1
Bồ
Đề
Linh
Quang Tác giả : Năng Thuật Long Dịch giả : Dương Đình Hỷ
Giới thiệu tác giả :
Năng Thuật Long là giáo sư trường đại học sư phạm tỉnh Giang Tây, là hội viên của hội Trung Quốc tác gia. Đã xuất bản : Vũ Song Tập, Tản Văn Nghệ Thuật Thế Giới.
Một cách đọc công án. Có người cho rằng đọc công án chỉ là nhai lại những ý kiến của cổ nhân. Quan niệm này là sai lầm, có tính tiêu cực, bị động. Nếu khi đọc công án, chúng ta tự đặt mình vào vai trò của các nhân vật trong công án thì lại khác. Ta phải biết ông tăng chấp cái gì ? và Thiền sư giải quyết vấn đề đó ra sao ? Nếu là ông tăng thì chúng ta có chấp như thế không ? Và nếu là thiền sư thì ta sẽ hành động như thế nào ? Ý kiến của người thuật lại công án đó ra sao ? Ý kiến của chúng ta thế nào ? Do đó, chúng ta không coi công án như một bài toán đố có lời giải nhất định, mà lời giải là thước đo trình độ giải thoát của mỗi người. Có bao người đọc công án thì có bấy nhiêu lời giải. Tâm gồm chân và vọng. Khi vọng tâm triệt tiêu thì chân tâm sẽ hiện bầy. Do đó công án là những bài tập tâm lý để chúng ta trừ bỏ vọng tâm mà đến gần chân tâm hơn. Khi vọng tâm chấm dứt thì tâm ta sẽ ở một trạng thái mà Thiền gọi là trạng thái vô niệm hay giải thoát. Lấy một ví dụ cụ thể khi đọc công án “Uống trà đi” (Bài 32) trong Bồ đề Linh Quang, chúng ta thấy có 4 nhân vật : -Ông tăng 1 trả lời có, -Ông tăng 2 trả lời không, -Thủ tọa nhận thấy có cặp đối đãi “có-không:
2 -Triệu Châu vượt lên khỏi cặp đối đãi đó. Nếu đặt địa vị vào ông tăng 1 và 2 thì chúng ta cũng trả lời “có”, “không” như các ông tăng đó, vì đó là sự thực. Nếu ở địa vị của thủ tọa ta có thể hỏi khác đi, thí dụ như : -Vậy thầy coi Có là Không sao ? Và nếu ở địa vị của Triệu Châu chúng ta sẽ trả lời : -Sắc tức là không. Sau hết chúng ta cũng đồng ý với người thuật truyện là : Tâm bình thường là Đạo”. Thí dụ 2 : Đạp đổ tịnh bình (Bài 134). Trong công án này chúng ta có 3 nhân vật : -Thủ tọa : người nói câu : Không thể gọi là bình gỗ. -Quy Sơn : không nói, đạp đổ tịnh bình. -Bách Trượng : làm trọng tài, đặt tịnh bình trên đất. Kết quả : Quy Sơn thắng. Thủ tọa khi nói : Không thể gọi là bình gỗ, ông đã chấp vào danh tướng. Nếu đứng vào vai thủ tọa ta có thể nói : -Gọi là gì mà chẳng được ? Và nếu là Bách Trượng ta có thể phê bình : -Nói thế là trừ danh, còn tướng thì sao ? Quy Sơn không nói mà đạp đổ tịnh bình là không dùng ngôn ngữ, văn tự là không chấp vào danh tướng nên thắng cuộc. Thí dụ 3 : Trong công án Ni cô Như Đại (Bài 63). Trong công án này ta chỉ có một nhân vật là ni cô Như Đại, khi đi gánh nước, đáy thùng nước bỗng vỡ ra. Cô hoát nhiên khai ngộ. Cô ngộ cái gì ? Cô thấy rằng : có đã trở thành không. Đương có nước trong thùng bỗng trở thành không có nước trong thùng. Đang có bóng trăng trong nước nay không có nước thì đâu còn bóng trăng ? Cặp đối đãi “Có, Không” trước khi gánh nước đã trở thành một, tức là có bằng không. Cô ngộ ra rằng bản chất của pháp chỉ là không và các pháp không có sai biệt gì.
