc và rượu thì ông Khanh bắt hai thằng liên lạc gom đi bằng hết. Bọn thông tin phối thuộc chúng tôi cũng bị lão ấy chất hai chai vào ba lô với lý do chúng mày cũng uống tợn. Tiểu đoàn 4 đi dọc con đường ngược sông về Ph’nom Penh. Đến mũi đất phía nam sông Bốn mặt (gần cầu Sài Gòn), chúng tôi leo xuống bờ sông dốc đứng.
Ở đó đã có mấy chiếc tàu há mồm đang ủi bờ chờ sẵn. Tiểu đoàn xuống tàu, lùi lũi ngược Tonle Sap. Sông bốn mặt rộng mênh mông. Thủ đô Ph’nom Penh trải dài ven bờ phía trái tầm mắt chúng tôi. Những mái vàng của Hoàng cung lấp lánh trong nắng. Từng vòm cây xanh ngắt ôm ấp những khu nhà ngói đỏ xinh xắn. Trước mũi tàu rẽ sóng, thỉnh thoảng những đàn cá linh thấy động vụt nhảy rào rào trắng xoá. Có con vọt cả vào lòng tàu qua cái mũi bè bè chưa đóng hẳn.
Buổi chiều ngày trở lại, ngồi bên bờ sông Sap nhìn dòng nước chảy. Mùa khô nó chảy về Mekong, mùa mưa nó chảy ngược lại lên biển Hồ. Nó vẫn chảy như thế đã nghìn đời, chứ không là chỉ mới chảy qua hơn ba mươi năm tái ngộ. Ba mươi năm chỉ là một tích tắc của thời gian vĩnh cửu. Cũng vĩnh cửu như tình yêu đôi trẻ này vậy. Họ không thể nhìn thấy một đoàn tàu trận, đưa những con người cũng trẻ như họ, cũng nhiều đam mê, khát khao âu yếm như họ, vừa đè sóng qua đây hơn ba mươi năm trước? Sẽ còn nhiều, còn rất nhiều đôi bạn khác đến bên dòng sông này ngồi. Chỉ có những người bạn tôi là mãi mãi không về.
Ph’nom Penh lùi dần lại sau lưng. Hải trình rì rì giữa hai bờ sông bên dựng bên thoải.
Chạy được khoảng gần 2 giờ, bỗng có tiếng đạn nhọn rộ lên bên sườn bờ bên tay phải, va choang choang vào thành tàu. Chúng tôi ngồi thụp xuống lòng tàu, không bắn trả. Đoàn tàu kéo sập kín mũi, né sang bờ hữu ngạn, tăng tốc phả khói đen mù mịt tiếp tục tiến. Nắng mùa khô hun sàn thép nóng rẫy. Cả bọn lót khăn mặt dưới mũ che nắng xiên, ngồi vạ vật như gà vịt trong cái “chuồng” thép hai lớp. Chạy thêm 1 tiếng nữa, hải quân cập bờ trái, cày mũi trên con đường dốc phà nhỏ và ngắn. Các đại đội lần lượt đổ bộ. Nhiều thằng nóng quá, tranh thủ nhảy ùm, nhúng cả người còn nguyên quần áo xuống sông cho mát. Bọn anh nuôi đại đội 2 còn đổ bộ dưới tàu lên một con ngựa gầy, thồ cái xoong quân dụng. Thêm rất nhiều ruột tượng gạo vắt ngang trên lưng nó. Anh Hải C trưởng chửi đ…mẹ chúng mày để thấm mồ hôi ngựa vào gạo rồi nấu cho bố mày ăn à? Thế là ruột tượng gạo của thằng nào thằng đó lại vác.
Tiểu đoàn tiếp tục tiến theo mé sông lên hướng bắc. Địa hình ven bờ toàn những bụi cây dại lúp xúp. Một số cây phượng tây mọc thành hàng trên bờ đất cao. Con đường đất chạy giữa một bên sông, một bên là đầm lầy. Trời đã mờ mờ tối. Đơn vị dừng lại ở một cái xưởng cưa bốn mái ven sông, triển khai đội hình chiến đấu. Cái xưởng cưa lợp tôn trắng rất lớn. Trong đó còn nguyên máy cưa và các súc gỗ tròn. Thời bình hẳn đây là cái bến gỗ sầm uất. Lát sau lại có lệnh tiến lên tiếp, nhường vị trí xưởng cưa cho trung đội pháo 85mm đi phối thuộc. Bọn pháo quen mặt này đến đây bằng đường bộ.
Trinh sát bám lên. Địch đào những con hào chống thiết giáp cắt sâu ngang đường. Những vết đào đất còn rất mới. Lò dò quãng nữa đến cái chùa nhỏ thì dừng lại. Anh Sơn bố trí BCH tiểu đoàn ở luôn trong chùa. Đại đội 1, đại đội chủ công hôm sau còn phải lên trên nữa. Tôi và anh Ky dải dây lên C tiền tiêu. Địch có vẻ phát hiện ra điều gì đó đang đến. Một vài trái DK75 xeo xéo thăm dò ất ơ vọt qua đầu.
Trên mặt sông, mấy chiếc giang hạm nhỏ, đen trùi trũi đi phối thuộc với chúng tôi đang buông neo gần bờ chếch đằng sau.
Đêm cuối tháng tối như mực. Im lặng đến rợn người. Máy 2W ngừng lên sóng. Máy điện thoại để mức chuông nhỏ nhất. Hồi chuông đổ bây giờ chỉ kêu cạch cạch nhỏ tý. Cấm đốt lửa! Chúng tôi đổ nước lạnh vào bịch gạo sấy hoặc xé mỳ tôm sống ra trệu trạo nhai. Xung quanh toàn cây bụi, không thể mắc võng được. Cả BCH đại đội và bọn thông tin trải nilon ra đất nằm. Sương đêm một lát đã làm ẩm cái tấm đắp mỏng.
Đến nửa đêm, tổ trinh sát tiểu đoàn 3 người vượt qua đại đội 1 lên bám địch. Qua đội hình trung đội 3 tiền tiêu, anh Sơn Thanh hóa, tiểu đội trưởng trinh sát còn lào thào dặn với: “Chút nữa bọn tao về! Nhớ hỏi mật khẩu không có bắn nhầm đấy!”. Gà gật đến 2h30 sáng 26/01 (28 Tết), đạn nhọn rồ lên phía trước mấy loạt rồi im bặt. Gần sáng, hầm tiền tiêu thấp thoáng bóng người. Tiếng nói nhỏ: “Trinh sát đây! Sơn đây! Đừng bắn!”. “Mật khẩu?” “Mật khẩu đ… gì? Mấy thằng lính mới trung đội mày gác giật mình ngoéo cò thì bố mày lên nóc tủ à?”. Trinh sát đã về qua đại đội. Mọi người xúm vào hỏi. “Còn thằng Năm đâu?” “Chắc tiêu rồi! Sát họng đại liên, không kéo về được!”. 5h30, trời bắt đầu sáng. Chỉ huy tiểu đoàn triển khai nhiệm vụ cho đại đội 1 qua máy điện thoại xong, 2W lên máy. Anh Nhương dặn tôi qua máy: “Chúng mày không phải thu dây, tao cho chúng nó thu từ dưới này lên!”. Dưới sông, tàu hải quân cũng tiến song song. Trước mặt có một cái cồn nổi lớn chia Tonle Sap thành hai nhánh. Bốn chiếc khinh hạm của ta phát hiện địch trước. Đại liên 50 hai nòng trên các tàu bắt đầu khai hoả. Lính đại 1 bám từng bờ cây, bụi cỏ phát triển dần lên. Địa hình hẹp bề ngang, nhiều vật che khuất chỉ có một đường tiến. Cối 82 tiểu đoàn được yêu cầu bắn trước đội hình 60m nên đại đội 4 gần như dựng nòng lên thả đạn. Dưới sông, bốn chiếc khinh hạm yểm trợ nhau lần lượt quay đuôi về phía địch thụt cối 81 (thằng cối 81 dưới tàu Mỹ bắn bằng điện nên góc bắn có khi nhỏ hơn 45 độ). Trên cái cồn (giồng) giữa sông, địch có một cái tăng PT.85 chôn âm, nguỵ trang đầy lá thốt nốt gióng nòng pháo bắn săn tàu chiến.
Do tàu cơ động liên tục, và khoảng cách cũng xa nên nó nã hơn chục phát cũng không chiếc nào dính đạn. Hai khẩu 85mm đi tăng cường cho tiểu đoàn 4 không bắn được do không đẩy qua được các rãnh đào. Tít phía sau thì địa hình bị che khuất bởi cây cối. Trước mặt là cái trảng, rồi đến con mương thuỷ lợi rộng ăn thông với sông. Một cây cầu nối hai bờ mương. Bộ binh cứ thò ra ngoài trảng là đại liên bên kia mương nó quất ngay. Địch tựa vào bờ sông và cồn bên kia làm thế ỷ giốc gây khó khăn lớn cho ta. May là nó không bắn cối chứ đường độc đạo như thế, nó cứ thả cối dọc theo đường thì cha con khiêng nhau mệt.
Tử sỹ đã được anh em C1 kéo về. Trong số đó có thằng Thành quê Hà Nam Ninh, thằng Thư ở Bắc Ninh là mấy đứa cùng bổ sung cùng đợt 1978. Thằng Thái bị thương. Nó khát quá, cố bò xuống sông uống nước nên cũng không cứu được. Thằng Căn liên lạc chuồi xuống được lòng sông cõng nó về. Mấy chiếc tàu quân ta hùng hổ được một lúc, bắn hết đạn cối rồi quay đuôi chuồn thẳng. Bộ binh cũng nằm luôn, không tiến nữa. Buổi trưa yên tĩnh trở lại, như chưa hề có điều gì vừa xảy ra. Trên mặt công sự của tôi, những con kiến đang chăm chỉ tha những cọng mỳ tôm vương vãi. Mặc kệ! Ai có việc của người ấy phải không? Tớ bận kiếm ăn, còn loài người các cậu thì bận giết nhau. Cũng thế cả thôi! Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới nụ cười Bayon mà chúng tôi đã gặp rất nhiều trên đất nước này. Đôi mắt lim dim, nụ cười đá nhếch mép thoang thoáng, nửa như chia sẻ, nửa như giễu cợt. Cái đất nước bí ẩn và quái quỷ này…
Pháo 105mm sư đoàn bắt đầu giã vào ngã ba chùa sau lưng địch. Tiểu đoàn 5 từ hướng lộ đi Ô Đông đánh sau lưng tuyến chốt này, quyết bao vây tiêu diệt gọn. Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 4 xung phong phối hợp. Đại đội 4 còn bao nhiêu đạn cối 82 mang ra xài hết. Đẩy khẩu DK.82 duy nhất của tiểu đoàn lên sát đại 1 thổi thẳng vào những bụi cây ven bờ mương. Phía bên kia cồn, tiếng động cơ rồ lên. Cái tăng PT.85 lùi ra khỏi ụ lủi đi thật nhanh. DK82 bắn đuổi với nhưng không trúng. Bộ đội đã vượt qua được cầu. Một tiếng nổ trầm bên cạnh. Anh Tuyển B phó phụt đại một trái B.41 rồi hò:”Lên đi em ơi! Nó chạy rồi!’. Trái đạn nổ trên không phía trước, tung cụm khói cam vàng.
Ngay trước hầm địch 5m là xác thằng Năm trinh sát hy sinh hồi đêm. Súng đã bị địch thu mất, thi thể găm đầy vết đạn. Tôi thấy đôi dép cao su đúc của nó còn tốt liền tháo ra xỏ vào chân, quăng ngay đôi giày thối xuống sông. Đôi dép còn trầy trật máu, phải lấy cát xoa vào cho khỏi trơn mới xỏ chân được. Trên sân chùa, đoàn xe bò chở gạo và thương binh tử sỹ địch trúng pháo văng tung toé. Một con bò què cẳng rống lên thảm thiết. Có ngay một phát đạn nhân đạo dành cho nó. Anh nuôi các đại đội đi qua mỗi thằng xẻo một miếng tướng trước mặt ban chỉ huy tiểu đoàn nhưng lúc này cũng chẳng ai nói gì. Không thế lấy sức chó đâu ra mà đánh nhau?
Đến chiều tối thì hai tiểu đoàn gặp nhau. Trận này không kể bị thương đại đội 1 và tiểu đoàn hy sinh 11 người. Không thấy số địch bị tiêu diệt, nhưng tóm sống bảy thằng còn nguyên vũ khí khi chúng nó bắn hết đạn. Ông Thạnh E trưởng dẫn trung đội vệ binh xồng xộc lao xuống tiểu đoàn 4. Bọn vệ binh trung đoàn cùi, hớ hênh súng ống, lượn qua lượn lại trước mặt mấy thằng tù binh đang ngồi xệp dưới gốc cây me. Chúng nó nhất loạt lao vào cướp súng vệ binh, định phơ ông Thạnh đầu tiên. May mà lính C1 phản ứng cực lẹ, nổ súng luôn. Vệ
binh giằng nhau súng với địch trong làn đạn quất của quân ta mà không thằng nào dính. Chỉ bọn địch thì “hy sinh” ráo. Khẩu K.59 của ông Thạnh cũng tham chiến bòm bòm. Có đứa chết rồi, tay vẫn quắp chặt lấy khẩu súng cướp, cạy mãi mới ra... Ghê gớm luôn !
Mai đã là 30 Tết rồi!
U ĐÔNG Hôm đó đơn vị cứ dọc sông mà lên tiếp.
Chiều sập xuống nhanh. Lệnh dừng lại nấu cơm và nghỉ đêm. Anh Ky với tôi lại xuống đại đội 1. Anh nuôi chia cơm sớm. Các trung đội lấy cơm thừa nhiều vì tụi anh nuôi đại đội, theo thói quen, vẫn nấu cả suất những thằng đã hy sinh hồi trưa. Tôi thì chưa có cảm giác thiếu vắng đó, vì mình chỉ là lính phối thuộc. Nhưng tụi lính C1, kể cả ban chỉ huy thì im lặng nhai cơm. Có thịt bò tươi kho trong thùng đại liên Mỹ. Món thịt có mùi sơn, mùi thuốc đạn đăng đắng, lại thái khẩu đun không kỹ nên dai ngoách như quai dép. Tuy vậy lâu lâu chỉ ăn cá và thịt gà nên món này lạ miệng. Thêm một đêm nữa ngủ bờ ngủ bụi trong cái địa hình lúp xúp ven sông đó.
Ngày hôm sau, tức là ngày 30 Tết Kỷ Mùi, tiểu đoàn 4 vẫn tiếp tục hành quân truy quét địch quanh quẩn trong khu vực.
Chiều ba mươi Tết (năm Kỷ Mùi tháng thiếu, 29 là ngày ba mươi), khoảng 4h30 đơn vị dừng chân ở một phum trù phú ven bờ Tonle Sap. Tôi với anh Ky ngồi phệt dưới một gốc dừa thở, chờ lệnh Tuấn còi xem anh ấy dúi đi đại đội nào. Một con chim cu từ đâu bay đến đậu ngay trên cuống buồng dừa. Lão Ky bảo mày bắn đi. Tôi nheo mắt ngắm. Pằm! Con chim rụng xuống do đạn sướt cánh. Anh ấy nhặt lên, thổi lông ức phù phù, bảo để tối nướng.
Cuối cùng chẳng thằng thông tin nào phải đi xuống đại đội cả. Gom tất về trung đội tạm nghỉ chân. Hôm nay mình lại được ngủ trong nhà có mái che. Nói để các bạn thông cảm: trong những cánh rừng sâu hút thăm thẳm về sau này, kiếm được một cái lán tạm của địch bỏ lại. Được mắc võng dưới lán, được không phải căng cái tấm tăng rách bung tàn tạ, được đốt một đống lửa nhỏ, nghe tiếng mưa lắc rắc trên lá rừng khộp ngoài kia… là hạnh phúc mơ ước của bất cứ thằng lính nào trong tiểu đoàn tôi. Hôm đó, tôi, anh Thịnh đen, anh Ky chiếm cứ một cái nhà xây. Cái nhà nhỏ tí như cái trạm soát vé nằm ngay mặt đường đất. Bên kia đường là rặng me già sát sông. Chúng tôi mắc võng vào các chấn song sắt cửa sổ chuẩn bị chỗ ngủ.
Tập trung ăn tối xong một lát thì Tuấn còi với một vẻ rất bí mật, rít lào thào qua kẽ răng: chúng mày đâu, chuẩn bị làm thịt gà. Bọn thằng Túy, thằng Vỹ từ dưới các đại đội về có xách theo mấy con gà đã bị bóp chết mà tụi bộ binh cho. Chúng tôi nổi lửa đun nước vặt lông. Lão Tuấn còi gần BCH tiểu đoàn, và đang là B phó **** viên nên rất có ý tứ thực hiện những lệnh cấm vi phạm. Thịt con gà mà bí mật như chuẩn bị đánh chiến dịch! Nhưng đối với bọn tôi, thường đi với các đại đội thì chuyện này quá thường tình bèo bọt. Một anh lạ hoắc từ BCH xuống trung đội, hỏi tôi là chúng mày làm gì thế? Tôi bảo chúng em đang nấu cháo gà. Tuấn còi đờ mặt. Nhưng anh ấy chỉ hỏi rất hiền. Chú em quê ở đâu? Dạ em Hà Nội. Anh ở Thường Tín, cách nhà mày có hai chục cây thôi. Nói xong anh ấy bỏ đi. Về sau tôi biết anh ấy tên Lộc. Hôm đó là ngày đầu tiên anh ấy về D tôi nhận chức chính trị viên phó tiểu đoàn.
Ăn cháo xong thì tôi lên cơn đau bụng quặn ruột. Hẳn là vì hai ngày qua ăn uống linh tinh với uống toàn nước lã. Đài bán dẫn của ông Thịnh mót được ở Ph’nom Penh đang phát đi những bài hát hay chờ phút giao thừa mà mình thì cứ ôm bụng chạy ra chạy vào. Phải lên xin y tá tiểu đoàn thuốc, dốc hai liều làm một thì nó mới cầm.
Đến giao thừa, tất cả các cỡ súng đồng loạt rộ lên. Tiếng đạn nhọn giòn như bắp rang của các đại đội trong tiểu đoàn, điểm nhịp trầm trầm của hoả lực. Đạn vạch đường AK, đại liên, 12.8 từ các hướng, các đơn vị bay vạch ngang vạch dọc bầu trời. Thậm chí còn có thể nhận ra những vệt đỏ lừ từ *** đạn chống tăng M.72. Sát ngay BCH tiểu đoàn, bọn trung đội trinh sát cũng ren rét một loạt AK nửa chừng…Ra gốc cây me đứng nhìn lên trời, có thể quan sát nhận biết điểm dừng chân của bất cứ đơn vị Việt quân nào đang tham chiến trong vùng mặt trận U Đông. Chắc chỉ bọn pháo là không dám bắn bậy! Thực ra từ hồi chiều chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho các đại đội cấm cho lính bắn. Nhưng giờ phút thiêng liêng này, ai nỡ ngăn cản những xúc cảm con người. Mà có cấm cũng chẳng được! Nỗi nhớ mẹ, nhớ quê nhà lá dong khói pháo; lòng hy vọng ở một ngày mai về lại; lời vĩnh biệt thằng bạn cùng đoàn sáng nay ngã xuống; niềm cô đơn bất tận của người lính tha hương...Tất cả, tất cả những ẩn ức dồn nén ấy chợt òa ra trong tiếng súng. Bi tráng và day dứt hơn bất cứ dàn giao hưởng nào. Kiểu như
con sói của Jack London cũng đã từng tru lên như thế trong đêm lạnh dưới vầng trăng vùng cực? Trong tận cùng cô độc, nhìn sâu vào lòng mình, con người trưởng thành hơn, và thấy thương con người hơn. Tất nhiên chúng tôi hiểu Đất nước và Nhân dân luôn bên cạnh cuộc chiến đấu như báo đài nói. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, với chúng tôi, là những giờ phút rất riêng tư. Bao giờ cũng là nỗi nhớ về những giao thừa năm cũ có mẹ có em. Dẫu có vội vàng lấm láp, trên những phum sóc vô danh, những nẻo đường cát bụi... nhưng mùa Xuân đến bao giờ cũng giành một nỗi nhớ riêng cho từng góc tim người...
Ngày mùng 1 và các ngày sau đó, chúng tôi công khai kiếm gà, heo ăn mà cán bộ không ai nói gì nữa. Nhớ nhất là cảnh anh Hồng đại đội trưởng đại đội 4, treo con chó vàng lên sàn, cắt tia hồng đánh tiết canh rồi rủ anh Sơn xuống nhậu. Tôi với anh Ky vác súng đi bắn gà cải thiện trong cái phum hoang, cây cối rất rậm rạp. Lính đi mò ăn không trông thấy nhau. Chỉ thấy tiếng súng nổ loạn xạ, nhiều khi tiếng toác toác sát tai, biết chúng nó bắn thẳng hướng mình rất nguy hiểm. Một con chim cu đậu cành ngang, cách chỗ tụi tôi đứng khá xa. Tôi lấy súng ngắm, thực hành động tác đứng bắn. Con chim cu rụng ngay sau khi lẩy cò. Mặt tôi vênh lên. Lão Ky chỏ cho tôi cái mũi vát đuôi nóc chùa thách bắn. Tôi kê súng lên cái bệ tượng tròn làm một phát. Mẩu vữa bé chót đỉnh văng tung lên trời. Lão Ky gật gật khen khẩu súng này tốt. Kể lặt vặt thế để thấy rằng dù đã đánh nhau mấy trận nhưng tính vẫn còn trẻ con lắm! Có cơ hội là nghịch phá ngay được. Đánh nhau thật thì đã bao giờ được bắn phát nào đâu? Đi sau nên ngứa ngáy muốn bắn thì lại bắn vào lưng anh em đang xung phong à? Chiến công thực sự của tôi cho đến lúc đó mới chỉ là cá các loại, gà và chim cu…
Sau Tết được vài hôm, tiểu đoàn 4 xuống tàu há mồm ngược dòng lên KP Ch’năng, để lại đại đội 2, 1 khẩu cối 82mm cùng sở chỉ huy nhẹ do anh Thoan tham mưu nắm. Đại đội 2 và khẩu cối 82 do anh Hải chỉ huy, sang bên kia sông đóng trên cồn. Tiểu đoàn bộ nằm bên này sông, gần C vệ binh của trung đoàn. Mấy thằng thông tin gồm anh Ky, tôi, anh Thịnh và thằng Tuý vẫn nằm trong cái nhà xây cũ. B vận tải còn lại Hưng trắng, Thống và 3 đứa nữa ở trên một cái nhà sàn chân cao nằm trên đầm lầy. Hàng ngày có một cô gái chừng 17 tuổi khá xinh, hay đánh xe bò qua nhà bọn tôi, lên phum cạnh chùa lấy gỗ. Lúc thì đi một mình, lúc thì đi với một ông già. Hễ nó đánh xe qua tôi lại gào tướng duy nhất một câu mòn rỗng mà lính ta đứa nào cũng thuộc: On sa lanh boòng tê? Nó chỉ hơi mỉm cười. Anh Ky nhăn mặt bảo đ…má coi chừng bố con nó là gián điệp. Chở đ… gì mấy cái cây nhỏ như khúc củi mà ngày nào cũng lượn qua đây mấy lượt? Sau này ngẫm lại thấy lão Ky có lý. Vì cái áo nó thường mặc màu xanh sĩ lâm, cái màu xanh đặc biệt chỉ có trong kho địch. Có một con “gián điệp” xinh ngắm cho vui mắt dẫu sao cũng đỡ buồn.
Sắp rằm nên trăng sáng. Tối tối bên kia sông, nơi đại đội 2 đóng quân, tiếng trống chạ tình tinh bay sang bên này. Bọn C2 nói múa vui lắm! Thế nên tôi cũng kiếm thuyền mò sang xem. Cả một đội gái trẻ tóc ngắn, quần vòng tròn quanh một bãi trống. Tuy có hơi thâm thấp nhưng tròn trịa mềm mại. Ánh trăng vừa đủ, để cho cảm giác khuôn mặt nào cũng nhìn được. Một cô dạy tôi múa. Thì ra bước lăm thon cũng không khó gì. Các cô ở riêng trong những cái lều nhỏ cất tạm liền nhau. Gọi là những cái chuồng gà lớn thì đúng hơn. Tuy nhiên có đủ sàn tre, thang tre…Tối hôm đó bọn tôi và lính C2 múa đến khuya. Hôm sau nữa thì cán bộ bảo mật ban chính trị trung đoàn điện xuống, cảnh báo chúng tôi rằng chấm dứt ngay cái trò múa may với đám vợ lính Pốt. Coi chừng! Thế là hết vui. Mà cũng coi chừng mất cảnh giác thật. Vì xung quanh trong vùng, tiếng hỏa lực, tiếng pháo vẫn vọng về rền rền…
Tiểu đoàn 4 thiếu được lệnh dời ra Ô Đông phối thuộc với trung đoàn 3 . Địch bâu bám, quấy rối và đánh cắt giao thông lộ 5 đi Kompong Ch’nang, bao vây sư 339 bằng cả xe tăng và trọng pháo, đẩy tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ra sát rìa lộ. Ở ngã tư gần thị trấn Ô Đông còn thấy năm sáu chiếc xe tăng T.54, M.113 của sư 339 bị nó phục kích bắn cháy đen thui. Bọn địch đánh bật quân ta khỏi nhiều vị trí, tung toàn lực ra giành giật với mình ở khu vực này.
Từ Tonle Sap, chúng tôi lên 2 cái xe tải chạy thẳng ra ngã tư. Suốt từ biên giới nước Việt đến đây, chúng tôi đã quen với đường chân trời hút tầm mắt. Giờ thì cảnh quan đã thay đổi. Xen giữa những khoảng ruộng là những đám rừng thưa cao thấp khác nhau về bình độ. Những quả núi đất thấp, nhỏ cây đã cháy trụi hết. Trên núi là những đền nhỏ, tháp hoặc tượng nham nhở vì vết đạn, bị lửa xông cho đen thui. Có cái tượng bốn mặt bị pháo 37mm của QK9 tương đúng mép thành ra xếch miệng lên cười trông rất quái. Núi nào cũng có tháp. Nghe nói đây là cố đô nước Kh'mer cổ. Bọn địch thường vác DK.75 lên núi để phụt vào đội hình hành tiến của lính mình trên mặt lộ 5.
Xe đổ chúng tôi xuống ngã tư thì trời tối. Xung quanh rền rền tiếng súng. Bọn tôi ngủ trong một cái nhà lợp tôn rất rộng. Trong nhà là một đống súng AR.15 và các thùng đạn đại liên vô chủ. Chúng tôi không đào hầm, và được lệnh cấm đi lại trong đêm để khỏi bị bắn nhầm vì xung quanh chẳng biết đơn vị nào vào đơn vị nào. Đêm ấy trăng rất sáng, đổ bóng lỗ chỗ qua các lỗ thủng trên mái tôn xuống nền xi măng.
Gần sáng thì Cáp đen, khi đó vẫn là anh nuôi C2 dậy nấu cơm. Mới nhóm xong bếp thì đạn nhọn quất vào rào rào. Chúng tôi xách súng bắn trả thì có tiếng chửi rầm rĩ bên kia vườn xoài. Đó là bọn lính E bộ E3 bắn để cảnh cáo bọn tôi nấu cơm không che lửa, làm lộ vị trí, sợ địch nó giã cối vào.
Ăn sáng xong thì lên đường. Mỗi thằng một vắt cơm to. Chúng tôi bám lộ 5 rồi tạt phải. Nhiệm vụ là bọc sườn cho D8E3 thọc vào đường sắt. Khỏi mặt lộ 5 khoảng 500 m là đụng địch ngay. Gần chục thằng áo đen đi ngược chiều, thấy bọn tôi chạy lộn cắt ruộng về dãy thốt nốt đằng trước, quay lại xả đạn. Rồi địch xuất hiện ở khắp nơi. Chúng nó bám các bờ cao ngăn các khu trảng ruộng bắn vào đội hình. Lúc thì trô trô đằng trước, lúc thì trô trô bên sườn, lúc thì lại đằng sau. Anh Hải quát bọn tôi không được bắn bậy. Cứ lừ lừ bám địa hình tiến lên. Lắm lúc tránh trảng, bám theo sườn cái bờ đập cao đi dòng dòng. Tụi nó bắn bên này thì tụi tôi lộn qua bên kia. Tụi nó qua bên kia thì bọn tôi lộn lại qua những con đường bò xuyên thân đập. Như chơi trò ú tim. Trên sóng 2W ở khắp các kênh, tiếng Việt tiếng Kh'mer loạn xạ. Chứng tỏ có rất nhiều đơn vị tham chiến. Lắm khi cả ta và địch cùng dùng một tần số tới cả chục phút. Chúng nó chửi bọn tôi, bọn tôi chửi lại chúng nó. Thằng thông tin địch chửi tiếng Việt rất sõi giọng Nam bộ. Chửi chán thì tụi nó đuổi thằng Tuý sang tần số khác mà dùng nhưng thằng này thây kệ. Về sau chính chúng nó phải chuyển. Thằng Tuý còn hẹn tụi nó nhớ mặt kênh này để chửi nhau tiếp...
Máy 2W PRC.25 nó có hai cái núm răng cưa chỉnh tần tròn, chia từ "tần" 12 đến "tần" 76, vặn kêu reng réc. Nghĩa là tổ hợp kép của hai tần mới là "số nhà" của đơn vị mình theo phiên liên lạc. Ví dụ núm 1 là 36, núm 2 là 48 thì "số nhà" mình là 36-48. Cứ đôi ba trận lại đổi tần theo quy ước trung đoàn, gọi là đổi "số nhà". Không phải tần nào cũng tốt như tần nào về chất lượng liên lạc. Thằng Tuý quê Hà Nam Ninh, nhà nó có số bao giờ đâu? Nhưng khi nghe nó hót trong tổ hợp, gọi trung đoàn phối thuộc, đòi đổi "số nhà" thì lại thoáng thấy nghĩ đến nhà trong cái nắng nung người.
Qua nửa chiều thì đến cái hồ nước trên bản đồ. Hồ này thì lính Sư 9 không hiểu sao lại gọi là "Hồ Thiên Nga". Ở trong bản báo cáo thành tích chiến đấu của C2D4E2F9 của Quân đoàn 4 năm 80 (trước khi xét phong anh hùng lần thứ 2) mà tôi đã đọc cũng ghi tên nguyên văn là "Hồ Thiên Nga" ở Uđông.
Một cái hồ dù tên là "Thiên Nga", nhưng khá kinh tởm vì sủi bong bóng và bốc mùi nồng nặc. Quanh bờ hồ là những cái xác người bị nắng mùa khô hun cho khô đét, toả mùi mằn mặn khăm khẳm. Còn trên mặt hồ là những gốc cây cổ thụ, nhưng bị cụt tướp xơ, rễ chùm cắm xuống mặt nước. Thân cây trắng toát như những thân bạch đàn hay gỗ lũa lâu năm. Tôi cũng không hiểu đó là loại cây gì? Trong đám rễ chùm đó, cá ăn móng quẫy sòng sõng. Tuy vậy lính mình thấy có nước là nhao ra. Mé trảng bên kia hồ nhìn rõ cả toán trung đội địch, có cả địch nữ, đội can nước tháo chạy. Khoảng cách cũng hơi xa, và lính thì đang khát nước nên chẳng ai buồn nổ súng. Bây giờ tôi vẫn nhớ cái
mùi nhàn nhạt, ngầy ngậy không đun của cái nước hồ "Thiên Nga" ấy! Uống luôn nước lã mà không bị tháo dạ. Có lẽ cơ chế cơ thể con người trong hoàn cảnh đặc biệt đó ưu tiên các vấn đề khác, quan trọng hơn là thiết lập một cơn đau bụng đi ngoài thuần tuý sinh lý.
Đêm hôm đó chúng tôi nằm cạnh hồ nước.
Anh Hải thì anh ấy cáu, vì vẫn biết là đi phối thuộc thường hay bị "gí" lên đầu. Nhưng có lẽ nào một tiểu đoàn thiếu, hay đúng hơn là một đại đội tăng cường lại đi một mình một mũi. Nghe qua nhiệm vụ thì là mũi che sườn, nhưng thực ra lại là mũi chủ công vì chúng tôi phải tấn công dọc tuyến lộ chính vào đường sắt. Tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ở hướng Nam của đội hình chúng tôi. Hướng Bắc đội hình là đơn vị bạn, không rõ là sư đoàn 339 hay sư đoàn 2? Nhớ lúc ban ngày gọi chi viện quân bạn không được, nên đêm hội ý trung đội, anh ấy khùng bảo là đ...cần thằng nào. Mai tao với chúng mày đánh ra lộ lấy...cơm ăn. Vì anh nuôi vẫn ở cứ tiểu đoàn trong cái nhà tôn, mà nắm cơm vắt thì hôm nay coi như xong!
Đêm yên tĩnh, trôi qua rất nhanh giữa lòng địch ta xen kẽ kiểu xôi đỗ. Tôi với anh Ky trải nilon nằm đất không mắc mùng. Chúng tôi và BCH nằm trong vòm sẫm của những cây thốt nốt, dưới một bờ đất cao. Ngoài trảng ruộng, trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Các vòm cây lớn nhỏ, nằm lọt trên đồng không như những hòn đảo độc lập nằm trên biển sáng. Chỉ có những thằng ngu mới đi đột chốt vào những đêm như thế này. Mà qua cách giao lưu khinh khỉnh của bọn tôi với chúng nó suốt buổi ban ngày thì bọn Pốt phải hiểu rằng đã nhằn phải một đối tượng không dễ xơi.
Tinh mơ hôm sau, súc miệng bằng loạt 12.8mm của địch từ bên kia hồ quất sang. Khẩu cối 82mm từ hôm qua vận động nặng đạn, nài nỉ mãi, chưa bắn một quả nào thì hôm nay được lệnh khai hoả cho bộ đội lấy nước. Hơn chục trái giã vào bìa trảng bên kia hồ. Bọn địch thôi bắn ngay lập tức. Lúc này từ các hướng khác, súng nổ rộ lên không lúc nào ngừng, từ sáng dến gần trưa. Nổ liên hồi không phân biệt được ta đâu, địch đâu, như trận đồ bát quái. Địch giạt về hồ nước ngày càng nhiều. Lắm thằng tưởng đến khu an toàn của chúng nó, xồng xộc chạy ra hồ lấy nước trên mặt ruộng. Bọn lính đại đội 2 và đại liên thi nhau kéo cò, điểm xạ chính xác như bắn tập vì xuôi nắng. Gần 2 chục thằng nằm rải rác trong khoảng 3 tiếng đồng hồ. Đến mức bọn địch bên kia hồ phải quét đại liên dọc lộ để cản quân nó chạy về làm mồi.
Kỳ lạ là chúng tôi nhịn cơm gần ngày trời mà không thấy đói. Đến chiều tà, có lệnh tạt về hướng Nam giải vây cho tiểu đoàn 8. Tiểu đoàn tôi (d4) có duyên với tiểu đoàn 8 này, kể từ khi nổ súng đánh trận mở màn vào S'vay riêng. Quả thực đi với trung đoàn 3 thì bọn tôi có phần hơi ớn. Mỗi đơn vị thường có cái "dớp" của mình.
Được lệnh thì anh Hải cho giã thêm vài quả cối rồi bí mật cắt mạn Nam đường ngay. Bọn đang bâu sườn d8 bị chúng tôi tập hậu giạt chạy chí chết. Thấy quân đằng sau cứ khơi khơi trên mặt ruộng mà càn tới, chúng nó tưởng là quân mình. Đến khi C2 nổ súng thì tụi nó quá ớn! Đi đến đâu địch giạt ra đến đấy! Có nhiều thằng sợ quá chạy phọt gần ra sát lộ bị bọn DK.75 trung đoàn 3 giá súng ngay trên mặt lộ 5 "bắn tỉa" chết không toàn thây. Lúc đó tôi gặp anh Nguyễn Năng Nguyễn - E trưởng E3 lúc đó chỉ huy trực tiếp 5 khẩu DK.75 này. Biết thế vì anh Hải với anh Ky tới chào thủ trưởng cũ, vì anh ấy trước là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 từ hồi tôi chưa vào.
Cảm động nhất là ra gần sát lộ thì gặp Cáp đen cùng mấy thằng ốm ở cứ, xách súng gánh cơm đi vào. Anh Hải có bảo là mày biết chúng tao ở đâu mà đâm đầu vào, liều thế? Thì anh ấy bảo cứ chỗ nào nổ súng rát thì chúng tao đến đấy. Thế nào cũng gặp bọn mày! Hai người bạn chí cốt này cùng quê cùng đoàn, lính 74, vùng than Quảng Ninh. Về sau cả hai người đều hy sinh, người năm trước, người năm sau. Điều đặc biệt là suốt hai ngày đó, tiểu đoàn tôi không một ai mảy may bị thương hay hy sinh. Trong khi tiểu đoàn 8 cả thương và tử phải tới gần hai chục. Âu cũng là đạn biết tránh người...
Đêm đó, chúng tôi lại về cái nhà tôn nằm. Ngủ như chết và không phải gác vì nằm sát trung đoàn bộ trung đoàn 3. Thằng nào thằng nấy sau hơn hai ngày phơi nắng, quần nhau với địch rộc rạc cả người. Sáng hôm sau trung đoàn 3 trả tụi tôi về đội hình tiểu đoàn. Ở bên kia sông, thị trấn KP Hau, tiểu đoàn tôi cũng bị địch nó quấy nhiễu liên tục.
Lúc này trên mặt lộ 5, xe đã chạy tới lui được. Một số nằm dài chờ xe. Còn tôi với thằng Điệp (anh Sơn sau rút nó lên làm liên lạc) mó máy nghịch đống súng AR.15. Lần đầu tiên tôi mới tận tay cầm khẩu súng tiểu liên Mỹ. Công nhận là nó rất nhẹ. Hai thằng tra đạn vào trong băng rồi kéo qua cái trảng sau rình chim cu bắn. Mấy thằng vệ binh trung đoàn 3 nghe đạn bay thấp trên nóc lán chúng nó, chạy sang chửi. Bọn tôi chạy về, bị Cáp đen lôi chúng tôi ra chửi mát là địch thì đ....sợ, lại đi sợ mấy thằng chưa thấy địch đã rút. Bọn kia thấy thế hầm hầm đi về...
Xe sư đoàn đến và chiều hôm đó thì bọn tôi về đến đội hình tiểu đoàn.
KAMPONG CH’NANG Lộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu đoàn bằng xe tải. Từ UĐông lên thẳng Kampong Ch’nang, rẽ phải xuôi ra bờ Tonle Sap. Tiểu đoàn 4 đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Lúc đó ở bến sông KP Ch’năng thuyền cá lưa thưa lắm, không lắm nhà bè sầm uất như bây giờ. Cái “cầu tàu” bằng đất đắp lèn chặt giữa hai hàng cọc gỗ, dẫn thằng ra sông vì chỗ bến này khá cạn. Đại đội 2 qua sông bằng thuyền của dân, về đội hình tiểu đoàn ở “Bôngbăng” theo lính gọi (tức KP Hau trên bản đồ), bên kia thị xã Kampong Ch’nang.
Lúc đó trời đã ngả chiều. Chúng tôi đi theo một đám dân cũng từ bến sông về phum. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khỏang 100m, chẹn cái ngã ba từ tiểu đoàn bộ xuống đại đội 4. Cái nhà không trát, đỏ hoét màu gạch trần. Thằng Vỹ thông báo ngay là đêm nào cũng bị địch tập kích. Trung đội thông tin cũng đảm nhiệm một mũi. Trung đội trinh sát ở cùng BCH tiểu đoàn trong chùa. Đại đội 4 hỏa lực chốt trong cái trường học một tầng lợp ngói, cũng nằm dài theo tuyến chốt của đội hình dọc con đường đất. Đại đội 2 mới nhập lại đội hình, bị đẩy lên cái phum xa nhất. Phum này có cái chùa cây cối rậm rạp như một khu rừng nhỏ.
Về đến nơi kịp làm hụm nước, tôi và anh Ky được phân công xuống đại đội 1. Anh Nhương đuổi bọn tôi đi sớm vì chiều đã tà. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp các nơi. Chủ yếu là đạn nhọn và M.79. Chưa bao giờ bị tấn công ban đêm nên tôi thấy lạ và hơi hoảng. Trước giờ chỉ có mình tẩn nó, còn lần này nó chủ động tấn công mình. Chúng tôi và BCH đại đội nằm sạp, trong cái lều vịt thấp lè tè. Khẩu cối tép nằm ngay cái lều bên cạnh, cách BCH một khoảng sân cho vịt ăn. Khi đại đội 2 chưa về đội hình, trung đoàn tăng cường cho đại 1 tiền tiêu một khẩu DK.75, một khẩu 12.8mm nên lúc này hỏa lực khá mạnh. Chúng tôi không bắn lại. Chỉ khi thấy chớp đầu nòng súng địch mới câu M.79.
Đại đội 1 nằm tựa lưng một gò núi nhỏ mọc đầy tre gai, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Nhìn thấy phía đó có cái sườn núi cháy nham nhở. Rừng thưa trên núi trụi lá, chỉ còn những thân cây khô trắng xám. Ban ngày yên tĩnh. Cánh đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô. Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái. Thằng Sơn “ba tai” còn kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Ch’nang kiếm rau ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử cưỡi ngựa. Dù lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa.
Một lần vào buổi trưa, thằng Đồng “Huế” liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy trên đồng, hướng địch hay vào tập kích . Tôi và nó nằm ngay trên cái sạp trong lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương. Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại thấy bóng người đang đuổi theo nó. Bọn tôi tưởng địch! Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây” bên cối 60 hét lên địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy. Bọn tôi hoảng quá, ngưng bắn ngay. Anh Khanh -(Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là anh Khanh thật, từ từ đứng dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi thằng nào vừa bắn. Thằng Đồng im lặng. Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng địch…”. Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi. Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo ra sau bụi le *** vào, vò sạch máu trâu rồi đi giặt.
Đêm mùa khô lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Những đêm không có tiếng súng thì bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên, đứa nào gác cứ gác, đứa nào ngủ cứ ngủ. Chủ yếu là địch nó bắn chứ chúng tôi đâu có bắn phát nào. Kệ mẹ nó! Lắm đêm, khi nó bắn quá rát, lão Síu gọi liên lạc cùng chạy xuống các trung đội đốc gác trở về. Thấy bọn phối thuộc chúng tôi nằm ngủ, vẫn buông mùng trắng toát liền chửi đ..mẹ chúng mày! Sao lại có cái loại lính khốn như chúng mày? Anh ấy điên lên, giật tung từng tấm mùng. Tôi với anh Ky lặng thinh, thu dọn lại chỗ ngủ, chẳng ai nói gì.
Lắm đêm, địch nó đánh vào cả BCH tiểu đoàn. Ba thằng liên lạc tiểu đoàn và trung đội trinh sát bắn soi qua các ô cửa chùa mà không kêu chi viện. Gần như chỗ nào cũng độc lập tác chiến trong đêm. Trò tập kích quấy rối đó dần dần hầu như không có tác dụng. Một trường hợp duy nhất gây thương vong là ở hai khẩu cối 82mm của đại đội 4. Hai khẩu đội đóng sát nhau, cách mỗi cái sân trường. Một thằng khẩu đội
1 chạy qua sân trong khi địch đang tập kích sang xin nước, bị thằng gác khẩu đội kia bắn què chân…Những đêm nó đánh toàn tuyến thì chỉ mỗi cối tép các C và cối 8 tiểu đoàn lên tiếng. Khoảng đợi chờ giữa tiếng đề pa và tiếng nổ đạn của cối ta là khoảng lặng giống như chờ một ván bài ù. Rất yên lặng!
Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Một hôm, sau khi ăn cơm chiều, bọn thông tin chúng tôi sang A cối uống trà. Tự nhiên thấy anh Síu ôm cái đài chạy sang. Này này, Trung Quốc nó đánh mình rồi! Chúng tôi cứ nhìn vào cái đài đang nói, quên cả uống nước. Được một tý thì anh ấy lại ôm cái đài đi về. Chúng tôi và cả bọn cối cũng chạy theo. Lúc đó BCH không có ai vì ông Khanh với liên lạc không biết chạy xuống trung đội nào. Lát sau thì về đủ, cùng các cán bộ trung đội hội ý chiều. Hôm đó hội ý hội báo chẳng cắt đặt nhiệm vụ gì như mọi ngày. Cả bọn im lặng hút thuốc rê, nghe đài. Lát sau khi hết tin, đến các đoạn nhạc tiến quân thì anh Khanh xua cán bộ trung đội về. Tôi không thấy lo gì. Thậm chí còn thấy mừng, nghĩ rằng có thể đơn vị sẽ được rút về tẩn nhau với bọn này. Nếu đi qua nhà thì tôi sẽ chuồn về ít ngày cho đỡ nhớ. Nói chung lúc đó bọn tôi tự thấy không ngán bọn xâm lược mà chỉ muốn được về nước ngay.
Dường như để phối hợp, bọn Pốt cũng tăng cường hoạt động. Có đêm, giữa đại đội 1 và đại đội 3, có thằng địch phụ B.40 đeo giá đạn lạc hẳn vào đội hình. Lính ta thấy lạ quát hỏi mày ở B nào? Nó chạy loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng. Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch. Một đêm khuya, từ bầu trời bất chợt vọng xuống tiếng kêu, nghe như tiếng trẻ con khóc. Nằm nghe rợn hết cả da người. Ông Khanh đại trưởng đại 1 hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung “kỳ đà” bắn cối. Cối càng bắn, nó kêu càng rền rĩ. Cả đại đội thức, dỏng tai nghe tiếng kêu lạ mà không ai biết là cái tiếng kêu gì. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao địch không đánh mà các anh dùng hoả lực? (Mãi về sau mới biết đó là tiếng kêu của đàn công đất đi ăn đêm). Lúc này, hướng trung đội 2, nghe tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội tổ chức thêm vọng gác. Cả BCH đại đội và tiểu đội cối 60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác phía sau nữa.
Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một cái xác địch to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên (vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. Bộ ka ki dày màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ
loằng ngoằng như giá đỗ. Đôi dép cao su dày, cắt vuông đầu đuôi, tự chế từ lốp xe ô tô. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới tòi ra khỏi nòng được một nửa vì ngã sấp, nòng cắm xuống đất. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây là bọn đặc công, đêm qua định mật tập xơi tái đại 1. Thật may là đàn công đất đã báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối, địch nó tưởng là bị lộ nên rút ra. Có thể hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi tụi nó rút lui. Tiếng AK bắn 3 phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía!
Sau hôm đó thì anh Hải C trưởng C2 tỵ, đòi tiểu đoàn đưa khẩu DK.75 và khẩu 12.8mm lên phối thuộc với đại đội 2 nhưng không được. Anh ấy không bằng lòng. Thỉnh thoảng uống rượu lại báo phát hiện trinh sát địch đang trèo cây trong cụm rừng chùa để xúi anh Khanh cho DK bắn. Những phát đạn xuyên 75mm bay đỏ lừ cả trong ánh sáng ban ngày. Bên đại đội 2 có một nhà thóc không biết dân hay địch bỏ lại. Cái nhà đó có cả một cái cối giã gạo. Ăn mãi gạo cũ nhạt bên nước chở sang, nên thỉnh thoảng anh Ky rủ tôi sang C2 vào ban ngày, xúc thóc đổ ra cối để giã. Gạo mới nhiều nhựa, nấu cơm hay cháo đều quánh và thơm…
Trong thời gian này, thằng T.Anh bạn cùng lớp cũ với tôi, bỏ đơn vị đi từ hổi còn nằm chốt Bờ đê biên giới quay trở lại đơn vị. Chắc hẳn ở nhà khó yên được với tiểu khu, phường đội. Nó lần mò vào được đến tiểu đoàn nhưng anh Sơn không nhận, bợp tai đuổi đi. Nó cứ về đại đội. Trung đội 2 vẫn chia cơm cho nó. Tôi nhớ mấy hôm đó có cả thịt ngựa ăn đàng hoàng. Tối thì nó ngủ ở lán anh nuôi chỗ thằng Lại, thằng Tào. Anh Síu cũng đuổi nó đi nốt. Tôi gặp nó trong lán anh nuôi, bảo mày cứ ở lỳ thêm một thời gian. Các ông ấy hết giận thì nhận lại súng mà chiến đấu. Tôi vẫn còn như nhìn thấy nó trong buổi chiều hôm ấy, tay mân mê một chỉ vàng đã quấn bọc lại bằng chỉ khâu cho khỏi mòn, cúi đầu nghe anh Síu chửi. Nhưng anh Síu đuổi gắt quá nên nó lại bỏ đi. Cả thằng Thoan phố Mã Mây, đang cầm khẩu B.40 ở B2 cũng chuồn đi theo nó. Mất thêm người, anh Síu quay sang chửi cả tôi. Bảo mày là bạn thân với nó, sao không biến mẹ nó nốt đi. Từ đó tôi hận thằng cha này. Anh Síu chính trị viên C1, quê Hải Hưng lính năm 1974 đóng hàm chuẩn úy. Anh ấy có một cái hộp thuốc cá nhân bằng nhựa màu xanh của Trung Quốc. Trong đó đựng mấy tấm ảnh chụp hồi quân quản Sài gòn. Anh Síu trong ảnh mặc quần ga ba đin bộ đội bó ống, tóc để dài như mốt thanh niên thành thị hồi đó. Ngoài ra còn một cái bọc nilon gói đôi quân hàm chuẩn úy có một gạch bạc, không có sao. Thỉnh thoảng lại giở ra xem.
Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Những quả đạn cối Mỹ đã bắn rỉ sét, đôi khi chỏng trơ trên mặt ruộng
khô. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật. Thế là: “Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại đội 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật **** nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt”. hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3.
Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng lên máy vô tuyến rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1km. Đêm tối như mực. Tay cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì? Bọn Pốt thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi dặng hắng: “Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được.
Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra, đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, dùng xẻng bộ binh làm búa, đóng cái thông nòng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu: “Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại: “Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không làm!”. “Ah! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.
GA ROMIA
Một chiều cuối tháng 2, có lệnh hành quân. Đơn vị sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đứng bám trên boong mũi cái tàu hộ tống, thấy oai hùng lắm! Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư hậu phương đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Đọc đi rồi đọc lại. Nước mắt lặng lẽ chảy…
Đêm đó tiểu đoàn ngủ trong các nhà hoang dọc bến cá. Sáng hôm sau, lĩnh đạn, gạo, đường, sữa…Vạ vật đến khoảng 14h chiều, chúng tôi lên xe tải, tới ngã ba lộ 5 quẹo trái theo lộ 27 tiến về ga Rômia. Xe chạy rì rì cuốn tung bụi đường, nồng nghẹt mũi. Lại những cánh đồng không khô xác. Cỏ cháy loang trên đồng, để lại từng đám tro đen xám loang lổ. Một vài ngọn núi đất thấp cũng khô xám như thế. Cây cối trên núi cũng cháy trụi cả, giơ lên trời những cành đen thui. Điểm trên khoảng trống bao la là những chòm thốt nốt lẫn cây bụi nhỏ, lúc hiện lúc khuất sau làn khói. Khung cảnh điêu tàn trông như hoang mạc.
Có tiếng đạn nhọn rộ lên nhằm thẳng vào đoàn xe. Tiểu đoàn để ba lô lại trên xe, nhảy xuống đất, theo đội hình chiến đấu càn tới. Các đại đội giạt sang hai bên ruộng, tiến song song bảo vệ. Tiểu đoàn bộ D4, C4 hỏa lực cùng một bộ phận tham mưu trung đoàn vẫn đi trên mặt lộ. Địch nã đạn nhọn liên tục về phía mấy cái xe. D bộ phải đi tụt lại, vì có tiếng xe ở đâu là nó bắn rát về phía ấy. Nhìn không thấy địch ở đâu vì khói cháy đồng mù mịt. Không dám tiếp cận thì chứng tỏ bọn này cũng nhát.
Một lát sau, thấy anh Sơn D trưởng quay lại hỏi chúng tôi còn một khẩu đội cối 82mm nữa đâu? Bọn tôi nói không biết. Anh ấy nổi nóng chửi cả tham mưu rồi bắt D bộ quay lại tìm. Thật may là chúng nó đi sau D bộ khoảng hơn 100m. Sau khẩu đội cối này lại có một đơn vị nữa cũng đang tiến gấp theo phía xa xa. Đại đội 2 đi trước. Hai đại đội 1 và 3 đi hai bên sườn. Khối D bộ, đại đội 4 và tham mưu trung đoàn cùng đoàn xe đi giữa. Vậy còn đơn vị nào đằng sau nữa đâu? Bỗng nhiên bọn đó bắn vào đội hình tới tấp, rồi giạt sang bên phải đường mất tích. Địch bâu bám đằng sau thật. Một trái M.79 câu trúng thùng cái xe chở ba lô. Không việc gì, xe vẫn chạy dù trên thùng bốc khói. Chúng tôi dũi lùi lũi giữa đội hình địch. Phát đạn duy nhất bắn đi là quả M.72 của một trợ lý tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Anh ấy mang nặng. Rút ra rút vào trái đạn mãi rồi phụt bớt đi cho nhẹ.
Cách ga Rômia 1km, đến một cái cầu cháy qua con mương cạn thì gặp trung đội chốt đường của đại đội 11 tiểu đoàn 6 ra đón. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình Phùng. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ Lý. Trên tay là khẩu B.41. Ngày hôm đó nó đã phải bắn tới 16 trái B.41 nên tai điếc, nói với nhau mà như quát. Thằng Hiệp nói rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu nữa, tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Thùng cái xe chở đồ bây giờ cháy ngún mù mịt. Chúng tôi nhảy lên xe quăng đồ xuống. Lúc đó nhiều cái ba lô đã cháy nham nhở. Các hộp sữa mới lĩnh ban sáng phồng lên, méo mó hết cả. Gần vào sát ga, tiểu đoàn vượt qua hai cái xe chở tử sỹ bị địch vây, không mang ra Kampong Ch’nang được. Anh em đơn vị bạn phải chặt cành lá phủ lên cho khỏi ruồi và tưới nước cho mát để đỡ mùi.
Chiều tối, tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm trung đoàn 42. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn, lo sốt vó chống địch. Bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn thì sướng quá! Còn bao nhiêu trà lá thuốc vét mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Chúng nó nói mấy đêm vừa qua, lính pháo phải đánh nhau như bộ binh vì địch nó đánh sát cả vào chân các khẩu đội. Pháo 105mm phải hạ nòng bắn ứng dụng như pháo bắn thẳng để uy hiếp địch cho nó giãn ra. Thằng Bình cáo C12D6 nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang tìm tôi. Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11 D6. Tiếng súng rộ lên. M.79 nổ choang choang trên các mái tôn. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường.
Đêm đó tôi với anh Ky nằm với đại đội 4. Chỉ huy phó đại đội 4 hoả lực hồi đó là anh Ninh, tên họ đầy đủ là Thái Gia Ninh, em ruột nhà thơ Thái Thăng Long. Sau này bọn tôi trong đơn vị khi được chia thịt heo hay thịt thú, cứ giả vờ hỏi nhau là bây giờ thịt thái ra ninh, thái ra nấu hay thái ra hầm...hả mày thì anh ấy cáu lắm, chửi vung mấy thằng xỏ lá. Nằm với đại đội hỏa lực, sát tiểu đoàn và pháo đội 105mm nên cứ yên tâm hưởng suất ấm sườn, đêm không phải gác. Một đêm ngủ thật ngon lành dù tiếng súng địch xung quanh không lúc nào ngừng...
Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas, cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng vàng cháy. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Trên sân ga, hàng cây me keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả me keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Bao quanh cái hạt là lớp thịt quả, ăn chơi thấy vị ngọt ngọt, có chút đắng. Nằm đó một lát, chúng tôi được lệnh đi về hướng sau ga,
nằm trong một vườn điều. Đất khô cát trắng, nhưng điều đang ra trái mọng. Vặt vài quả ăn chơi, thấy vị chua ngọt cũng đỡ, khỏi khát nước. Tôi cắn thử cái hột như hột đậu lớn treo dưới trái. Một tia dầu tứa ra dính vào môi. Cảm giác bỏng làm rộp phồng môi liền, rất rát. Toàn cồ thấy vậy cười hô hố. Anh Ky bảo phải nướng hạt lên mới ăn được, ngu thế!
Hướng tây ga Rômia là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang vận động tấn công địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng cản bước. Cứ “Bốp bốp…khục khục” nổ đâu đó suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.
Chúng tôi ăn cơm ở vườn điều. Buổi trưa cứ nằm im đó nghe tiếng súng nổ các nơi. Mãi đến chiều mới có lệnh tiến quân. Tiểu đoàn theo đường sắt lên hướng tây bắc 1 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Dưới lòng suối không có nước, toàn cát. Những con rùa bằng cái bi đông bò lổm ngổm. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối, định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc.
Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xe ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy. Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của VNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp nước. Hỏi thăm dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, cắm cúi đi theo đội hình.
Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào, khung nhà đổ nát. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, có những cái hốc mà người ta đục vũm vào để đốt lấy dầu, ánh lửa chập choạng. Rất nhiều thân cây dầu
đang cháy lửa như thế trong đêm, trông rất ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn.
Gần sáng. Dậy! Tiếp tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội hình bí mật tiếp tục bám lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn. Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt. “Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ. Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Không gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội, lệnh khi phát hiện địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo.
Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn thì B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên. Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng mươi phút là tháo chạy ngay. Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi tổ chức chống trả.
Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!” xong một cái thì lại rồ lên như xé vải. Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum.
Đúng lúc đó, ngay phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh bọc ***. Bọn này cơ động rất nhanh. Anh Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau, có tiếng lao xao: “Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy quắc mắt nhìn quanh. Tôi tin là nếu phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn
cho vọt óc. Chúng tôi bắn dữ dội về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch mà chỉ nghe súng nó bắn. Phía trước, bộ đội đã bám được vào rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc *** biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa. Trong sử sư đoàn 9 sau này được xem thì tôi đoán đây là trận đánh vào bàn đạp Tà Nốt. Nhưng trên bản đồ thì không thấy Tà Nốt là địa danh nào.
Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau mấy ngày đánh địch, vượt quãng đường gần 50 km từ Kampong Ch’nang vào đây. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng. Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn trên tiểu đoàn 9 người, vừa xoẳn cái ruột tượng đang quàng. Nhanh chân, tôi chạy đến xoong quân dụng của thằng Cầm điếc trút tuột hết gạo vào. Thế là nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt đắc thắng với thằng Ban trố mang ruột tượng đến sau. Diễn cái trò khôn vặt này được vài lần thì Tuấn còi chửi, bảo để cho thằng nào yếu nó trút gạo trước. Ruột tượng đựng gạo thường được khâu từ các ống quần cũ. Chỉ nhớ sau này về Bamnak có đúng một lần được quân nhu cấp ruột tượng mới. Cho đến thời gian tháng 3 năm 79, kể cả những đồ thiết yếu khi tác chiến trong rừng là cái tăng, cái võng, đoàn lính 1978 cũng chưa được cấp. Chúng tôi có được chủ yếu là do lấy vải kho địch tự khâu hoặc lột từ xác dân, xác địch mang đi giặt lại.
Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, tụi tôi bắt đầu lục lọi kiếm ăn trong phum. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Một dãy toàn chum đựng muối đầy. Muối biển địch tải lên rừng để kháng chiến lâu dài. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm loạt AK, mấy cái chum vỡ toác. Suối chảy liếm tan hết muối. Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ tấm kính nào. Lại nghe nói mũi dao làm bằng kim cương nên tôi cất con dao kỹ lắm.
Gia tài trong ba lô thế là thêm một món đồ cổ. Nào! Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định (đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã xổ vài chỗ. Đôi áo lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình, chừa rất nhiều tự do cho đối tượng lắc lư đường trường mà nó bao bọc. Không biết quân đội bây giờ có phát quần sịp cho lính không? Chứ vẫn quần đùi giải rút như cũ, hành quân dài ngày mà không anh nào bị sa đì thì quả là thật lạ! Một cái võng vải nilon còn khá
tốt lột được của địch. Có điều cái võng chỉ có một lớp, lại màu vàng chanh chói lọi. Khi đập những con muỗi no máu bâu phía ngoài võng thì nó để lại những vệt máu khô lốm đốm như vải in hoa trên cái nền màu đặc biệt, không cách gì giặt được.
Tấm nilon dày, mặt phải màu xanh lá, mặt kia màu xám phát từ thời huấn luyện ở Phủ Lý. Hai cuốn truyện lấy được gần phà Niek Luong hao gầy dần đi theo năm tháng. Vì ngoài chức năng phục vụ văn hoá, nó còn phải phục vụ thêm nhu cầu đi vệ sinh bắt buộc. Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính trinh sát cũ, bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Tập thư nhà, thư bạn bè bọc kỹ trong túi nilon, quý hơn vàng. Khi rảnh hay lôi ra đọc lại. Có khi còn hít hít cả mùi trong những cái bao thư mới. Mấy miếng liều cối 60 để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ do sợ bị lạc). Cái bát sứ ăn cơm bà già cho ở bến phà Niếc Lương. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa. Không kể đôi dép đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân.
AM LEANG Tôi là thằng rất khoái bản đồ, địa bàn. Là lính thông tin, luôn được đi với chỉ huy sở khi hành quân nên cứ mỗi lần tiểu đoàn trưởng, tham mưu hay trinh sát pháo binh xem bản đồ, vạch tuyến đi là tôi cứ sán đến le lé mắt xem ké. Tôi dần học mót được khối điều. Chẳng hạn cách xác định địa điểm đứng chân theo các mốc chuẩn tự nhiên của địa hình. Các đường bình độ sít sịt dính nhau như thế kia là chuẩn bị leo dốc hộc cơm. Cái con suối vẽ vạch đứt quãng như thế này thì chỉ có nước vào mùa mưa. Còn hôm nay cái bút chì đỏ chỉ huy tiểu đoàn vẽ một mũi tên dài độ gang tay trên tấm bản đồ bọc nhựa trong, tỷ lệ 1/50.000 thì yên tâm là sẽ được nghỉ sớm…
Mùa mưa đã gần tới. Đơn vị đi như bị phát cuồng. Hành quân cả ngày, đôi khi cả đêm. Càng vào sâu trong núi rừng đi càng gấp. Đụng địch ở đâu đánh địch ở đó. Một ngày có khi nổ súng mấy bận, không còn nhớ nổi. Những trận tao ngộ ngắn ngủi không mấy kết quả vì bọn địch giạt ngay. Không còn khái niệm “chốt” mà chỉ còn khái niệm tạm “đứng chân”. Chốt thì phải có đào hầm hào, có bố trí hướng địch hướng ta. Còn đứng chân tạm thì hiểu như là chia nhau chỗ ngủ mắc võng qua đêm. Các trung đội xung quanh đại đội, các đại đội vây quanh tiểu đoàn bộ. Chúng tôi đi trên lớp tro còn ấm của cỏ cháy chân rừng. Những cơn gió khô cuốn tro bụi, phủ lên người đen nhẻm.
Lúc nghỉ nằm võng đu đưa, vừa nghĩ linh tinh vừa lấy ngón tay miết miết trên cổ một lúc, viên được hàng chục những cục ghét to như hạt đậu xanh. Làm nhiều lần như thế nó thành thói quen. Thế nên bọn nó gọi tôi là thằng Tùng bẩn. Cứ như là cổ chúng nó không có ghét không bằng…
Trên phổ biến đợt này là chiến dịch cuối cùng, đánh vào sào huyệt Am Leang, thủ đô kháng chiến của Pôn Pốt. Đầu tiên tôi cứ nghĩ Am Leang nó là một thành phố nhỏ, chẳng gì cũng mang tiếng là “thủ đô”. Ở đó có thể có phố, có nhà…nên bọn tôi khoái lắm! Nhưng đi mãi, chỉ thấy rừng lúc rậm, lúc thưa. Cây rặt một loại dầu quánh, dầu khộp. Rừng mênh mông đi mãi thấy nản. Thỉnh thoảng sáng lộ ra một chân ruộng của một phum hoang, hay một trảng cỏ rộng có một vài cây thốt nốt đứng đơn lẻ là đã thấy mừng, tưởng mình sắp được ra đến đồng bằng. Trời ơi là nỗi nhớ phum sóc với gà qué ngủ đầy trên cây, lợn “hoang” ngoáy đuôi chạy kêu khìn khịt, những ống thốt nốt chua phình bụng, những đêm lành không gác…
Ở đây, súng nổ ì ầm vọng về từ các hướng xung quanh lúc mau, lúc thưa. Một lần từ đâu đó rèo rèo qua đầu mấy viên đạn 12.8mm cuối tầm. Một viên va vào thân cây, văng sang ụ mối cái bộp rồi lăn tới gầm võng. Viên đạn đã tuột lớp vỏ đồng, chỉ còn cái lõi thép trắng xám hình côn. Thấy hay hay, tôi mới nhón tay nhặt lên. Vừa kịp vảy tay vứt đi thì đầu mấy ngón tay đã bỏng rát, lát sau nó mọng nước phồng lên. Lão Ky lại được thể chửi tôi ngu. Thế ra mình vừa bẩn vừa ngu! Cái đầu đạn ấy mà bằng vàng thì chắc hắn còn ngu hơn mình…
Trong khoảng trung tuần tháng 3, sau vài lần chạm súng lẻ tẻ với các đơn vị lẻ của địch, chúng tôi đã tiến gần tới Ăm leang. Hôm đó được lệnh luồn sâu cấp tiểu đoàn. Cơm nước chuẩn bị đầy đủ, khuya thì lên đường. Luồn sâu cái gì mà cứ đi khơi khơi trên đường. Con đường cát trắng khá lớn, mờ mờ bụi cuốn theo chân người dưới ánh trăng. Hai bên là rừng thẫm tối. Đến gần sáng thì đại đội 3 rơi vào ổ phục kích của địch. Anh Thoan đại đội phó đi cùng trung đội đi đầu lĩnh đủ một phát M.79 bi. Lính C3 tản ra nằm xuống tại chỗ, bắn loạn xạ rồi bò lui, kéo được anh ấy, anh Lẽ trung đội phó và thằng liên lạc về. Ngực và bụng anh ấy lỗ chỗ vết bi chụm, máu ra đẫm ướt cả cái võng chứng tỏ cự ly nổ súng rất gần. Anh ấy khò khè được vài tiếng, kêu “Mẹ…!” rồi tắt thở. Hy sinh hai, bị thương một. Vận tải gác đòn võng để các anh ấy nằm tại vị trí tiểu đoàn bộ, không đưa về tuyến sau được trong đêm.
Thằng địch bắn phát đạn bi đó hẳn là một thằng lỳ lợm và giàu kinh nghiệm chiến trường. Nó bỏ qua tốp đi đầu, nhằm đúng cán bộ chỉ huy. Thường thì cán bộ đại đội không vác súng dài, chỉ đeo túi mìn nên cũng dễ nhận biết. Đường trăng lại sáng như thế kia! Sau phát M.79 và
mấy loạt đạn nhọn đó thì bọn địch lại im lặng, kệ cho lính C3 xả đạn vào rừng. Nó muốn bí mật lực lượng. Anh Sơn đẩy đại đội 1 lên đầu, chia đội hình tiểu đoàn sang hai bên đường chờ sáng. Đó đây, trên các hướng khác thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng, càng gần sáng càng dữ dội. Có cả tiếng động cơ ô tô rì rì, không rõ xe ta hay xe địch.
Tang tảng sáng, mờ mờ rồi rõ địa hình địa vật. Cối 82 đại đội 4 bắt đầu bắn mở hai phía biên con đường đằng trước. Bắn thì cứ bắn xăm thế thôi, chứ có xác định được vị trí địch đâu. Các đại đội giữ sườn cho nhau. Bộ binh bám đường tiến dần lên. Lên qua chỗ địch phục kích hồi đêm 200m, cả tiểu đoàn lại chúi xuống. Hai bên rìa đường phía trước, hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ rèn rẹt. Bộ binh không lên được nữa, nằm im tại chỗ chờ hỏa lực hỗ trợ. Rừng dày thế này, DK.82 xếp xó mặc dù đã giá súng. Hai khẩu 12.8mm trong phòng ngự thì lợi hại, hoặc chổng nòng bắn trợ chiến khi xung phong lấy tiếng nổ uy lực cho nó hách, chứ còn trong trường hợp này cũng vô dụng. Tất cả trông chờ vào 2 khẩu đội cối 82 và mấy khẩu cối tép dưới các đại đội.
Đúng lúc đó, có tiếng động cơ xe tăng rền rền phía sau. Từ đâu lòi ra 4 cái T.54 của lữ đoàn 22, phun khói mù mịt. Trưởng xe tháo mũ công tác gào lên hỏi bộ binh tình hình địch rồi lại thụt vào xe. Bốn chiếc tăng vượt qua đội hình, càn qua cả những bụi cây nhỏ xộc thẳng vào vị trí địch. Bộ binh C1 và C2 bám liền ngay theo sau. Pháo 100 và trọng liên 12.8 mm trên xe nổ điếc tai. Rừng rung rinh nghiêng ngả. Mấy thằng lính chạy gần nhăn cả mặt, há cả mồm. Anh Sơn giữ lại đại đội 3 đi sau, cùng với D bộ. Tiến được một lúc nữa, mấy chiếc tăng tự nhiên dừng lại. Thằng xạ thủ 12.8mm trên tháp pháo quay xuống hỏi các anh là đơn vị nào?
Khi biết chúng tôi là trung đoàn 2, bọn tăng ơi ới gọi nhau trở lui ngay lập tức. Thì ra bọn này có lệnh đi phối thuộc với trung đoàn 3 lại nhầm đường sang hướng đơn vị tôi. Đường bò ngang dọc trong rừng. Chưa biết tiến hướng nào thì nghe hướng chúng tôi nổ súng dồn dập nên đổ xô đến. Sự hiệp đồng bất ngờ này đã giúp chúng tôi thông đường! Bọn lính chúng tôi quen gọi những trận chiến đi qua theo đặc điểm riêng của nó. Chẳng hạn trận “Rừng tràm”, trận “Cầu cháy” … Và lần này là trận “Xe Tăng Nhầm Đường”. Trong “Sử Sư đoàn 9” đọc sau này, tôi đoán đây là trận luồn sâu vào phum Th’mei. Nhưng nói về trận luồn sâu phum Th’mei thì không ai biết. Nhưng nói đến trận “Xe Tăng Nhầm Đường” thì đứa nào cũng biết.
Ban chỉ huy tiểu đoàn thông báo cho toàn đơn vị là đã tiến đến gần sát Amleang. Lúc này các đơn vị khá độc lập với nhau. Kể cả các đơn vị trực thuộc trung đoàn bộ cũng phải nổ súng vì địch từ các nơi nhao nhác chạy về vô hướng. Trung đoàn rút đại đội 3 D4 lên bảo vệ chỉ huy sở E. Tiểu đoàn 4 lúc đó chỉ còn hai đại đội bộ binh là C1, C2, đại đội hỏa lực C4 và tiểu đoàn bộ. Đơn vị cứ theo đường bò mà đi tiếp…
Khoảng 3h chiều, súng con các đại đội đi đầu nổ rộ phía đằng trước. Đại đội 4 dừng lại giá cối nên đội hình D bộ ùn lại một chút rồi vượt qua C4. Cối 60 địch bắn dọc con đường tiến. Vừa chui qua bụi le dày mọc trên bờ con suối cạn có đường bò cắt ngang thì “hoét_ oành”. Một trái cối 60 tung đất cách tụi tôi và đám lính cối gần chục mét. Cả đám không ai mảy may bị làm sao. Chỉ có thằng Thịnh đen ở khẩu đội cối 82 dính mảnh vào tay, máu không thấy chảy nhiều. Nó định thần rồi la toáng lên sung sướng trúng mánh rồi, trúng mánh rồi…Bọn cối băng treo tay cho nó, nhưng mặt thằng nào cũng thuỗn ra, ước được dính mảnh như thế.
Thằng Thịnh vẫn phải đi theo đơn vị vì chẳng biết trạm phẫu trung đoàn giờ ở đâu, và cái chính nó là vẫn đi được tốt. Hồi đó không biết từ đâu có cái dớp lính đồn là cùng một đại đội có hai thằng trùng tên thì một thằng sẽ “đi”. Ở trường hợp C4 thì đúng thế! Có hai thằng tên Thịnh đều lính Hà Nội. Thịnh đen cối ở 82mm, Thịnh “toác” ở 12 ly “toác”. Đến năm 1982, Thịnh đen hy sinh trong trận đánh ven biển Hồ bên Siêm Riệp. Thịnh “toác” trở về lành lặn, làm chân chạy cờ, bê đạo cụ cho nhà hát Tuổi Trẻ Hà Nội.
Cối 82 bắn hết gánh đạn 8 trái của thằng Thịnh. Bắn thêm đôi gánh đạn tiếp thì thằng Vỹ đi với C1 gọi về là bộ binh đã lên được đến ngã ba, đừng có bắn nữa. Trung đoàn lệnh cho D4 chốt cứng tại ngã ba. Tôi được lệnh lên theo luôn BCH đại đội 1 vì cán bộ C chưa bố trí quan sát sở ở đâu. Khi bố trí đội hình chốt và chỉ huy sở xong xuôi thì dải dây từ đó ngược về tiểu đoàn bộ. Về đến D bộ thì trời đã sâm sẩm. Trông thấy chỗ D bộ đứng chân có con suối nước sâu chảy xiết, chắc mát lắm! Không kịp tắm vì anh Nhương đuổi tôi về đại đội ngay. BCH đại đội nằm ngay chính ngã ba con đường lớn, cạnh một cái chùa đã bị phá hủy, chỉ còn nền cũ cao và các tháp xung quanh cụt sát đến gần móng. Anh Khanh bảo tôi và mấy thằng liên lạc đào hầm.
Nhưng nền đất nện sân chùa cứng, đào mãi bằng xẻng bộ binh mới được cái hố nông choèn choèn. Tôi bỏ không đào nữa thì anh ấy chửi đ…mẹ thằng lười! Nó đánh thì đừng có chúi hầm của bố mày. Đào được chừng mươi phút nữa thì thằng Đồng Huế và thằng Căn cũng phải bỏ đào. Sân chùa không có cây nên không mắc võng được. Tôi trải ni lông cạnh cái chân tháp làm chỗ ngủ, nửa nằm nửa đắp như phủ tử sỹ. Sáng ra, cả hai mặt nilon đều đẫm hơi nước, nửa sương đêm nửa hấp hơi người…
Sáng hôm sau nắng lên, xe zeep chở tham mưu trung đoàn và xe tải chở đạn lên đến ngã ba. Các đại đội cho các trung đội đi truy quét xung quanh, mở rộng địa bàn đứng chân. Ở nhà chỉ còn bậu xậu văn phòng và các tiểu đội hỏa lực. Anh Nhương gọi tôi về tiểu đoàn bộ lấy thư. Nhận được thêm 7 cái thư nữa và được ra suối tắm. Vừa về đến đại đội 1, định giở thư ra đọc chợt tiếng súng con rộ lên bắn vào vị trí đại đội. Chỉ huy sở chỉ còn mỗi thằng Tuất văn thư với tôi. Hai thằng hoảng quá vì đại đội lúc này trống bốc.
Tôi với nó ôm súng chạy về khẩu đại liên của thằng Lễ bố trí cách chỉ huy sở độ 15m đang bắt đầu quét lại. Bắn nhau một chập, nghe tiếng máy cóc cóc, tôi lộn lại cầm máy thì nhận lệnh thôi bắn. Tiểu đoàn thông báo đấy là tiểu đoàn 7 trung đoàn 3 đang truy quét bắt liên lạc với đơn vị. Tiểu đoàn 7 phát hiện một đám địch đang chạy gần vị trí tiểu đoàn 4 nên nổ súng. Chục phút sau thì lính D7 vào đến chốt. Chúng nó ngồi thở hồng hộc rồi uống sạch nước hà thủ ô thằng Tuất mới nấu. Không có thương vong đáng tiếc. Từ trận cầu sắt S’vay Rieng cho đến nay mới lại gặp đơn vị anh em cùng sư đoàn.
Tiểu đoàn 4 nằm tại ngã ba mấy hôm, coi như thời gian được nghỉ sau những cuộc hành quân liên miên. Bấy giờ chẳng biết địa danh nơi nào với nơi nào nữa. Chỗ nào cũng như chỗ nào. Là đường bò ngang dọc, là rừng dầu rừng khộp miên man. Rừng cháy suốt từ ga Rô Mia vào cho đến tận Am Leang không lúc nào tắt. Đêm nào trời cũng hồng hồng do ánh lửa cháy rừng hắt lên nền trời. Một đêm như thế, hai thằng địch cắt rừng chui vào đúng ổ gác trung đội thông tin tiểu đoàn bộ. Toàn cồ kéo hai loạt AK, diệt hai thằng địch một già một trẻ, thu 2 súng. Sáng hôm sau kiểm tra túi mìn thằng địch già, thấy có cái bản đồ, la bàn, sổ sách, một cái võng nilon đen rất mới. Tham mưu tiểu đoàn báo lên là đã diệt được một tên trung đoàn trưởng cùng thằng cận vệ. Đơn vị hai thằng này chắc bị đánh tan tác ở đâu đó. Thầy trò cắt rừng mò về chiến khu nhưng ngắn số, đến đây thì tiêu. Toàn cồ đắc ý cái võng ấy lắm. Anh Nhương cậy thế trung đội phó đòi đổi nhưng hắn không đồng ý.
Chuyện nữa đáng nhớ ở tại ngã ba này là chuyện cái hầm. Một buổi chiều, phía con đường lớn có tiếng mõ bò càng lúc càng rộn rã. Một đoàn người cùng xe bò kéo đang đủng đỉnh đi tới ngã ba. Tiếng thằng Trung cảnh giới trung đội 1, trung đội chẹn đường bỗng dưng la thất thanh: địch, địch… không phải dân! Nó phát hiện đám “dân” ấy có những đứa giấu súng. Bọn mất dạy trá hình đó nghe tiếng kêu biết bị lộ, giạt sang hai bên đường nổ súng ngay vào chúng tôi. Đạn nhọn rất rát và làn đạn đi thấp, đôi khi thấy man mát trên má. Tiểu đoàn nghe nổ
súng gọi xuống đại đội nắm tình hình. Tôi ngồi xổm trên cái hầm nông đào dở hôm nọ, đưa tổ hợp cho anh Quang râu (chính trị viên phó C mới về nhận công tác). Anh Quang đứng, một chân dưới hầm, một chân trên thành hầm báo cáo.
Thấy nó bắn rát quá nên anh ấy vừa nói trong tổ hợp, vừa kéo tay tôi dúi xuống hầm rồi nhảy lên. Cái hầm nông choèn, đứng có khi mới chỉ ngập trên đầu gối. Muốn an toàn thì chỉ có thụp xuống, hay nằm dài ra dưới đó. Nhưng thế thì ra cái thể thống gì vì tôi đâu có đào, lại còn cự cãi với anh Khanh C trưởng nữa. Hoàn cảnh khó khăn vẫn sĩ diện được tốt! Thằng Đồng Huế, thằng Căn liên lạc núp sau bệ tháp, đang thể hiện pằm pằm điểm xạ hai phát một vào khoảng rừng giữa B1 và khẩu đội đại liên. Thấy thế tôi cũng chúi vào chân bệ tháp cùng với tụi nó. Tôi vẫn nhớ khuôn mặt anh Quang lúc ấy. Vừa báo cáo vừa hơi cười, nụ cười hiền xa xăm, hơi là lạ…như chế giễu cái tính trẻ con của tôi. Có những khoảng khắc hoặc hình ảnh, đôi khi không gắn với bất kỳ sự kiện quan trọng nào nhưng làm ta nhớ mãi…
KHO SÚNG Vỡ mộng với cái “thủ đô kháng chiến” không đường phố, không nhà cửa. Đêm đêm tắc kè kêu điếc tai lúc xa lúc gần, chẵn mưa thừa nắng. Mùa khô, kể cả tắc kè kêu tiếng chẵn thì trời vẫn nắng. Anh Khanh bảo đây là cái thủ đô tắc kè. Ngày ngày, dân tuôn ra từ các cánh rừng trở về phum cũ. Có đoàn xe đông tới hàng chục chiếc tràn qua ngã ba. Bụi đường cuốn tung theo vó bò cùng một mùi khét lạ, mùi thuốc rê nặng cuốn lá cò ke. Những đứa trẻ đói trõm mắt, ngồi bám gióng xe đờ đẫn, ruồi bu đầy trên đầu. Chỉ có tụi trẻ con và phụ nữ là dám quay sang nhìn chúng tôi, còn đàn ông họ cúi đầu giục bò đi thẳng. Anh Khanh bắt lính trung đội 1 nằm sát đường đào hầm khác, sâu hơn vào phía trong rừng. Chỉ có đêm mới cho một tổ ra chốt các hầm cũ. Đã có kinh nghiệm đối phó nên cứ nghe tiếng mõ bò lốc cốc là tụi tôi lăm lăm tay súng, giạt vào rừng như bố trí đội hình phục kích. Khẩu đại liên cũng chĩa nòng ra ngoài đường. Mỗi lần dân qua lại một lần chộn rộn âu lo. Có khi lính đang ăn cơm trưa cũng phải bỏ cơm bỏ chậu để tránh. Họ đi dềnh dàng quá thì một vài thằng la hét hối thúc rồi nổ súng lên trời. Những người đàn ông nhất loạt quất bò đi nhanh hơn. Cả đoàn xe lại rùng rùng chạy gằn.
Ở ngã ba một thời gian ngắn, lại có lệnh hành quân. Đơn vị đi sâu thêm vào trong núi. Không còn trận đánh nào lớn nữa. Tiểu đoàn 4 tiến vào chiến khu của địch như vào chỗ không người. Con đường lầm bụi. Thảng hoặc gặp những đám dân lẻ, những xác người quắt queo dưới
nắng bốc mùi khăn khẳn. Hành quân tìm diệt nên ngày đi, đêm nghỉ. Cứ khoảng chiều tà, gặp nơi có nước, có suối thì đại đội đi đầu tự tiện dừng lại báo về tiểu đoàn. Thường đơn vị sẽ qua đêm tại vị trí đó.