3 Kết luận là ở bản thể giới không có cặp đối đãi nào cả. Nói tóm lại quá khứ và tương lai đều là vọng tưởng, chỉ có ở đây và bây giờ là ta có thể kiểm soát được. Do đó, Thiền chú trọng vào điểm này.
4
Quyển Một : Trực Tâm Là Đạo. 1- Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi sinh ra, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, bước đi bẩy bước, mở miệng nói : -Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả. Đương nhiên, trong thực tế chỉ là một đứa bé con mắt long lanh, khóc òa một tiếng mà thôi, nhưng Thiền tông đã mang tiếng khóc này biến thành “Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả”. Chỉ một tiếng “ta” là giải quyết mọi vấn đề. Cái gọi là kinh nghiệm Thiền lại là một loại tự giác là “không có cái ta, do đó tất cả đều là ta” tự giác. Vì ta độc tôn cùng với trời đất, vạn vật cùng căn, bình đẳng, tự do. Tham Phật rất khó, mà cũng rất dễ. Phật đạo là biết rõ ta, có thể tham suốt nội hàm mọi người đều có Phật tánh. 2- Tâm bình thường là Đạo. Triệu Châu hỏi Nam Tuyền : -Đạo là gì ? -Tâm bình thường là Đạo. -Lấy tâm bình thường làm mục đích để tu có được không ? -Không được, vì như thế càng làm khó đạo thật hơn. -Nếu không khởi tâm tu Đạo thì làm sao biết đó là Đạo ? -Đạo không thuộc phạm vi biết hay không biết. Biết là vọng giác, không biết là hư vô vậy thôi. Nếu quả đạt được chân chính không nghi một bước nữa, thì ông sẽ thấy tâm như thái không, hiểu rõ ràng, không che mờ, không nghi ngại, thì còn lời gì để thị phi nữa ? Triệu Châu nghe lời đó bèn đốn ngộ. Tâm bình thường là Đạo là một câu nói diễn tả bản chất của Trung Quốc Thiền. Những câu cùng loại như “Tâm là Phật” “Phiền não là bồ
5 đề” “Tâm tâm không khác” v . v . khiến người ta từ các góc độ khác nhau mà thể ngộ. 3- Thiền gần. Huyện lịnh Thành Đô là Phạm mỗ, nghe nói Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần trở về Thành Đô, trú ở chùa Viên Giác, bèn đến bái phỏng, nhờ Thiền sư chỉ cho con đường vào Đạo. Khắc Cần kêu ông tham câu nói của Mã Tổ : -Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật, cuối cùng là cái gì ? Phạm mỗ tham rất lâu nhưng chả được gì, khóc nói với Khắc Cần : -Lão hòa thượng phải dạy con, chỉ cho con con đường khiến con hiểu Thiền, có được không ? -Ở đây tôi có một phương tiện đơn giản chỉ cần nghĩ đó là cái gì, không là cái gì. Huyện lịnh Phạm cuối cùng khai ngộ nói : -Thiền nguyên lai không ở xa, mà gần ngay bên. Thiền nói xa thì xa, nói gần thì gần. Nói huyễn thì xa ngàn vạn dậm, biết bình thường thì gần ngay ở tâm. 4- Cổ Phật lâu lắm rồi. Một ông tăng hỏi Quốc sư Huệ Trung : -Phật pháp bất diệt là gì ? -Ông đem bình nước lại đây cho tôi. Ông tăng y lời, Quốc sư lại nói : -Ông mang bình nước trả về chỗ cũ. Ông tăng mang bình nước về chỗ cũ và nhắc lại câu hỏi, lúc đó Huệ Trung nói : -Cái gì là Phật pháp bất diệt ? Đồ cổ ấy đã lâu lắm rồi. Hòa thượng Huyền Sa cùng Vi tướng quân cùng ăn trái cây. Vi tướng quân hỏi : -Phật ngữ nói : Dùng hàng ngày mà không biết, là ý gì ? Hòa thượng nhặt một trái cây, đưa cho tướng quân :