Một buổi chiều sắp tới giờ “nghỉ”, gặp một đám dân bạn rách rưới cùng mấy chiếc xe bò đi ngược. Lại tiếng mõ bò lốc cốc buồn bã, nghe chừng đã chán tai cả gần tháng nay. Mấy người ngồi xe đầu bỗng nhiên huơ khăn cà ma rồi kín đáo chỉ về phía sau. Chúng tôi dạt sang hai bên đường cảnh giác. Bọn địch bám theo dân, thấy lộ lủi sang hai bên rừng, bắn mấy loạt réc réc rồi biến mất. Tiểu đoàn tiến chậm hơn, dò dẫm các ổ phục kích. Một cái trảng nhỏ xuất hiện bên tay trái. Ngô mọc mới đến ngang thắt lưng tạo một khoảng xanh giữa vùng rừng cháy. Thẩp thoáng trên triền bình độ thấp trong hõm núi, cách chúng tôi chừng 300m là mấy mái tôn xám nhạt. Vết bánh xe tải ngang dọc trên bãi. Có thể là cứ địch! Tiểu đoàn dàn hàng ngang tiến đến. Bộ binh đi đầu bắn như vãi đạn. Trung đội đi đầu đã lọt hẳn vào trong khu vực mà không hề có tiếng bắn trả. Địch đã bỏ chạy.
Vào đến nơi, thấy đây là một căn cứ hậu cần rất rộng. Một chiếc xe Hoàng Hà vẫn còn đang nổ máy. Đường đi lối lại phong quang. Thậm chí trong bếp lò, than vẫn còn hồng. Trong các nhà tôn, chất đến gần mái toàn là vũ khí các loại. Có đến hàng ngàn khẩu súng cả cũ lẫn mới. Đồ Mỹ đủ loại: AR.15, M.16, M.72, M.79, đại liên 30 hai càng…Đồ Trung quốc cũng nhiều: AK, CKC, K.63, rồi lựu đạn chày, nụ xoè, kíp nổ, thuốc nổ các loại… Chỉ huy tiểu đoàn báo ngay về trung đoàn rồi bố trí đội hình các đại đội bảo vệ kho vũ khí thu được.
Chỉ huy sở đại đội 1 đóng tại một cái nhà gỗ địch dựng để bảo vệ cái máy phát điện khổng lồ màu xanh nhạt, mang nhãn “Made in Germany”. Cũng có thể nó là cái máy biến áp vì thấy có các múi khế tản nhiệt, các ống dẫn dầu kim loại bao dọc thân máy. Tôi mắc võng trên các tai ống dẫn dầu đó một cách thoải mái, chỉ có điều không đu đưa được mà thôi. Cái nhà vách dựng bằng các tấm gỗ thông, trước là thùng bao bì của cái máy khi nhập khẩu. Gỗ thông tỏa mùi thơm phức, rất dễ chịu. Các tấm gỗ này hẳn là được khai thác từ một cánh rừng cây lá kim nước Đức. Chú tôi đi học ĐH Lâm nghiệp bên đông Đức. Khi về mở các thùng hàng cũng thơm thơm mùi thế này mà tôi gọi là mùi tây. Ngoài hai cái xe đạp Diamant, lại có mua thêm một cái máy hát mono ba tốc độ cùng các bộ đĩa nhựa. Có thể nghe Schubert hoặc Beethoven bất cứ lúc nào mà không cần chờ chương trình âm nhạc cổ điển nước ngoài chỉ phát lúc 3 giờ chiều Chủ nhật hàng tuần. Nhưng thú hơn cả là lúc anh Hưng Hàng Bồ đến chơi, mang theo những điệu vanx của Blue Danube, Danube wave…
Lan man thế để thấy rằng ván gỗ với âm nhạc nó có liên quan với nhau trong một nỗi niềm khát nhớ quê nhà. Căn nhà địch giữa rừng hoang lúc này nó trở thành cái thùng đàn thơm phức mùi quá khứ. Lắm khi nằm võng nghĩ vẩn vơ mãi. Anh Khanh lại chửi đ…mẹ thằng lười ra kiếm rau môn với chúng nó, nằm đó nghĩ *** gì?
Hai hôm sau, xe vận tải sư đoàn cùng một đại đội công binh đến bốc dỡ vũ khí thu được. Lính tiểu đoàn 4 chốt ở đó cứ tuỳ tiện mà trang bị thêm. Tôi lấy một khẩu M.16, bắn bậy chán rồi cũng quăng lên xe vì ngại mang nặng. Mười ngày bảo vệ kho súng là mười ngày xả hơi của đơn vị. Vừa được thành tích, vừa được nghỉ ngơi, trong khi các đơn vị khác đi càn rã cẳng. Quanh khu vực đứng chân là dạng rừng rậm hỗn hợp khe núi, nơi có khí hậu ẩm. Không phải rừng thưa, rừng khộp chán ngắt vốn trải đều trong hành trình đến đây. Dâu da đất đang mùa, chín từng chùm lúc lỉu màu hồng sậm. Tôi khoái cái vị chua ngọt thanh thanh của nó. Nhưng anh Ky bảo tọng vừa thôi, không thì sốt rét ốm bây giờ! Chán dâu da đất thì bọn lính chúng tôi lấy kíp ra suối ném cá lốp bốp như đốt pháo tết. Rừng vẫn cháy, lan cả vào một cái kho H.12 của địch giấu ở đâu đó. Đạn hoả tiễn H.12 chưa lắp ngòi nổ, bắt lửa bay vu vu trên không trung. Đêm xuống, lán các trung đội sáng lấp lánh ánh điện tự tạo từ các “ăm bun” và pin mắt me thu được.
Một lần tôi lấy thỏi nổ hai lạng nhồi kíp với cuộn dây cháy chậm khá dài rồi giấu trong bụi cây đằng trước hầm gác mấy chục mét. Gần hết ca gác, mò lên chỗ gài hồi chiều đốt dây cháy chậm. Đổi gác chán đến gần nửa ca nó mới "Uỳnh". Nằm nghe chúng nó bắn ra rào rào thấy sướng. Ông Khanh đốc gác cả đêm lục sục không ngủ. Sáng chúng nó bung đội hình lên, vẫn thấy vỏ của đoạn dây nằm đó. Anh Khanh truy gắt xem thằng nào nghịch ngầm. Nhưng cối tép với văn phòng gác chung một vọng cả chục thằng, biết thằng nào nghịch? Riêng mình mặt cứ tỉnh bơ. Anh Quang râu cười bảo cứ lấy đoạn dây bằng thế rồi đốt thử bấm giờ. Trừ đi kể từ lúc nó nổ là ra ca thằng nào gác ngay. Nhưng anh ấy không làm như thế…
Thời gian chốt này còn được học một đợt chính trị do cán bộ tiểu đoàn lên lớp. Trừ các tổ cảnh giới, còn tất cả mang vũ khí, tập trung tại đại đội 2. Vũ khí giá ngoài sân xong, cả tiểu đoàn vào “lớp” là lán chỉ huy đại đội. Chắc là sợ lính nhàn nên sinh hư. Nội dung thì không nhớ nổi. Đại loại kẻ thù trực tiếp là bọn Pôn Pốt_Iêng Sary cùng bọn bành trướng bá quyền xâm lược Bắc Kinh. Kẻ thù nguy hiểm lâu dài là bọn đế quốc Mỹ. Ngoài ra còn các thế lực phản động quốc tế điên cuồng chống phá cách mạng…Nói chung là tiềm tàng rất nhiều kẻ thù với phản động. Với chúng tôi thì quá đơn giản, không lắm loại kẻ thù đến thế. Cứ thằng nào bắn vào đội hình, bắn vào anh em tôi là kẻ thù tất! Phải diệt nó ngay! Có thế thôi! Trong cái đám xe bò vừa kéo qua ngã ba Am Leang chắc chắn cũng có nhiều thằng địch thứ thiệt. Nhưng nó đã vứt súng, đang đánh xe bò thì muốn bắn nó cũng còn rất khó…
Nói chung, những định nghĩa cao siêu, những ngữ từ to lớn… cả những thằng học hết trung học cũng thấy lơ mơ chứ đừng nói gì các anh em ta mới bỏ cày vác súng. Sáng học, chiều thảo luận thì cũng như những con vẹt biết nói mà thôi! Học chính trị như một cực hình, nhiều thằng cáo ốm. Còn trong “lớp” chúng nó hoặc gà gật, hoặc nghịch linh tinh, tai để ở đâu đâu…Thằng Đức “nhực” ngồi cạnh tôi, rút trong túi ra một nắm nụ xòe, thỉnh thoảng giật cái bép. Nhà nó ở phố Hàng Buồm, sát khách sạn Mỹ Kinh. Gọi là Đức nhực vì nó lùn như người “Nhực”. Nghe bép bép bên dưới mãi, anh Thành chính trị viên đang lên lớp nổi cáu không giảng nữa, quay sang chửi. Cái ngôn ngữ thân thuộc này thì lính chúng tôi hiểu sâu sắc, nên im ngay lập tức.
Cũng ở tại đây, đã nhận được một lá thư mà cho đến bây giờ tôi cũng không thể nào quên được. Nàng viết thư cho một người lính khác trong nhóm bạn chung, nhưng phong bì thì ghi gửi cho tôi. Trong thư, nàng kể với thằng đó tất cả các suy nghĩ, tình cảm thương mến của mình đối với người ngồi bàn trên, nay đã đi lính là cái thằng tôi. Nhầm lẫn hay cố tình không quan trọng. Với hơn hai trang giấy, nhưng nó nhập tâm hơn bất cứ bài giảng chính trị nào. Đêm rạo rực mắt không thể nào nhắm được, ngày mỉm cười vu vơ…Tình yêu đầu tiên của tôi! Những ngày ở kho súng là những ngày tôi ở một thế giới khác, như siêu thực. Không có nắng khét bụi đường, không có rừng cháy, không có chết chóc…chỉ có Mưa rừng ơi mưa rừng! Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên…là đoạn kết mượn lời một bài hát của bức thư, lúc nào cũng lẩn quất trong đầu.
DÃY NÚI URĂNG Vận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường tiến vào sườn nam dãy Đậu Khấu. Đậu Khấu là tên chính thức trên các giáo khoa thư môn địa lý. Trên bản đồ nó có một ngọn cao nhất, hơn 1500m tên là Aoral. Lính chúng tôi gọi là dãy URăng. Còn anh Quảng (đã lên tham mưu trung đoàn) bảo là dãy “Khô rang”.
Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây. Chúng tôi hành quân tìm địch,
quệt ngang quệt dọc cành lá một lúc là mặt mũi, quần áo thằng nào thằng nấy lem nha lem nhem, đen sì như hề. Khỏi cần bôi mặt hóa trang như biệt kích Mỹ. Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa nào bị tháo dạ mới lạ.
Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã gần cạn. Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã. Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thấy đó là cái đầu lâu người trắng nhờ, đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng nhe ra như nhạo báng. Tôi hoảng, hét gọi tụi nó xuống. Mấy thằng chạy ào tới, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận. Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra.
Kinh quá! Hoá ra mấy con cá tụ về nơi nước đọng. Bọn nó làm tổ trong cái sọ rỗng, quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! Dùng thứ nước này còn hơn là uống nước ***. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải *** ra mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả. Trên bản đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Đi mãi, đi mãi chỉ thấy con đường bò bụi trắng, những rừng khô táp lá…
Lại một lần khác, cũng gần như lả đi vì khát nước thì đơn vị phát hiện một con trâu độc. Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh. Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đun khan đã dần xình xịnh nước. Ưu tiên ngay cho những ai yếu nhất. Phần còn lại chia cho mỗi người một vài hụm. Thịt chín kiệt nước thì rục ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp. Nước thịt trâu lợ lợ và hoi nồng, nhưng còn hơn chết khát. Yên bụng tàm tạm lại khoác súng lên đường thiên lý.
Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát.
Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng. Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Đôi khi các tiểu đoàn có phối hợp với nhau. Bạn bè trang lứa, cùng đoàn cùng lớp nhưng khác đơn vị, khi đánh chiến dịch gặp nhau thường xuyên, nay thưa dần. Mùa mưa chuẩn bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu, rừng khộp đang thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa khô, những mầm non xanh mỡ, cuộn trong đài búp thắm đỏ đã chuẩn bị xoè tay đón nước.
Một ngày cuối tháng 3, tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3), cùng tiểu đoàn 6 tấn công địch trụ trong “Phum Chuối” ( gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối) sát chân núi Urăng. Trước khi đến phum chuối thì đã cả một ngày khát nước. Khi thấy rừng chuối, cả đơn vị xông vào chặt rầm rầm để lấy lõi nhai cho đỡ khát. Bọn địch phòng ngự trong phum cứ thấy chuối đổ chỗ nào bắn cối 60 vào chỗ đó. Tụi tôi không dám chặt cây lớn nữa, chỉ chặt những cây con, ngồi hít nước chờ bộ binh xung phong. Đến chiều sâm sẩm, 2 đơn vị vào được trong phum. Như thường lệ, không thấy bóng một thằng địch nào, kể cả những cái xác. Chỉ có một số vết máu mới và những thứ linh tinh, rau chuối đang thái dở, quần áo cũ hôi hám…Heo là thứ ông Nhương quan tâm nhất cũng không có nốt. Nhưng lại có gà. Phát hiện thêm vỏ thùng đạn cối 60, giống hệt lô đạn thu được bên kho súng. Thậm chí bọn địch ở đây có lẽ cũng đang lang thang, mới đến tạm trú nhưng bị đánh bật ra vì thấy chúng nó chưa kịp đào hầm. Với ngần ấy thứ địch bỏ lại, tôi không hiểu vì sao ta lại có thể báo rằng đã diệt được X tên địch, làm bị thương Y tên…Chắc chắn bên tác chiến, các anh ấy có nhiều kinh nghiệm về việc phán đoán thiệt hại của địch.
Mới tới cây cầu sắt nhỏ bắc qua dòng suối cạnh phum, gặp lại thằng Hiệp C11 D6 đang đi qua cầu, lui lại sau cùng tiểu đoàn 6. Tại hướng D6 ở rìa suối, sau khi thổi một trái B.41 mà chưa kịp di chuyển, nó bị quả B.41 địch phản, phụt bay sát mặt. Cánh đạn lướt khía vai trái, mặt thì bị thuốc phóng phụt bỏng nhẹ. Quả đạn địch lệch phải 15 cm nữa chắc đơn vị báo mất tích. Nó bị thương nhẹ trận này, đi viện điều trị, và bằng cách nào đó được ra Bắc luôn. Mừng cho nó! Nhưng việc cần làm nhất lúc đó là cứ để nguyên ba lô, trang bị, nằm úp sấp xuống
lòng nước trong mát đang riu ríu chảy làm một hơi dài. Thỏa cơn khát thì đã nghe gà kêu quang quác trong phum. Lâu lắm mới có gà tươi ăn dù ít.
Tiểu đoàn 4 đứng chân tại đây mấy hôm. Đi miết dưới trời nắng dữ dội, không có rau ăn, chỉ toàn cá khô mục nấu nước me nên rất thèm rau. Mà đào đâu ra rau dưới cái bầu trời nắng lửa này? Không biết có ai đó phát minh ra cái món óc dừa thay rau. Óc dừa là cái đọt non của ngọn cây dừa. Mỗi cây chỉ có duy nhất một cái đọt, khi lấy đi tất nhiên cây sẽ chết. Nhưng háo rau quá nên bọn tôi cứ gặp dừa là trèo lấy đọt. Những thằng trèo giỏi, giắt lưng cái búa sắc leo lên cây. Ngồi chắc chắn ở một bẹ cuống, vạt bớt các tàu dừa vướng rồi vung búa khoét vào đọt cây lấy óc non. Lấy xong cuốn khăn cà ma hay thả vào trong bụng áo leo xuống, vì thả lỡ bắt không trúng thì vỡ tan ngay.
Óc dừa ăn sống ngọt như ăn củ đậu. những phần già có vị hơi chát. Bắn được con trâu, lọc thịt bắp xào óc dừa thì cũng khá ngon. Đầu tiên chúng tôi còn trèo. Sau rồi thì cứ ngang thân dừa vung búa đốn. Chính ủy Hai Hữu một lần thị sát khu vực đóng quân, bảo lính rất nhẹ nhàng và hình ảnh rằng cây dừa dân người ta trồng một hai chục năm, đang thu trái. Nay các em khoét óc cây đi. Cái cây chết cứ đứng sừng sững như cái cột tượng đài tố cáo các em, khơi lòng thù hận. Nay cấm tất những em nào trèo lấy đọt, đốn dừa…Nghe thì cũng thấy nhân văn quá đúng! Nhưng khuất mắt trông coi là tụi tôi đốn tất. Trăm sự chỉ tại cái mùa khô chết tiệt!
Chính ủy Hai Hữu người Nam bộ, tóc thưa và gầy nhẳng. Một chuyện đồn không kiểm chứng là có một thằng lính táo tợn khi gặp chính ủy, nó bắt chéo tay trước ngực em chào thủ trưởng ạ! Thủ trưởng cho nó cái bạt tai vì tội hỗn láo, bắt chước hình ảnh của ông, tựa tựa như cái cảnh báo nguy hiểm chết người.
Sau mấy hôm càn quét khu vực không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1 có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang. Rừng bám vào tận rìa phum. Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng, địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, như một B độc lập tại tiền tiêu.
Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn …*** văn phòng. Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối nguồn, cách quan sát sở 120m. Tắm suối mùa khô là một cái thú, nhất là sau những ngày đi dài mệt mỏi. Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi đường. Nước mát nâng người lên, bềnh bồng ve vuốt. Những con cá nhỏ rỉa vào chân, vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng là…ị bậy. Cái sướng này cũng ngang với quận công.
Sáng Chủ nhật, ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần áo ra suối tắm. Có cái gì đó chấn động không gian. Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng nghệt mặt ra nhìn: mái nhà, vách nhà bằng gianh của chỉ huy sở đại đội bỗng bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập làm một với điểm nổ. Cự ly bắn rất gần. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà không đưá nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở đại đội và trung đội 3 và đánh chẻ đôi đội hình từ thượng nguồn xuống.
Anh Tảo người Hà Bắc - Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô ướt, trong tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng trung đội 1. Hoả lực, đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. Đạn nổ rát, xung quanh chẳng còn mống nào hỗ trợ. Anh Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa, thấy địch vào quá gần cũng bỏ súng chạy nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8mm vừa giòn giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn xỉa rớt bịch xuống suối chết ngay.
Anh Lượng – (người Hải Hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai và một băng đạn khi chạy qua một cái lều trống, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy bóng áo đen là điểm xạ. Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m. Cò lại xiết nổ được vài phát thì hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to lớc đay lơn! (giơ tay lên). Hai thằng địch thụt đầu xuống suối. Hai thầy trò kéo tay nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp.
Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch. Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên
tiếng, khằng khặc thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng quăng xuống suối, tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội gom dìu nhau ở trung đội 1, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, lỗ xuyên nhỏ xíu không chảy máu nhiều. Vẫn đi tập tễnh được.
Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống, ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm cũng rơi vào tay địch. Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn, thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ súng đạn đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại, đại đội 1 trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; gần chục AK và RPD; hy sinh 5; bị thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn. Gương mặt ai nấy bơ thờ.
Cả tiểu đoàn 4 xôn xao. Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũ cũng bị rạch nát tứ tung. Tiền phụ cấp chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên: “Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!”. “Mẹ! Cờ đỏ sao vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à ?”. Thế là cứ cái gậy sẵn đấy, ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Khẩu đội đại liên mò sục, móc được súng dưới lòng suối lên.
Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch với lực lượng cấp tiểu đoàn, đang bâu bám đơn vị. Hôm đó bọn Pốt gan thêm một chút, áp dụng bài đánh điểm, phục kích diệt viện nữa thì tiểu đoàn 4 còn thiệt hại nữa.
Sáng hôm sau, chỉ huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại đội 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua, dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết, tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. Tiểu đoàn trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình.
Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi là phum “dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây, và cũng đốn dừa ăn đọt nên nhiều cây cụt mới đặt tên như thế. Địa hình dốc thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo 155mm xẹp lốp (địch bỏ lại, đã rút mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn cắt ngang con đường. Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc).
Tôi nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như cái phản. Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt. Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu 12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội 1, có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn trái tiểu đoàn.
Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách tiểu đoàn bộ khoảng 120m bằng một khoảng rẫy khô trắng, địch mới trồng mì. Chỉ huy đại đội bây giờ là anh Tuy voi Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và anh Ky lại được điều động xuống đại đội 1. Chúng tôi khiêng các súc gỗ dầu địch đã xẻ vuông vức, chồng lên nhau quây thành một cái công sự nổi của BCH đại đội. Bên trên không biết tụi liên lạc kiếm đâu được mấy tấm tôn trắng lợp làm mái. Cái mái trắng bốc nên anh Tuy bắt tụi tôi bẻ lá che lên. Vừa đỡ lộ, vừa cản nắng nóng ban trưa.
Ngày 17/4/1979, buổi sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội 2. Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn bên tay trái xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực
tiếp thị sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch. Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. Thằng Điệp (người Huế- học sinh trường Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt lên trời. Hai thằng trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy.
Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài. Anh Nhương lao về hét thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ chạy vượt qua khoảng trống địch mới trồng mì, mọc ngang đến đầu gối về đại đội 1.
Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng. Cũng chỉ thấy toàn đạn nhọn địch chứ không có hỏa lực. Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1 an toàn. Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2, trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ làm tai ù đặc.
Lính trung đội 2 hô ầm ầm: “Cối bắn trước đội hình 40m!”. Thằng Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận - tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra.
Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại 2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó. Anh Sơn bị thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết xuống các B nên tôi báo cáo như người lớn: Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm! Ờ! Ngon nghe thằng em!
Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng sau ụ mối lớn thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Thằng Đồng phát hiện địch trước, nổ mấy loạt AK. Tiếng AK địch toang toác đáp trả ngay sau lưng. Những thằng địch đi đầu dồn cả vào sau ụ mối vì chỗ rừng đó khá thưa và cây nhỏ. Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ.
Thằng Căn, thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau góc lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác sau một ụ mối, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi không mất thương binh là mày chết! Bọn địch đánh bọc ***, định cắt đội hình C1 khỏi tiểu đoàn. Nó mà chiếm được vị trí chỉ huy sở C1 thì cả đại đội bung hết!
Anh Tuy thấy địch bám đánh rát phía sau, thét bê khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều chỉ huy bắn dữ dội. Lúc này chẳng thấy tiểu đội trưởng Quyến khợp đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh, người Thái Bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất không công sự mà đẩy cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng ghim AK hỗ trợ. Cái ụ mối lớn cạnh gốc cây cám to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Không thằng nào dám ló đầu ra nữa. Biết không ngon ăn, chúng nó rút chạy.
Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông băng. Thu được hai quả lựu đạn chày địch chưa kịp ném. Tôi chạy vào trong lều đại đội mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi!
Đến lúc này, anh Tuy mới gọi: “Thư! Thư! Băng cho tao!”. Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên. Buổi chiều, nó cứ sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Không kéo khẩu đại liên về đấy có khi bung chốt lần nữa. Khẩu DK.82, do quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội này về đội hình đại đội 4. Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội, qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này
cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà.
Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc trung đoàn được trả về đội hình đúng hôm đó. Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày). Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính “tréc” người Hà Nam Ninh làm đại đội trưởng đại đội 1.
Đơn vị nằm đây khá lâu để củng cố. Các đại đội nhiều hôm đi truy quét. Khi C1 đi càn, chốt bỏ trống nên chỉ huy tiểu đoàn đẩy trung đội trinh sát ra đó chốt thay cho C1. Vì cụm rừng đó là sườn trái D bộ, không thể không giữ. Tôi được lệnh để nguyên máy đó, nằm với trinh sát. Đội hình mỏng, có 7-8 người nên ngày ăn cơm tập trung trong lều chỉ huy. Còn ban đêm ngủ võng tản ra. Một hôm, quãng nửa đêm, một con chó trắng tinh dưới ánh trăng, lớn khoảng 15 kg chạy dọc đường bò xuyên qua vị trí B2 cũ vào gần đội hình. Cách hầm gác khoảng hơn chục mét, nó dừng lại. Tôi đã khẽ kéo nấc an toàn xuống, ướm nó vào đường ngắm. Nó dừng lại hít hít một lát rồi lộn trở lại theo đường cũ.
Tôi không bắn, linh cảm đó có thể là chó trinh sát của địch. Khi nó bỏ đi, mới luồn về võng anh Sơn (Sơn con B trưởng trinh sát) lay dậy. Anh Sơn vơ khẩu M.79. Hai anh em lại trở ra hầm gác đôi. Lúc sau nữa có tiếng lá khô loạt soạt rất khẽ, và cái chính là rất đều. Cái máy điện thoại trong lều chỉ huy để nấc chuông nhỏ, bỗng nhiên kêu cạch cạch như dế gáy. Đ…mẹ cái thằng nào không ngủ được, thử máy vào đúng lúc này! Tôi nín thở chờ phát B.40 đầu nòng từ phía địch.
Đánh bịch một cái, một hòn đá lăn lăn tới gần miệng hầm...Im lặng! Lại bịch một tiếng nữa...Anh Sơn mới lượm đại một cục đá, ném về phía trước cũng bịch một cái. Phía trước lặng ngắt, không thấy loạt soạt nữa. Mắt căng ra nhưng không nhìn thấy gì. Bóng trăng lổ đổ trong khoảng rừng Cái hầm gác nằm trong bóng thẫm của lùm cây nên nó khó phát hiện. Tôi với anh ấy chỉ rình nó loé lửa đầu nòng là siết cò. Nhưng chúng nó cũng không dám bắn vì sợ lộ vị trí. Thành ra cả hai bên rình rập nhau. Lát sau không thấy gì khác thường nữa…
Cả đêm hôm ấy, trung đội trinh sát và tôi thức suốt. Sáng hôm sau bám lên, nhặt được nắm cơm chuột khoét nham nhở bọc trong giỏ thốt nốt. Thời đó địch vẫn còn mạnh, lực lượng chốt đêm vài mống, thêm thằng thông tin là tôi nên cũng ngán. Nhất là đang xuống tinh thần vì vừa bị nó tẩn cho một trận te tua. Đêm ấy chúng tôi không có lựu đạn. Mà có lựu đạn chưa chắc đã dám ném vì mình không biết rõ lực lượng địch thế nào? Cũng là thói quen của tụi trinh sát nữa chứ bộ binh C1 là chúng nó nổ súng ầm ầm rồi. Nhỡ nó vào cả tiểu đoàn thì mình bỏ mẹ! Ban ngày trông rõ địch, nó đông cũng không sợ vì mình có thể đánh hoặc bỏ chạy vô tư. Nhưng cuộc chiến không có chiến tuyến, rừng đêm như thế biết lực lượng địch thế nào? Nói là mình với bọn Pốt đêm đó cùng sợ nhau cũng đúng. Đêm mùa khô lạnh, nhưng đầu và lưng áo tôi ướt đẫm mồ hôi...
Cũng ở đây, tôi bắt đầu biết hút thuốc thực sự. Điếu thuốc Vàm Cỏ vào phổi từng ngụm nhỏ, ngai ngái và nằng nặng.
Tình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia núi Urăng. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Urăng là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam. Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.
4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21 trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch. Gần 6h sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây giờ gọi là phum “đại đội 1 tan tác” ). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối khác áp vào triền núi Urăng này. Hướng leo cũng đúng hướng tấm hình chụp, từ đông sang tây, vượt qua ranh giới giữa tỉnh KP S’Peu và Pursat.
Bắt đầu leo dốc khoảng 7-8h sáng. Lúc đó dưới chân rừng thưa, nắng xiên hướng đông đã chói lắm. Tôi gặp anh Quảng, D trưởng D4 tôi một thời gian thay anh Sơn đi học. Lúc này anh ấy đi chung với ban tham mưu trung đoàn. Anh ấy nháy mắt bảo thông tin chúng tôi là chúng mày chuẩn bị leo núi “Khô Rang”. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu rừng sáng còn ngon, nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối. Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành. Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế nào.
Cắm cúi leo. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Rồi cái ruột tượng 5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn trung đoàn thằng nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng đi sau lem nhem. Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực! Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô tháo đạn đứng dậy. “Mẹ hai thằng cà chớn! Rồi biết tay tao!”. Anh ấy chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức đâu mà đuổi! Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc.
Quá trưa, có lệnh nghỉ ăn cơm. Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng nguyên sau lưng hồng hộc thở. Lát sau mới tháo ba lô ra. Cái lưng áo ướt đẫm mồ hôi giờ trở nên lạnh lạnh vì khí núi. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Vèo một cái là nửa vắt cơm đi bay vì hôm đó có món mắm trâu của bọn cối đại đội 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống DK.82 cắt ngắn, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô đối.
Nghỉ một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù dưới thung lũng bốc lên. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy. Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng pháo. Cứ trầy trượt như
thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống, nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng.
Đại đội 16 cối 120mm còn nhục nhằn nữa. Bốn thằng lặc lè khiêng hai cái đòn xỏ chữ thập nâng đế cối, như người ta khiêng một con rùa khổng lồ. Chỗ rộng không sao. Chỗ hẹp phải có một đứa phát cây dọn cho đòn khiêng khỏi bị vướng. Cái chữ thập lúc mở ra, lúc khép vào kèn kẹt theo độ mở địa hình hướng đi. Những chỗ dốc quá, cái bàn đế trượt lê trên mặt đất núi ướt, ủi tung cả đất. Còn nòng cối, chúng nó tròng dây kéo trượt ngược lên, mồm miệng bạnh ra như hổ mang thổi lửa. Nhìn cái cảnh đó đừng đứa nào bảo lính pháo là sướng nữa. Xem cái ảnh hò kéo pháo lịch sử trong báo thì thấy vui như chơi kéo co. Còn nhìn cảnh các đại đội hỏa lực trung đoàn tôi khiêng pháo vượt núi trên đất trơn thì mới thấy khiếp. Tốt nhất là được làm cái thằng chụp ảnh hô hào tuyên truyền. Cho nó khiêng thử thôi chắc vãi cả *** ba họ.
Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Sức tôi khá yếu so với tụi nó. Hai thằng một máy, hai cuộn dây 600m, một khẩu súng, hai ba lô, hai ruột tượng 10 ký gạo… anh Ky đi cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế, chứ lúc đấy thì biết chó gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm.
Tôi tránh anh Ky, chui vào một bụi rậm vờ đi *** rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà như đi mượn. Trời tối đen. Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi ngủ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò duỗi chân ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chắn chỉ có làm mồi cho hổ.
Thằng Phụng người Huế, khoác cái máy 2w vừa leo vừa khóc. Nó bỗng phát khùng chửi đ…mẹ bọn tham mưu tác chiến trung đoàn lừa chúng tao! Bảo đêm là tới mà sao vẫn đi mãi. Lạc đường rồi! Chẳng may anh Phấn tham mưu trưởng trung đoàn đang bước ngay sau nó. Anh Phấn bảo mày ngon đưa máy cho anh khoác, còn bản đồ la bàn đây, cho mày lên làm tham mưu trưởng liền. Đ…má lính tráng cà chớn! Thế là nó im tịt, cắm đầu bước tiếp.
Giờ thì chẳng còn phân biệt được đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi. Cái bát sứ hoa men xanh bà già Miên cho ở Neak Luong cũng lẳng đi nốt. Nhẹ tí nào đỡ tí ấy. Còn nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy đói. Có chết cũng không thể là ma đói được. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào lên và dần dần chế ngự con người. Giá chết được ngay, chấm dứt nỗi khổ này ngay có khi cũng tốt! Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã, lúc nào cũng chực gục xuống.
Dần dần xung quanh chẳng còn ai…
Khi tôi chợt nhận ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Hóa ra mình cũng ham sống phết! Tôi dừng lại ghìm nhịp thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Giống như trong truyện cổ tích, tôi mở nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm lên. May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại đội hình, chúng tôi bước dấn qua.
Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản, tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm đốt lửa. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả những giọt lửa xanh lét xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần như ngủ ngay tắp lự…
Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc, kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. “Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn. Luồn sâu kiểu này thì lộ mất rồi.
Lúc này, phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương đục. Địch đã bắt đầu bỏ chạy. Chắc chắn là lộ rồi! DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu bắn phát một lên núi. Bắn kiểu mù thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào. Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân đau điếng, cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần.
Trời mờ sáng. Lội qua một suối nước tù sâu hoắm, nước lạnh căm căm thì lên đến một cái trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy ủi màu vàng choé. Nơi đó có một cây xoài độc lập rất lớn. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng rồi hô xung phong. Cối và DK bắn theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Không có tiếng súng bắn trả từ phía địch. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy công trình địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật Bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. Trong trận Ô Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng. Hy sinh gần hết một khẩu đội.
Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm. Tôi nhớ hôm đó hình như là chủ nhật. Nắng lên trong rừng quang đãng, với thảm cỏ non xanh vì gần suổi. Khoảng rừng này thật đẹp như tranh phong cảnh. Anh nuôi cho ăn cơm sớm. Đi lấy cơm về trung đội bằng đôi chân đau cứng các cơ, nhất là lúc mới đứng dậy từ võng. Ăn xong lại nằm ngủ tiếp.
Về sau này, quân pháp quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng cũng không tìm ra người bắn ba phát AK “bắt liên lạc” đêm đó, làm lộ đội hình luồn sâu. Khi đã tuyệt vọng hay lạc đường hoảng sợ thì hành động vô thức như thế là thường. Đừng có anh nào nói phét rằng các đồng đội cứ đi đi, cứ bỏ tôi ở lại một mình trong rừng sâu với hổ. Tôi sẵn sàng hy sinh vì bí mật quân sự. Lúc đó lại chẳng són *** ra quần. Người bắn đó là ai bây giờ nói ra cũng chẳng ích gì. Chuyện cũ đã qua đi lâu rồi. Không diệt được địch cũng là do số phận.
Hôm sau, tiểu đoàn hành quân phát triển rộng hơn về bên phải đường. Phía trung đoàn 1 đi trước, tiếng súng lớn nổ vọng lại ầm ì. Đơn vị mở rộng đội hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần của địch. Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào. Tiểu đoàn bộ đi đường bằng dưới thấp. Các đại đội đi theo bình độ trên sườn núi bao thung lũng. Được một lúc đầu đi theo kiểu đó, sau rồi vất quá nên bộ binh các C bộ binh hạ dần độ cao rồi nhập luôn với đội hình tiểu đoàn.
Ở đây xảy ra câu chuyện rất khó chịu và lạ lùng. Có một thằng địch thỉnh thoảng lại câu póc một trái M.79 vào đội hỉnh tiểu đoàn. Lúc hành quân, lúc nghỉ đêm đều không yên với nó. Lúc nó đón đầu đằng trước, lúc lại bắn từ bên sườn. Căn cứ vào khoảng nổ đầu nòng đến khi trái đạn nổ oành thì ước lượng nó luôn bám sát bọn tôi khoảng 250-300m. Gần như thằng này không biết ngủ. Đạn lúc nổ trên cây, lúc nổ dưới đất nhưng đều cách khá xa không gây thương vong. Chúng tôi không bắn lại nhưng đi đến đâu nó đều biết đến đấy. Hột “xí ngầu” mồ côi kích cỡ 40mm, gieo cái póc bất kể ngày đêm. Nó bay rất chậm rãi trong không trung...đủ thời gian để ta suy nghĩ, đợi chờ tiếng chẵn, hay tiếng bạc lẻ đời mình, không biết nó rơi vào đâu? Nói chung cực kỳ khó chịu. Anh Chính tréc tức lắm, cứ lúc nào nghỉ đều tung một B lên rình nhưng nó đều tránh được. Hình như nó là một con ma. Suốt 2 ngày trời liền như thế thì không thấy nó póc póc nữa. Chắc cu cậu hết đạn vì đạn M.79 ngay đơn vị tôi bấy giờ cũng bắt đầu thiếu.
Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn4 tìm thấy khá nhiều những những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum. Có cả một cái “kho” kéo cắt tóc Trung Quốc. Nhờ cái kho kéo này mà anh em trong tiểu đoàn có đồ để chỉnh trang sắc đẹp cho nhau. Một kho quần áo kaki rất dày dặn, màu xanh công nhân, may kiểu áo ga ba đin Trung Quốc của bộ đội ta cũ. Nhưng kho này ít quá nên tụi nó tranh nhau cướp.
Nhưng may nhất là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận đánh nhau, hành quân gai cào cỏ xé đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực.
Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may tay ngang là thằng Lễ đại liên. Với một cây kéo lấy được trong kho của địch, nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất thì giờ. Có moi quần cẩn thận, khâu vào bằng những cái khóa kéo nhựa YKK lấy được ở Ph’nom Penh. Có điều không cái quần nào có túi. Chắc là nó chưa đủ trình độ. Đường kim mũi chỉ của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và thường là ngoằn ngoèo, nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo manh quần che thân lành lặn. Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi trưa ngồi võng, cặm cụi tự khâu lấy quần áo cho mình thì trông rất tội! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu.
May võng thì đơn giản hơn. Để nguyên khổ vải đáp bốn, đáp sáu, có cái võng đáp đến tám lượt… rồi khâu chèn chặn gấp mỗi đầu hai lượt là có một cái võng tử tế. Võng nào cũng đáp nhiều lượt vải nặng trình trịch vì đó là để chúng tôi tích trữ vải. Khi cần tháo bớt ra may những đồ khác cần thiết hơn. Lúc đó chưa gặp dân, chưa có khái niệm đổi chó. Những kho nhiều vải, tụi nó quấn nguyên súc vải ngang dọc quanh các thân cây liền liền nhau làm võng tạm thời, như người ta trang trí bày đặt sân khấu. Dây võng dù lúc đó là của quý. Ngoài việc may quần áo, may võng, chúng tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu cần tiếp tế nên cái gì cũng có.
Thời gian này địch tan tác, đói lả… không gượng được nổi nữa. Cứ thấy bóng chúng tôi là chạy. Có khi gặp một cái xác teo tóp còn nguyên khẩu AK trong tay trên đường. Anh Ky bảo chắc là nó chết đói hoặc chết khát. Điều đặc biệt là tuy chúng nó chết đói như thế, song các kho gạo, kho vải phân tán trong rừng vẫn nguyên bao bì, không hề bị xâm phạm. Trái lại, lính ta bây giờ cứ thấy kho, thấy địch là ồ lên, mạnh ai nấy chạy tới, nổ súng không ra đội hình chiến thuật gì. Cách đây mới có non tháng thôi thì tình hình khác hẳn. Bây giờ trinh sát gặp địch cũng nổ súng luôn, không thèm chờ bộ binh. Lính tiểu đoàn bộ cũng nhoi lên kiếm lợi. Tất cả chỉ vì mấy cái kho, mấy cái đồng hồ hoặc mấy chỉ vàng trên tay hay trong túi mìn những thằng địch chết. Trên một cái trảng nhỏ, đại đội 1 bắn sụm 3 thằng địch. Thằng Đặc lao lên giật đồng hồ từ một cái xác. Đồng hồ chưa tháo khỏi tay địch thì thằng Trung cũng xông đến. Thấy thế, thằng Căn liên lạc bắn găm tung đất, cản thằng Trung để thằng Đặc thu chiến lợi phẩm được an toàn. Hai thằng này vốn thân nhau. Thằng Trung uất ức vì thằng địch đó do nó hạ,
còn thằng Đặc có nổ phát B.40 nào đâu? Anh Chính thấy chúng nó hục hặc, nổi cáu đòi thu đồng hồ. Nhưng cái đồng hồ lúc đó đã mất tăm tích.
Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn rất mới. Ở bên Campuchia, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp cận. Dưới gầm nhà, quanh chân cột, hơn chục thằng địch đứng ngồi lố nhố. Chúng nó đang nấu cơm chiều. Lính C1 cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm xăm thẳng về phía anh em đang bò vào. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi vừa đi qua. Chính “tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi gang vỡ với xác địch người tung lên. Trong đám đó chỉ còn ba thằng phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại đội 1 bắn đuổi theo ba thằng chạy rầm rầm. Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng.
Thế mới biết đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn nội tạng văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ! Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác. Thằng này lấy để xé giấy hút thuốc rê. Trúng phóc bọn đánh đại đội 1, băm mặt thương binh tử sỹ bên kia núi. Oan gia gặp nhau trong ngõ hẹp. Kẻ thù đây rồi! Anh Thào nổi cơn điên, quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên: “Để em!”. Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng 16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn. Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát. Thấy giật giật mấy cái rồi xuội lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi: “Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ đi.
Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không?
Trên các bản đồ tự nhiên Campuchia bây giờ, hay khi chúng ta tìm kiếm trên Google, “mục tiêu A3”_cái thung lũng rộng lớn nơi trung đoàn 2 chúng tôi luồn sâu trèo vào đó được ghi chú thích: “Aoral wildlife sanctuary”. Tức là khu bảo tồn động vật hoang dã Ôran (URăng như chúng tôi gọi). Tiểu đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu chân người. Có những nơi đã đi qua hôm trước, hôm sau lại có lệnh vòng lại. Nhưng rừng lúc nào cũng lạ như mới, như chưa hề đi qua.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám dân nhỏ ở trong rừng. Họ đói, rách rưới, trông như một đám người rừng. Đơn vị gom lại, kiểm tra đồ, chia cho ít gạo rồi chỉ lối bảo họ ra phía đường lớn về nhà làm ăn, không ai giết mà sợ. Có buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gẫy trục. Thấy bọn tôi, hai người đàn ông trong nhóm chống hai con dao quắm cố gắng đứng dậy. Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản thạch cao. Không thể quên những khuôn mặt nâu không có tuổi, không biểu cảm và dường như ở một thế giới khác. Họ nhìn chúng tôi như nhìn thấy những con sâu con bọ mà thôi. Bởi vì họ đang sắp chết đói.
Anh Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. Từng ấy cặp mắt sáng lên nhìn theo sự chuyển động của nắm cơm, như ta nhìn theo quả bóng thủ môn phát lên. Thằng Phượng bọ y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học) bảo cho nó ăn cơm là chết ngay đấy. Anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng. Một số thằng khác kiếm cớ khám bồng, lục túi mìn để kiếm vàng. Vàng bấy giờ cũng chẳng quý bằng nồi cháo loãng. Cháo chín được chia ngay thành từng suất nhỏ rồi hết bay. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như thế mới không bị sốc. Một bà giá cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên định bón cho thằng bé con. Nhưng nó đã chết trước đó. Bên cạnh nó là một cái gùi. Khám gùi thấy có mấy miếng thịt nâu đen xông khói mùi gây gây. Đầu tiên tôi cứ tưởng thịt bò sấy. Lão Ky bới xuống đáy thì thấy một cái cẳng tay khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Hắn rụt tay vội, nhăn mặt bảo thịt người. Không ai nói được một lời nào. Không phải là vì sợ, mà vì thấy ghê quá! Có thằng tự nhiên nổi khùng, đòi bắn chết mẹ hết. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi vẫn cho ít gạo và chỉ đường cho họ.
Chuyện nữa còn nhớ ở đây là chuyện đá khỉ mẹ văng khỉ con. Có một buổi sáng khoảng 9h, đơn vị hành quân qua một cái trảng hẹp đầy nắng. Tự nhiên không biết vì lý do gì có một đàn khỉ vàng đuôi dài ở đâu chạy cắt ngang qua đội hình. Đàn khỉ khá đông, có khi đến gần trăm con. Chúng nó lao qua ngay sát dưới chân. Nhiều thằng hoảng, giật mình kêu ơ ơ. Một con nữa đang lao tới gần. Tiện tầm chân, tôi đá vung một phát như đá bóng sống. Con khỉ mẹ khá lớn kêu oécc, lăn mấy vòng, văng cả con khỉ con nó đang ôm dưới ức. Song nó không sợ, nhào trở lại ôm con rồi chạy biến.
ĐUỔI BẮT TÀ MÔC Đài kỹ thuật vô tuyến điện quân đoàn dò được tin Tà Môc, chỉ huy quân khu Tây nam đang chạy về biên giới Thái lan qua nẻo “mục tiêu A3”. Tiểu đoàn 4 đang trong thung lũng này, được lệnh lên đường giữa đêm khuya, nhằm phum Kâmnon tiến gấp. Đơn vị bỏ đường bò, cắt rừng bí mật đến mục tiêu. Cũng may là rừng quãng này thưa nên chúng tôi hành quân không đến nỗi vất vả lắm. Đi cả đêm được gần 17 km, nhưng so với leo URăng thì thấm tháp gì! Đến gần vị trí xác định, tiểu đoàn hành quân chậm lại, vừa đi vừa tìm dấu vết. Đến gần vị trí trên bản đồ chỉ nơi con suối gặp đường bò, chúng tôi thận trọng cắt ra đường. Phát hiện vết xích xe M.113 hằn trên triền rừng còn rất mới. Thằng giặc già bỏ đường bò để tránh tạo dấu vết. Cả đơn vị được lệnh cấp tốc đuổi theo. Đại đội 2 đi đầu, kế đến đại đội 1 rồi tiểu đoàn bộ…Đơn vị cứ theo dấu xích xe mà chạy tới.
Trong khi mũi mồm tranh nhau thở, đã thoảng thấy mùi dầu máy. Hết khoảng rừng, chúng tôi ùa ra một bãi trảng, dốc thoai thoải mọc đầy cây dầu non. Cách khoảng 150m, một chiếc xe M.113 đang đỗ. Quanh chiếc xe, địch đứng ngồi lố nhố. Anh Quảng tiểu đoàn trưởng định ra lệnh bí mật bao vây tiếp cận nhưng không kịp. Hai đại đội đi đầu không chờ lệnh, nổ súng xung phong ngay. Bây giờ thì đến cả trinh sát cũng biết xung phong! Tiếng súng con rồ lên. Địch có chừng một trung đội, bị bất ngờ bỏ xe rẽ rừng chạy ào ào. Vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc. Trong số đó nhìn thấy cả mấy bóng phụ nữ quấn sà rông. Phần lớn tiểu đoàn bộ dừng lại ở bìa trảng cùng ban chỉ huy, tựa cây ngồi thở xem chúng nó xung phong. Mắt tôi chăm chú nhìn cái xe thiết giáp, nghĩ là nó chuẩn bị ăn đạn B.41 như trong phim. Cảnh mong chờ đó không diễn ra. Thấy mấy thằng lính ta nhảy lên xe, quay nòng khẩu đại liên bắn theo hướng địch chạy. Rồi một đám lính nữa lao đến bu tròn, lom khom quanh cái xe. Cái quái gì thế kia? Trúng mánh rồi! Tiểu đoàn bộ xung phong…!
Chạy đến nơi thì hóa ra chúng nó đang nhặt vàng, nhưng lúc đó đã gần sạch sành sanh. Lúc bộ binh nhảy lên chiếm xe địch, một thằng bê thùng đại liên trong xe tính thay băng đạn đang bắn sắp hết thì nặng quá trượt tay. Thùng đạn đại liên rơi bịch xuống văng tung nắp. Cả một khoảng vàng lấp lánh xoà ra. Những thằng trong xe sau khi ních đầy túi những nhẫn những miếng thì bốc vét ném ra bên ngoài ầm ầm. Bọn bên ngoài đổ xô vào nhặt, chen nhau bu quanh cái xe M.113 vừa thu được.
Ban chỉ huy tiểu đoàn chạy đến nơi thì hầu như chẳng còn dấu vết gì. Anh Thào rút K.59 cầm tay, ra lệnh những quân nhân nào đã nhặt được lập tức nộp, thu gom ngay về cán bộ chính sách. Quân đội cách mạng hay là một lũ kẻ cướp? Một số chậm chân, bị trông thấy quả tang mang nộp lại một phần lấy lệ. Cũng chẳng sổ sách kê khai định lượng gì hết. Quá bằng mang chia lộc cho các ông chậm chân. Thì giờ đâu mà sổ với sách? Chúng nó vẫn còn găm đầy đâu đó hoặc mang gửi, chia cho những thằng đồng hương cùng đoàn.
Thằng Cầm điếc anh nuôi nhặt một bộ vest đũi trắng mắc ngay vào người. Ai cũng biết là nó chỉ nghịch thế thôi nhưng ông Thào đang cáu, bắt nó mặc nguyên bộ mồi đó, khoác AK đứng nghiêm phơi nắng cạnh cái xe hơn 1h đồng hồ. Nhìn không ai nhịn được cười. Chiến lợi phẩm thu được trên xe ngoài những thứ như tôi vừa kể trên còn một số quần áo dân sự linh tinh, vài thùng các tông niêm phong đựng rất nhiều tài liệu. Tôi đoán đó là những tài liệu hết sức quan trọng vì cán bộ quân báo quân đoàn xuống ngay lập tức hôm sau để chuyển đi.
Đơn vị có lệnh đứng chân ngay tại vị trí này. Chiều tối, tôi đang nằm võng thì tiếng AK nổ sát sạt. Dây võng đứt đôi, đầu rơi xuống đập vào chân cọc phụ đau điếng. Thằng Hiệp híp cùng trung đội, mắc võng nằm cạnh thì kêu rầm lên. Nó bị một viên xuyên qua tay, mỡ lòi ra vàng như mỡ gà. Người bắn chúng tôi là anh Bình vàng, trung đội trưởng vận tải xách súng đi ị bậy. Khi về cắt lạc hướng, thấy chúng tôi nằm hơi xa đội hình, tưởng là địch nên bắn nhầm. Anh Nhương mất người nên tức, sang vận tải chửi một trận. Lão này kỵ và hay bôi bác dân Thanh hóa, trừ mỗi anh Ky và Toàn cồ thì không dám vì hai anh này to như đô vật.
Riêng thằng Hiệp khoái trá với cái vết thương phần mềm đó. Nhà nó ở 74 đường Nam Bộ và là fan ruột của The Beatles. Trên cái áo lót trắng, nó lấy bút bi vẽ những hình lằng nhằng như những củ khoai lang nằm cạnh nhau, chấm thêm mấy cái mắt, mấy cây guitar điện… và nó giải thích đấy là chân dung ban nhạc. Hồi ở Mekong, tôi đã ném cái bát của nó xuống sông vì nó sai tôi đi rửa bát. Hai thằng suýt đập nhau trận đó nhưng anh Ky can ra. Hôm nay thì nó cứ rút ra rút vào cái nhẫn sụ không biết đứa nào cho. Nó theo xe quân báo quân đoàn về viện rồi biệt tích luôn. Sau chiến tranh tôi mới gặp lại nó. Khi gặp lại, nó kể là nó được đi học trường Sĩ quan Lục quân 1 ở Sơn Tây. Thế mới tài !
Sau này, chúng tôi mới biết trận đó đã để xổng mất Tà Môc, Iêng Thirit (vợ Iêng Sary) cùng toàn bộ BCH quân khu tây nam của địch. Quá là tiếc! Giá như may mắn tóm sống được nó thì có lẽ đơn vị tôi không phải nằm đến gần 10 năm ròng rã bên đó. Và chắc chắn sẽ có Huân chương Quân công…
Tiểu đoàn 4 luồn trở ra đường ngoài thung lũng lớn sau một đêm mưa sầm sập. Cơn mưa đêm đầu mùa thật lớn. Một cái trảng rộng mênh mông hiện ra trước mắt. Bên kia trảng là dãy núi cao ngất màu lam thẫm, đỉnh trùm mây trắng. Trần mây thấp, trĩu nặng, cắt phẳng hình học ngang nửa trên núi, kéo suốt qua đầu chúng tôi như một biển sữa tĩnh lặng trên đầu, trông rất ấn tượng. Nước mưa rửa sạch cây lá và không khí, làm cho tầm nhìn trở nên trong suốt. Một khung cảnh địa lý hùng vĩ không dễ quên. Gần hơn là mấy cái nhà sàn vẹo vọ nằm dưới mấy cái cây dầu rái cổ thụ mọc thành chòm. Vài khẩu pháo 105mm chưa tháo càng khỏi xe kéo. Tụi trung đoàn pháo 42 với bọn hậu quân trung đoàn 1 đang nấu cơm sáng. Nhìn thấy lửa, ngửi thấy mùi khói mới biết mình vừa lạnh vừa đói. Cơm bọn nó vừa bắc xuống là tụi tôi nhào zô. Ê đồng hương cho bạn tém đôi chén. Nhiều thằng bẻ vội nhánh cây làm đũa tạm nhao vào. Chỉ trong vòng 5 phút, cái nồi quân dụng cơm loại to, xoong cá mắm hoai chưng sền sệt đã hết sạch. Đám quân bạn chưng hửng nhìn chúng tôi tập kích. Thằng anh nuôi lẳng lặng đi nấu nồi cơm khác. Khi nó kéo nồi xuống suối rửa vẫn có thằng lính D4 đuổi theo, lấy cạnh chén cà thành nồi kiếm chút cháy bẹn. Chắc chúng nó không hiểu tụi tôi là cái loại lính gì?
Gần hai tháng chui nhủi trong rừng, chỉ thấy cây và cây… nay được tuôn ra cái trảng cỏ rộng lớn không hạn chế tầm nhìn nên tinh thần anh em khoái lắm. Một đàn vịt trời đang lội gần bờ cái đìa lớn. Những con vịt xám, cánh nâu vàng, chỏm đầu xanh lục trông rất đẹp. Anh Sơn B trưởng trinh sát kéo bọp phát M.79 bi. Hai con giãy giãy, bềnh trên mặt nước. Một thằng em ngoan lội xuống nhặt cho đàn anh nhưng được vài bước thì bị thụt nên đứng im nghệt mặt. Nó không nhúc nhắc được chân nữa, la ồi ồi. Tụi trinh sát hè nhau túm tay lôi nó lên. Ống quần từ đùi trở xuống quện toàn bùn đen sủi, mùi thối hoắc. Không đứa nào dám lội nữa. Khi nó đang gột quần thì ruồi vàng ở đâu bay đến vu vu. Tôi bị nó chích phát vào cổ vừa đau vừa ngứa. Bọn chúng tôi vừa đập ruồi, vừa chạy chí chết cho mau qua cái đìa nguy hiểm này. Mùi bùn thối và nước động làm bọn ruồi vàng tưởng bọn tôi là loài ăn cỏ guốc chẵn, đến ngâm nước sớm ở cái đìa vĩnh cửu này. Nốt cắn con ruồi vàng còn gây ngứa rất lâu.
Chúng ta đang ở thời điểm tháng 5 năm 1979, tại các vùng phụ cận quanh thung lũng A3 tỉnh Pursat. Kể từ khi bắt đầu leo núi URăng, thời gian bị nhoè đi. Cuốn nhật ký không ghi thường xuyên được nữa, bởi những cuộc hành quân liên miên mệt mỏi, những trận mưa rừng xối xả. Nhưng những câu chuyện của đời lính không thể nào quên vẫn tươi nguyên trong ký ức, trong từng trang thiếu xé ra từ cuốn sổ “tiểu tư sản” để hút thuốc rê. Đôi khi, một mảnh cỏ khô giắt lại, một vết cháy do tàn thuốc đêm sâu nào đó hằn trong cuốn sổ gầy… cũng nhắc lại được rất nhiều điều…
Vào một ngày mưa như thế, chúng tôi được lệnh hành quân ra ga Bâmnak. Nghe đến từ Ga, từ Đường sắt đứa nào cũng thấy sướng. Nó là biểu tượng của văn minh, của phố thị mà đám lính rừng tụi tôi đang khát khao. Tiểu đoàn 4 hành quân trước. Trung đoàn bộ và tiểu đoàn 5 đi sau. Tiểu đoàn 6 chốt ở phum “Cà” (vì có một rẫy cà *** dê) sẽ rút ra sau cùng. Chúng tôi đi giữa nhiều đám dân bạn đồng hành, cũng đang lục tục trở ra đồng bằng. Rừng thưa dần. Đã thấy những khung nhà sàn không có người ở cắm chân bên những ruộng lúa nước. Gọi là ruộng lúa thôi chứ làm gì có lúa, toàn cỏ dại mọc lấn um tùm. Rừng chen ruộng. Ruộng lại chen rừng. Địa hình thoai thoải và tầm mắt mong mỏi đồng bằng được mở rộng dần dần.
Lúc đó, hướng phum “Cà” tiểu đoàn 6, tiếng hoả lực bỗng vọng lại rền rền. Chúng tôi được lệnh dừng lại, bỏ trang bị nặng chuẩn bị đánh vận động. Đơn vị ngoặt hướng chưa được nửa cây số lại có lệnh trở ra đường tiếp tục hành quân. Về sau có nghe thằng Bình “cáo” và thằng Bình “ghẻ” ở khẩu đội đại liên đại đội 12 kể lại trận này. Khi toàn tiểu đoàn 6 chuẩn bị lên đường thì địch đánh ập vào. Bọn này hẳn là thiện chiến và giàu kinh nghiệm nên chọn thời điểm tấn công hết sức nham hiểm. Khi chuẩn bị hành quân, đương nhiên các loại hoả lực sẽ phải tháo súng, bộ đội sẽ rời công sự và tâm lý thường mất cảnh giác hơn. Khẩu đại liên đại đội 12 vừa tháo xong thì chúng nó khai hoả. Quả B.40 bay sát bờ công sự, kẹt đuôi cánh vào cái gốc cây hai chạc nhưng không nổ. Hai thằng hoảng loạn, đờ mắt nhìn cái đuôi đạn đen nhám còn bốc khói, bỏ khẩu đại liên đang tháo dở rồi chạy lui. Vừa chạy vừa quạt bậy AK vào hướng đám khói đen đầu nòng bên kia suối. Anh Thắng “chàm” tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lệnh cho các đại đội từ phương án đánh địch tại chỗ chuyển sang đánh vận động. Lính Pốt bỏ chạy sau mươi phút giao tranh.
Trận này thằng Kính C12, lính Hải Phòng hy sinh. Tôi nhớ thằng Kính hồi huấn luyện ở Phủ lý, Hà nam ninh, là cán bộ khung - tiểu đội trưởng. Không hiểu sao lại phải vào đơn vị chiến đấu cùng đoàn tôi. Tuổi sàn sàn, gặp nhau mới mày tao chứ thời huấn luyện thì vẫn gọi bằng anh bỏ mẹ!
Ra đến đường bò lớn thỉ thấy phần lớn trung đoàn bộ đã vượt lên đi trước. Đám ban hậu cần B3 đang ngồi nghỉ ngoài đường. Lúc đó quãng 2h chiều. Một thằng lính trong ban 3, không biết kiếm ở đâu được chiếc xe đạp nam còn mới, đang đạp dấn qua. Nó khoác súng chéo trên lưng. Ba lô buộc trên giá đèo hàng phía sau, gióng ngang vắt mấy cái ruột tượng gạo. Trông nó đạp xe thong dong nhàn nhã cứ như đi dã ngoại. Một hình ảnh anh bộ đội thời bình, trông ngồ ngộ. Giá mỗi thằng lính có một cái xe như thế hành quân thì rất thú. Nó lách qua đám dân đánh xe bò rồi vượt lên tiếp, để lại trên đường cát đọng vết bánh xe mờ, ngoằn ngoèo xinh xinh…
Đó là những phút cuối cùng của nó trước khi lên thiên đàng. Khi chúng tôi lên ba lô, đi tiếp khoảng 400m nữa thì đã thấy nó nằm sấp mặt trên vũng máu. Đầu nó lìa khỏi cổ vì một nhát chém bằng dao quắm cực ngọt từ phía sau. Cái xe đạp văng sang một bên. Súng đạn, mấy ruột tượng gạo, đôi dép đã biến mất, không còn gì trên người ngoài bộ quân phục đẫm máu đang mặc. Mùi máu tươi tanh nồng dưới nắng. Hết sức phẫn uất!
Lính tiểu đoàn 4 như phát cuồng cả lượt. Bọn nó hằm hè nhìn đám dân, thấy người nào có vác dao quắm là xô lại túm ngực lôi đến cái võng tử sỹ ấn dúi đầu vào đấm đá. Đoàn người sợ hãi xanh mét cả mặt. Lúc nãy còn tử tế xin thuốc xin nước nhau là thế mà bây giờ tình thế đổi khác hẳn… Cơn giận đã làm mờ mắt. Gần như chuẩn bị có một cuộc tàn sát lớn. Một anh có vẻ là cán bộ chính trị đi với đám bậu xậu B3 hò hét khản cả giọng, rút K.59 ra bắn chỉ thiên. Anh ấy xô lính ra, bảo nếu bắn dân thì bắn tôi trước đi. Những cái đầu nóng dần dần nguội lại.
May là thằng lính hy sinh đó không phải là lính D4, ăn cùng mâm ngủ cùng võng chí cốt, nên anh em cũng đỡ bị kích động. Chứ nó là lính D4 thật thì có trời xuống mà bảo. Những thằng lính cùng phiên hiệu đơn vị nhỏ nó có những mối liên hệ tình cảm riêng. Trung đoàn lệnh cho vận tải D4 khiêng tử sỹ đi gấp. Chần chừ thì bọn tiểu đoàn 6 nó vừa bị tập kích mất người, dồn đến nữa chắc không kiểm soát được tình hình. Từ đó cho đến tối, chúng tôi lầm lụi đi nhanh.
Chúng tôi ra đến ga Bamnak vào buổi chiều hôm sau. Vừa qua khỏi kẹp núi đã thấy cánh đồng, thấy thốt nốt mọc từng cụm đứng im phắc trong bóng nắng xiên. Có một đàn bò rất đông đang ăn cỏ, khua mõ lắc chuông, rung reng lốc cốc rất vui tai. Dân về trú tạm lại ga trên những lều sàn nhỏ cất vội tạm bợ. Họ ở đây vài bữa, cho đám bò nhai cỏ hồi sức trước khi lùa ra lộ 5. Dân đói, họ mót lúa hoang giã gạo nấu cháo trong những ăng gô móp méo. Tôi thấy món cháo của họ có màu xanh xanh như bột bánh khúc. Một đám phụ nữ tắm dưới suối. Lội lên vẫn để sà rông, áo ướt nhẹp rỏ nước tong tỏng trên đường cát.
Nhà việc của ga Bamnak ngày chúng tôi trở lại. Không khác mấy sân ga của 30 năm về trước. Khung cảnh vẫn tiêu điều như thế. Mái nhà việc bị thủng một đám ngói, chắc do bị quả M.79 câu vào không ai sửa (?)
Dân không dám trụ lại những phum bám quanh nhà ga, vì nơi đây vẫn còn hoang vu và nằm trong vùng chiến sự. Một cái nhà ga hoang đúng nghĩa. Ban đêm, lợn rừng vào ủi tận những mảnh ruộng sát mép đường sắt. Còn ban ngày, vịt trời và các loài chim nước tụ đàn trên những đầm nước ven đường. Cầu đường sắt bắc qua con suối Damrei (trung đoàn gọi là suối tiểu đoàn 4) chưa bị địch phá nhưng cầu đường bộ, vốn làm bằng những cây gỗ lớn, đã bị chúng nó đốt nham nhở. Cầu đường bộ giờ đã làm cầu beton:
Trở lại cùng với mùa mưa là các hoạt động tăng cường của địch. Những hoạt động tuy nhỏ lẻ nhưng thường xuyên gây khó khăn cho chúng tôi. Công tác hậu cần bị chậm trễ. Từ Bâmnak ra lộ 5 chỉ có hai con lộ đất. Lộ 28 chạy từ ga Kâmrenh (ga phía trên Bâmnak), qua kẹp núi Tuk S’ra, gặp lộ 5 tại Kra Ko. Lộ không tên, vốn là con đường bò lớn chạy từ ga Th’may, ga dưới ga Bâmnak ra thị trấn Ponley. Đi đường nào lộ trình cũng tương đương 30 km toàn rừng thưa và đồng hoang không một bóng người.
Đường sắt chưa khôi phục hoạt động. Tất cả trông chờ vào xe vận tải sư đoàn và trung đoàn. Mỗi lần chốt đường thông xe là mỗi lần đổ máu. Tuy ít nhưng cứ lai nhai rất khó chịu. Nước mưa xuống, rừng nhiệt đới sinh sôi phát triển mãnh liệt. Có những khoảng rừng thưa khẳng khiu khi đơn vị đi qua mới non một tháng. Khi trở lại vòm lá đã trở nên thẫm tối. Những con đường bò mùa khô đầy bụi. Bây giờ cỏ dại đan ken che lấp hai vệt bánh, phải khó khăn lắm mới nhận ra. Còn trên những bình độ dốc, nước mưa chảy ào ào trên đường bò, xói đi đất đá. Lúc đó con đường bỗng trở thành con suối một mùa.
Mùa mưa đến cũng có nghĩa mùa sốt rét bắt đầu tác quái. Đơn vị bắt đầu có những thằng sốt nằm li bì. Quân số tác chiến bắt đầu giảm đi. Riêng trung đội thông tin chưa bị dính ca nào. Y tá tiểu đoàn và các đại đội bắt đầu phát thuốc Nivaquin, bắt phải uống trước mặt vì sợ chúng nó vứt thuốc đi. Không hiểu sao hồi ấy lại có tin đồn là uống thuốc này ( gọi là viên phòng 3) thì sẽ chẳng thể có con được. Buổi sáng hoặc buổi trưa những ngày nghỉ truy quét, chúng tôi thường ngủ lu bù trên võng. Giấc ngủ nặng mê mệt, có ai lay chỉ mở mắt được vài giây lại vô thức chìm đi. Anh Nhương phải đến lùa từng thằng dậy, bắt vận động đi lại cho nó tỉnh người. Ngủ nhiều rất dễ bị sốt rét.
Những toán địch nhỏ vẫn bâu bám đơn vị rất sát. Chúng nó bám theo dân và ra ngoài ga này kiếm ăn vì trong rừng có lẽ hết lương thực. Vệ binh trung đoàn và đại đội công binh đêm đêm phục quanh chỗ dân ở tạm. Không liên lạc, dọa dẫm được nên chắc các chú đói. Bởi ngay
dân cũng còn đang đói. Quanh ga là các phum cũ bỏ hoang. Ở đó các cây ăn quả đang ra trái. Bọn địch ăn tranh cả trái cây với chúng tôi. Xoài chín chúng nó ăn ngay gốc. Còn xoài xanh chúng nó đập rụng mang đi hết. Nhiều cây ổi thấy quả xanh chát sít, nham nhở vết răng lăn dưới đất. Nhựa ổi chưa kịp thâm, chứng tỏ mấy con ma đói vừa đi qua. Có những sân nhà cũ, đậu đen mọc len với cỏ dại. Cây đậu đen gì kỳ lạ, leo lên được cả hàng rào, chen nhau với các cây bụi khác như đậu đũa. Tôi với thằng Căn hay hái trái chín, gom phơi nổ hạt để nấu chè. Vài bữa trở lại “vườn” đậu thì đã thấy dấu dép vuông của mấy thằng Pốt đói đến thu hoạch trước. Nó ngắt cả ngọn đỗ non để ăn. Bọn tôi bắt chước, hái ngọn đỗ non nấu canh cũng thấy rất bùi, ngon hơn rau môn thục nhiều.
Một buổi sáng ở bình độ 100 trong kẹp núi, khi đại đội 1 rời đi lùng sục, địch mò hẳn vào chỗ đóng quân tạm lúc sáng. Có một cái chum sứt lớn, lính đại đội 1 thái măng ngâm chua với ớt rừng để ăn dần. Bọn nó vớt hết sạch măng, sau đó cũng đập tan cái chum, hệt như cách chúng tôi cư xử với những chum muối của chúng nó. Nhớ một buổi sáng mưa mù, đang đánh răng khan ở cái rãnh ven đường thì thấy hai thằng Pốt vác hai cây AR.15 lững thững đi trên đường lớn từ cửa rừng ra. Khoảng cách khoảng hơn 100m. Tôi hẩy tay ra hiệu cho thằng Trung cũng đang rửa mặt bên cạnh. Nó hấp tấp chạy sang bên kia đường, về chỗ B nó lấy súng. Hai thằng địch đói trông thấy, đứng nhìn một lát rồi lại lững thững trở lui cửa rừng. Anh Chính không cho đuổi vì sợ gài phục. Lính C1 ngắm bắn phát một. Chúng nó vẫn đi lững thững như thế. Khuất hẳn trong rừng rồi mới bắn lại 3 phát. Không biết chúng nó giỡn bọn tôi hay không có sức để chạy.
Quân số hao hụt trong chiến đấu, nay càng hao hụt thêm vì sốt rét. Đại đội 1 mà tôi đi máy lúc này chỉ còn khoảng gần 30 người, kể cả thông tin đi phối thuộc. Có những trung đội chỉ còn 6 tay súng. Đại đội lại phải san bớt người ở các trung đội khác sang. Ban đêm, mỗi B gác 2 vọng từ chập tối. Chỉ huy sở và cối 60 cũng phải gác, trừ cán bộ đại đội. Nhưng thấy anh em vất vả quá, các anh ấy cũng chia phần thức đêm với lính. Đi truy quét, chúi rừng rậm ngủ thì ù xoẹ gác thế nào cũng xong. Còn dừng chân tại các phum cũ, các giao lộ đường bò, không thằng nào dám bỏ gác. Có buổi sáng thức dậy, đang lào xào thu võng thì chúng nó bắn rát vào đơn vị.
Đại đội chia cánh vận động lên thì địch đã chạy. Tại chỗ địch bắn vào đội hình lúc nãy đếm được 12 cái cọc phụ mắc võng. Nghĩa là đêm hôm qua đã có 6 thằng địch ngủ cạnh đại đội 1, cách có 40m, cứ như một B phối thuộc vậy. Anh Chính “tréc” thè lưỡi trợn mắt, hất hàm dọa bọn tôi: “Thấy chưa?!”.
Một đêm, đúng ca gác của tôi, gần hết ca tự nhiên đau bụng quá. Tôi lần về võng, lục ba lô lấy vội mấy cái phong bì thư. Để làm gì chắc các bạn đã biết. Bên phải là B2 , bên trái là B3. Lò mò sang hai hướng ấy chúng nó tưởng địch quất cho bỏ mẹ! Thế là tôi cứ thẳng hướng gác của mình tiến lên. Qua khỏi đội hình chừng 15m, nhớ lại chuyện ngủ chung với địch hôm trước. Tôi không dám mò lên nữa, ngồi luôn xuống làm công việc giải thoát đại tràng. Xong xuôi khoan khoái, rờ quanh thấy một nửa cái vỏ dừa tươi. Tôi vớ lấy, úp lên cái sản phẩm cuối cùng của bộ máy tiêu hoá. Hết ca! Về bấu thằng Căn liên lạc dậy thay rồi chui vào võng. Nằm được một lát, chưa kịp ngủ lại thấy thằng Căn mò về bấu anh Chính “tréc” đại đội trưởng: “Anh ơi! Dậy! Địch ở rất gần!”. “Sao mày biết?”. “Có mùi phân tươi, anh ạ!”.
Quả đúng là trong không khí cuối gió, mùi phân người thoang thoảng. Ông Chính dậy ngay, bảo thằng Căn luồn xuống các trung đội báo động. Tôi nằm im re, không dám nói gì! Đến sáng, đội hình thận trọng bung ra. Vẫn không thể phát hiện được cái mùi đặc biệt ấy từ đâu? Dòm ngó loanh quanh một lúc, thằng Dung cối quả quyết vung chân đá tung cái vỏ dừa. Nó vênh mặt chỉ tay, nhìn quanh, đắc ý như Colombus tìm ra châu Mỹ. Bên trong cái vỏ dừa, kèm theo những thứ không tiện nói là cả một cái phong bì. Hàng chữ nắn nót trên đó tố cáo ngay chủ nhân của nó: “To X.T – Hòm thư 4R1262 Tây ninh”. Phải giới thiệu tên mình trong cái hoàn cảnh đặc biệt như thế này quả là không tiện. Cho đến tận bây giờ gặp nhau, bọn tôi vẫn nhắc lại rồi không nhịn được cười.
Dân đã ra ngoài lộ 5 hết. Tiểu đoàn tôi vẫn ở lại cái ga Bamnak này. Một buổi trưa, anh Tiến mới nhận tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 thay anh Quảng (bệnh – đau dạ dày cấp), cùng tổ trinh sát 27 sư đoàn trèo lên cái tháp nước trên sân ga. Cái tháp nước này cao khoảng 15m. Trong khi đang quan sát địa hình bằng ống nhòm thì bị địch bắn tỉa. Phải nói thằng địch này rất thiện xạ. Từ khoảng cách có đến vài trăm mét, viên đạn có lẽ bắn từ khẩu K.63 xuyên qua bụng (chắc chắn hồi đó địch không có súng bắn tỉa ống ngắm quang học dùng đạn K.53). Chúng tôi thấy anh ấy ôm bụng gục ngay trên tháp nước. Hai thằng trinh sát 27 vội nằm ngay xuống kêu ầm lên. Anh Thào tiểu đoàn phó cho lính vận động, chủ yếu là để đuổi địch thôi chứ biết nó bắn từ đâu trong cái ngàn xanh bao bọc sân ga này. Mọi người đưa anh Tiến xuống. Cũng may là viên đạn không phá nhiều. Khoảng 2h chiều, trực thăng UH.1 đáp xuống sân ga, đưa anh ấy cùng mấy thằng sốt rét ác tính đi viện luôn.
Ngay chiều tối hôm ấy, theo lệnh trung đoàn, anh Thào dẫn tiểu đoàn càn vào hướng địch bắn tỉa lúc trưa, tiến đến dãy núi “thằn lằn” - (dãy núi Tà Đạt). Đơn vị bỏ đường lớn, cặp theo suối rẽ rừng tiến bước. Qua phum Th’mei, trời đã nhập nhoạng tối. Phum Th’ mei là một phum lớn, còn nguyên vẹn nhưng cũng là một cái phum hoang như hầu hết các phum trong khu vực. Những ngôi nhà sàn lừng lững, mái ngói đã
lên rêu phủ bóng tối xuống mảnh sân mà cỏ dại đã lấn vào. Trên sân, mấy cái cối, dùng để giã gạo hoặc cốm dẹt đã mục, nằm chỏng trơ. Xoài tượng rụng vàng gốc, bốc lên mùi men rượu chua nồng.
Khi ta bước lên thang, những bậc gỗ cũ kẽo kẹt như sẵn sàng rụng xuống. Trong những ngôi nhà rộng rãi và tăm tối đó đầy mùi ẩm mốc và tử khí. Đôi khi gặp những xác người đã phân huỷ, dưới lớp áo quần đã mủn là những bộ xương rã rời. Tóc rụng quanh sọ không tiêu huỷ được, xếp thành một lớp chằn chặn dưới sàn. Và dơi! Dơi quạ ở đây to khủng khiếp. Sải cánh mỗi con phải đến gần 1.0m. Cả đàn hàng trăm con đến ăn xoài chín, bay bốc lên quạt cánh phần phật tối cả trời.
Những con dơi xao xác bay làm lộ vị trí chuẩn bị nghỉ đêm của chúng tôi. Địch tập kích ngay. Nó có chừng một tiểu đội với khẩu đại liên Mỹ, tha đi hết góc này đến góc khác bắn vào đội hình. Đàn dơi hoảng sợ lại càng bay tợn. Nghỉ đêm tại cái phum ma này quả là ngán! Bố trí đội hình xong, mấy thằng chúng tôi lên mấy căn nhà, đạp vách gỗ xuống triển khai công sự nổi. Tôi vẫn đi với đại đội 1 như truyền thống. Thằng Căn, thằng Đồng Huế xúc đất đắp vào các tấm ván mà tôi với anh Lược chính trị viên phó xếp ốp vào các chân cột nhà sàn. Chỉ một lát, cái “chiến luỹ” đã hoàn thành. Bọn thằng Tào, thằng Lại anh nuôi cũng triển khai cơm nóng cho anh em trong cái công sự ấy. Địch bên ngoài thấy khói chỗ nào bắn bắn liên hồi vào chỗ đó.
Có những viên đạn xuyên trúng mép cột, tước gỗ xơ ra rồi văng lung tung. Bọn tôi cứ phớt lờ. Bắn chán thì thôi! Ăn cơm xong còn kịp uống ấm trà chót mà thằng Đồng ém được. Đội hình bố trí hơi gom, các trung đội nằm tại các nhà khác, cách chỉ huy sở đại đội có khoảng 20m. Chúng tôi nằm gần như lọt thỏm giữa các B nên không cần gác. Bây giờ mắc võng tụt xuống hơi thấp khỏi cái vách đắp lũy một chút là có thể ngủ ngon.
Trời tối đen như mực rồi bắt đầu đổ mưa. Phía dưới B2, thằng Tám khoẻ và Minh đen bò lên cái bụi um tùm có cây thốt nốt độc lập, trước trung đội chúng nó khoảng 30m. Rình thấy loé lửa đầu nòng khẩu đại liên của địch rồi kéo một điểm xạ dài RPD. Sau đó lại rút êm về đội hình trung đội. Đêm đã về khuya. Trời vẫn cứ mưa, mỗi lúc một sậm hạt. Tiếng súng địch vẫn cứ oăng oẳng hết hướng này đến hướng khác. Vào thì chẳng dám vào, rút thì cũng không chịu rút. Mưa rừng thế này sao không kiếm cái chỗ nào ngon mà mắc võng ngủ đi con!
Về nhà mà cày ruộng hay đánh cá. Kiếm một con vợ ngực đầy hông nở trong cái đám gái phum vẫn múa lăm-thôn dưới trăng rằm hồi trước ấy. Rồi ghen tuông đấm đá, rồi sinh con đẻ cái đi…! Theo ba cái thằng vác cuốc đập đầu ấy làm gì, để hành các bố mày phải khổ thế này! Mẹ kiếp! Mưa đầu mùa cữ này cá rô đồng đang rạch lên phải biết! Tự nhiên, tôi thấy ái ngại cho chúng nó.
Giấc ngủ đến trong tiếng súng địch và tiếng mưa rơi đều đều suốt đêm.
Sáng hôm sau trong khi chờ cơm sáng, anh Chính tréc với thằng Đồng cùng B3 lên thám sát ngoài đội hình. Vừa lò dò qua khỏi chốt trung đội 3 khoảng hai trăm mét đã đụng địch ngay. Mỗi bên nổ vài loạt AK xong đều co lại. Anh Chính bảo anh Lược tao thấy có 5 thằng. Sáng vẫn mưa. Chúng tôi nằm khoèo chờ C19 chuyển đạn và đưa tham mưu trung đoàn xuống. Lệnh tiếp tục hành quân đêm bí mật vào sâu trong dãy Tà Đạt.
Chiều tối ăn xong, lĩnh thêm vắt cơm. Khuya chúng tôi im lặng lên đường. Đi một lát, qua cái phum “Chùa đổ” (sau này là cứ của D6) thấy có một cái nhà ngói thật dài, nhưng không phải nhà sàn như thường thấy. Cái nhà này trông như cái tàu ngựa. Qua hết phum này là bắt đầu vào đến triền rừng. độ gần 6 km nữa là đến chân dãy núi Tà Đạt. Đó là một rặng núi thấp, cao nhất cũng chỉ độ 400m. Bên kia núi là rừng thưa tiếp đến lộ 5, rồi ra đến Biển Hồ. Chúng tôi đi chậm vì trinh sát bám đường rất cẩn thận. Tự nhiên đến một đoạn dốc, thấy đội hình ùn rồi dừng hẳn lại. Anh Sơn con B trưởng cùng cả trung đội trinh sát luồn trở lại, hổn hển bảo C1 đi đầu lui lại, về gần tổ chức đội hình, chuẩn bị đánh địch. Sau đó tọt về tiểu đoàn bộ luôn. Báo cáo BCH cùng tham mưu trung đoàn đi cùng là đằng trước địch đang hành quân rất đông. Quân số ước tính tới 2 tiểu đoàn cùng vũ khí nặng.
Anh Thào chửi đ…mẹ mấy thằng trinh sát nói láo! Lấy đ…ra hai tiểu đoàn Pốt lúc này? Bám lên tiếp! Anh Sơn khùng, cãi bảo anh thử áp tai xuống đất im lặng mà nghe cho rõ. Cả chỉ huy, tham mưu lẫn bọn tôi đều làm như anh ấy bảo. Im lặng một lát. Quả nhiên có tiếng động rậm rịch trong lòng đất thật, như là có hằng trăm người đang hành quân vác nặng đang đi qua khá gần. Truyền đạt chạy xuống phía sau đôn tiếp C3 lên ngang C1 theo lệnh anh Thào. Sau đó báo tình hình địch về trung đoàn. Ban tác chiến cùng CH sở trung đoàn bảo D4 bí mật nằm im đấy, chờ tiểu đoàn 6 lên đường trong đêm đến tiếp ứng mới được phép nổ súng.
Mấy tháng đuổi đánh địch toàn ở thế hơn người, hơn hỏa lực. Nay thấy lực lượng Pốt nó gấp đôi mình trong cái rừng đêm lạ lẫm này thì tôi hoảng quá. Có tiếng sọt sẹt đào khoét công sự đằng trước phía các đại đội bộ binh. Anh Thào cáu quá, đích thân dẫn liên lạc chạy lên, rít nhỏ bảo chúng nó thôi không đào khoét nữa, lộ mẹ nó bây giờ. Cứ tựa gốc cây ụ mối đánh địch là được rồi! Tôi với anh Ky cũng kiếm được một ụ mối khá lớn. Chúng tôi trải nilon ngồi. Mối rừng sau mưa đi rào rào dưới lá mục. Mệt muốn nằm chút, nhưng mối luồn buồn buồn dưới lưng, nghe rởn hết gai ốc. Lại phải ngồi dậy nhưng cũng không dám rời ra chỗ khác.
Gần tang tảng sáng thì D6 lên đến nơi, giá cối và hỏa lực, làm thê đội bọc sườn dự bị bên phải. D4 đánh vận động thẳng làm đơn vị chủ công. Tôi, anh Ky cùng bọn truyền đạt trước hay nhoi lên ngay sau *** bộ binh, tính a la xô tranh thủ mót cái túi mìn hay cái võng chiến lợi phẩm. Nhưng trận này biết địch đông, nghe thấy ơn ớn trong người nên thôi, cứ bám lấy chỉ huy sở. Bộ binh các đại đội dần lên hết. Mãi không thấy súng nổ. Bọn tôi ngồi chán dở cơm vắt ra ăn.