6 -Ông ăn đi ! Tướng quân ăn rồi nhắc lại câu hỏi. Lúc đó hòa thượng nói : Đó là dùng hàng ngày mà chẳng biết. Ông rõ không ? Diệu nghĩa của Phật pháp là phổ thông và bình thường, tự nhiên. Lúc ăn, lúc mang bình nước thể hiện đệ nhất chân đế. Cho nên cổ Phật đã qua lâu rồi, nhưng thủy chung vẫn thường tại. 5- Thế giới và gương cổ. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn bảo tăng chúng : -Các ông biết không nhận thức và đối tượng nhận thức là một, khế hợp với nhau. Nếu thế giới vuông, tròn một thước thì nhận thức của chúng ta cũng vuông, tròn một thước; nếu thế giới vuông, tròn một trượng thì nhận thức của chúng ta cũng vuông, tròn một trượng. Học trò của ông là Huyền Sa sư bị chỉ hỏa lò hỏi : -Cái này lớn chừng nào ? -Cùng gương cổ (nhận thức) một dạng to, nhỏ. Gương cổ phản chiếu toàn thế giới; vạn sự, vạn vật đều dung nạp trong gương cổ. 6- Ngày nay , ngày mai. Có ông tăng hỏi Diễn thiền sư : -Ý tổ sư từ Tây sang là gì ? -Ngày nay, ngày mai. Ngày nay, ngày mai đều bình thường. Bình thường là Thiền vậy. Người chưa ngộ nói nhiều vô ích, người ngộ rồi thì ngày ngày đều ở trong Đạo. 7- Đạo lớn không khó chỉ hiềm lựa chọn. Hòa thượng Triệu Châu bảo học trò : -Chân lý Thiền không khó được, chỉ không sinh tâm phân biệt. Giả như tôi dùng ngôn ngữ đạt được là một loại lựa chọn phân biệt, vì ngôn
7 ngữ văn tự là một loại lựa chọn. Tôi không lựa chọn, tự minh bạch tâm không phân biệt. Đối với tôi tâm đã không lựa chọn cũng không rõ, các ông hãy hộ trì tâm không thị phi, không phân biệt. Lúc đó có một ông tăng hỏi : -Nếu lão sư đã chẳng rõ sao, còn bảo chúng con hộ trì cái gì ? -Tôi cũng chẳng rõ. -Nếu lão sư đã chẳng rõ sao lại bảo chúng con là rõ ? -Vì có người hỏi, không lẽ không nói. Được rồi ! Thuyết pháp đã xong. Đạo lớn không khó chỉ hiềm lựa chọn. Là vì tìm kiếm Thiền đạo, chốn chốn đều là con đường. Chúng ta đang ở con đường, đang đi đó. Chú Thích của dịch giả : Triệu Châu nói ông không rõ là chỉ ngôn ngữ là một dụng dụ của thế giới nhị nguyên, có lựa chọn là có phân biệt; ông không rõ là chỉ ông không phân biệt. Ông tăng không hiểu ý này nên hỏi : -Thầy đã không rõ còn bảo chúng con hộ trì cái gì ? Triệu Châu lại nhấn mạnh : -Tôi cũng chẳng rõ. Ông tăng càng hồ đồ : -Thầy đã không rõ sao bảo tự minh minh bạch ? Triệu Châu thấy ông tăng không hiểu có nói nhiều cũng vô ích,nên chấm dứt đối thoại ở đây. 8- Thế nào là Đạo ? Trần Tôn Túc hỏi một vị lão tú tài : -Vị tiền bối này đang đọc kinh gì vậy ? -Kinh Dịch. -Kinh Dịch nói lão bá tánh dùng hàng ngày mà chẳng biết, không biết lão bá tánh không biết cái gì ? -Lão bá tánh không biết sự vận hành của Đại Đạo. -Cái Đại Đạo ấy là thế nào ? Lão tú tài không trả lời được.