Lát sau thấy tiếng Chính tréc với ông Thào la chửi um sùm phía trên. Đ…mẹ tiểu đoàn địch gì bây! “Tiểu đoàn bò” nó kêu tiểu đoàn địch. Mọi người chúi vào xem xét dấu vết. Đúng là bò thật! Đêm qua có một đàn bò lớn đi ngang trước mũi trinh sát tiểu đoàn tôi làm trinh sát tưởng địch. Vó bò dày xéo, nát cả một vệt cây bụi thấp. Nhưng bò vô chủ, tụ đàn đi đêm thì quả là chuyện lạ không biết thế nào?
Tiểu đoàn 6 chưng hửng rút về ga ngay lúc đó. Còn ban tác chiến trung đoàn gọi D4 chúng tôi là “tiểu đoàn bò”. Ngày hôm đó, D4 leo lên đỉnh núi Tà Đạt, không phát hiện được địch. Chỉ thấy mấy cây dầu lớn thân đã đục vũm và nhựa dầu đang cháy. Mấy thằng ma đói này làm chúng tôi mệt nhoài. Ngay chiều hôm đó lại có lệnh trở ra ngoài đường sắt.
Tiểu đoàn 4 ngược lên ga Kâmrenh, cái ga xép trên ga Bamnak 8 km. Đây là cái ngã ba có con lộ đất 28 chạy từ lộ 5 vào đường sắt.
Đại đội 1 đóng trong phum nhà ngói. Vị trí cách xa tiểu đoàn nên dây thông tin phải tở đôi ra để dùng dây đơn. Cực còn lại đóng cọc âm sâu dưới đất. Chúng tôi cắm những cọc thấp trên bờ ruộng để kéo dây cho khỏi bị nước ngập, trông rất lộ. Cách đây vài tháng thì bố bảo không thằng nào dám kéo dây kiểu đó. Mưa nhiều, ruộng mới ngập nước xâm xấp, mấp mé sát chân cột nhà BCH. Không có suối nên anh nuôi đào
một cái hố lớn trên mặt ruộng để lấy nước nấu ăn. Những hôm mưa buồn nằm võng ngáp dài, ngắm cái hố nước con con cũng thú vị. Trong hố, những con cá con mới nở, nòng nọc cùng bọn rận nước nhào lộn như điên. Từ cái dạo gặp cá “mã giáp” khủng ở Chi Phu đến nay mới già nửa năm nhưng tôi cảm giác như đã già đi mất nửa đời. Anh Síu thiếu úy chính trị viên mới đi học về lại C1.
Không hiểu anh này thế nào mà cứ đánh trận lớn hoặc hành quân đánh địch dài ngày gian khổ là lại được đi tập huấn. Thế mới tài! Chúng nó đồn hội Hải Hưng trên ban bệ trung đoàn mạnh lắm. Anh Síu không khoái cái đường dây thông tin lộ kia kéo thẳng, sợ đêm địch nó lần theo dây vào thịt ban chỉ huy. Chắc xa mặt trận lâu ai cũng có tâm lý ớn. Anh bắt tôi với anh Ky kéo dây vòng qua trung đội 2 rồi mới kéo về đại đội. Tôi chỉ cái sừng bò còn dư độ chục vòng, bảo lấy đâu ra dây nữa mà kéo. Anh ấy bảo chúng mày kéo dây sang B2 mà nằm, có điện thì về đây gọi tao. Anh Ky cũng ngang, bảo chúng tôi cũng *** thích ở với ông. Chính tréc C trưởng dân quân sự, không thích lèm bèm, im lặng thây kệ bọn tôi vặc nhau với cán bộ chính trị.
Chúng tôi kéo dây về B2, ở với Khương khàn rất sung sướng. Chia cơm ăn về trung đội 2 luôn. Khương khàn ưu tiên không bắt chúng tôi gác. Để tỏ lòng biết ơn, tôi thỉnh thoảng nhờ mấy thằng máy khác ở C2, C3, C4 gọi đồng hương Hà Sơn Bình cho anh Khương nói chuyện líu khíu mệt nghỉ. Anh Nhương gọi thằng Vỹ với thằng Ban trố về trung đội, học bảng mật danh mới. Mỗi lần tiểu đoàn gọi anh Síu, tôi với anh Ky bảo không có anh Síu ở đây. Còn gặp Chính tréc thì tôi về gọi. Nhiều lần như thế, phải chờ người lâu nên tiểu đoàn hỏi tại sao.
Tôi trả lời là do như thế như thế. Ông Thào nổi khùng chửi C1 cả trong giao ban tiểu đoàn. Anh Síu lại phải bảo chúng tôi kéo dây về như cũ nhưng bắt thông tin, liên lạc, y tá văn thư bậu xậu gác đêm theo hướng đường dây “nguy hiểm chết người”. Bố khỉ! Tôi với anh Ky mắc võng đấu đầu nhau cùng một cái cột. Khẩu AK dựng ngay chân cột đó. Hai anh em bao giờ cũng liền ca nhau, và thường là cứ ngủ thẳng cẳng một mạch. Những thằng gác ca sau tất nhiên im lặng sung sướng, không có ý kiến gì.
Anh Síu đi họp quân chính trên tiểu đoàn, tiện thường nhận thư luôn cho toàn đại đội. Cứ thích xem lá thư nào là bóc lá thư đó. Vợ chồng anh em người ta có chuyện gì riêng riêng buồn cười trong thư là anh ấy lôi ra bôi bác làm vui. Rất bố láo! Lần ấy, khi thấy lá thư của tôi có tên người gửi là thằng T.Anh_ thằng chuồn hồi ở chốt biên giới, vào lại đơn vị ở KP Ch’nang mà anh Síu đã đuổi đi. Anh Síu mới bóc luôn ra xem. Các chuyện linh tinh khác trong thư không nói làm gì. Riêng phần tái bút nó viết nguyên văn: “À! Cho tao gửi lời hỏi thăm xem thằng
Síu chính trị viên đã chết chưa?”. Anh ấy đọc đến dòng đó tức tái mặt, nhảy dựng lên như đỉa phải vôi, làm toáng lên rồi đùng đùng chạy đi tìm tôi.
Lúc đó tôi đang cười sằng sặc cùng bọn trung đội 2. Có mấy đống rơm dưới cây xoài đang lên nấm trứng. Ăn rất ngọt! Mọi ngày vẫn ăn thì không sao. Hôm đó chúng nó hái lẫn thứ nấm nào đó mà khi ăn xong thấy nóng mặt rồi tự nhiên thấy buồn cười quá! Cả bọn nhìn nhau rồi cười rũ rượi như bị ma làm! Nhìn thấy cái khuy áo thằng kia sao có bốn lỗ? Cười! Hai con kiến sao huơ râu đụng nhau thế kia? Cười! Không nhịn được! Cười chảy nước mắt nước mũi.
Huống hồ nhìn thấy chính trị viên quần ống thấp ống cao, tay vẫy vẫy lá thư cứ như múa thì nhịn cười sao nổi? Anh ấy tưởng bọn tôi cười giễu, càng bảo càng cười, nóng mắt vớ khẩu AK roét một loạt sạt đầu cả bọn. Ha ha ha! Chết cười mất thôi! Gần thế mà còn bắn trượt. Buồn cười quá! Cười vãi cả *** ra! Quần trung đội trưởng Khương khàn đã ướt một miếng tướng. Chừng như nhận ra tình thế, anh ấy nhìn xoong nấm rồi chạy ngược về quan sát sở gọi thằng Phượng bọ y tá. Nó xuống pha cho mỗi người cốc nước đường. Cơn điên lắng dần dần. Mãi mấy ngày hôm sau, cơ hoành, cơ liên sườn tôi vẫn đau như dần vì co rút nhiều trong khi lên cơn cười.
Ra đến cái đập nước lớn cách Ponley khoảng 15 km, tiểu đoàn dừng chân nghỉ lại một ngày. Cái đập này nằm tại hợp lưu của gần chục con suối lớn trong khu vực. Trên đập, nước tràn chảy ồ ồ. Cá trắng từng đàn lách phe phé. Trên mặt hủm nước sâu xanh thẫm nơi chân đập, vài con lóc bông lớn gần chục ký thỉnh thoảng lại trồi lên ngáp bóng. Cái viền mép vàng nhạt ngoác ra, thân mình chùn chũn vằn vện, oai vệ lắc khẽ một cái rồi lại từ từ chìm xuống. Bọn lóc bông này đang no mồi. Được một trận ném lựu đạn, lặn bắt cá nấu canh chua cải thiện ngon lành.
Chiều tà, tiểu đoàn nhích đội hình lên khỏi đập nước 300m, bố trí đội hình nghỉ đêm tại phum “rừng thị”. Một cái phum có đúng 3 cái khung nhà. Cạnh phum là một rừng toàn cây thị đang mùa trái. Cây thị trong truyện cổ tích Tấm Cám của bọn trẻ con, sinh sôi thành một quần thể xanh thẫm cao vọt lên hẳn so với rừng chồi thấp phía dưới. Cây cao cây thấp chen nhau mọc. Có những cây thị cổ thụ vòng gốc một người ôm mới hết. Trên vòm lá, đủ các loại chim to chim nhỏ chòe choẹt kêu điếc hết cả tai. Kêu chưa tệ hại bằng việc chúng nó oanh tạc vào đầu chúng tôi. Đi gần như chạy qua cái rừng chết tiệt ấy tới phum nhưng thằng nào cũng bị dính vài bãi phân chim vào đầu. Còn dưới gốc, quả thị rụng nhoe nhoét. Muỗi bọ bay vần vụ.
Nhưng chuyện đó không có gì đặc biệt bằng những điều tôi thấy buổi đêm trong ca gác của mình. Đêm hôm ấy trăng mờ vì mây vẫn chưa kịp tan sau cơn mưa buổi chiều. Đang ngồi ôm súng ngáp ngắn ngáp dài vì đã gần hết ca của mình, tôi bỗng tỉnh cả ngủ khi thấy trên cây thị gần vọng gác có mấy con chim lạ. Dứt khoát không phải dơi mà là chim đến ăn trái vì tôi nhận ra cái đuôi của chúng rất dài. Sải cánh loài chim này rộng khoảng 0,4m, vẫy rất nhanh và êm ru, hầu như không phát ra tiếng vỗ gió.
Ba bốn con quạt cánh mềm mại, gần như bay đứng, lặng phắc giữa không trung. Chỉ thấy những đầu cành cây thị nơi chúng đang rỉa quả (hay hút mật quả) khẽ rung rung. Tôi có đọc trên một số tạp chí nghiên cứu tự nhiên sau này. Trong đó các nhà khoa học khẳng định trên thế giới chỉ có loài chim ruồi Nam Mỹ, với kích thước nhỏ bé mới có khả năng bay đứng và bay giật lùi. Tôi phản đối cái kết luận này vì chính tôi đã chứng kiến kiểu bay và hành tung lạ kỳ của loài chim đêm không biết tên kể trên. Sáng hôm sau kể lại câu chuyện hồi đêm. Anh Ky bảo tao trông thấy rồi, đấy là chim bắt muỗi chứ không phải chim ăn trái.
Hôm sau, chúng tôi hành quân tiếp ra thị trấn Ponley. Lại thấy đồng bằng, thấy dáng thốt nốt thân thuộc đứng trên bờ ruộng. Khỏi phải nói là đã háo hức như thế nào. Đơn vị đã cua một vòng hàng trăm km. Dời khỏi lộ 5 bắt đầu từ thị xã KP Ch’nang vòng qua KP S’Peu, đến bây giờ mới gặp lại lộ 5 tại một khúc đoạn khác. Hành trình nửa năm ác liệt này đã cướp đi nhiều thằng lính D4. Có những thằng chết không kịp biết tên. Bây giờ lại gặp mùi bò hóc, mùi phên lá thôtnôt ngâm, mùi phân bò ngai ngái. Lại tiếng lục lạc liing kiing, tiếng mõ lốc cốc, tiếng trục xe ken két… Các em gái đen bóng tóc hoe, cười toét nghe câu tán cũ mèm on xalanh boòng tê. Sung sướng lắm! Chúng tôi thèm được sống trong một xã hội loài người.
Suốt nửa năm chui lủi như loài cầm thú trong rừng núi đại ngàn, bây giờ chúng tôi lại được nghe tiếng con gái the thé. Sướng thật! Thậm chí ngửi mùi nhựa đường dưới nắng bốc lên hăng hắc cũng thấy sướng. Một chú thanh niên hát ông ổng trên vòm cao cây thốt nốt. Giọng nam trung khá trong và vang. Lá khô kêu loạt soạt, chùm ống va lốc khốc. Ê! Xuống mau! Oi khơ nhum phức tich tich. Đám lính dừng lại ngửa mặt, bu tròn lấy gốc cây. Chú chàng leo xuống. Chỉ một loáng là còn lại các ống rỗng không. Ê lần sau đừng có ngu vừa trèo cây vừa hát nghe thằng em! Mặt nóng bừng bừng. Lâu lắm mới lại được uống nước thốt nốt. Tao mà đóng quân ở đây lâu thì chắc nhà mày sạt nghiệp.
Đại đội 1 sang bên kia lộ 5, hành quân qua chùa đến đứng chân phum Khon roong, một cái phum mới lác đác có người ở. Đặc biệt là cái chùa này hầu như còn nguyên và sạch sẽ, không bị đập phá hoặc tàn tạ như các chùa khác mà chúng tôi thấy. Khu vực này khá nhiều chùa. Tiểu đoàn bộ đóng quân tại một cái nhà chờ bằng gỗ lớn, cạnh chùa “tiểu đoàn”. Trên thị trấn lại có một cái chùa lớn, sân rộng mênh mông nữa. Vùng này trước kia chắc đông dân và trù phú.
Nhưng bấy giờ dân đang đói. Lúa xanh đồng nhưng gạo thóc khan hiếm. Thị trấn có họp chợ lèo tèo, nhưng chưa phát hành tiền nên dân đổi chác cho nhau như mới thoát qua thời thị tộc. Với vài ký gạo hay một cái võng nilon người ta có thể đổi lấy một chỉ vàng. Ngoài chợ có một bà già tóc bạc, nói tiếng Việt lơ lớ hỏi tôi là còn thuốc Đa-zi-năng đổi lấy vàng không? Chắc hẳn đã có thằng y tá nào đó vác thuốc quân y ra đây kiếm lời. Đói kém thường đồng hành với bệnh tật. Vàng lúc này chẳng có ý nghĩa gì.
Chúng tôi xúc bớt tiêu chuẩn gạo đi đổi cá ăn. Một hai lon gạo bớt ra trong khẩu phần lính cũng đủ để đổi cá tươi ăn thoải mái. Cá “trắng” _sau này mới biết đó là cá cóc th’rây ch’kao_ nấu xoài xanh ăn rất ngon. Mấy cái nhà nhỏ cuối chợ thị trấn là nơi trú chân của vài cô gái. Trong đó có một cô lai khá trắng trẻo, quấn cái sa rông xanh chặt căng hông. Lính đi qua thấy thường ngồi trên thang, cười he hé rung cả vú. Đàn bà bên này không mặc cooc xê tích kê nhọn như bên nhà mình mà thả rông, và ngực họ rất tròn. Chúng nó đồn mang “pi loong” (hai lon) đến, phất cái rèm thốt nốt trên cầu thang lại là có một suất đời sung sướng lên tiên. Cứ lần lượt từng chú một. Nhưng phải niệm chú cẩn thận không đi trận đen lắm!
Mấy ông có vợ có đến không thì không biết. Tôi thì vừa khoái nghe chuyện vừa sợ. Bây giờ mới thấy tiếc cái tuột tượng năm ký gạo mình đã vứt trên đỉnh núi U Răng. Thằng Phượng bọ y tá nó dọa là dây vào bị lậu thì bọn quân y sư đoàn nó chẻ tư *** ra để nạo mủ. Kinh chết khiếp nhưng vẫn thấy sướng! Đêm nằm võng, nghĩ đến cái mông cong cong trên cầu thang, cái bầu ngực rung rung ấy là có khi cả đại đội tự sướng run lên bần bật.
Một lần khi ra chợ đổi cá, chúng tôi gặp một bà già cứ xoắn lấy. Bà ấy đòi đổi vàng lấy thuốc kháng sinh péniciline tiêm. Thuốc này chống nhiễm trùng cho các vết thương, chỉ có trạm phẫu tiền phương mới có. Hỏi đổi làm gì thì trả lời ngay là con trai bà ấy sắp chết. Rồi bà ấy khóc lóc gần như ăn vạ ngoài chợ. Quân y tiểu đoàn với Chí đen mang túi thuốc đến túp lều nát sát rạch – nơi trú ngụ của hai mẹ con, đã thấy một mùi khẳn thối xộc lên. Trong lều, đứa con trai đi lính Pôn Pốt (bà ấy nói rõ ràng như thế) đang nằm thiêm thiếp. Nó bị thương vào
chân. Cái đùi đang bị hoại thư sinh hơi, phồng lên như bắp chuối tỏa ra mùi xác chết. Vạch mắt ra thấy đồng tử đã giãn đờ như mắt cá, thằng quân y lắc đẩu rồi tiêm cho nó một liều giảm đau chiếu lệ. Chúng tôi để lại lều hai lon gạo rồi trở về...
Mưa Lúc bấy giờ mùa mưa ác liệt. Cứ chiều mới tầm 2h đã mưa. Mà mưa ở đó sao gió mưa dữ dội. Trong rừng sâu mưa dai dẳng, mưa lê thê… Nhưng vùng cận biển Hồ mưa ác ôn mờ mịt. Ban chỉ huy C1 cách cái nhà tiểu đội cối 60 có khoảng 15m mà trong chiều mưa không nhìn thấy nhau. Gió xiên ghê lắm. Bọn tôi đan phên thốt nốt che hướng mưa hắt. Chỗ C1 đóng chốt cách biển Hồ có chừng 3km. Ruộng lúa thấp xuống dần đến rừng ngập mép nước hướng đông. Tầm mắt mênh mông không bị che khuất. Mây cứ thế vần vũ dâng lên tím sẫm ban chiều.
Có những cơn mưa trống chân toang hoác. Chen vào cái khoảng chân trống trắng mờ ấy là những ánh chớp cuối ngày, gọi theo tiếng sấm đục trầm rền rền. Nằm võng sâu trong chân cột nhà hoang, nghe từng tấm nước li ti hắt lạnh khuôn mặt, thấy buồn tê tái. Những đêm sâu gác, nghe tiếng bịch bịch, tưởng địch luồn thảy lựu đạn, kéo khóa an toàn. Đến khi nghe mùi khóm chín thoảng trong hơi mưa, biết rằng đó chỉ là tiếng trái thốt nốt rụng ban đêm...
Nhưng cũng có những chiều vui. Ấy là khi thằng Đặc không biết mót đâu ra một quả bóng đá đã bục múi da, chớm lòi vét-xi nhưng vẫn đá tốt. Cứ ngớt mưa là bọn tôi ra ruộng đá bóng ma. Lấy đâu ra đủ người mà chia đội đá gôn. Đại đội 1 lúc đó may còn độ 3 chục đứa cả cán bộ. Những thằng khỏe muốn đá bóng còn chừng gần chục. Khu ruộng sân bóng bao quanh bới các khóm tre, có các dây mướp đắng (khổ qua) trái đã chín màu cam. Đôi khi bọn tôi quần nhau đến tối mịt, sũng nước, bê bết bùn mới chịu về ăn cơm.
Bò dân đi nhiều, càn dây điện thoại đứt liên tục. Tôi với anh Ky ngày nào cũng phải vài lượt đi đi lại lại nối dây trong mưa sũng nước. Anh em trong trung đội sốt rét nhiều. Về lĩnh gạo đóng cho C phối thuộc, nhìn mặt mấy thằng truyền đạt và 2w nằm võng rên hừ hừ, teo tóp xanh lè phát kinh! Thế quái nào mà tôi lại không bị sao, trong khi lão Ky khỏe như trâu cũng sốt. Anh Nhương gọi tôi về học bổ sung mật danh vô tuyến, chuẩn bị thay thế khi tác chiến.
Bọn địch bấy giờ cũng đói, cứ đêm đêm mò vào các phum, sục vào các nhà dân kiếm ăn. Mấy đêm trước, tiếng chó sủa rộ lên trong các phum xung quanh. Dân ngay sát tiểu đoàn bộ họ báo có mấy thằng địch, trong đó có một thằng cưỡi ngựa, cứ đêm là sục vào vét thóc. Bọn nó còn ngang nhiên đốt đuốc, không coi ai ra gì. Ngay từ buổi chiều mấy hôm trước, tiểu đoàn đã triển khai mấy tổ phục kích ngoài rìa phum nhưng vẫn chưa thấy chúng nó vào.
Một hôm vừa ăn chiều xong, trời còn sáng bỗng nghe tiếng nổ cái ùng ngay rất gần. Giật mình, anh Nhương bảo có thằng nào ném cá bị nổ trên bờ toi rồi. Nhưng không phải! Lát sau nghe xôn xao bên nhà BCH, lại thấy mấy thằng liên lạc cắp đèn pin chạy theo tham mưu với ông Thào ra bờ suối nên bọn tôi chạy ra theo. Bên bờ suối bên kia là một đám xác địch không toàn thây. Lính ta lội qua thu súng nhưng hầu như cũng chẳng còn khẩu nào nguyên vẹn, bị cong queo vỡ báng gần hết. Lại còn phải lấy que gợt gợt đi những thứ dính vào rồi mang xuống suối rửa. Hôm sau, trưởng phum huy động bà con ra suối, đào một hố lớn rồi gom tất cả những gì còn lại quy tập vào một hố chôn chung.
Anh Nghĩa B phó vận tải kể rằng tổ phục vừa ra đến nơi, bố trí xong đội hình thì địch vào. Bảy tên địch nghênh ngang xếp hàng một đi trên đường. Qua suối sát phum, chúng nó dừng lại kỳ cọ chân cẳng rồi chụm lại hội ý. Gom quá! Chọn đúng thời điểm đó, anh Nghĩa siết cò khẩu B.41. Quả đạn chạm nổ quét bờ suối thoải, hất ngược lên. Sau tiếng nổ là sự im lặng hoàn toàn. Bảy tên Pốt chết tại trận. Hôm sau nữa, còn duy nhất một thằng đi sau sống sót, mang súng ra hàng nốt.
Anh Nghĩa được đi báo cáo thành tích trên Quân đoàn rồi được thưởng phép. Mãi anh ấy chẳng vào đơn vị. Thời gian sau có một lá thư anh ấy viết vào cho chỉ huy đơn vị. Trong thư anh ấy viết đại ý rằng do hoàn cảnh gia đình em khó khăn nên em xin phép không vào nữa. Mong các anh trong BCH tiểu đoàn thông cảm. Phần em thì hiệu suất diệt địch của em lớn. Em đã diệt đủ suất địch của em rồi. Chúc các anh em trong đơn vị mạnh khỏe, chiến đấu tốt, hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Cái chuyện “diệt đủ suất địch” là do anh Thào nói vui với trung đội vận tải khi uống trà. Nhưng anh Nghĩa người dân tộc Thái vốn thật thà, tưởng thật nên viết thế.
Anh Nghĩa, Bạch Đại Nghĩa, cùng đoàn lính 77 quê miền núi Thường Xuân, Thanh Hóa như anh Ky, Toàn cồ, Trung khói… Đoàn lính Thanh Hóa năm 77 và đoàn Nghệ Tĩnh năm 78 là hai đoàn có kỷ luật và chất lượng khá nhất trong các đoàn lính bổ sung vào tiểu đoàn 4. Đầu năm vừa rồi chúng tôi có dịp đi qua Bá Thước, khá gần Thường Xuân, nhưng tiếc là không lên thăm các anh ấy được.
Sau trận phục kích kinh hồn đó, suốt một dải từ Ponley lên đến K’ra Ko, địch nín im thin thít. Dân thì nể bọn tôi một vành. Nhưng do thấy mấy thằng địch đã tiêu đó nó dám vào sát tiểu đoàn bộ quá nên anh Thào đốc gác liên tục. Ở lẫn với dân ban ngày thì khoái nhưng đêm khá căng thẳng. Thông tin, vận tải, trinh sát, thậm chí bậu xậu tham mưu tiểu đoàn đều phải gác đêm cẩn mật. Thành ra được về D bộ chẳng sung sướng gì. Ca tôi gác toàn ngồi dựa cầu thang ngáp vặt. Thấy lóe đèn pin hướng thang nhà tiểu đoàn, biết ông Thào đi kiểm tra mới lò dò mò ra hố gác.
Chính quyền phum sóc do tổ công tác dân vận ta chỉ định bắt đầu hoạt động. Ông trưởng phum hằng ngày vẫn đánh xe bò vào rừng đốn gỗ hay ra ruộng làm cỏ lúa. Thỉnh thoảng tạt qua tiểu đoàn bộ báo cáo tình hình, đem cho BCH mấy ống thốt nốt chua. Lão này cứ xách ống đi qua nhà thông tin là chúng tôi ra ăn chặn của chỉ huy sở. Nước thốt nốt chua uống lâu thành ghiền. Chiều tà, dân họ trèo cây treo ống. Sáng leo lên lấy nước thốt nốt về đổ chảo nấu đường hoặc mang ra chợ Ponley đổi những thứ khác. Chịu khó dậy sớm ra đứng chẹn đường đi chợ, xin mỗi người một vài ca l ồ n trâu (ca inox quân dụng) là bí tỉ ô s’vai chăn ti cả ngày.
Lính xin nhiều quá thì dân họ không đi đường lớn nữa mà gánh ống cắt ruộng ra chợ. Bọn tôi thèm nên canh lúc đêm gần sáng, áng chừng sắp đầy ống thì trèo cây uống trộm. Để chống lại sự thất thoát này, dân họ treo ống xong liền tháo luôn đoạn thang tre buộc dưới cùng đi. Sáng khi đi lấy nước, họ vác cái thang thửa đến từng cây lấy nước. Nhìn cũng thấy tức mà không làm gì được. Lịch sử tiểu đoàn 4 chống Pôn Pốt song hành với lịch sử giành nước thốt nốt với dân, ít nhất là trong giai đoạn này.
Anh Nhương đi chợ say le bè, lôi đâu về trung đội một thằng bé con 9 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Thằng này khá trắng trẻo tên gọi là Sen hay Sên gì đó. Nó ăn ngủ cùng chúng tôi luôn. Hàng ngày nó đi hái rau càng cua ở các khu đất ẩm về cho bọn tôi. Rau này ăn sống vị he he mát, chấm nước thịt hộp sốt cũng đỡ. Buổi trưa, nó ngồi nặn trứng cá cho lão Nhương đang nằm thiu thiu. Cái vỏ radio bán dẫn màu mận tím của lão Nhương trắng kịt các nhân trứng cá nó nặn ra bôi vào, trông ghê cả người. Cứ chừng 8h sáng là chúng tôi được nghe các bài hát Việt nam đương đại được giới thiệu bằng tiếng Campuchia từ cái đài này.
Mà toàn các bài hát hay: Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh; Tình ca của Đất và Nước; Người đi xây hồ Kẻ Gỗ; Những cô gái đồng bằng sông Cửu long; Vàm cỏ đông…vv…Mọi người bảo đó là đài tâm lý chiến của Pôn Pốt phát từ Thái Lan. Nhưng mặc mẹ, hay thì cứ mở chứ tiếng nó thì biết cái gì? “…Xôm oòng chơng…lục nẹ, còm san bót chằm riêng miêng chăm no chiềng thà….” gì gì đó. Chúng tôi nói nhái theo là đến buổi phát thanh: “ đang nằm chung, bắt nằm riêng… chẳng tha …” rồi, mở đài đi anh.
Buổi trưa 12h30 thì có chương trình dạy bài hát của đài PT thành phố Hồ Chí Minh. Đài này thường dạy các bài ca Liên Xô cũ từ đời tám hoánh và các “ca khúc chính trị” mới: Ánh đèn bên song, Hoàng hôn trên nông trường, Cô đi nuôi dạy trẻ, Em ở nông trường, em ra thành phố…Nhưng thú nhất là 8h sáng Chủ Nhật hàng tuần có chương trình nhạc nhẹ quốc tế. Tôi dán tai vào cái đài những sáng hôm đó, quên hết sự đời. Như là đang được trở về nhà, sống đời bình thường. Như là sáng Chủ nhật đạp xe trên phố vui. Dẫu phố vui của chúng tôi thời bao cấp lúc đó cũng đang đói. Trước khi đi bộ đội, tiêu chuẩn học sinh trung học như tôi nhà nước cấp cho 17 kg lương thực cả gạo lẫn mỳ sợi trong sổ.
Đấy là còn được ưu tiên vì đang tuổi lớn, là tương lai đất nước! Chứ còn bác sỹ giáo viên, loại “thượng tầng kiến trúc” như bố mẹ tôi mỗi tháng có 13 ký chẵn. Vào lính chiến tôi mới được ăn gạo không, còn lúc huấn luyện vẫn phải ăn kèm ngô, bo bo rát mồm. Âm nhạc và ca khúc bao giờ cũng đưa ta vào một thế giới khác, không buồn bã, lạnh lùng và lắm muỗi như cái mùa mưa chó chết này!
Buổi tối hôm chính quyền phum ra mắt, dân tổ chức múa lăm thôn. Trên khoảng đất rộng giữa phum, từ chập tối, tiếng trống đã vang lên bập bùng. Rìa sân, ba chú nhỏ xếp bằng tròn trên nền đất ngồi vỗ trống. Sau lưng bọn nó là cái giá tre móc đầy các ống thốt nốt chua. Những chiếc trống dài chừng 40 cm, tiện hơi thắt ở đoạn giữa. Một đầu bịt da trăn, một đầu hở để có thể xòe bàn tay bịt hơi vỗ, điều chỉnh sắc độ. Tiếng trống lúc đầu còn rời rạc, nhưng càng về sau càng thôi thúc. Nào! Hai bước tiến, một bước lùi lại. Thế! Đúng rồi…!
Các cháu nhỏ hồn nhiên nhất, mình trần đen sạm, xương sườn phơi ra dưới ánh lửa, nhập vòng bằng những bước linh hoạt đầy nhạc cảm. Cứ như thể chúng nó đã biết múa từ trong bụng mẹ. Ngập ngừng đôi chút, các chị, các em cũng bắt đầu bước vào. Những bước vũ thật uyển chuyển, những cử động thật nhịp nhàng. Dân bạn lành và hồn hậu trong điệu vũ đầy bản sắc. Lúa chưa chín nên nhiều nhà đói. Có khi bữa
chiều phải ăn cháo rau. Có nhà nướng trái thốt nốt, nạo bột vàng ra trộn với bột gạo (gạo do ban cứu đói sư đoàn 9 cấp) làm bánh qua bữa. Tuy vậy nghe tiếng trống chạ tình tinh là ngứa ngáy ngồi nhà không yên.
Trong cái đám đang múa kia có thể có những người đã từng bắn vào tụi tôi. Nhưng bây giờ thì thôi, quên hết! Qua Monkhi monkhi lại đến Oh svai chănti, Ọp or xato, Sari kakeo, Soong êm khiêuchây, M’hong…Tụi trẻ con dạy bộ đội Việt Nam hát và vỗ trống. “Mon khi mon khi choáng vạ ly rom xen xà bai” thì chúng tôi nhái thành “Mon tia mon tia phức muôi ly ót che savưng” (Gà vịt gà vịt, uống một ly không khi nào say). Các cô gái cười ngặt nghẽo: Àh ơi…Alabo dzô…! (…Đồ phải gió này!)
Càng về khuya tiết tấu càng gấp gáp. Tiếng trống tan trong ánh lửa, trở thành một chất men thôi thúc xóa nhòa mọi khoảng cách. Ai mệt lại ra ừng ực ngụm nước thốt nốt chua cho tăng độ phê. Dù chỉ hát chay trống chay, không có đàn thuyền hay tăng âm, nhưng sóng sánh, đắm cuốn dập dờn. Lính Việt cũng đã vào vòng từ lúc nào. Ông trưởng phum ngồi vỗ trống thay cho mấy cháu, nhe răng cười trắng lóa. Nghe đồn lão này phải chăm sóc cho đàn bà toàn phum nên người cứ quắt lại, chỉ dòm thấy mỗi đôi mắt. Cả phum Chayrum phần lớn là gái góa (mêmai), gia đình đã tan nát hay thất lạc trong chiến tranh.
Nhưng trong đêm múa samakhi ấy, khổ đau đói khát dường như không tồn tại. Những gương mặt thoắt sáng thoắt tối giấu trong ánh lửa. Những cánh tay trần uốn cong, những cái lắc hông mềm mại, những đụng chạm cố tình…Khi ngẩng mặt, lúc cúi đầu nhè nhẹ, gái góa nói bằng mắt, liếc trong tiết tấu. Phút phiêu thăng ấy thì mêmai côn bây còn nguy hiểm hơn cả gái mười tám.
Mấy hôm sau, lão trưởng phum tạt vào chỗ chúng tôi cho nước thốt nốt. Hắn tinh quái, nhại tiếng Campuchia nửa mùa của anh Ky, bảo rằng sau này nhân khẩu trong phum tăng, nếu cái chia chuôn Cam pu chia tui tui nào so so thì bắt bộ đội Việt nam nuôi. Còn kh’mau kh’mau thì lão ấy nhận nuôi rồi cười hô hố. Anh Ky đẹp trai tính hiền, chỉ ngồi cười trừ. Thực tình chúng tôi quý thằng cha này, cũng như hòa đồng với dân các phum trong địa bàn. Cái tình cảm yêu mến rất tự nhiên, không cần theo những điều hướng dẫn cứng nhắc của ban Dân vận.
Mùa mưa năm 1979, đơn vị chúng tôi chủ yếu hoạt động quanh khu vực thị trấn Pon ley này. Sau một mùa khô ác liệt, hành quân dài đằng đẵng, đây là thời gian chùng lại. Địch tan rã chưa hồi phục hoạt động được. Mưa ngăn trở các hoạt động tác chiến. Thỉnh thoảng có lệnh đi truy quét nhưng nhiều cũng chỉ mang 3 ngày gạo. Và cũng chỉ tiểu đoàn thiếu đi, còn C4 hỏa lực không đi, thường ở lại thị trấn cùng sở chỉ huy nhẹ.
Những lần hành quân như thế, chúng tôi chui rúc vào rừng ven tay trái lộ 5, đoạn giữa Pon ley và thị trấn Kra ko. Rừng vùng ven biển Hồ cây dày nhưng toàn cây nhỏ. Có những nơi cây bé quá, nghỉ đêm không mắc võng được, phải trải nilon nằm đất. Cây dày nên có người rẽ đi là để lại dấu vết ngay. Khi gặp những lối đi như thế là chúng tôi nằm lại đón lõng. Đêm phục thì tỉnh gác, nhưng buổi trưa thì mắt như có bọ ngủ chui vào. Một lần phục địch, đang nằm ngủ trưa thì có hai thằng Pốt cắt ngang xộc vào giữa đội hình C1. Thằng Dụ Hải Hưng đang mơ màng chợt tỉnh ra, lăn xuống võng chụp khẩu RPD. Nhưng trước mũi khẩu trung liên là võng thằng Tám khỏe, lúc này vẫn đang khò khò nên vướng, nó không bắn được.
Hai thằng Pốt kia cũng giật mình, quay ngoắt bỏ chạy luôn, không kịp tháo súng khỏi vai. Thấy tiếng la ú ớ, chúng tôi choàng dậy. Nghe nó thuật lại thì ngẩn ra nhìn nhau. Không bên nào nổ được một phát súng. Nói thì lâu nhưng tất cả chỉ xảy ra trong chục giây. Anh Chính C trưởng cũng đang ngủ lịm, khi dậy mới nghe thủng chuyện. Chính tréc trợn mắt, bảo bọn tôi cấm báo tiểu đoàn, nếu không muốn nằm đây dầm mưa thêm ba ngày nữa. Tất nhiên là chúng tôi tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Giấc ngủ trưa mùa mưa thường nặng và rất sâu. Những đứa bị giấc ngủ trưa nhấn chìm, không cưỡng lại được, vừa thoáng thấy đang nói đã phèo nước dãi trên võng mà chưa sốt lần nào thì coi chừng, chuẩn bị sốt rét ác tính.
Điều nhớ nữa là ở khu rừng này có nhiều cây gì thấy trái lớn như lựu đạn. Trái nó bóng loáng màu vàng xanh trông hấp dẫn. Lão Ky dừng lại chọc, đưa tôi một trái, bảo mày biết quả gì không? Tôi nếm thử nhăn mặt, bảo quả măng cụt dại làm anh ấy cười ngất. Lần đầu tiên biết đến quả bứa chín chua ngọt trong cái khu rừng còi này. Ăn bứa cũng dễ gây sốt, ăn dâu da đất cũng dễ gây sốt, ăn măng cũng hại máu…Chúng tôi biết ăn gì trong cái mùa mưa sốt rét này? Ngày nào cũng mưa, triền miên xối xả. Buổi sáng trời còn loe nắng, nhưng độ hai, ba giờ chiều là mây đen kéo kín chân trời. Gió vùng trống như ngựa lồng cuốn theo những cơn mưa trắng trời trắng đất.
Tấm nilon lính chỉ khoác lên mình cho chiếu lệ và ngăn gió quất thôi chứ nhằm nhò gì! Áo quần hầu như lúc nào cũng ẩm ướt, lại trộn lẫn mồ hôi, bùn đất lúc hành quân tỏa ra cái mùi chua chua thật khó chịu. Quân nhu phát những tấm tăng QK7 có tám tai, màu xanh nõn chuối và mỏng dính. Gió giật một lúc là bung tai hoặc rách hết. Chúng tôi lấy dây điện thoại hoặc dây rừng buộc túm lại những góc đứt, chằng đụp vào vấu cây. Tăng thiếu hay rách quá, có khi phải nằm chung. Tức là hai đứa mắc võng cùng một chỗ, thằng trên thằng dưới như kiểu giường tầng của sinh viên nội trú. Một tấm tăng lành che chung. Còn tấm tăng rách kia buộc che hướng gió tạt. Cứ thế mưa rừng dạt dào lóc bóc qua đêm…
Ở phum Chùa tiểu đoàn, thằng Luân liên lạc của anh Sơn "big" một chút nữa thì thành liệt sỹ vì con trâu điên. Thằng này to vật, rất khoái súng đạn, đánh đấm. Sau khi thu kho súng địch trong Ăm leng thì nó biến thành cái kho súng di động luôn. Ngoài khẩu đại liên M-30 vác vai, trong bồng nó còn ém một khẩu ru lô 6 viên ổ quay. Một lần gần trưa, nghe tiếng súng lẻ ngoài cánh đồng, chúng tôi ngoảnh cổ nhìn ra. Thằng Luân, trong tay cầm khẩu ru lô, không hiểu sao đang bị một con trâu mộng đuổi theo sát lưng. Trên thân con trâu thấy máu loang từng đám. Nó đã bị thương, đang điên lên đuổi thằng Luân sát gót. Thằng này cũng khôn, cứ cái mũi con trâu hồng hộc gí gần sát lưng là nó lại đột ngột đổi hướng. Con trâu lại lỡ đà, khoảng cách lại giãn ra được một chút. Tranh thủ mỗi lần con trâu lấy lại hướng, nó lại vung khẩu ru lô lên vảy bọp đại một cái vào con trâu. Quá bằng gãi ghẻ cho nó! Nó càng điên lên vì mùi thuốc súng! Súng đã hết đạn, thằng này quăng luôn, cố chỉnh hướng chạy về nhà sàn tiểu đoàn.
Anh em chúng tôi xách súng chạy ào ra, thót tim theo từng bước chạy đuối dần của nó trên ruộng thụt. Người với trâu cứ luẩn quẩn chữ chi. Bốn năm nòng súng rê theo nhưng chưa dám bắn, sợ thằng Luân phải đạn. Cả người và vật đã đuối sức, vật vờ loạng choạng. Cuối cùng, gần về hướng chúng tôi thì hai mục tiêu cũng đã tách ra một khoảng. Bốn năm khẩu AK cùng nổ đồng loạt. Con trâu sựng lại, từ từ lật nghiêng kềnh ra. Mũi nó sầu bọt trắng xoá, đôi mắt trợn đỏ như hai miếng tiết. Còn thằng Luân chạy leo lên được vài bậc thang nhà sàn thì gục tại chỗ, ngất xỉu, lại lăn xuống đất. Chí đen sốc nó lên sàn. Quân y lập tức tiêm trợ lực, hô hấp nhân tạo mãi mới tỉnh. Sau vụ đó, thằng này ốm luôn mấy ngày liền. Ngủ mê, mồm cứ lảm nhảm như thằng dở người…
Tất nhiên con trâu chết thịt chia tất vì tội dám húc bộ đội. Thông tin gọi xuống các đại đội mỗi C làm một miếng. Thời gian này chẳng thấy thằng địch nào. Không có tác chiến đụng độ lớn nên không có “đồ cổ”, không có trâu bò, gà qué chết. Hơn nữa, bắt đầu có chính quyền bạn nên không kiếm ăn cải thiện khơi khơi được nữa. Gạo hụt nhiều, bây giờ không phát xuống trung đội, quân nhu tiểu đoàn quản lý luôn nên không có gì đổi rau, cá. Đến bữa thì lên anh nuôi lấy cơm. Đêm có tí đường thốt nốt lên xin Chí đen ít gạo nấu chè nói rát mồm may hắn cho
nửa ca. Thực phẩm chỉ trông chờ quân nhu mang từ nước nhà sang. Chủ yếu là cá mắm đựng trong các bao dứa hôi rình. Cá khô quân nhu cũng quản lý nốt. Anh nuôi nó chặt cá ra thành từng miếng nhỏ nấu với me. Thường là con mắm mục tan ra khi nấu, thành thứ nước sền sệt nửa chua nửa mặn. Nhưng dưới các đại đội chúng nó vẫn trích gạo đổi cá tươi chén đều. Đôi khi thèm quá, tôi lội bộ xuống đại đội 1 xin bữa phủ phê rồi về.
Đội công tác quân đoàn xuống tiểu đoàn 4 “ba cùng” cũng ăn uống như lính chiến. Thỉnh thoảng lại có lệnh báo động hành quân chiến đấu, song đi đến một quãng rừng nào đó là có lệnh hạ đồ, kiểm tra quân tư trang xem những ai còn vàng giấu trong trận đuổi Tà Mốc hồi tháng 3 không tự giác đem nộp. Tổ công tác còn tháo từng viên đạn trong băng của những đứa trong diện nghi vấn, tung tung trên tay xem viên nặng viên nhẹ. Cũng lòi ra được một số trường hợp nhưng quân pháp chỉ thu mà không kỷ luật gì. Một số thằng tinh quái vẫn giấu được chút vốn còm do phân tán cho đồng hương đồng khói. Kiểm tra xong lại lộn về thị trấn như đi tác chiến thật. Vì những vụ kiểm tra này mà chúng tôi được nằm ở Ponley khá lâu.
Dân ở đây bị địch lùa, chủ yếu mới ở trong núi URăng ra, bắt đầu gây dựng một cuộc sống mới nên nghèo xơ xác. Đến công cụ lao động còn thiếu, gà heo cũng còn đang xin giống gây đàn nói gì đến chó. Tiểu đoàn thì cũng ăn chờ ở tạm, chưa đến thời xây cứ lâu dài nên cũng được chăng hay chớ. Đúng là thời kỳ “quá độ”. Ở cái bờ suối 7 thằng Pốt bị diệt hôm nọ, dân họ trồng một ruộng cà *** dê trái còn non. Thèm rau nên cứ sẩm sẩm tối là tôi lại mò ra đó hái trộm vài trái, chùi sơ xịa vào vạt áo rồi nhai sống rau ráu. Bấy giờ cũng chưa có rượu, không có khái niệm “ đô tức sara” dân nấu, bởi gạo ăn còn không có lấy gì ra nấu rượu.
Rượu hiếm, thảng hoặc lắm mới có chuyến xe sư đoàn xuống có một vài bi đông do các anh cán bộ gửi tận bên nước mua sang. Cái thời của mùa khô trù phú đồng bằng, của những chai Napoléon sương mù đã xa lâu lắm rồi. Lính bây giờ thủy chung như nhất với nước thốt nốt chua. Cái mùi chua thủm, tê tê khi rút đám lá bịt miệng ống vẫn thoảng qua đâu đây. Những con ong say chết bồng bềnh trong đám bọt sầu men trắng đục. Một vài con khác khệnh khạng lê cái bụng đẫm nước trên thành ống khô, rũ cánh ươm ướm một lát mới biết là cần phải bay. Nhưng bốc lên ngoằn nghoèo quãng ngắn rồi bỗng rơi cái bộp đứ đừ trên đất. Thảo nào bọn sáo chỉ thích rình cạnh ống treo, thấy ong say là đớp. Ra là cái giống côn trùng siêng năng kia cũng thích nhậu thì trách gì những thằng lính buồn.
Nhiều đứa bị thương nhẹ, đi viện từ hồi đánh nhau biên giới bây giờ mới về đơn vị. Chúng nó kể chuyện bỏ viện, đi mánh mung, mang giấy cuốn thuốc, kim may, khóa kéo về Gò Dầu, về Sài Gòn bán. Rồi chuyện ăn nhậu, cà phê, chơi gái… Mà toàn dân tỉnh lẻ lau lách được mới giỏi lạ. Tôi cũng thèm được như chúng nó, mong dính thương phần mềm, như thằng Hiệp híp chẳng hạn. Bị thương nhẹ thôi, chứ đừng bị nặng, và nhất là đừng có hy sinh! Anh Bình bọ kể chuyện hồi đánh nhau ở cầu Prasaut cứ mỗi lần nghe cối tám cối sáu nó tong đề pa là anh Quyến khợp lại giơ tay phải lên khỏi hố cá nhân như xin phát biểu ý kiến để mong trúng mánh (anh ấy thuận tay trái). Quả cối nổ xong lại hạ tay xuống. Cối nó bắn dày nên anh ấy cứ thế đều đặn giơ lên hạ xuống liên tằng như tập thể dục.
Tôi hỏi tại sao không giơ chân cho nó to, dễ trúng thì anh ấy bảo nếu què chân, vỡ trận mày có chạy được không hả thằng ngu? Bây giờ địch không còn cối mà thụt nữa. Nhưng tôi vẫn ước tôi bị thương nhẹ, được đi viện, được nghỉ mấy tháng và sẽ trốn về nhà chơi cho đỡ nhớ. Mánh mung buôn bán như bọn nó thì tôi không có thớ, như anh Nhương bảo mày có mà buôn *** bán cho chó. Tôi chỉ muốn về nhà thôi, và trên đường về thì ghé qua Sài Gòn để uống một ly cà phê muộn màng, để có cái mà kể. Vì trong một lá thư trước, tôi đã trót viết cho bạn gái rằng đã từng được đi qua thành phố Sài Gòn. Cà phê Sài Gòn nhạt hoét và dở ẹc. Nhưng uống một ly thì có thể ngồi suốt tối nhâm nhi trà đá mà không ai đuổi. Là tôi cứ nói theo các anh lính cũ kể chuyện từng trải như thế. Đã trót dối láo rồi, thì đành phải dối láo cho trót.
Cuối tháng chín năm 79, trung đoàn tôi hoạt động ở khoảng giữa Kra Ko và Ponley. Tiểu đoàn 4 truy quét địch phía tây đường 5. Có khi sục vào sát chân sườn phía đông núi Tà Đạt nằm kẹp giữa đường 5 và đường sắt. Cũng giống như ta hồi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ Kh’mer Đỏ cũng triển khai trồng trọt nương rẫy, giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ. Đơn vị càn rừng hôm ấy phát hiện trong hốc một cây dầu lớn, lửa đốt cho dầu ra còn đang cháy. Vậy là vùng rừng này có người ở. Chúng tôi lặng lẽ bám dần lên đến một khoảnh rừng thưa.
Một nương sắn rộng hiện ra, cây mới cao gần ngang tầm ngực. Hai mũi khép vào, chuẩn bị xung phong. Trong khi C1, C2 đang vận động đuổi theo toán địch hủi, la hét rầm trời (có cả phụ nữ chạy bán sới, sa rông áo xống te tua xơ mướp), tôi và bọn tiểu đoàn bộ thấy bên tay trái có một rẫy ngô đang ra bắp non, trồng lẫn với cà cạnh cái lán nhỏ. Bọn đi sau chúng tôi rẽ ngang ngay lập tức, xô đến lán kiếm đồ. Thấy hẫng hực một cái ! Ngã sấp mặt, mồm vập vào rễ cây giập cả môi, tôi vẫn kịp ôm cái gốc cây đằng trước để khỏi bị tụt xuống.
Thằng Phụng với anh Ky chạy đến lôi lên. Một mũi chông tre xuyên rìa gót, chọc thẳng vào xương mắt cá rồi gãy gập tại đó. Chúng nó rút mũi chông gãy ra, rửa qua quấn băng chặt lại, nhưng chưa đến mức phải ga rô. Lúc ấy không thấy đau lắm, tại chỗ đó chỉ thấy nó giật giật
tức tức một chút. Chống gậy vẫn đi được chứ không cần cáng. Định thần lại, nhìn xuống hố bây giờ mới thấy kinh. Toàn phân người nhoe nhoét quện lấy từng mũi chông tua tủa. May mà tôi đã bước sang bên kia thành hố, bám kịp cái gốc cây, chứ còn rơi hẳn xuống, chưa nói dính bao nhiêu mũi, chỉ cần dầm mình trong cái hố phân đấy cũng đủ ốm ba tháng. Lính Pốt nó dùng vũ khí sinh học tự nghiên cứu, tự sản xuất ghê quá!
Thằng Quỳnh “xe lôi” và thằng Thống truyền đạt võng tôi về phía sau. Tôi nhăn nhó mặc dù không thấy đau lắm. Đi được một quãng ngắn, chúng nó đặt phịch võng xuống bảo thôi cố mà tự đi đi ông nội, bọn tao mệt rồi! Nhiều đứa thấy có thương binh là tự nhận nhiệm vụ tải thương về hậu cứ, mặc dù cóc phải lính vận tải. Đi một thôi đường, ra đến đường bò lớn gần lộ 5, gặp xe bò của dân lộc cộc đi rẫy về, chúng nó tống tôi lên xe rồi theo đi luôn về cứ. Đến cứ Chùa tạm thời của tiểu đoàn ở gần thị trấn Ponley, hai đứa rẽ vào rồi gửi tôi theo xe bò về trạm phẫu K.23 của trung đoàn.
Lòng mừng khấp khởi từ khi trúng mánh. Nhưng khi còn lại một mình giữa đám dân tôi mới nhận ra tình thế của mình. Cả đoàn xe chừng hơn chục chiếc vẫn lọc cọc chậm rãi lăn bánh trên đường. Các lão nông dân bạn đen trũi, kẻ ngồi trên xe im lặng rít thuốc rê, người vác dao quắm lừ lừ đi bộ. Từ cứ tiểu đoàn đến trạm phẫu khoảng 1,2 km, hai bên cũng toàn rừng thưa. Nhớ lại chuyện thằng lính B3 đi xe đạp bị chém bay đầu mấy tháng trước trên đường ra Bâmnak. Tôi không dám nằm nữa mà ngồi nhỏm dậy trên xe. Nỗi sợ làm cảm giác đau dưới chân tan biến. Dưới gót, máu lại thấm qua lớp băng chảy nhều nhệu. Tôi mặc kệ, mải nhìn quanh quất kiếm cái gì phòng thân hoặc ước lượng đường chạy khi có biến. Mà làm gì có cái gì? Chân cẳng thế này chạy đi đâu?
Thấy tôi máu chảy nhiều và không chịu nằm, mấy người đàn ông đi bộ vác dao quắm xúm lại. Thôi lần này mình tong rồi! Lúc đó tôi choáng thực sự. Hoa hết cả mắt nhưng vẫn còn kịp thấy hai người quay lại chiếc xe cuối rút một cây tầm vông rồi trở lại. Một người tháo chiếc võng nilon đen đeo ở thắt lưng (đúng loại võng địch hay dùng) buộc vào cây tầm vông làm đòn khiêng. Họ đỡ tôi sang võng rồi rẽ cáng thẳng đến trạm phẫu. Khi nhìn thấy mấy thằng lính thông tin C20 trung đoàn bộ đi nối dây trên đường, tôi mới dám thở phào! Thì ra thấy tôi ngồi dậy, mặt thì tái mét, họ tưởng xe xóc làm tôi đau nên mới chuyển phương tiện cho êm. Đến nơi, giao tôi cho quân y xong, người đàn ông còn nhe răng cười với tôi rồi đi giặt máu dính vào cái võng đen. Một cái võng nilon hồi đó đổi được một chỉ vàng.
Thời gian nằm ở K.23 là khoảng nghỉ ngơi thật dễ chịu. Ở đây toàn những thằng bị thương nhẹ, bị sốt rét chưa đến mức phải chuyển lên quân y tuyến trên. Sau khi điều trị hơn chục ngày, vết thương của tôi đã dần khép miệng và có thể đi lại như bình thường. Ở chỗ mũi tre nó chọc vào giờ xuất hiện một cái lỗ thịt. Nghe kinh nghiệm nhiều thằng chúng nó xui, là lấy ruột pin thối hoặc xà phòng nhét vào thì vết thương nó lại loét miệng, sẽ được nằm lâu hơn hay chuyển về viện hậu phương. Nghe thì thích nhưng tôi không có gan làm như thế, sợ nhỡ sâu quảng thì nó cắt chân. Cái lỗ nó đã khô miệng, không dùng băng, để thoáng cho chóng đầy thì buổi trưa ngủ tự nhiên thấy buồn buồn choi chói. Nhìn ra thì trong lỗ có hàng chục con bọ gì đó đen đen, nhỏ hơn đầu tăm nó châu vào mút thịt. Cái lỗ trở nên sạch hồng. Từ đó cứ dán miếng gạc thưa vào trước khi ngủ cho nó chắc
Anh em đại đội phẫu có một cây guitar còn khá tốt. Đúng là tuyến sau có khác! Hồi còn đi học ở nhà, giống như nhiều chàng trai Hà Nội hay Sài Gòn khác, tôi cũng khoái tập guitar. Trình độ còi nhưng cũng đủ chơi những bản nhạc thịnh hành thời ấy ở mức phổ thông. Cũng có thể so hợp âm đệm theo nhiều bài hát, thỉnh thoảng máu lên còn chêm vào một đoạn list học mót…Tự nhiên xuất hiện một “nhạc công” sạch nước cản tại đơn vị nên lính chuyên môn ở K.23 rất khoái. Cứ sau bữa cơm chiều là chúng nó xúm lại, pha một ấm trà thật se lưỡi rồi hát linh tinh.
Hết nhạc Nga ra nhạc Trịnh. Sau nhạc trẻ lại lạng quạng bẻ sang nhạc “vàng”. Những bài hát truyền thống của quân ta như “Vì nhân dân quên mình” , “Tiến bước dưới quân kỳ” …chắc chỉ được hát chính thức khi hội họp. Còn những buổi sinh hoạt “văn hoá văn nghệ” như thế này thì nhạc “vàng” chiếm đa số. Mấy cha lính cũ thời trước 75 trên trung đoàn bộ là cả một kho tàng phong phú về thể loại nhạc này. Thằng em đệm cho anh bài “Xuân này con không về” , thằng em cho anh bài “Anh nằm xuống…” … “Thành phố buồn đi mày!”
Đôi khi mấy anh trợ lý chính trị bên ban 2 cũng sang bên phẫu chơi. Ngồi uống trà nghe lính tráng hát những bài như thế cũng chẳng nói năng gì. Thây kệ, hồn ai nấy giữ! Thế thì cứ hát! Cao trào nhất phải kể đến bài “Thư của lính”. Hai cái thìa nhôm được mang ra. “Nghệ sĩ” phụ trách bộ gõ kẹp đôi thìa giữa hai ngón tay, miết xuống mặt bàn. Tiếng phách giòn tan, hoạt như những bước claket điêu luyện. Ba bốn cái miệng gào lên: “Từ khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo t’râyzi…Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây…Uh oa ùh oà…”.
- Dừng lại! Chúng bây hát bài gì lạ thế các em? Ai sáng tác?
- Báo cáo anh! Bài “Tình thư của lính” của nhạc sỹ Xuân Hồng ạ! - Ừ! Ngon heng! Ta sáng tác thì được! Đừng có hát tầm bậy mấy bài lá xa cành anh xa em! Nghe hông!
Thủ trưởng chính trị vừa đi khỏi, cuộc vui lại tiếp tục. Hai con dê cùng qua một chiếc cầu hẹp. Chẳng con nào chịu nhường con nào. Chúng húc nhau, cả hai đều lăn tòm xuống…Nhưng may mà: “Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua…”. Trường Sơn sớm nắng mưa chiều, anh đi nhớ chị Vân Kiều… ấy…to.
Sau đây là bài Tiếng đàn ta lư: “Đi chiến trường, mùa khô năm 71. Vào trong Vinh, mới biết cấp trên đưa mình sang Lào. Hành quân bằng xe hơi…Hú…!”. Cứ thế! Hầu như các bài hát của các nhạc sĩ đều bị biên tập lại. Chắc để cho vừa với kích cỡ tâm hồn giản dị và tếu táo của người lính. Chiến trường ác liệt và nhọc nhằn, có vẻ các món ăn tinh thần nhẹ và vui được tiêu hoá nhanh hơn.
Sau hơn một tháng nằm viện, tôi trở về đơn vị. Đấy là đã được anh em trạm phẫu ưu tiên nghỉ ngơi thêm một tuần. Tiểu đoàn 4, trong thời gian tôi nằm viện vẫn đứng chân gần thị trấn Ponley. Tôi vừa về được một hôm là có lệnh hành quân ngay. Cứ như là đơn vị chỉ chờ mỗi tôi là lên đường. Lại vào ga Bâmnak, nhưng lần này không theo lộ 28, cũng chẳng theo lộ không tên qua phum “rừng thị”. Nhằm thẳng hướng dãy núi Tà Đạt, đơn vị cắt rừng tiến bước. Dãy núi này điểm cao nhất chỉ khoảng 400m, còn toàn bình độ 200, 300 nên vượt qua nó chẳng khó khăn gì. Địa bàn hoạt động quen thuộc đây rồi. Qua phum Chùa, phum Th’may, những cái công sự nổi của chúng tôi mấy tháng trước sệ xuống do mưa, chỉ còn những đống đất.
Ván thành, kể cả các vách gỗ trên các nhà sàn trong phum đã biến đi đâu gần hết. Có thể là dân ngoài lộ 5 đánh xe bò vào lấy, cũng có thể là địch lấy. Những lốt xe bò rất mới lăn ngang lăn dọc ven rừng. Vào đến ga Bâmnak, nhìn thấy ngay cây cầu gỗ trên con lộ song song với đường sắt dã bị địch phá hủy hoàn toàn. Chúng nó đốt quãng giữa cho cháy sập xuống. Đại đội công binh 19 phải hì hụi mấy ngày liền mới làm xong một cái cầu tạm tại vị trí cũ. Cây cầu bây giờ đã được làm lại bằng bê tông, đúng vị trí cũ.
Trong khi khắc phục nối liền giao thông, đại đội công binh này đã phát hiện và gỡ được rất nhiều mìn. Ban Tác chiến phổ biến xuống các đơn vị loại mìn kiểu mới của địch tên gọi là K.58. Mìn này có vỏ cấu tạo bằng chất dẻo để chống máy dò mìn. Hình dạng giống như một hộp nhựa vá ruột xe đạp. Chỉ cần một lực rất nhẹ tác dụng lên bề mặt là mìn phát nổ. Hơi nổ sẽ tuốt đi bàn chân vô tình dẫm phải. Nếu ga rô tốt, cấp cứu kịp thời thì cũng coi như đi đứt một giò. Ý tưởng của kẻ phát minh ra loại mìn này rất thâm độc. Nó làm cho người lính không chết, nhưng đương nhiên bị loại khỏi vòng chiến đấu. Khi trở về hậu phương có thể sẽ gây hoang mang, chán nản cho cộng đồng. Xã hội sẽ phải gánh thêm cái gánh nặng vật chất lẫn tâm lý ấy… Chúng tôi đặt tên cho loại mìn này là mìn “xin một chân!”.
Bên tiểu đoàn 5 đã có hai trường hợp dính phải loại mìn này. Đã có tư tưởng ngại đi đầu vì sợ dính mìn. Các đại đội thì không có chuyện đó, chứ dưới các trung đội bắt đầu tị nạnh nhau về việc đi đầu đi cuối. Một hai lần được chỉ định đi trước thì không sao chứ đến lần thứ ba thể nào trung đội đó cũng thắc mắc thẳng thừng rằng tại sao đại đội cứ “gí” trung đội em thế? Biết là quân lệnh như sơn, nhưng dần dần cán bộ đại đội cũng phải sử dụng chính sách xoay vòng. Còn lính ta thằng đi sau cố đặt bàn chân vào vết chân thằng đi trước. “Sao y bản chính không có đùng rầm!” là một câu nói vui phổ biến thời đó, nhưng nó cũng thể hiện tư tưởng ngại mìn địch trong bộ đội.
Để tránh mìn, đơn vị hành quân truy quét thường phải né đường bò, cắt rừng đến mục tiêu quy định. Nhiều thằng đi đầu một lúc, thấy quãng nào nghi nghi liền đứng lại tạt vào bụi mặc dù không mót ***. Thằng đi sau kế bên vượt qua một tẹo rồi cũng dừng lại làm cái công việc y hệt. Dần dần cả tiểu đội, trung đội thực hành bài “*** cuốn chiếu”. Đêm đông đại đội đốt đèn đi đâu đấy? Đi *** đây, đánh đổ đèn, đụng đồn địch, đại đội *** *** được. Câu đọc vui toàn vần Đ khá đúng trong trường hợp này. Anh Lượng già lính C3 D4 đi cùng đoàn 78, hiện làm Công ty truyền tải điện 4 Đông Anh, kể với tôi là hồi đó tao lúc nào trong túi cũng có cái gai tre.
Đi càn rừng, thấy chỗ nào nhột bụng là lẳng lặng thò tay vào túi lấy cái gai ra giắt vào giày. Sau đó giả vờ dừng lại, cúi xuống nhể, nhường cho mấy thằng em dại lên trước. Giờ gặp nhau, nhậu vào nghe lão giãi bày chuyện ngày xưa thì chúng tôi quay sang chửi thậm tệ. Anh Lượng già mếu máo, nhe hàm răng bàn cuốc khói ám, nói chúng mày thông cảm. Hồi đó tao còn một mẹ, hai con, nhà ba gian mưa gió đã mòn. Chúng mày chưa vướng bận gì, chết nó cũng nhẹ. Tao thương các con tao còn bé dại quá, nhỡ “đùng rầm”, chết cũng không nhắm mắt được.
Tốc độ hành quân chậm, nhiều lần Chính “tréc” đại đội trưởng phát khùng, cứ băng băng vượt trước đội hình đại đội 1. Mặt mũi cứ hầm hầm không thèm nói câu nào. Các trung đội và anh em thấy thế cũng ngượng nên cố gắng hơn.
Đại đội 1 đặt chỉ huy sở ở căn nhà gác ghi đường sắt đầu ga. Ban ngày bung đội hình đi sục từ sáng sớm, ban đêm lại co về. Mé trong núi, đôi lúc nghe tiếng mìn nổ vọng lại. Có thể là thú rừng vướng mìn địch cài. Tôi mới đi viện về nên anh em cũng ưu tiên cho được nghỉ ngơi. Mà truy quét ở cấp đại đội thì bọn thằng Túy, thằng Ban trố 2W nó phải đi, chứ tôi với với anh Ky chỉ có nằm ôm cái điện thoại ngủ suốt ngày cũng được. Trời đang chuyển mùa. Mưa nhỏ hơn và thường xuất hiện vào nửa đêm về sáng.
Gần sớm thức giấc, còn nửa mơ nửa tỉnh, nghe đại đội lịch kịch súng đạn trở dậy đi càn. Còn mình thì kéo cái tấm đắp trùm qua đầu, co mình trên võng. Ngoài trời đang mưa lắc rắc…Cái cảm giác được nghỉ trong khi những người khác vẫn phải làm việc thực thà mà nói cũng dễ chịu…Vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm. Chẳng còn cán bộ lẫn đám bậu xậu đại đội nên muốn làm gì thì làm…Đây là tấm hình chụp chỗ đóng quân năm xưa. Trạm bẻ ghi trở lại tìm nhưng không thấy.
Cứ còn lại mấy thằng ốm dở, thằng văn thư, hai thằng anh nuôi. Ngủ chán thì vác súng đi loanh quanh. Chúng tôi tìm được một đoạn suối rong nước, chỗ đại đội 3 lập cứ về sau này. Nước ở đây chảy chậm. Cả nhóm bắt tay ngay vào việc ruốc cá. Cái trò này là do mấy ông lính dân tộc đầu têu chứ tôi thì biết gì? Tôi thường lỉnh các công việc chung. Anh Đài chính trị viên đại đội 3 có lần cáu, chửi tôi lười hủi như chó, loại mày chỉ thích bắn AK qua cửa kính. Nhưng bắt cá là một trò rất khoái. Thôi thì cứ chúng nó sai làm gì thì làm nấy.
Cành cây và đất lấp ngay dòng chảy ở chỗ lòng suối hẹp nhất. Lúc này mé trên “đập”, nước chỉ chày nho nhỏ do bị chặn ứ. Chúng tôi mang hàng bó cây “say” - một loại cây rừng có vỏ nhiều nhựa màu đỏ, đập vào đá cho xơ ra. Hai thằng đập, rũ trên thượng nguồn, vài đứa mang xơ vỏ và cả lá loại cây đó vò nát, khỏa đều khắp. Một lát sau, cá bị say bắt đầu ngoi lên lờ đờ ngáp. Cá ngựa là yếu nhất, gần như ngoi ngay lập tức. Giống cá này trông như con cá chép. Đuôi cũng đỏ như thế nhưng nhỏ hơn, mình thuôn và tròn hơn và không có đôi râu. Tiếp đến là loại cá giống cá mè vinh đuôi vàng, nhưng mỏng thân và nhỏ hơn. Cá chốt râu ria lờ phờ ngoe nguẩy trên mặt nước.
Những con yếu thì không nói làm gì. Chỉ việc bụm tay hất lên trên bờ. Còn những con to và còn khỏe thì chúng tôi lấy cây nhè đầu mà đập rồi vớt. Cá lăng, cá kết (giống cá thác lác), cá bò bị say luồn ra khỏi hang trú ngụ. Vây ngạnh vây lưng duỗi ra đờ đẫn. cứng đơ rất nguy hiểm. Lúc này phải thật khéo, lội suối bao giờ cũng phải đưa ngón chân xuống trước để thăm dò chỗ đặt bàn chân nếu không muốn ăn cả cái ngạnh trên kỳ lưng nó. Thủng chân vì ngạnh cá này thì sưng và phát sốt ngay. Trơn trơn, mềm mềm, dài dài đây rồi! Nào, từ từ luồn hai bàn tay xuống. Tránh cái vây ra. Và cả bộ râu đẹp của nó nữa! Thật nhẹ nhàng vừa phải tha thiết thôi, đẩy nó dần dần cặp bờ thoải. Đã thấy cái lưng cá bóng nhẫy.
A lê hấp! Hất thẳng lên bờ. Có con cá lăng dài gần nửa mét. Con này tí về phải ăn ngay, không chiều chúng nó càn về chắc chẳng được miếng nào. Cá bò ngạt nước đổi màu vàng ươm hoặc loang lổ trông như màu sơn máy bay Mỹ. Lên bờ rồi mà răng vẫn nghiến èn ẹt nghe rất vui tai. Mỗi chuyến như thế bắt được cả chục ký cá là chuyện bình thường. Trên đường khiêng về tiện tay hái nắm lá giang hay lá bứa nữa là kể như đủ vị.
Thấm thoắt bấy giờ đã là những tháng cuối năm 1979. Trong năm đó, không kể hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, chỉ tính riêng quãng đường hành quân, đơn vị chúng tôi đã vượt quãng đường hàng ngàn cây số, chủ yếu là đi bộ…Đã vượt qua nhiều đồng ruộng sông núi, những đô thị ma ám, những nẻo rừng heo hút không một dấu chân người…Một ngày đàng, một sàng khôn. Một sàng khôn nhẫn nại đời người, đầy dần lên bằng những bước chân lầm bụi, những cái cáng đẫm máu, những đôi mắt dại vô biên nhìn trời không khép... Một sàng khôn gian lao hiểm họa, dạy con người cách tồn tại, cách vượt qua, cách buộc phải chiến thắng bản thân mình.
Và cần nhất là phải biết vì nhau mà sống. Bởi cái thằng đào hố nằm bên cạnh mình nó có sống thì mình mới có thể sống được và ngược lại. Tôi không có ý coi nhẹ các mối quan hệ đẹp như tình bạn thời học trò, thời sinh viên, tình đồng nghiệp công sở, tình láng giềng phố thị…Nhưng thực sự chỉ có tình lính chiến là trải qua những biên độ ác liệt nhất nên nó thường bền chặt. Nó gắn với những thời gian khó nhất nên làm người ta nhớ lâu. Trong cuộc đời bạn đồng đội mình, thấy có đời mình trong đó. Vậy trách chi gì những thằng còn sống trở về, ngồi với nhau dăm ly rượu là chỉ rặt phun ra chuyện đơn vị, chuyện súng ống, chuyện gái gú mêmai…
Không quân trinh sát báo phát hiện căn cứ địch tại vùng núi phía đông bắc ga Th’Mei. Ga này nằm dưới ga Bâmnak 12 km về hướng Ph’nom Penh, nơi con lộ không tên cắt từ đường sắt ra thị trấn Ponley. Vùng núi này cũng thuộc hệ thống Urăng nhưng có độ cao thấp hơn.
Trên các đỉnh tròn, tương đối bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, địch phá rừng làm rẫy, xây dựng lán trại. Tham mưu trung đoàn gọi tên khu vực đó là cao điểm 701.
Lại lên đường! Tiểu đoàn vào phum Bal Tà hiên theo trục đường lớn từ mờ sớm, rồi tạt trái cắt rừng về hướng mục tiêu. Đi một thôi gần đến trưa thì đụng một đám sáu bảy thằng địch đói. Gọi là nửa địch nửa dân thì mới đúng vì tụi nó chỉ có 2 khẩu carbine và 2 phụ nữ. Nghe bộ binh nổ vài loạt tiểu liên roạt roạt đằng trước, lên đến nới đã thấy chết ráo rồi. Đơn vị hành quân tiếp thì thấy một thằng bé chừng 8 tuổi xanh rớt, đeo cái túi mìn từ đâu chui ra. Nó bỏ đám xác kia, đi theo bọn tôi. Thằng cu chắc đi cùng đám địch vừa bị ta diệt.
Trong đó có khi có cả người thân của nó. Đi tác chiến, có về cứ đâu mà kèm nó được? Tình huống khó xử vì chẳng thằng nào dám xử. Anh Thào D phó máu lạnh thế mà cũng chỉ dám thúc bọn lính C1 mau giải quyết. Thấy nó yếu lắm nên ai cũng nghĩ nó sắp ngoẻo. Chẳng ai dám xuống tay. Chúng tôi bỏ nó đấy, đơn vị càng lúc càng đi như chạy...để trốn một đứa trẻ con. Tưởng đã thoát được, nào ngờ đến đầu chiều vừa ngồi nghỉ đã thấy nó lệnh khệnh mò đến đằng sau...Tất cả không ai nói gì. Lại tiếp tục hành quân...
Càng vào đến chân cụm cao điểm 701, rừng càng rậm rạp và ẩm ướt. Đây chắc là dạng rừng mưa nhiệt đới, không phải rừng khộp. Trong những quãng rừng le, vắt nâu, vắt xanh quăng mình theo bước chúng tôi rào rào. Đi một lúc, thấy trầy trượt dưới chân. Cúi xuống nhìn thấy dép mình đã nhoe nhoét máu. Vén ống quần lên, ba bốn con vắt to kềnh no máu rời ra. Trong các loại hút máu người thì tôi kinh con này nhất. Cũng như mìn của địch vậy! Cái gì ta không biết, không phát hiện được thì lại càng đáng sợ. Sợ hơn cả đỉa trâu, đỉa hẹ đồng trũng ở Hà Nam thời huấn luyện. Đặt một cành le khô cho con vắt bám vào rồi quan sát. Nó lập tức biến thành một màu vàng cùng với cành khô đang cầm. Giác chân quặp chắc vào cái que. Còn cái đầu huơ đi huơ lại cuống quít đánh hơi người trông rất hung hãn. Tăm tối và háu ăn một cách kỳ dị, bị một nhát kéo cắt đôi người mà phần đầu vẫn bám chặt lấy cẳng chân thằng Thư quân y.
Qua được quãng rừng vắt ấy, tiểu đoàn dừng chân tại khoảng rừng thưa hơn, nơi có một vệt đường mòn cắt qua để chờ tiểu đoàn 5 lên kịp mũi hiệp đồng. Ngày hôm đó sẽ là một ngày bình thường nếu như không xảy ra chuyện có 5 tên địch nữ đi xồng xộc thẳng vào đội hình của đại đội 2. Lính ta phát hiện thì nó đã vào rất gần. Thậm chí vừa đi vừa nói chuyện rất to. Cho dù là địch đi chăng nữa thì phụ nữ vẫn có nhu cầu buôn chuyện. Đến khi cả năm đứa nhìn thấy mấy cái võng không của lính mình chăng tạm trong lúc nghỉ, đờ người ra định quay đầu chạy thì đã nghe tiếng hô bắt sống và những nòng súng chĩa xung quanh Đồ đạc phụ tùng trên người rơi lịch bịch xuống khi tay đưa lên
trời. Kiểm tra quân tư trang thì thấy không có gì đặc biệt. Vài củ mì, vài quả bí non, võng, với mấy thứ đồ lặt vặt khác…hoàn toàn không có vũ khí.
Lớc đay lơn! Xem có giấu gì trong cạp sà rông, trong áo không nào? Mấy thằng ba trợn càng khám kỹ thì các khuôn mặt tù binh càng giãn ra. Có tiếng nhí nhóe khi hiểu rằng cơ hội sống sót của bọn họ là khá lớn khi bị "khám" kỹ như thế này. Bọn tù binh hiểu đã gặp những con người bình thường, với các hành động bình thường chứ không phải gặp quân ác thú. Tù binh lập tức được đưa ngay về tiểu đoàn bộ. Cái vốn tiếng K bập bẹ của Bình “cháo” chỉ để hiểu được rằng các “chị ấy” thuộc một tổ tăng gia của địch. Đêm ấy, tiểu đoàn giao họ cho trung đội vận tải canh gác. Họ cũng căng võng ngủ như lính ta và hoàn toàn không bị trói.
Sớm hôm sau, tiếp tục hành quân, mang theo cả tù binh. Rừng thì chỗ nào chả giống chỗ nào? Nhưng khi đi được khoảng gần 4 tiếng đồng hồ vã mồ hôi hột, tôi thấy khu rừng này là lạ. Nó là lạ ở chỗ trông nó…quen quen (!). Hình như tiểu đoàn đã trở về đúng vị trí dừng chân đêm qua. Tôi đưa cái nhận xét này ra và anh Ky cũng đồng tình ngay lập tức. Anh Thào tiểu đoàn trưởng mắng át đi: “Mẹ chúng mày! Lệnh đi thì cứ biết đi! Kêu ca gì?”. Đang nghỉ giải lao, tôi quyết tìm ra chứng cứ chứng minh cho nhận xét của mình. Tất nhiên không phải chống lại anh Thào nhưng cái ý muốn biết mình đang ở đâu thôi thúc tôi lò dò tìm quanh. Đây rồi! Cái bếp anh nuôi đại đội 1 nấu cơm ban sáng lù lù cạnh cái gốc cây mục rành rành.
Tôi kêu toáng lên và chúng nó đổ xô lại. Có đứa còn nhận ra mình vừa dẫm phải cái “hố mèo” của chính mình ban sáng. Không cái dại nào giống cái dại nào! Lập tức tôi ăn hai cái đá *** của ông Thào vì cái phát hiện vừa rồi. Bọn tù binh dường như cũng nhận ra tình thế. Chúng nó là ma xó vùng rừng này nên lạ gì! Đã thế lại còn bụm miệng cười khúc khích khiến ông Thào càng cáu tợn. Tiểu đoàn phó của tôi đánh nhau thì không thể chê được nhưng khoản tham mưu bản đồ có vấn đề. Sau hai chưởng mà anh ấy giành cho tôi, không thằng nào dám ý kiến gì nữa. Đúng là dắt dây theo giặc cái thì đen thế đấy!
Mà đúng là đen thật! Chiều tối, tiểu đoàn 5 đã đến điểm hẹn trên núi mà chúng tôi vẫn loanh quanh dưới chân. Cả một rừng dây mây giăng thành chắn mất lối lên. Còn con đường bò lớn vẽ trong bản đồ lúc nãy vẫn thấp thoáng bên cạnh (chúng tôi không dám đi trên đường) bây giờ tự nhiên mất tích. Lên sóng 2W nghe tiếng tiểu đoàn bạn rất rõ, chứng tỏ cự ly thật gần mà mãi vẫn chưa đến được vị trí hiệp đồng. Ông Phấn tham mưu trung đoàn khỏi dùng bảng mật danh, cứ cầm trực tiếp tổ hợp nói chuyện thẳng với anh Thào, hỏi rằng có thấy cái
đỉnh núi nhọn độc lập nào bên tay trái không? Cho trinh sát cắt hướng 45 xem có gặp cái đìa nước nào không??? Có đến một tá câu hỏi, gấp hai lần như thế để hướng dẫn nhưng mò vẫn hoàn mò. Sọt sẹt một lúc thì gần hết pin, phải lắp lố pin dự trữ. Tối mù thế này thì trông thấy cái gì?
Lại nói chuyện ban sáng. Anh Sơn trung đội trưởng trinh sát (không phải anh Sơn “big”. D trưởng đang đi viện) cũng là một tay kỳ cựu đi đầu đội hình. Địa bàn cầm tay, hướng cắt đúng, các vật chuẩn địa hình lần lượt xuất hiện như dự tính. Ấy thế mà đi cả buổi lại lộn về vị trí cũ. Điều này không giải thích được! Cứ như bị ma làm. Một con cú lớn đến giờ kiếm ăn, lừ lừ liệng qua đầu chúng tôi lặng phắc, không một tiếng động. Tướng với quân lúng túng như gà mắc tóc, lao xao hết cả lên. Trung đoàn sốt ruột không chờ nữa, lệnh tiểu đoàn nào đụng địch trước thì đánh ngay.
Tất cả bỗng giật mình vì tiếng súng 12,8 nổ. Đạn vạch đường, chớp B.40 nổ nhoang nhoáng. Khi thấy ánh đạn liền liền tiếng nổ là đã rất gần nhau. Tiểu đoàn 5 đã nổ súng. Chúng nó ở ngay trên núi, đỉnh đầu chúng tôi, hai đơn vị chỉ cách nhau chưa đầy một km. Một thằng ngu nào đó không chờ lệnh thống nhất qua thông tin, bắn ba phát đạn vạch đường lên núi bắt liên lạc. Do quá gần nhau nên bọn tiểu đoàn 5 tưởng chúng tôi là địch đánh từ dưới lên. Lập tức, hai khẩu 12,8 quay nòng bắn thốc xuống chân núi. Đạn chớp giần giật.
Có những viên xuyên qua cây văng lung tung hình chữ chi, phụt lửa lằng ngoằng. Cũng may là sườn dốc, cha con chúi cả vào sát chân nên không sao. Tụi tôi hét lên như di nhưng mấy thằng điếc ấy đâu có nghe tiếng. Khẩu DK đại đội 4 đòi giá súng bắn “bắt liên lạc” lại đôi trái chắc chắn bọn trên núi nhận ra ngay. Được trung đoàn thông báo, bọn tiểu đoàn 5 thôi bắn xuống. Nhưng tiếng súng trên đỉnh núi vẫn loác đoác đến tối mịt.
Mọi vật trở nên rõ ràng sáng sủa trong ánh ban mai. Khi được mở đáp án thì bài tập nào cũng dễ. Nấu cơm sáng ăn xong, quay trở lại hướng đi hôm qua chừng nửa cây số, chúng tôi thoát qua được cánh rừng mây và bắt đầu leo lên. Một lối đi với nhiều tấm đá phiến vừa chân bước, như đường lên chùa. Mấy cô tù binh (bây giờ chẳng biết gọi họ thế nào) vác đạn và đội cối cho bọn vận tải khoác súng đi không. Họ không biết gánh nên tháo kẹp đòn cối ra, bó lại 4 trái, cuốn cái khăn kà ma rất khéo, đội ổ đạn trên đầu. Những đoạn dốc, thấy bị nó chổng mông vào mặt là bọn lính đi sau thò tay cấu. Vừa đi vừa chí chóe cứ như dân công hỏa tuyến thời kháng chiến.
Anh Thành chính trị viên tiểu đoàn (thay anh Thưởng) trông thấy chướng mắt quá, gọi lính lại mắng nên chúng nó mới thôi làm trò. Đang leo thì mấy chị ấy dừng lại, bỏ “gánh” cối tạt vào bụi. Mấy đứa được giao nhiệm vụ trông coi tù binh không biết làm thế nào cũng đành phải rúc theo, sợ chúng nó chuồn mất. Khi tụi trông tù quay lại đội hình thì bị mấy cha lính cũ đã có vợ bắt miêu tả lại từng chi tiết, là trông “nó” như thế nào, kích cỡ ra sao, nằm ngang hay nằm dọc? Chuyện tầm bậy tầm bạ làm quên đi cái mệt…
Đến trưa, lên đến mỏm 2. Một vùng quang đãng với bình độ thoải nằm gọn trong tầm mắt. Lính Pôn Pốt chặt cây phát rừng làm rẫy. Cây đổ ngổn ngang, lá cành khô xác nhưng địch không đốt chắc do sợ lộ. Cũng chưa thấy chúng nó trồng trọt cái gì. Mỏm 2 và mỏm 1 nơi tiểu đoàn 5 đánh vào đêm qua chỉ cách nhau 1,5 km, với đường tụ thủy là một khe suối hẹp. Hơn chục xác địch nằm rải rác trong các lán lá, làm bằng các thân cây nhỏ cạnh nguồn nước. Trong một cái lán, tôi thấy có một cặp ngà voi lớn đã cưa ra từng khúc. Ngà voi chỉ đặc đoạn đầu mũi nhọn, còn đoạn gốc cũng rỗng và mỏng như sừng trâu.
Chúng tôi dừng chân tại đây để mở rộng truy quét sang các mỏm lân cận cùng tiểu đoàn 5. Đại đội 1 đóng quân ở mấy cái lán cạnh khe nhỏ phía trên nguồn. Trời khô ráo, nhưng nước nguồn từ đâu đó trong ruột núi vẫn róc rách tuôn ra mát lạnh. Lính ta phải khiêng mấy cái xác địch dọn ra chỗ khác dưới nguồn chôn, vì sợ ô nhiễm nguồn nước ăn duy nhất. Trên đường từ đại đội một về tiểu đoàn bộ cũng có hai cái xác địch nằm chình ình nằm gần trung đội 2. Bọn này lười không chịu lấp. Mấy ngày hôm sau nó sình trương lên, nồng nặc không chịu được, đành mang xẻng ra vừa bịt mũi vừa lấp đất.
Nếu ở nhà thì đang là đầu mùa đông. Mùa đông năm 1980, tròn một năm lính chiến. Năm ngoái cữ này, chúng tôi còn đang nằm chốt bờ đê biên giới Long An. Còn bây giờ ở trên cao, cái vùng núi này cũng đang là mùa đông thực sự. Ban ngày nắng trắng đất rẫy, song cuối chiều chưa tắt nắng đã thấy lạnh sởn da gà. Các tổ cảnh giới ban ngày trên các con đường mòn nhỏ, lá khô rụng đầy, phải tinh mắt mới nhìn thấy. Chiều tối, khi gài lại lựu đạn, rút về thì sương núi đã giăng buốt. Tiểu đoàn lệnh cấm đốt lửa nhưng chỉ chịu được một đêm. Đến đêm hôm sau thì lính cứ đốt. Chính tiểu đoàn bộ cũng đốt vì không chịu được rét.
Chúng tôi kéo cành, đốt những gộc cây to ngoài biên xa đội hình trước, sau đó mới đốt các đống sưởi gần lán. Trung đội 2 nằm cách đại đội có 20m nên cứ tối là tôi mò xuống đó, tẩm quất đổi công với thằng Tám khỏe. Đống lửa nhập nhoạng ở gần mả hai thằng Pốt làm Chính tréc sợ ma, đi hội ý tiểu đoàn về muộn bao giờ cũng phải gọi thêm thằng Đồng xuống đón, mặc dù tiểu đoàn nằm cách đại đội 1 chưa đến 200 mét, và ở giữa còn có trung đội vận tải chẹn ngang đường.
Tôi với thằng Căn nằm úp thìa trên sạp trong lán địch, đắp chung cả hai tấm đắp, cuộn cả võng nhưng cũng chỉ ngủ được chập chờn. Hơi lạnh luồn qua những khe hở dưới sạp cù vào sườn buốt giá dù đã trải 2 lượt nilon. Trở mình một cái là chút hơi ấm mong manh tan biến. Trong đêm có khi còn nghe rõ tiếng bọn tù binh chí chóe với bọn vận tải trông tù. Mặt mũi cùng các chỉ số hình thể đám nữ Pốt này cũng không đến nỗi nào, nếu như không muốn nói là trông được. Thế mới bỏ mẹ! Không biết chúng nó có làm gì nhau không, nhưng nghe thấy thế thì khó chịu quá, bố ai ngủ được?
Ở cao điểm 701, chúng tôi được cấp phát một loại gạo hạt tròn, mẩy như hạt gạo nếp nhưng trong chứ không đục. Nấu cơm ăn nếu không khéo hay bị nát, và vị cơm rất nhạt. Chúng tôi gọi đó là gạo dính hoặc gạo ni lông. Không biết gạo này có xuất xứ từ đâu nhưng ăn gạo cũ còn dễ nuốt hơn. Một buổi chiều gần tối, đang lùa bát cơm nấu bằng cái loại gạo đó vào miệng với nước canh bứa thì khẩu cối tép bắn thử đạn cối theo lệnh đại đội. Hướng bắn gióng vào con đường mòn triền núi phía sau. Thằng Dung cầm quả đạn thả vào nòng. Tiếng đề pa nghe “phọp” chứ không "toong" như bình thường. Quả đạn cối 60 vọt ra khỏi nòng, bay cao chầm chậm khoảng 20m, lúc lắc cái đuôi rồi cắm xuống đúng vị trí trung đội 3. Bọn này vừa ăn cơm vừa nhìn xem bắn thử thấy đạn rơi vào mâm liền quăng bát chạy tóe ra.
Tôi đứng khá xa, nhưng theo phản xạ cũng bưng cái bát, né vội vào một gốc cây. Quả đạn nổ cái “rầm!". Thằng Thành bị một miểng vừa trúng mông, mừng hơn cưới vợ. Mọi người xúm lại khẩu cối xem xét. Đứa thì đổ cho đạn, đứa đổ cho liều…Anh Lược lẳng lặng đến xách khẩu cối dốc ngược xuống. Nước trong nòng đổ ra òng ọc, đen sì vì bị nhuộm khói thuốc phóng. Đêm qua mưa nhưng chúng nó không bịt miệng nòng. Tiểu đoàn điện hỏi có chuyện gì thì anh Chính báo C1 bị dính lựu đạn gài, bị thương một.
Một đêm, đang ngủ say trong sạp thì phía dưới trung đội 2, tiếng thằng Minh đen kêu toáng lên: “Địch vào! Nó bắn tỉa!”. Trung đội 2 nổ súng, rồi cả đại đội nổ súng ầm ầm. Tôi nửa mơ nửa thức, ôm máy cắp súng vọt như biến ra khỏi lán đang đốt lửa vì sợ nó thổi B.40. Ngồi
thụp xuống cái hốc tối, xa cái lán đang lồ lộ trong ánh lửa một khoảng an toàn, tôi cũng hạ khẩu AK bắn đại ra bìa rừng tối đen đằng trước. Ít khi được xả súng, mà cũng không có thấy địch nó hô "trô trô" hoặc bắn vào nên tôi xiết cò hăng hái lắm!
Thấy quái lạ cứ mỗi lần xiết cò, sao có cái gì đó đó tạt lại dăm dăm cực mạnh, rát hết cả mặt mũi. Càng bắn liên thanh càng đau rát nên đành thôi, không dám bắn nữa. Sáng hôm sau kiểm tra thì ở chỗ đó có một hòn đá mồ côi to tướng dựng lù lù. Thân đá bị đạn nhọn chém từng mảng trắng mốc. Đêm hôm đó, tôi đã bắn trực diện vào một hòn đá cách đầu nòng có 2m. May mà đạn nó văng đi đâu đó, chứ không bật ngược trở lại thì mình ngỏm củ tỏi. Chuyện này về sau bị bọn đại đội 1 bôi bác mãi rất khó chịu.
Còn thằng Phượng bọ y tá thấy yên tiếng súng, chạy xuống B2. Minh đen ôm ngực quằn quại đau đớn lắm. Nó hỏi bị thương chỗ nào thì thằng này thều thào chỉ ngay vào ngực. Đêm tối, chưa kịp khơi lại củi, không rõ vết thương ra sao. Phượng bọ cuốn băng thật chặt vào ngực nó rồi hô anh em cáng xuống quân y tiểu đoàn bộ. Đến nơi, quân y tiểu đoàn lấy kéo cắt băng, bấm đèn pin soi kiểm tra mãi không thấy vết thương đâu. Chỉ có một chỗ tấy và hơi rớm máu. Thì ra chúng nó bẻ đạn nhóm lửa sưởi,vất cả cát tut vào trong đống than. Chắc cái hạt nẻ nó nổ văng vào ngực. Anh Thành pha cho nó cốc sữa nóng động viên. Sau đó cả bọn lại lục tục kéo về đại đội. Trên đường về, nó bị mấy thằng phải khiêng đi chửi quá trời, nín im thin thít. Gặp nhau bây giờ chúng tôi nhắc lại vẫn còn quê độ.
Nằm tại núi 701 gần một tuần, sau khi tổ chức lùng sục thêm không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút quân sau khi đốt sạch những thứ gì đốt được của địch trên đỉnh núi. Chúng tôi thu dây về tiểu đoàn bộ, đổi chỗ cho thằng Túy. Sớm tinh mơ ngày lên đường, trong khi tiểu đoàn cùng các đại đội chuẩn bị hành quân thì một tiếng nổ thật căng xé tan sự tĩnh lặng của rừng núi. Sương đêm đọng trên lá rơi lào rào sau chấn động. Anh Thào lập tức kêu 2w gọi ngay xuống các đại đội. Tất cả đều nghe tốt. Chỉ có đại đội 1 là không trả lời. Một linh cảm xấu làm tim tôi chợt nhói. Hay thằng Túy mình bị rồi anh Ky ơi! Mày có làm sao không thế Tuý? Chiều hôm qua, lúc thu dây về tiểu đoàn bộ, tôi và anh Ky còn gặp nó ở mả hai thằng địch chết đầu B2. Nó đi lĩnh pin xuống đại đội, gặp chúng tôi còn nhe răng cười…Anh Nhương giằng lấy tổ hợp máy tiểu đoàn của thằng Mạnh. Hết gọi “Bến Cầu - Bến Cát 01!” lại gào lên trực tiếp: “Tuý đâu? Tuý đâu? Tuý ơi…!”.
Truyền đạt vừa kịp chạy vài bước xuống C1 đã thấy lính đại đội 1 huỳnh huỵch võng hai võng đẫm máu về tiểu đoàn. Thằng Tuý 2W và anh Quang râu chính trị viên đã hy sinh. Hai anh em đi tè chuẩn bị lên đường thì thằng Tuý đá mìn. Quả mìn KP.2 địch gài từ trước, sau khung nhà cháy, cạnh hòn đá lớn bìa rừng cách chỉ huy sở đại đội 1 chỉ khoảng gần 10m. Cái hòn đá mà đêm hôm nào tôi đã mắt nhắm mắt mở
bắn vào. Chỗ đó như cái nhà vệ sinh công cộng của BCH đại đội. Tôi và anh Ky cũng thường xuyên ra đấy tè bậy gần đó, nhưng chẳng hiểu sao lại không vướng.
Anh Quang bị thương hôm đại 1 mất chốt hồi tháng tư, đi viện rồi được giải quyết về phép, mới cưới vợ xong. Còn thằng Tuý người huyện Ý Yên, Hà nam ninh, học sinh chuyên văn hẳn hoi. Nó có thể đọc thuộc lòng từng trích đoạn “Đi săn” trong “Chiến tranh và Hoà bình” không hề vấp váp. Bảng mật danh mới trong khi chúng nó ôm đầu vã mồ hôi hột cố mà thuộc thì nó chỉ vài hôm là làu làu. Một điều đặc biệt là nó không bao giờ xưng mày gọi tao với ai cả. Các anh đi trước thì không nói làm gì, nhưng với những thằng cùng đoàn năm 78 thì bao giờ cũng xưng cậu cậu tớ tớ như vẫn còn thời học sinh trung học. Bây giờ thì bầu trời cao điểm 701 có xanh như bầu trời Austerlítz của mày không, Tuý ơi !
Thằng Đồng Huế liên lạc khóc ồ ồ như cha chết, ôm khư khư cái túi mìn đựng đồ của anh Quang chạy quanh cái võng. Khuôn mặt anh ấy lấm tấm máu. Cái nốt ruồi lớn khóe cằm, có những sợi râu dài đen nhánh tuôn ra từ đấy, vẫn bình thản phất phơ theo nhịp võng. Anh ấy đến chết vẫn có gương mặt rất tươi. Tự nhiên nhớ nụ cười nửa mơ hồ nửa độ lượng chiều hôm nào, khi anh ấy kéo tôi xuống hầm ở U Đông.
Chỉ còn anh Thành chính trị viên tiểu đoàn là còn bình tĩnh, từ tốn bảo anh em lau mặt rồi quấn băng lại cho liệt sĩ thật cẩn thận, đừng để máu chảy ra nữa...
Trở về ga Bamnak, tôi lên cơn sốt. Chỉ thấy lúc nóng điên người, lúc thì lại gai gai lạnh nhưng không thấy cầm cập rung cả võng như chúng nó. Hai hôm đầu được nghỉ truy quét, tôi còn cố gắng gượng dậy lần ra con đập nhỏ ngay cạnh chỗ dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ xem thằng Hải cụt câu chạch. Đến hôm thứ ba thì quỵ hẳn. Nằm li bì trên võng từ sáng đến đêm, người nóng hầm hập. Khi lấy cơm về trung đội, anh Nhương hết dỗ lại chửi giục tôi xuống ăn. Lão ấy sốt ruột nhưng bất lực nên chửi rất độc, dọa không ăn thì chết mẹ mày. Nhưng ngồi dậy lúc đó cũng còn khó, nói gì đến ăn uống. Thằng Tuý chết, tôi lăn đùng ra ốm, trung đội thông tin thiếu người nghiêm trọng. Bấy giờ anh ấy lùa thằng Mạnh tiểu đội trưởng 2W xuống đi với đại đội 1. Còn chính anh ấy phải khoác máy đi theo chỉ huy tiểu đoàn. Lâu không làm máy, mật danh thì không thuộc, tậm tà tậm tịt nên nghe ông Thào chửi rát. Anh ấy sinh ra bẳn gắt như mắm tôm.
Cứ chiều tối, sau khi đi càn về là anh ấy lại ngồi ngay đầu võng tôi càu nhàu. Mà tôi có nghe thấy anh ấy nói cái gì đâu! Cái võng tôi mắc hơi chùng cạnh bờ suối, nằm rất khó chịu nhưng chẳng còn hơi đâu mà mắc lại. Tôi ị đùn vô thức ra cả cõng cũng chỉ đủ sức gắng nhỏm dậy, tụt cái quần đùi bẩn lau qua rồi thả nó trôi luôn theo suối. Chúng nó đi tác chiến hết, chẳng nhờ ai được. Mà cũng chẳng dám nhờ đứa nào đi giặt quần dính phân lỏng.Vẫn còn chút sỹ của một thằng trai thành thị. Tôi chọn cái áo cũ đã mùn sởn lau võng, lau phân xong vo viên cuộn dưới gốc cây chân võng để dùng dần.
Con suối những lúc khỏe thì bọn tôi chiều đến là quẫy đùa tắm giặt ùm ùm, nhưng giờ nhìn dòng nước cuốn thấy ớn đến tận xương, cảm giác rất sợ nước. Mọi giác quan, mọi xúc cảm gần như tê liệt. Cứ nằm thiêm thiếp, mắt thì he hé lúc nhắm lúc mở nhìn vào một điểm vô định. Có hai quả ổi ương ương hanh vàng lấp ló bên kia bờ suối là chỗ hút một điểm nhìn gần như cả ngày. Giá mình còn sức thì mình sẽ lội sang hái ngay. Chẳng thấy thương cha, không thấy nhớ mẹ, không buồn không vui gì hết nữa! Địch giá có đánh vào tận nơi có khi tôi cũng mặc mẹ…Thành thử anh Nhương có lầu bầu cáu kỉnh thì cũng chỉ vô nghĩa, coi như con nhện con ruồi cáu mà thôi!
Bây giờ anh Nhương kể lại là tao nhìn mặt mày lúc đó trông kinh lắm, khó tả lắm. Nhưng không thấy rét rung như chúng nó nên tưởng là sốt thường thôi, chứ không tao đã đề nghị cho mày đi viện ngay lập tức rồi. Khổ thân anh Nhương, mấy năm trước có thằng con trai lớn đang yêu, đèo bạn gái đi chợ quên mũ bảo hiểm, bị công an giao thông Bắc Giang nó lôi về đồn đập chết. Cái vụ này ầm ĩ nổi tiếng ra cả quốc tế. Cả họ cả làng Hồng Thái, Việt Yên nhà anh ấy chở quan tài thằng cháu, kéo nhau ra xô đổ rào, cổng của UBND tỉnh. Cảnh sát chống bạo động phải làm việc, động viên rất vất vả. Cuối cùng kẻ thủ ác đã phải đi tù, nhưng anh Nhương vĩnh viễn mất đứa con trai. Bây giờ ngồi nhậu với nhau, quá chén lên là chửi thề, là mếu...Bố mày đi đánh Pốt chưa được có vinh dự là Liệt sỹ, mà sao con ra nông nỗi thế này con ơi! Mấy thằng cựu với nhau, im lặng ngoảnh mặt đi, nâng chén rượu lảng qua chuyện khác hoặc kiếm cớ đi ***.
Sau ba ngày sốt, hoàn toàn không ăn được gì, chỉ uống nước cháo cầm hơi. Sáng ngày thứ tư, thằng quân y tiểu đoàn xuống kiểm tra giật mình thấy tay tôi thõng ra khỏi võng. Trên mặt đất là những viên thuốc nó phát cho tôi chiều hôm trước chưa kịp uống rơi tung toé. Bấu vào người gần như không có phản ứng. Hoảng hồn! Nó chạy sang vận tải xin cáng tôi lên bệnh xá trung đoàn.
Đêm hôm ấy ở K.23, tôi lơ mơ cảm thấy có người đo huyết áp cho mình. Một lát sau lại có thêm người đến nữa. Huyết áp tụt không đo được. Các anh ấy lấy ven truyền nước. Huyết thanh làm tôi cũng tỉnh táo dễ chịu hơn. Có tiểng hỏi lơ mơ âm âm đâu đó rằng mày có nhận ra tao không? Tính đây, Tính phố Lý Văn Phúc đây!
Sáng hôm sau, tôi được đưa lên xe tải, cùng với mấy thương bệnh binh nữa về viện 97 của sư đoàn. Một trung đội công binh của đại đội 19 tháp tùng xe ra đến phum “rừng thị” rồi lại đi bộ trở về.
Viện 97 Sư đoàn 9 Sau gần cả ngày nằm bẹp gí trên thùng xe quăng quật, mở mắt ra đã thấy những tàu lá thốt nốt trôi qua trên bầu trời. Có cả những cành cây me tây nữa. Thoảng đâu đó thấy mùi mắm, mùi đường thốt nốt đang cô, lẫn mùi khói hun ống ong ong. Tôi đoán sắp về đến Kampong Ch'nang. Cái thị xã gần một năm trời mới trở lại gặp nó. Muốn đứng dậy ngó quanh, nhưng không đứng lên được, cứ đành nằm im thế. Rồi xe cũng đỗ lại. Nhà chỉ huy của viện 97 ở trên một cái nền chùa cũ khá cao. Từ chỗ đỗ xe lên đến đó với tôi lúc đó là cả một vấn đề, vừa đi vừa thở.
Người ta đưa tôi xuống một cái gian nhà rộng lợp tôn kẽm như cái nhà lính ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Cái nhà cũng thưng bằng các tấm ghi, gỗ ván tạm bợ do lính ta làm. Hai hàng phản bằng các tấm ván ép dày hai bên cho thương bệnh binh sư đoàn nằm, có chừa lối đi ở giữa. Anh em thương bệnh binh thời gian này không thấy nhiều, chỉ khoảng hơn hai chục đứa. Tôi kiếm một chỗ trống trên cái phản dài công cộng đó, chuẩn bị chỗ nằm cho mình. Lúc giở ba lô ra thấy có một tấm dù lạ màu rêu, tuy cũ và tươm hết các viền mép, nhưng còn khá tốt. Không biết ở K.23 ai đó đã nhét vào cho. Buông xong mùng là lại trùm tấm dù nằm luôn.
Chiều hôm đó bỏ cơm. Đến tối tỉnh giấc, trong chập choạng ánh sáng cái đèn dầu ma zút bấc to tự tạo của viện, thấy hai hộp sữa ông Thọ để ở đầu giường. Lúc dậy đi ra ngoài, tôi lần mò kiếm được cái đinh đóng lỏng trên vách ván. Thế là tôi để ngược hộp sữa lên cái đinh, giọng một vài cái được hai cái lỗ. Sau đó cứ thế nằm mút. Sữa ngon quá! Tình hình như thế là ổn, có vẻ không đến nỗi nào. Có điều đến đêm thì nó
khát nước kinh khủng, không biết nước ở đâu. Lại trở dậy lần mò đi ra ngoài, vừa đi vừa đằng hắng sợ quân gác đêm nó bắn nhầm. Nỗi sợ thừa, vì ở viện 97 không thấy đứa nào gác. Đêm yên tĩnh. Có một vài đốm đèn dầu phía xa xa. Mình đang ở hậu phương, cảm giác thật dễ chịu. Cuối cùng, lệnh khệnh chậm rãi như một bóng ma, tôi tìm ra được cái giếng nước. Thả gàu kéo một lưng nước lên, rồi cứ ngồi đó mà tu nước lạnh, thật sảng khoái...
Sư đoàn bộ sư đoàn 9 thời gian này đóng ở sân bay Kampong Ch’nang. Viện 97 nằm sát ngay thị xã, trong một cái phum cũ phía đông sư bộ. Tuổi còn trẻ nên tôi phục hồi sức khoẻ nhanh chóng. Bây giờ đã tự lên lĩnh thuốc trên nhà điều trị được. Dứt đợt sốt, đến kỳ ăn trả bữa. Lúc nào tôi cũng thấy đói. Đói kinh khủng! Tôi với thằng Trung - dân Sơn Tây, lính trung đoàn 3 - cứ lân la xuống bếp nhặt rau mổ cá giúp bọn anh nuôi để được chúng nó chia thêm cơm hoặc cháy. Thị xã Kampong Ch’nang nằm ngay bờ Tonle Sap nên cá là thực phẩm chủ yếu. Anh nuôi bệnh viện kho cá trong một cái nồi nhôm Liên xô to cao thành. Đun cả đêm, đến sáng thì xương cá đã mục mềm hết cả, chén được cả đầu. Họ kho cá không dùng nước hàng mà tống ngũ vị hay cà ri vào nên cá kho bao giờ cũng có màu vàng vàng và ăn hơi hắc. Nhưng hề gì! Bữa cơm có cá tươi là cả một bữa tiệc thiên đường rồi. Chúng tôi thấy toàn cá trôi, cá linh và các cá tạp khác, to cỡ cườm tay hoặc chuôi dao. Ở biển Hồ cá linh to hơn mạn dưới hạ lưu nhiều.
Chiều thì leo mấy cây lê ki ma quanh chỗ ở, hái những quả vàng gần chín. Khoét những lỗ nhỏ gần cuống quả xong, nhét vào mấy hạt muối rồi vùi vào đám lá khô ngay gốc, quả sẽ rất mau chín. Sau những bữa cơm, chúng tôi tráng miệng bằng thứ quả đó. Tuy mồm miệng lúc chén xong dính bột quả có hơi giống vừa ăn…lòng đỏ trứng gà thật. Nhưng hề gì! Rất ngọt và ngậy bùi. Với lại việc lấp đầy cái dạ dày hình như lúc nào cũng rỗng mới là việc quan trọng nhất...
Đôi khi chúng tôi đi nhờ xe bò của dân ra thị xã chơi. Cuộc sống hậu phương bình thường đã dần dần trở lại. Tiền Riel của chính phủ mới đã được phát hành nhưng tiền Việt cũng rất thông dụng. Rõ ràng lính Việt cũng là một bộ phận của xã hội mới. Kampong Ch’nang nhỏ nhắn và yên tĩnh, khiêm nhường nép mình dưới những hàng phượng tây xanh mát. Kiến trúc nhiệt đới của các công thự theo phong cách Pháp còn chưa bị lai căng. Buổi sáng sớm trên những đường phố, hàng đoàn xe bò đủng đỉnh lăn bánh về phía chợ bờ sông. Những cặp bò vừa đi vừa bĩnh phùm phụp ra đường, vừa khinh khỉnh nhìn những chiếc xe Renaul, Citroen nước sơn còn khá tươm, nhưng bị tháo hết cả đệm lẫn bánh, nằm gí trong các bãi cỏ xác bên đường. Lũ bò bằng lòng với sự độc quyền vận tải của mình, thỉnh thoảng lại rống lên rất hãnh tiến. Đúng là ngu như bò!
Hàng chùm ống nước thốt nốt ngọt, nước thốt nốt chua treo lủng lẳng trên cột đèn, trên những hàng rào sắt, hàng rào bê tông. Bằng cách nào đó, hàng tiêu dùng Thailand theo chân những thương lái gốc Hoa đã bắt đầu xuất hiện. Thuốc lá Samit, thuốc lá 111, Gold City 85... kem đánh răng Hynos, vải vóc...Những loại hàng hoá quyến rũ, thơm phức, đến miền Bắc XHCN có nằm mơ cũng không thấy. Nhưng đắt hàng nhất phải kể đến đủ loại dép tông. Tông hai quai đế dày nhiều lớp màu như cái bánh "chín tầng mây", tông màu gan gà mỏng xỏ ngón…Các cô gái mới từ phum ngoại vi ra thử dép, ngón chân cái toè ra đen sì, ngượng ngập kẹp vào cái cuống quai lắc lắc. Thật khó hình dung khi mới cách đây 9 tháng, tiểu đoàn tôi đổ bộ từ bến cá, qua những căn nhà hoang trên phố này, tấn công giải vây ga Rô mia. Bây giờ đã là một cuộc sống hoàn toàn khác, mặc dù thị xã nằm cách khu chiến của trung đoàn tôi chưa đầy 100km.
Bay trên tất cả khung cảnh ấy là hơi thở của mùa khô, cái mùa tinh tươm sạch sẽ và trù phú. Lúa đã gặt và cá đang hong trên các giàn sấy. Nắng đang dâng trắng loá trên những con đường đất khô ráo, nhưng chỉ dừng lại dăm phút trong bóng râm của rặng cây me tây đã thấy mát rượi. Không khí nhẹ và bổng, lẫn trong đó đủ thứ mùi vị âm thanh của đời thường. Mùi thốt nốt chua, thốt nốt ngọt, mùi mắm bò hóc, mùi cá tươi lẫn mùi thuốc lá thơm... Ấn tượng nhất là mùi xà bông Camay, xà bông Lux khi cái xe bò chở đám con gái, quấn sà rông chặt căng mông đi qua. Có cảm giác các ả chỉ xát xà bông lên người và nhúng qua nước rồi phi ra thẳng chợ nên cái mùi nó mới đậm đặc, gây nồng như thế.
Tiếng ling king, lốc cốc của lục lạc, của mõ bò đôi; tiếng gió chướng lào thào trên vòm cao lá; tiếng đàn bà con gái lanh chanh giọng thanh vút. Ở đây chúng nó mới tự tin vui đùa thế, chứ ở trong rừng rú, chúng tôi chỉ gặp toàn bọn con gái đen đúa, rách rưới, câm hoặc nhát gừng trả lời. Nhưng nhớ nhất là giọng ca Thanh Tuyền phát ra từ cái đài catset nhỏ của thằng buôn vàng. " Ngập ngừng sương rơi non xa. Chiều thu giăng lưới cô đơn. Nghe tiếng mưa sầu chứa chan. Người đi về đâu ngàn lối. Nhớ ai chiều thu...." . Một mùa thu xa vắng và cổ quái của riêng đất Bắc. Nó làm tôi thở dài và ngước nhìn lên bầu trời.
Tôi kéo thằng Trung lại gian hàng mơ ước của tôi. Một tủ kính sáng trưng bày đủ các loại đồng hồ đeo tay các nhãn Rado, Citizen, Orient hoặc Seiko…Giá mỗi chiếc là 3 chỉ vàng. Giá hồi đó tôi không nộp lại vàng cho cán bộ chính sách trong trận bắt hụt Tàmok thì bây giờ có phải đã đổi được cái đồng hồ nữ xinh xắn kia, làm quà cho con em gái. Khi trở về còn có cơ hội nói phét rằng tao đã tránh được nhát lê của
địch trong một trận giáp lá cà. Khử nó xong thu được cái đồng hồ chiến lợi phẩm này. Em gái tôi mới nó đỗ đại học Tài chính, nhưng không dám nhập học vì phải cắt hộ khẩu Hà Nội
Than ôi! Vét sạch tiền Việt trong túi, hai thằng chỉ đủ mỗi đứa một ly đá bào trộn đường thốt nốt và hạt é pha màu xanh đỏ.
Một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ màu trắng in hình biểu tượng của Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO) đậu ở gần chợ. Trên thùng xe chở gạo và các cô gái rất xinh đang cười đùa như nắc nẻ. Có lẽ họ là người nước ngoài đến đây làm công tác tình nguyện cứu trợ. Trông thấy hai thằng tôi họ im bặt, cứ như nhìn thấy quái vật. Họ hiểu bọn tôi như một lũ xâm lược hoặc người rừng chăng? Tôi nhìn lại mình qua tấm kính hàng xe nước đá. Một mớ tóc lưa thưa do rụng gần hết vì sốt, úp lên một gương mặt dãi dầu xanh tái. Bộ quần áo màu xanh sỹ lâm tự khâu lấy thật vụng về và đã toả mùi mồ hôi chua chua do lười giặt. Tôi nhìn vào đôi mắt tôi trong tấm kính ấy! Thấy gì đâu hả anh lính tình nguyện? Một nỗi hờn giận điên cuồng vô cớ bùng lên. Tôi bật đứng dậy, thẳng tay đập tan cái ly xuống vỉa hè. Tất cả xung quanh đều im phăng phắc. Tôi ném tất tiền vào cái khay rồi kéo thằng Trung về.
Vì cái đài đó nên chúng tôi nghiện đi ra chợ chơi dù không tiền trong túi. Hồi ở nhà mới nghe Trịnh Công Sơn, băng Sơn ca 7 từ cái dàn AKAI băng cối, đôi loa thùng có mặt êcran gỗ hình quả trám nhà thằng Bình đại liên là thấy mê, nhưng chưa thích giọng Thanh Tuyền. Bây giờ nghe riết, thấy nó cũng hay và hợp với đời lính. Từ cái đài đó mà tôi có thể thuộc hết các bài trong băng Thanh Tuyền 1: Nỗi buồn hoa phượng, Kiếp nghèo, Không bao giờ quên anh, Tình thư của lính, Tôi muốn quên đi... Dân ở thị xã cũng keo cú hơn dân thị trấn Pờ Lây. Xin thử nước thốt nốt chua là họ không có cho. Và khi ở thị trấn thì cái sỹ diện con người tôi nó cũng lớn hơn một tí, hỏi một lần không được thì thôi chứ không dám níu gánh uống đại. Mẹ bây giờ Pốt nó ập oành vài phát như hồi tháng 3 thì quăng cả bò mà chạy chứ đừng có nói tiếc mấy cái ống thốt nốt.
Xoài đang tuôn hoa, những chùm hoa màu ngà trắng. Cái Tết đang dần đến, khiến nao lòng nỗi nhớ nhà. Hôm trước có một anh trong đội điều trị hỏi mày ở tiểu đoàn 4 trung đoàn 2 à? Chúng mày thu được lắm vàng lắm à? Còn vàng không đưa chúng tao hai chỉ. Tao làm cho cái giấy chuyển về 175 Sài gòn mà chuồn về thăm nhà. Đã nhiều thằng ở đây đi về nhà bằng cách đó. Thiệt tình, nếu còn vàng thì mình đã đổi đồng hồ, việc đếch gì phải chung để lấy cái giấy chuyển viện dớ dẩn! Đêm nằm trên phản, thì thầm bàn với thằng Trung chuyện trốn về
nhà. Nó ngần ngừ, nhưng rồi cũng nhất trí. Chỉ cần về được Sài Gòn thì có thể vào nhà bác nó vay tiền nhảy tàu ra Bắc. Khi đã có ý định thì những ngày nằm điều trị trở nên dài lê thê bởi cái Tết đang thúc đằng sau lưng.
Rồi cái ngày ra viện cũng đến. Hai thằng lấy giấy ra viện, giấy cung cấp tài chính, một ít phụ cấp tiền Riel. Chúng tôi ra sân vận động thị xã Kampong Ch’nang buổi sáng ngồi chờ xe. Chiều hôm Chủ nhật trước, chúng tôi có ra sân này xem trận đấu giữa đội Sư 9 và đội thanh niên KP Ch'năng. Kết quả là Sư đoàn 9 thắng 2-0. Nhưng thấy áo đấu lính mình sản xuất nội địa trông chán lắm. Còn tụi TN bạn chúng nó toàn mặc đồ thể thao xịn nhập từ Thái lan, trông rất choáng. Bây giờ thì sân vận động trống không, cột gôn thành chỗ buộc bò. Nhưng chẳng còn lòng dạ mà ngắm bò, ngắm gái nữa. Tôi đang bồn chồn sốt ruột chờ nghe tiếng xe. Một xúc cảm hồi hương rộn ràng thoảng qua trong trí não làm tim đập nhanh hơn, như khi chờ tiếng pháo đề pa trong trận đánh đầu tiên. Nào! Bây giờ thì mình chờ đi về nhà.
Không một chút lưỡng lự, tôi giơ tay vẫy. Đoàn xe ba chiếc dừng lại ngay. Anh lái xe đứng tuổi chạy xe đầu thò cổ ra hỏi giọng Quảng Ngãi khó nghe: “Các em đi đâu?”. “Về Việt Nam!”. “Lính sư mấy?”. “Sư 9!”.” Ra viện à? Chẳng ai bảo ai, tôi với thằng Trung cùng thè lưỡi ra. Tôi chỉ tay xuống vết sẹo dưới chân. Anh lái xe bật mở ca bin lấy khẩu AK đầy nhóc 2 băng đạn, vứt cho bọn tôi rồi chỉ tay lên thùng. Chúng tôi leo lên ngay không khách khí. Các bố này thấy có lính đi nhờ xe thì rất khoái, yên tâm hơn hẳn trong trường hợp bị phục kích. Mấy chiếc xe chạy lòng vòng rồi đỗ lại một quán ăn ba Tàu gần chợ. Anh tài xế nhe răng cười: “Ăn đã chú em!” rồi lôi bọn tôi vào quán. Mấy thằng thương binh chưa ra viện đi chợ thị xã chơi thấy thế xúm vào nhao nhao hỏi: “Phé à?”. Tôi gật đầu xác nhận. Thế là thằng Nghĩa Hải Hưng D5 trung đoàn 2, thằng Đực và mấy thằng lính Bến Tre bên trung đoàn 1 lộn túi còn bao nhiêu tiền lẻ gom vét lại đưa cả cho tôi. Sau này tôi có gặp lại thằng Nghĩa khi nó được kéo lên đội văn nghệ trung đoàn.
Anh Tư tài xế thấy mấy thằng lính cho nhau ít tiền, mới kéo tuốt cả bọn vào trong quán chiêu đãi mỗi thằng một đĩa cơm chiên. Lại thêm hai lít rượu nữa. Cơm rượu xong xuôi lúc anh Tư đứng dậy thanh toán thì bị thằng Đực kéo tay lại. Nó móc ở bụng ra quả da láng loại tức thì đặt cái cốp lên mặt bàn rồi bảo cha chủ quán ba Tàu: “Các anh đây bỏ xương bỏ máu mà chưa có dịp tính tiền. Bây giờ các anh ấy vội về. Tui cứ đặt tạm trái da láng này ở đây làm tin! Thanh toán sau!”.
Thằng này uống vào bầy hầy quá! Thấy cha chủ quán mặt xanh như *** ếch, nó càng sấn lại làm già. Tay nó rút chốt cái phựt rồi quăng vòng chốt sang bên kia đường. Tay kia bóp cái mỏ vịt cứ dúi vào bụng chủ quán. “Này! Cầm lấy!”. Cha này lạy như tế sao. Lúc đó nó mới
cười hề hề rồi thò tay vào túi, móc ra một cái chốt khác y sì phóoc, cắm vào chốt lại mỏ vịt. Kiểu đùa quá trớn kinh chết mẹ! Đến lúc này, khi anh Tư đưa tiền cha chủ quán cũng dứt khoát không nhận nữa, với lý do ủng hộ bộ đội Việt Nam. Thằng này lại trừng mắt lên doạ, cha ấy lại vội vàng cầm lấy tiền. Nó bảo đây là tiền anh ấy trả trước cho lần tới khi tụi tôi ra, khỏi đòi tiền nữa nghe chưa!
Và bây gìờ thì lên đường. Đã gần một năm trôi qua, trở lại con đường này với biết bao điều thay đổi. Con đường vẫn thế, đầy những ổ gà nên xe chạy chậm. Hành trình trở về khiến chúng tôi hưng phấn. Hai thằng cứ đứng bám thành xe háo hức ngó quanh. Dãy U Răng xa xanh trôi chậm chậm bên tay phải, nơi trung đoàn tôi đang hành quân.
Đến Ô Đông, chiếc xe ngoặt vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán. Phụ xe nhảy lên, nhờ chúng tôi giúp một tay lăn xuống phuy dầu. Thùng dầu rớt êm cái ịch trên cái lốp cũ đặt nằm, nhanh chóng mất hút trong gầm sàn quán. Đây là mánh của mấy ông tài xế. Chắc đây là mối ruột của anh Tư nên mọi sự không cần nhiều lời. Chỉ một loáng, đoàn xe lại lên đường. Đến Ph’nom Pênh thì trời đã tối. Thủ đô lác đác có những đường phố có điện. Những hàng ăn bơm đèn măng sông sáng trưng. Anh Tư lại kéo cả đoàn đi ăn. Chúng tôi chén xong, mắc màn ngay trên thùng xe đi ngủ ngay. Cũng có thể trải tấm nilon ngủ dưới hàng hiên vỉa hè cho khỏi sương, nhưng chỉ sợ mai xe chạy sớm, bỏ rơi mình nên tốt nhất cứ thùng xe mà nằm. Đã bao đêm ngủ bờ ngủ bụi, ngủ trên đồng rạ, ngủ dưới trời sao hoặc vần vụ mây mưa...Giờ đây, những tấm ván thùng vẫn còn ấm hơi nắng ban ngày là một cái giường tuyệt hảo.
Đoàn xe vượt cầu Sài Gòn lúc mờ sáng. Chú lính kiểm soát quân sự ngái ngủ chống cằm trong trạm nhìn theo chúng tôi. Thế là thoát một trạm! Đây rồi khu vườn hồng xiêm, nơi tiểu đoàn 4 chốt gần Tết năm ngoái. Những ngôi nhà sàn cắm chân trên những đìa nước sâu hoắm không bao giờ cạn nước kể cả mùa khô. Phà Neak Luong dào dạt sóng, Kampong T’ra Bêch xanh mát và trù phú. Kia là cái nhà sàn buổi trưa chờ xe sư đoàn năm ngoái, tôi đã leo lên đánh một giấc…S’vây riêng, cầu Prasaut, ngã ba Chi phu…
Càng gần về đến Việt Nam, chúng tôi càng sốt ruột. Mà xe thì cứ chạy chậm như rùa bò. Cuối cùng thì trạm kiểm soát biên giới cũng hiện ra. Lúc đó đã quá trưa một chút. Hồi hộp quá! Nếu quân cảnh có kiểm tra thì tôi sẽ trình giấy ra viện, giấy cung cấp tài chính. Thời hạn còn những hơn một tháng nữa cơ mà! Cứ bình tĩnh nào! Trong cái chòi gác chỉ có đúng một người. Chắc tụi nó đi ăn cơm trưa. Anh Tư xuống trình giấy tờ gì đó. Người lính gác biên nhìn giấy, nhìn lên hai thằng lính khoác súng đứng trên thùng xe rồi khoát tay cho đi.
Cảm ơn khẩu súng, không phải chống địch nhưng lừa được ta. Cái Ba ri e bằng tre nâng bổng lên. Qua nào! Thằng Trung liếc ngang, tôi đá vào chân nó bảo nhìn thẳng. Trạm kiểm soát biên giới đã lùi lại sau.... Ôi trời…! Thoát rồi! Còn mỗi trạm Suối Sâu nữa thôi! Nghe bọn nó kể là cái trạm kiểm soát liên hợp Suối Sâu gắt gao ghê lắm. Nhưng trong một ngày có quý nhân phù trợ, chúng tôi vượt trạm này nhẹ nhàng, thậm chí xe không phải đỗ lại mà đi thẳng luôn.
Bốn giờ rưỡi chiều hôm đó, chúng tôi chia tay anh Tư ở ngã tư Bảy Hiền. Đã hàng chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in gương mặt và giọng nói của anh. Có những con người chỉ gặp một lần thoáng qua, thậm chí còn chưa hề nói chuyện nhưng đôi khi ta vẫn nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy, đôi mắt ấy. Huống chi là đã là ân nhân, đã đi chung với nhau một quãng đường dằng dặc. Chẳng biết bao giờ mới gặp lại nhau!
Chúng tôi nhảy xe lam về nhà bác thằng Trung ở cư xá Lữ Gia quận 11. Hai thằng lính ở rừng về, chìm nghỉm trong cái tấp nập nao nức chuẩn bị đón Tết Nguyên đán của một thành phố sầm uất nhất nhì Đông nam Á. Hai bác đón chúng tôi với sự điềm tĩnh và phải phép của dân miền Bắc đặc trưng. Muốn hình dung chuẩn về phong cách dân Bắc thời cũ thì tốt nhất nên tiếp xúc, tìm hiểu dân Bắc di cư. Cái chất cẩn thận, ý tứ đến khách khách khí trong giao tiếp vẫn còn nguyên đai nguyên kiện, chưa bị lối cư xử bình dân suồng sã, kiểu công nông binh của xã hội mới sau giải phóng năm 54 nó lai tạp. Nhà có hai cô con gái trạc tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng chị theo thằng Trung. Các chị ấy vừa đi họp Đoàn phường về. Ríu ra ríu rít hỏi chuyện bọn tôi suốt. Tiếng Bắc pha tiếng Nam nghe hay đáo để.
Lâu không nghe tiếng con gái Việt nên tôi mặc kệ thằng Trung thao thao bất tuyệt. Còn tôi thì im lặng nghe các chị ấy nói. Sau khi biết lý do chúng tôi về Sài Gòn và dự định ra Bắc, các chị lôi bài Tây ra bói rất nhí nhố, trông cũng hay hay. Quẻ bài phán chuyến đi lành ít dữ nhiều. Tốt nhất là chờ đợi đã! Cũng nhanh chóng như khi theo tôi về nước, thằng Trung đồng ý ở lại chơi Sài Gòn vài bữa để đi sau. Nó bỏ tôi đi một mình nên tôi hơi tức. Hai bà thầy này cho vác đạn lên núi 701 như bọn tù binh nữ thì biết tay nhau ngay, ngồi đấy mà phán bậy!
Vừa mới về được vài tiếng đồng hồ đã dở chứng. Quyết định của nó càng củng cố quyết tâm của tôi. Và tôi sẽ lên đường, càng sớm càng tốt. Buổi tối hôm đó ăn cơm xong, tôi lảng ra phố một mình để cho gia đình nó nói chuyện riêng với nhau. Ngồi uống một ly rau má năm hào,
tôi vừa nhẩm tính số tiền còn lại trong túi. Có tám mươi đồng tất cả. Nếu chia đôi tôi sẽ chỉ còn bốn mươi đồng. Chắc không đủ tiền mua vé tàu Thống nhất. Lại còn tiền ăn uống trên tàu ba ngày ba đêm hành trình nữa (hồi đó tàu hỏa Nam Bắc chạy mất 72 tiếng). Tôi sẽ đi lậu vé…Chỉ có thể khởi hành càng sớm càng tốt. Tình thế không cho phép trì hoãn thêm nữa. Tết đã đến sát sau lưng rồi!
Nghĩ là làm! Thằng Trung để hết tiền cho tôi rồi hẹn đi sau. Tôi ra chợ mua một đôi áo thun dân sự màu xám mất hai chục đồng. Mặc luôn để tránh kiểm soát quân sự. Còn lại sáu chục đồng. Nói qua để các bạn dễ hình dung là sáu chục đồng hồi đó tương đương với 120 cái bánh mỳ không người lái hoặc 45 bát phở. Tối hôm sau, tôi bắt xe lam ra ga Bình Triệu rồi nhảy lên tàu. Chọn một chỗ trống gần toilet, tôi đặt cái ba lô lép lên giá rồi quan sát xung quanh. Dưới gầm ghế, những sọt trái cây, những kiện hàng vải lấp đầy không có chỗ đặt chân.
Bên cạnh tôi, chủ nhân của những kiện hàng xuyên Việt là mấy chị tuổi đã sồn sồn chuyện trò như pháo rang. Tàu rùng mình chuyển bánh rồi tăng dần tốc độ. Đường ke, nhà chờ, phố xá lùi lại loang loáng. Đúng là “đưa nhau lên tàu về quê em thấy vui hơn” thật! Chỉ còn bảy mươi hai tiếng đồng hồ nữa là tôi sẽ gặp lại Hà Nội, gặp lại những người thân yêu của tôi. Rình rình…! Kịch kịch…! Tiếng bánh sắt reo lên ù ù giữa hai làn ray, điểm nhịp đều đều những khi vượt qua những đoạn nối. Lập lách, tà vẹt, bù loong đinh ốc… tất thảy cùng tấu lên khúc hát hồi hương.
Có gì để nhớ về chuyến tàu này? Mấy lần chui vào cái toilet hôi khủng khiếp để trốn nhân viên soát vé? Những suất ăn ngon lành do các chị, các dì buôn chuyến bao thằng em bộ đội khi nghe tôi kể hết sự tình? Phố biển Nha Trang im vắng ngủ quên trong ánh đèn vàng vọt? Trăng hạ tuần quạnh quẽ trên đỉnh Tháp Chàm đang trôi theo người khách độc hành lặng lẽ? Hay ga Sông lòng Sông, ga Mường Mán mưa đêm…?
Tàu vượt đèo Hải Vân một buổi sớm sương mù. Có cái gì đó thật thân quen, như khẽ chạm vào da thịt khiến tôi rùng mình nhìn quanh. Thật dịu dàng lan tỏa, như là đã đến từ trong cảm thức sâu thẳm, rồi tràn ngập xâm chiếm không gian và xúc cảm… Đã nhận ra rồi! Xin chào người! Không khí quê hương Bắc Việt của tôi! Gió mùa Đông bắc của tôi! Cơn gió làm nao lòng nhớ trong những trưa mùa khô khét nắng, những đêm lạnh tiếp cận luồn sâu rừng thẳm... Nâng cửa sổ lên, hít một hơi thật đầy lồng ngực bầu không khí lạnh ban mai còn đẫm hương đêm…Gió lùa vào trong cổ, gió lùa vào trong tóc, rồi vào trong mắt cay, khiến phải đưa tay lên dụi… Điên thật! Chẳng nhớ gì lại đi nhớ gió! Chẳng hiểu còn ai trên đời, có bao giờ bỗng nhớ một cơn gió vô hình hay không?
Suốt từ ga Nam Định về đến ga Hàng Cỏ, tôi cứ nghển cổ ngó ra ngoài. Đồng đã cấy xong gần hết. Sương chiều mùa đông mỏng và nhẹ, dịu dàng quấn chân những rặng tre lá vàng áy. Đây ga Bình Lục, nơi chúng tôi tắt đồng đêm, từ Thanh Bình ra, nhảy lên toa chở đá trốn về nhà ba ngày sau khi được phát quân trang. Mặc trên người bộ quần áo lính hồi đó về để lấy le với mấy đứa bạn gái cùng lớp. Bộ quân phục (dù mới tinh) giống như một khẳng định rằng anh đã có một cuộc đời phong trần lắm. Mới 18 tuổi đầu đã biết gì đâu? Ở nhà có khi mẹ vẫn phải giặt quần đùi hộ. Thế mà ra đường vào quán ngênh ngáo bất cần! Rút điếu thuốc đang cắm ở miệng ra, vảy tàn thật điệu nghệ, viết vào không gian hai chữ: “…Biển … Nhớ …” rồi quay sang hỏi cô bạn gái đang mắt tròn mắt dẹt bên cạnh rằng đấy là chữ gì? Còn mồm miệng cố giữ vì suýt chết sặc khói thuốc…
Đây ga Phủ Lý, nơi buổi chiều ngày 18/11/1978, chúng tôi lên tàu vào Nam đi chiến đấu giữa hai hàng vệ binh lê tuốt trần. Bố Trung (lạy trời người vẫn mạnh khoẻ!) - bố của Tuấn Anh (c1-d4-e2) vốn làm tại phòng điều độ ga Hà Nội biết có đoàn tàu quân sự đón quân ở ga này, nên theo tàu vào tận nơi để kịp giúi cho mỗi thằng thêm ít tiền lộ phí. Và cũng để lần cuối cùng trông thấy những đứa con có thể không bao giờ gặp lại nữa… Những ga xép, những cột tín hiệu đường sắt, con đường nhựa loáng vụt trôi qua. Giăng giăng mờ đục một trời mưa bụi. Lửa đèn, bếp đỏ nhoè nét trên khung cửa tàu trong buổi chiều ướt, trôi trong màn mưa mênh mông…
9 giờ 30 tối, con tàu mệt mỏi lừ đừ trườn vào ga Hàng Cỏ rồi dừng lại. Tôi xuống tàu, lẩn đi ngược lại phía hẻm phố Sinh Từ tránh cửa soát vé. Con hẻm này rất nguy hiểm vì nó cực hẹp, nơi bất cứ lúc nào cũng có thể có tàu chạy qua. Lúc đó kể như rồi đời! Chỉ có dân buôn lậu thông thuộc giờ tàu mới biết được đường này. Thoát ra khỏi con hẻm tăm tối đó, tôi đặt chân lên vỉa hè Hà Nội, ngửa mặt nhìn ngọn đèn đường vàng vọt, ngơ ngẩn cười. Hẳn là nụ cười của tôi lúc đó ngô nghê giống hệt nụ cười của thằng Nhạ đại liên, khi nó sờ sờ tay vào cái lỗ thủng trên vành mũ bị đạn xuyên qua. Mọi sự cứ như mơ! Cách đây đúng một tuần, tôi đang còn lê dép trên vỉa hè Kampong Ch’nang.
Phố mùa đông buổi tối vắng vẻ. Dưới một gốc cây bàng, bà hàng ngô nướng đang nhanh tay quạt. Mấy người khách bu quanh hơ tay trên ngọn than hồng. Mùi thơm thật quen lan toả trong không gian tịch lặng. Lạnh quá, tôi kéo dựng cổ áo lên, khoác ba lô đi men theo cầu đá Phùng Hưng. Trèo đèo lội suối đã quen, bước chân anh lính trên vỉa hè quê hương sao ngập ngừng như phố lạ. Phố vẫn phố, cây vẫn cây mà sao như nhỏ bé hơn. Cảm giác này có thể do bởi nhìn không gian rộng đã quen. Cửa nhà mình đây rồi! Ánh đèn ấm áp hắt mấy vệt qua
khe. Đặt cái ba lô lép xuống bậc, ngồi phịch xuống rút một điếu thuốc ra hút, hồi hộp lặng nghe tiếng con Diệp trong nhà đang léo nhéo nói gì với mẹ. Hết nửa điếu thuốc, tôi đứng dậy, sờ sờ cái nút đến chừng nửa phút trước khi bấm chuông.
Vỡ oà, có cả nước mắt...
Ông già tôi hồi đó "bôn sệt", phi xe com măng ca từ Phúc Yên về. Hai cha con bắt tay nhau như người lớn. Tôi nói rõ tình cảnh ra viện trốn về thăm nhà. Người bảo cứ yên tâm nghỉ ngơi một thời gian rồi vào đơn vị. Về được mấy hôm, mấy cô bạn trong nhóm chơi thân của chúng tôi đến nhà chơi. Líu ríu chừng gần tiếng thì cả bọn tự nhiên rút cả, để lại hai đứa. Tối đó trời lạnh lắm! Nàng hôm ấy sáng bừng trong chiếc áo len trắng, lộng lẫy như Bạch Tuyết. Tôi không có áo rét, vì cái áo len xám cũ của tôi mẹ đã tháo ra đan lại cho con Hà. Tôi chui vào buồng, lấy cái áo len cổ lọ của con Diệp mặc vào, trùm ra ngoài cái áo blu dông bạt cũ vẫn mặc hồi đi học. Cái áo vẫn còn loang lổ các vết cháy màu do tôi nghịch a xit.
Hai đứa đi bộ qua đường Lê Văn Linh, rẽ sang đường Lý Nam Đế. Con đường loang lổ bóng lá sấu dưới ánh đèn đường. Trời lạnh, nhưng tôi run không phải do thời tiết, mà do cái gì đó làm hàm như cứng lại. Chúng tôi nói toàn những chuyện đâu đâu, không nhớ nổi là những chuyện gì. Đến cầm tay cũng không dám, giữa phố dường như không người. Run như trước khi nổ súng trận đầu. Giá lúc đó gặp cả đại đội lính Pôn Pốt có khi còn đỡ run hơn. Và tình trạng đó kéo dài tới khi tiễn em về đầu phố.
Đêm hôm đó, về đến nhà là tôi đứng trước gương soi ngay xem mình có đẹp trai không, có ổn không. So với cái tấm kính hàng nước đá bên KP Ch'nang thì cái gương này vẫn không nói lên điều gì tử tế hơn. Mà em thì xinh quá! Cả đêm hôm đó trằn trọc, và dường như thức trắng.
Về nhà mới biết tụi bạn học cùng đi lính mặt trận Tây nam có mấy đứa đang ở Hà Nội. Hiệp B.41, bị thương trận cầu cháy đã chạy được về. Tuấn Anh trốn hồi ở chốt bờ đê biên giới Long An đã đi lính đơn vị thu dung, đóng quân ở Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Vinh (VM) rút quân theo sư 10, Quân đoàn 3, đóng quân trên Chợ Mới, Bắc Kạn. nhưng vẫn thấy gần Tết đã có mặt ở nhà. Chỉ có Bình cáo, Thọ là vẫn biền biệt bên K. Chúng nó dẫn tôi đến chào từng nhà, kể chuyện gặp nhau ở đâu, tình hình ra sao. Có những câu chuyện có khi phải kể lại đến cả chục lần,
hôm sau vẫn bị gọi đến hỏi lại: “Mày thấy nó như thế nào? Gặp ở đâu?”. Có bà già còn hỏi: “Thế chúng mày ăn bằng thìa hay bằng đũa?” ,” Có xà phòng giặt không?” .
Thậm chí: “Đi đồng khi đang đánh nhau thì chúng mày làm thế nào, có giấy báo vệ sinh không?”.... Tôi phải trả lời cả tỷ câu hỏi như thế. Lần nào cũng như lần nào, các bà mẹ cũng đưa tay chấm mắt. Khổ quá! Mới rời tí mẹ, ở nhà còn tranh ăn với em mà bây giờ đang giữa trời đạn lửa, xa lắc xa lơ tận u tì quốc thế kia...!
Người ta nói chiến trận rèn luyện con người, làm cho con người lớn lên, trưởng thành. Điều đó đúng trong chiến trường, trong rừng sâu núi thẳm. Song về lại cuộc sống thị thành, về lại thủ đô, tôi vẫn là tôi của hơn một năm về trước. Khi bị tách ra khỏi cuộc sống đời thường một thời gian, lúc nhập lại, đương nhiên anh lại phải bắt đầu từ lúc anh ra đi. Thủ đô trái tim của cả nước không phải là rừng U Răng hay Pursat, không cần anh biết xử AK giật đều điểm xạ, biết tìm lối lạc rừng, biết bới cát tìm nguồn nước, chăn chó khôn hay nhung nhớ vơ vẩn xa xôi. Giống như khi ta lôi một con khỉ đến một dạ hội vậy, kể cả khi khoác cho nó một bộ trang phục hợp thời. Hết háo hức những buổi đầu gặp gỡ, tôi dần đâm ngại những cuộc giao tiếp chung.
Các cô gái của nhóm chúng tôi thì khác. Đang mơn mởn sinh viên tuổi 20. Một chút son Thái, một thoáng phấn dịu là trông tất cả cứ như hoa khôi. Chiều chiều tốp đó thong thả đạp xe Mifa, Favorit bà già mua cho con gái cưng, từ trường trung cấp Y ngoài bãi Phúc Xá, lướt thướt về Đồng Xuân. Muốn đón đường, rủ em đi làm ly nước thì không có tiền. Và cũng không thể chối được nỗi sợ vì cái bộ dạng rừng rú của mình. Quần áo thời học sinh đâu có mặc được nữa. Ông bà già mỗi năm nhà nước phát cho 5m vải mỗi người thì đã bán hết cho các "con phe", lấy bù tiền chợ.
Chú Long, anh Phát cho tôi mấy bộ đồ cũ vừa khổ người cứ thế diễn suốt. Thằng Vinh còn kể hồi đó tao vẫn tại ngũ, bị ghẻ với hắc lào đầy mông mà các em cứ rủ đi bơi, ngại chết lên được. Mà tôi có phải được ở nhà ngay đâu mà có thể bắt đầu một lối sống mới. Tôi đã trốn đơn vị, và tôi phải trở về đơn vị, trở về rừng. Thời đó nếu không phải nhà nào "gồng" mạnh, hoặc lỳ phớt chịu đủ thứ điều tiếng thì không thể có con đường nào khác.
Một dự cảm chia tay đã manh nha và lớn dần trong ý nghĩ. Tôi sang nhà em ít dần. Mà mỗi lần sang chỉ có thể nói chuyện một cách thoải mái với bà chị cả của nàng. Về sau chị nàng lấy chồng, mở quán cà phê khá ngon ngay cạnh quán phở gà đầu phố Đỗ Hành nổi tiếng. Chắc chị có tấm lòng bao dung với các tính cách "hâm hấp", nên đã lấy một anh suốt ngày đội đầu trâu, đầu bò tự làm, tự trang trí, theo sát đội tuyển bóng đá Việt Nam đi khắp Đông nam Á. Anh này thì báo chí thể thao cực đoan và nhiều người yêu bóng đá quốc nội rành tên.
Tạm xếp lại các ký ức buồn, một cái Tết hậu phương đang dần dần đến...
Hà Nội những năm đó nghèo. Phố đêm tối tăm vì đèn đường toàn loại đèn sợi nung, treo lủng lẳng trên cột điện, hoặc toòng teng trên các dây điện đường. Chỉ có đường Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh mới sáng đèn cao áp. Những đêm mưa mùa đông ẩm ướt, chuyến xe điện muộn vắng tanh, chạy rề rề. Cần nóc xe kéo qua những chỗ dây nối, bật đánh tia lửa xoèn xoẹt, hắt ánh xanh lét lên những ô cửa cũ kỹ. Khu Hoàn Kiếm với những phố "Hàng"; khu Ba Đình, một phần khu Hai Bà với các biệt thự và phố "tây", mới được xem là phố. Còn lại là năm cửa ô với những mái ngói lầm bụi mốc, những cành bàng trụi lá khắc khổ, trắng xác sau trận gió mùa.
Chợ Mơ người ta gọi là "Ca li phoóc ni mơ". Phố Lò Đúc thông đến ô Đông Mác gọi là bang "cò ỉa". Ra khỏi Ngã Tư "khổ" (ngã tư Sở) vài trăm mét đã thấy đồng ruộng huyện Thanh Trì trải xanh bên tay phải. Xuống đến khu "Cao_Xà_Lá", đến Hà Đông là kịch đường tàu điện. Đầu ô Yên Phụ, các bà bán rau, bán hoa toàn đi đất. Ngón chân cái toè ra trên vỉa hè, có khi còn dính cả phân xanh. Đến các nơi đó là bắt đầu một thổ ngữ khác, một âm sắc khác, là lẫn lộn giữa "lờ" và "nờ" mất rồi. Trong đơn vị, chúng nó bôi bác lính Hà Nội là "Em ở Hà Lội, một mét vuông có 5 thằng ăn cắp!" Búa bậy hết sức! Hà Nội không nói ngọng như thế bao giờ, mà nói như trên đài phát thanh chúng ta thường nghe.
Người Hà Nội thời đó không khác nhau là mấy. Sớm sớm, một phố dài xe đạp, chảy trôi chầm chậm về các hướng. Cái xe đạp là cả một gia tài, ngự trên cái gia tài đó là các ông bà chủ với y phục mùa đông xanh sẫm, xam xám gần như nhau. Khác nhau chắc chỉ mỗi trong phần ghi ở sơ yếu lý lịch. Đứa nào lý lịch có bố mẹ đều là "cán bộ, công nhân viên nhà nước" thì tự hào vênh mặt, không có gì phải bàn. Còn đứa nào thấy ghi nghề nghiệp mẹ: "nội trợ" thì chắc hẳn đó là dân "phe phẩy". Khi viết khai đến đó phải lấy tay che lại cho khỏi ai nhìn thấy, xấu hổ chết. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu chuyện châm biếm trên báo Hà Nội Mới. Chuyện có cô bé thắc mắc hỏi mẹ rằng mẹ ơi phe phẩy là gì hở mẹ? Bà mẹ chạm nọc mới điên lên chửi:"là...là....là con mẹ mày!".
Quả thật không có các bà mẹ phe phẩy, bám mặt trên vỉa hè dành cho "nhân dân anh hùng" thì mấy đứa con mơ làm cán bộ kia chỉ có mà húp cháo. Một cái nón quai lụa không bao giờ đội, chỉ kẹp nách. Trong đó đựng một mớ tem phiếu hay tiền lẻ nhàu nhĩ... Cứ thế, họ tung hoành trên phố đông. Người ta "phe" đủ mọi thứ: phe vé xem phim, phe tem phiếu, phe thuốc lá cuốn, dăm cuộn len Tiệp, mấy đôi moay-ơ xe đạp Đức. Các phe nam thì kẹp nách mấy đôi gác-đờ-bu, gác-đờ-xen. Chốc chốc họ lấy phấn đánh nhôm ra chuốt cho bóng loáng. Thỉnh thoảng họ lại xô nhau chạy rầm rập. Đằng sau lưng là tiếng còi rít róng của anh công an, của bảo vệ hay cán bộ thị trường. Mẹ cái Nguyệt Hàng Lược có lần chạy không kịp, tọt luôn vào nhà tôi. Bà ngoại tôi đẩy cô ấy xuống bếp để trốn. Chứng kiến, tôi thấy một sự đắc thắng vì cảm thấy sự "hơn hẳn" của "thành phần gia đình" mình. Đáng thương thay cho cái đầu óc con trẻ!
Bây giờ thì "tiểu thương" hay "phe phẩy" đã bắt đầu giàu lên theo hàng hoá gửi về từ các nước XHCN phe ta, từ miền Nam mới giải phóng gửi ra. Đời sống công nhân viên chức nhà nước "ba cọc ba đồng" tụt hậu thấy rõ, bởi thời đó không có tham nhũng mà mới chỉ có từ "móc ngoặc". Hai mặt hàng XHCN và Tư bản chủ nghĩa có dịp so găng. Đài quay đĩa Ri-gon-đa, Re-cóoc của Liên xô cũng ai oán giọng Thanh Tuyền, Chế Linh tình bơ vơ như đài National "quan tài bay" của Nhật bản. Ti vi đen trắng Denon, Sanyo "hai cửa lùa" khoe nét cùng ti vi Satune, Beryl 102. Tủ lạnh Hitachi "đầu gấu" và tủ lạnh Saratop 3 sao...
Buồn cười sau đó mấy năm, ông già tôi có mua cái TV Beryl _102 thanh lý của bệnh viện. Cứ xem được khoảng 1 tiếng là nó trôi hình. Tôi phải lấy cái bút thử điện, gỡ nắp sau ra để xoay chỉnh lại cái điện trở mành cho nó hết trôi. Bút thử điện là vật bất ly thân, như súng ngắn của Đây a nốp trong phim "Trên từng cây số" mà đài đang chiếu. Mỗi lần nó trôi hình, tôi tỏ ra một bộ mặt khá nghiêm trọng như kỹ sư điện tử, chọc chọc xoay xoay cho đến khi các em và bọn trẻ xem nhờ ồ lên "được rồi". Có những lần bị nguồn cao áp nó đánh cho tung tay mà vẫn phải nghiến răng thể hiện...
Tết Nhâm Thân 1980. Sở Điện treo những dây bóng đèn nung nhúng sơn xanh, đỏ, vàng... lên hàng cây ven hồ Gươm, lên tháp Rùa, giăng ngang các con phố lớn... đêm đến bật sáng nhấp nháy. Sở Thương nghiệp thông báo những ô bìa, cuống phiếu dự trữ sẽ bán tiêu chuẩn Tết. Xe vận tải chở các bó lá dong cuộn chặt từ mạn ngược đổ về các chợ. Chợ không đủ nên người ta dựng tạm các gian nhà cót ở chợ hoa Hàng Lược, Hàng Da, đê La Thành...để chứa và bán lá dong. Lá dong cũng bán bằng phiếu. Nhà nào không đủ thì mua thêm lá dong "ngoài".
Quãng 25 tết trở đi, các máy nước công cộng nối dài các bà, các chị em ra đó xếp hàng, rửa lá dong để về gói bánh. Mỗi hộ được tiêu chuẩn mua 1 túi hàng tết. Trong túi có một đôi miếng bóng bì lợn, gói trà Hồng Đào, gói thuốc lá Thủ Đô bao bạc, phong pháo Trúc Bạch 150 quả kèm 10 quả pháo đùng, một gói mỳ chính cánh, một gói hạt tiêu nhỏ, hai hộp mứt tết, một đôi gói kẹo cứng... Miếng bóng bì cứng, luôn chọc thủng những túi nilon mỏng, hay làm các gói trà, gói mứt ỉu xìu trong thời tiết nồm ẩm. Rượu mùi chanh, rượu cam, rượu cà phê...bán ngoài. Các cô chưa chồng khéo tay thì gọt khoai tây, ca rốt cát lát hoa ngâm vôi làm thêm các loại mứt dễ chế biến. Khó và kỳ công nữa thì đi chợ mua táo, chọn cà chua...làm mứt cao cấp.
Cái Tết "ăn" vẫn thế, không khác các năm còn được ở nhà. Chỉ Tết "chơi" với âm nhạc là khác. Thanh niên phố đi "Tây dân chủ" về diện "củ sếch" Ba lan, đi đôì "sì mông' đế cao, quần ống loe lệt sệt là thời thượng nhất. Mốt "quân khu" với áo mũ dạ tá, cối ổi tàu, khuỳnh khuỳnh chân đạp xe Phượng Hoàng lép vế hơn một chút. Bây giờ các băng nhạc "vàng" Thanh Tuyền, Chế Linh, Khánh Ly, Duy Khánh, Phương Dung nhạn trắng Gò Công...thậm chí cả Hùng Cường_Mai Lệ Huyền, được các dàn Akai M10, Sony 730, Teac ...mở oang oang ra phố mà cũng không thấy ông tổ trưởng hay hộ tịch viên đến nhắc. Băng "Hồn hoang " với các ca khúc hay được chuyển thể cho dàn nhạc nhẹ: Besame Mucho, Tabu, Guitar Robana, The last waltz, La Paloma.... Nhớ nhất bài L'amour c'est pour rien, được chơi bằng guitar Hawaii nghe luyến láy lướt thướt rất lạ tai. Băng "Nhạc trẻ 2" của Phạm Duy với các bài Tuổi hồng, Ông Trăng xuống chơi, Mùa thu chết, Em hiền như masoeu...nghe cũng rất thích...
Cũng Tết năm đó, tôi được nghe lần đầu tiên những giai điệu tươi sáng nhưng đượm buồn của ABBA 79, để rồi vẫn mê đến bây giờ. Giao thừa qua nhà thằng Hiệp uống rượu say. Về qua hàng phố, nghe tiếng bass đập nặng trịch của bài "The winner takes it all" thấy lòng cay đắng lắm! Nàng của tôi giờ đã bắt sóng với một bọn sinh viên trường ngoại giao. Họ chính đang là người chiến thắng. Còn tôi, sau Tết nay không lâu thời gian nữa, tôi sẽ trở lại chiến trường Campuchia xa xôi để chiến thắng quân Pônpốt.
Chính là âm nhạc, âm nhạc tử tế chứ không phải là các khẩu hiệu, nó thay đổi tâm hồn con người. Dù chuyện đời buồn hay vui, nhạc cảm nhiều hay ít, tự thấy mình cũng trở nên lương thiện hơn, đủ để tha thứ, để đứng dậy đi tiếp. Có những bài hát đeo đẳng tôi suốt cuộc đời. Cứ nghe đến nó lại nhớ đến cái ngõ Cổng Đục, có con chuột cống thụt thò bên lỗ hở tường gạch trong buổi chiều cuối năm lạnh cóng, ơ hờ đi bên nhau. Làm sao tôi biết người ta đã viết nó trong một trời tuyết trắng ở xa xôi tận gần cực Bắc bán cầu?
"Happy new year, happy new year...May we all have our hopes....."
Hết Tết. Các cành đào chất ngất trên xe rác. Mọi thứ trên đời đều trở nên uể oải, chậm chạp và lười nhác, dìm nghỉm trong bầu không khí ẩm nồm, sũng sịu hơi nước. Trong dịp Tết có gặp anh Công, bạn chiến đấu của anh Phát tôi đang là thiếu uý, chính trị viên một đơn vị quân khu 9. Đơn vị này đang đóng ở Kô Kông - Campuchia. Anh Phát tôi gửi tôi cho anh ấy, bào thu xếp cho nó vào đơn vị mày. Anh Công đồng ý, hẹn tôi 12 ngày nữa có mặt tại má nuôi anh ấy ở đường Lê Hồng Phong, gần ngã bảy Sài gòn.
Đã đến thời hạn lên đường, không thể nấn ná thêm. Bố tôi được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp Thống Nhất nữ. Xe chưa lắp, các phụ tùng và khung xe vẫn để trên nóc tủ. Một buổi nhà tôi gọi "thợ" đến, bán xong giá tất tay là 240 đồng lấy tiền lộ phí cho tôi lên đường. Thằng Hiệp dẫn tôi đến nhà anh Thước ở phố Chân Cầm. Anh Thước là anh rể nó, đang là thuyền phó con tàu biển chở khách "Thống Nhất" mới mua của Na Uy. Anh ấy tất nhiên cho tôi đi nhờ vào Sài gòn. Cùng đi chuyến đó còn anh Đức và thằng Tuấn em họ thằng Hiệp nhờ chuyến đi buôn. Nghĩ mình buồn cười, từ bé đến giờ toàn đi lậu vé, từ tàu điện lên Cung Thiếu nhi,, tàu hoả ra Bắc, giờ lại lậu vé tàu biển vào Nam. Chẳng biết bao giờ thì lậu vé máy bay? Nhưng cuối cùng máy bay về sau tôi cũng có hân hạnh đi lậu. Nhưng chuyện đó thuộc về một câu chuyện khác, không liên quan gì đến biên giới Tây nam cả.
Ba anh em ra ga Hàng Cỏ, lên tàu Hà Nội _ Hải Phòng lúc 7h tối. Tàu chợ chạy chậm, mãi nửa đêm mới xuống ga đến. Đám xe xích lô Hải Phòng dài ngoẵng, mời chào nhiệt tình, nhưng mấy anh em quyết đi bộ vì tiền ít. Chúng tôi lẳng lặng cuốc bộ dọc đường Hai Bà Trưng, Cát Dài, rẽ qua Trần Nguyên Hãn về chợ An Dương. Đường vắng tanh không một bóng người. Lát sau, từ một góc khuất có bốn cái bóng dặt dẹo bám theo đằng sau. Anh Đức, người lừng lững hộ pháp như con gấu bảo kệ mẹ nó. Bây giờ hãy đi chậm lại đến chỗ đống gạch kia, xem chúng nó thích gì? Chúng tôi đi chậm hẳn lại, thỉnh thoảng ngoái lại đằng sau canh chừng. Đến đống gạch, chúng tôi hạ ba lô, đứng quay mặt cả lại. Các bạn đồng hành ban đêm thấy vậy cũng đứng lại ngó chúng tôi một lát, sau đó rẽ sang lối khác bên kia đường.
Chúng tôi gõ cửa nhà chú tôi ở khu tập thể nhà máy xi măng Hải phòng. Ông lúc đó đang là cán bộ công đoàn nhà máy. Nói dăm câu chuyện là 3 anh em đi ngủ ngay. Sáng hôm sau dậy muộn. Thím tôi gọi dậy ăn cơm trưa luôn. Những con tôm rảo khô, kho mặn chát nhưng thật ngon. Đến chiều, mấy đứa em đạp xe đưa chúng tôi ra cảng Chùa Vẽ. Anh Thước bảo mấy người thuỷ thủ đưa chúng tôi chui vào bụng con tàu bằng lối đi riêng. Cái cầu thang mềm bằng dây chão, chung chiêng rất khó đi.
Thế nhưng mấy cha thuỷ thủ vẫn phi xe CUB qua thang đó vù vù. Để xong hành lý vào buồng riêng của thuyền phó, chúng tôi leo lên boong A xem các em tôi chúng nó đã về chưa. Anh Đức với thằng Tuấn chuyện trò phấn khởi luôn mồm. Với họ đây chỉ là chuyến du lịch kiêm đi buôn không mất tiền. Tuần sau họ lại theo tàu trở về bến cảng này, về Hà Nội. Tôi im lặng cố nhìn tìm phía dưới. Nhưng chịu không thể phân biệt được ai vào ai trong cả đám đông đang bâu đầy cầu cảng dưới kia. Chắc các em tôi chúng nó về cả rồi.
Được đi du lịch trên một con tàu trắng lộng lẫy như của Aimatop thế này quả là một niềm mơ ước của những thằng có máu phiêu lưu. Nhưng tiếc thay, nó lại đưa tôi trở lại chiến trường. Còi tàu hú lên ba lần lời chào tạm biệt. Trời gió mùa Đông Bắc bổ sung xám xịt. Mưa nhỏ hạt nhưng găm lạnh buốt. Dây neo rút xoang xoảng....
Tàu Thống Nhất nhổ neo lúc 4h30.
Có những khoảnh khắc trong cuộc sống, mặc dù đã xảy ra từ rất lâu, chúng ta không bao giờ có thể quên được. Thậm chí khi nó chẳng liên quan đến một biến cố lớn nào. Còn bây giờ đôi khi có một cuộc hẹn quan trọng, một lời hứa phải làm thì hôm trước hôm sau quên béng. Trời hôm đó sập tối nhanh. Anh Thước đưa một nắm tích kê. Chén bữa chiều xong ở nhà ăn là chúng tôi chui vào phòng thuyền phó ngồi tán gẫu. Anh Thước sập cửa, nhốt cả bọn ở trong đó rồi đi đâu đó.
Tàu chạy qua phao zê rô. Một cảm giác nôn nao khó chịu ngày một tăng dần. Gió mùa đông bắc cấp sáu cuối mùa, sóng lớn. Một lát sau, không chịu được nữa, tôi chạy vào toilet. Trong lục phủ ngũ tạng có gì cho ra bằng sạch. Hai thằng cha kia đi buôn tàu quen rồi, nhìn tôi cười chế nhạo. Nhưng chỉ một lát sau cũng tranh nhau cái nhà vệ sinh. Sóng lớn quá! Như được nhồi nâng bổng lên, lên mãi...Dừng một tý...Lại rơi xuống, rơi mãi.... Hụt hơi chờ đợi mà không đến đáy vực sóng. Khoảng dừng giữa chu kỳ biên độ lên xuống đó là kinh khủng nhất, là òng ọc mật xanh mật vàng. Khi không còn gì trong bụng nữa thì oẹ ra cả dịch mật đắng nghét.
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi nó là như thế này đây! Bố khỉ! Không biết ông quái nào còn nghe lỏm được đoạn đối thoại của anh Ba với anh Lê trên bến Nhà Rồng, trước khi ông Cụ lên cái tàu La touse Tréville, để rồi mà viết nên thành sách. Chắc ông Cụ là siêu nhân, hoặc ra đi vào một ngày biển lặng nên không bị say sóng, để mà có cơ hội nhớ thương đất nước. Chứ còn chúng tôi lúc đó, bị những con sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương, nó nhồi cho sã sượi như những con chó ốm. Ba thằng nằm quay lơ trên cái nền trải dạ xanh của căn phòng. Khuya, ông thuyền phó nhậu đâu đó mới về, loạch xoạch mở cửa cười hô hố, đá chân lịch bịch vào tụi tôi rồi bỏ đó đi ngủ luôn. Một đêm lăn lóc, nôn nao đầy mộng mị.
Sáng hôm sau còn kinh khủng hơn, vì tàu đang đi vào giữa cái "dây cung" của đường cong vịnh Bắc bộ. Hành lang nhoe nhoét toàn các bãi ói. Trên vách họ có thiết kế các chậu nôn, song phần lớn hành khách toàn nôn trượt ra ngoài hoặc nôn vào tường. Bọn thuỷ thủ lao công cọ sàn liên tục. Tôi lấy cái võng và cái tấm đắp, lấy hết sức để lần mò leo lên boong B. Tôi mắc võng dưới gầm cái xuồng cứu sinh rồi leo lên đó, trùm tấm đắp nằm thẳng cẳng. Hy vọng cái "liên kết khớp" này nó giảm phần nào cái sự nhồi lắc. Không khí tươi, dù hơi lạnh nhưng cũng phần nào đỡ hơn cái mùi chua chua nồng nồng của cái hành lang nhớp nháp dưới kia. Biển sủi bọt xám ngoét, dềnh lên hạ xuống bên mạn trái con tàu.
Hai ngày ròng rã như thế. Đến Vũng Tàu thì tôi tỉnh hẳn. Biển êm, phẳng lặng đến không ngờ. Một cái ca nô lao ra cập mạn. Người hoa tiêu leo lên thay lái. Con tàu theo dọc bờ sông quanh co, đầy những đám dừa nước xa mờ.
Chúng tôi cập bến Nhà Rồng.
Tôi về tá túc nhà bác thằng Hiệp ở 115 đường Ký con chờ ngày hẹn với anh Công. Sài gòn quận 1 khác hẳn Sài gòn quận 10 tôi biết mấy tháng trước. Mấy ngày lang thang dọc đường Calmette, thuê đọc ké sách cũ của chế độ trước. Nhiều cuốn sách văn học khá nổi tiếng mà miền Bắc cũng đã dịch, nhưng trong này đặt tên khác hẳn. Sách Nam dịch hay có những ngôn ngữ địa phương nên không thấy hứng thú lắm. Những cuốn truyện sướt mướt tình yêu học trò của Quỳnh Dao, chưởng Kim Dung...Có gì lạ là tôi ngốn tất cái đó, kể cả những quảng cáo bá láp trong chuyện chưởng hoặc sách bói toán. Có những cuốn tiểu thuyết, chủ nhân ghi những lưu bút dễ thương bằng nét chữ con gái mềm mại. Chẳng biết chủ nhân những dòng lưu bút xinh xắn kia đang lạc tới phương trời nào, hay vẫn còn ở lại với cái thành phố đang ngày một nghèo đi, ngày một khốn khó này.
Đêm, chúng tôi kéo sang đầu đường Hàm Nghi, chỗ nhà ông anh thằng Tuấn ngủ nhờ. Nhà đi di tản hết, chỉ còn anh ấy chạy lông nhông đâu đó trên cái Vespa Spring màu bạc suốt ngày. Những hôm khuya, bọn tôi ngồi ngoài vỉa hè hóng gió. Thằng bé con hàng xóm, mặc quần tà lỏn đệm guitar bài Dona Dona bằng gam chủ Sol trưởng thấy lạ? Đôi lần thấy công an đổ nhớt ra quãng vòng cua trước cổng bệnh viện Sài gòn, chống tụi đua xe. Các anh hùng xa lộ đến khúc cua tròn đó rạp xe thể hiện. Gặp nhớt trơn văng xe xèn xẹt. Công an đứng trực sẵn, có bề gì tiện vào luôn bệnh viện đó, khỏi cấp cứu đâu xa.
Biết tôi là lính K mới ở chiến trường về, ông anh thằng Tuấn gọi riêng ra lào thào bảo tao sắp bán nhà. Tao sẽ bán nốt cả cái xe Vespa Spring này, tối thiểu cũng được 6 cây. Chia đôi số vàng cho tao mày, hai thằng cùng qua Campuchia. Mày biết đường dẫn tao qua biên giới Thái lan rồi anh em mình đi Mỹ. Sang được tới nơi gia đình tao bao luôn, mày khỏi lo. Tôi bảo anh ấy là đừng có điên, đi biên giới Thái là đụng bọn Pốt ngay, là nó thịt tắp lự, nó không bắt tù binh bao giờ...Anh ấy vẫn khăng khăng thuyết phục rằng đã có người vượt biên thành công theo cách đó rồi. Kể hết cho anh ấy những trận đánh khốc liệt, những hành vi man rợ của bọn lính Pốt nhưng anh ấy vẫn không đổi ý dù có hơi buồn.
Anh bảo hay mày cứ dẫn anh đến đơn vị mày thôi, còn đâu anh sẽ tự tìm đường đi. Trời hỡi trời! Cái gì mà làm anh ấy muốn ra đi bằng bất kể giá nào như thế? Tôi không dám liều mạng sống, nên đành từ chối. Lúc đó tôi chưa hề biết tàu hoả đã chạy tới Battambang, đường buôn bán đã thông đến các cửa khẩu Sisôphon, Poipet...
Trước ngày hẹn một hôm, tôi đi xe lam xuống Ngã Bảy. tìm đúng địa chỉ trên đường Lê Hồng Phong để chờ anh Công. Ngôi nhà đúc 2 lầu một trệt, do má nuôi anh Công là chủ, thực chất là một cái nhà trọ. Bà má sồn sồn tuổi, người mập và tính tình cũng rổn rảng dễ chịu. Không có khách trọ, chỉ có mỗi một mình tôi. Bà xếp cho tôi một buồng ở trên tầng 2. Căn buồng 2 giường trống tếch, không một tiện nghi gì. Thỉnh thoảng bà ấy lại xộc lên, bảo tôi cần gì thì bà ấy giúp. Tôi không cần gì, chỉ muốn ngủ cho thời gian chóng qua. Nhưng khi đặt lưng xuống giường thì đột nhiên thấy lưng ngứa điên. Cái ngứa rất lạ, gãi ngoài thì không thấy ngứa, nhưng mi mắt như bị co rút, ríu lại vì ngứa sâu trong thịt.
Cả tấm lưng trần nổi mẩn mề đay, trông như những đám mây. Tôi cạy tấm giát giường lên, giọng xuống sàn vài cái. Cả cái sàn gạch bông phút chốc lấm tấm những đốm đen nâu của những con rệp béo mọng. Tôi điên tiết miết móng ngón tay, khoái trá trả thù giết lép bép từng con. Một mùi hôi hắc đặc trưng của loài rệp toả ra. Cái mùi đặc biệt, mà cụ Nguyễn Tuân ví với mùi whisky quả là xa xỉ. Các vệt máu tươi, máu khô bụng rệp tôi miết, quệt ngang quệt dọc trên mặt nền, vuốt dài như sao chổi Halley nhìn sởn da gà. Cuối cùng, tôi bỏ giường, trải nilon xuống nền nằm ngủ mới yên.