8 Sinh hoạt bản thân là Đạo. Lão tú tài không biết mày mặt thật của Lư Sơn, chỉ duyên thân ở trong núi này. 9- Trời lạnh phải cẩn thận ! Linh Huấn mới đến gập Quy Tông hỏi : -Phật là gì ? -Tôi nói ông có tin không ? -Hòa thượng chân thành dạy Đạo, sao con dám không tin ? -Chính là ông. -Làm sao bảo trì ? -Một hạt bụi vào mắt, trăm hoa rơi loạn. Lúc Linh Huấn từ biệt để đi, Quy Tông hỏi : -Ông định đi đâu ? -Về Lãnh Trung. -Ông ở đây đã lâu, xếp đặt xong hành lý thì tới đây, tôi sẽ nói Phật pháp cho ông. Linh Huấn xếp đặt xong hành lý đến Thiền đường, Quy Tông nói : -Đến gần đây, tôi vì ông mà nói. Linh Huấn lại gần. -Nhớ kỹ, trời lạnh trên đường phải cẩn thận. Linh Huấn nghe lời nói này, những trí giải lúc trước đều quên cả. Đạo không huyền nghĩa, chỉ bình thường. Càng bình thường càng gần Đạo. Linh Huấn quên hết trí giải lúc trước chính là bước vào cảnh giới khai ngộ. 10- Đói ăn, mệt ngủ. Nguyên Luật hỏi thiền sư Tuệ Hải : -Hòa thượng tu Đạo có dụng công không ? -Dụng công. -Dụng thế nào ? -Đói ăn, mệt ngủ. -Mọi người đều vậy, có cùng hòa thượng dụng công không ? -Không cùng. -Vì sao không cùng ?
9 -Có người ăn không ăn, ngủ không ngủ; trăm kế, ngàn phương khổ sở tìm cầu sách lược do đó không cùng. Luật sư không trả lời được. Bình thường, tự nhiên, thích hợp là Thiền vậy. 11- Nhập lý Quán Âm. Có một lần, thiền sư Bách Trượng dẫn các ông tăng lên núi làm ruộng. Vào buổi trưa, chùa đánh trống gọi các tăng về ăn cơm. Vì Bách Trượng chưa ra lệnh cho nghỉ nên các ông tăng vẫn lao động. Nhưng có một ông, nghe tiếng trống, lập tức vác cuốc lên vai, cười vui, chạy mau về chùa. Bách Trượng trông thấy khen : -Đó chính là nhập lý Quán Âm! Khi về chùa, Bách Trượng hỏi ông tăng ấy : -Hôm nay ông thấy đạo lý gì mà hành động như thế ? -Chả có đạo lý gì cả, sáng nay con không ăn sáng, nghe tiếng trống báo giờ cơm nên con chạy về ăn. Bách Trượng nghe rồi cười lớn ha ha ! Thiền là tối phổ thông, tối hiện thực, ăn mặc, đi đứng cứ tự nhiên là Thiền đạo. 12- Đi rửa bát đi. Có một ông tăng bảo Triệu Châu : -Con mới vào Thiền lâm, thỉnh sư phụ chỉ điểm. -Ông ăn cháo chưa ? -Ăn rồi ! -Vậy, đi rửa bát đi. Đi rửa bát đi và tâm bình thường là Đạo đều là cụ thể hóa. Đừng bị mê hoặc bởi những giải thích và hàm nghĩa của Đạo, hãy tự mình tu tâm là tiếp cận với Thiền đạo. 13- Ăn cơm đi.
10 Một hôm trong giờ cơm, thiền sư Đạo U vào phòng ăn, gõ chùy cáo thị : -Có điều muốn nói với mọi người ! Các ông tăng ngẩng đều lên nghe. -Ăn cơm đi ! Ăn cơm là ở trong Thiền đạo, người thường không để ý đến điều này nên Đạo U gõ chùy chỉ cơ. 14- Thị giả là hai con hổ. Có một ngày, quan sát sứ Bùi Hưu đến tham phỏng thiền sư Thiện Giác, hỏi : -Lão sư có thị giả không ? -Có 2. -Ở đâu ? -Đại Không ! Tiểu Không ! Lúc đó có 2 con hổ từ sau viện chạy ra, Bùi Hưu sợ hãi. -Có khách tới, tạm thời hãy lui ! 2 con hổ rống lên rồi lui. -Lão sư làm chuyện gì tốt mà có quả báo này ? Thiền sư im lặng hồi lâu rồi hỏi : -Ông hiểu không ? -Không. -Sư núi thường niệm Quán Âm. Dưới con mắt Thiền, người có Phật tánh, vật cũng có Phật tánh. Tất cả đều có Phật tánh. Con hổ dĩ nhiên là có. 15- Tùy xứ an nhàn. Thiền sư Hoa Nghiêm mới đến Tào Động Tông Tuệ Triệt học Thiền, hỏi : -Cổ nhân nói như quả một người có thể làm tâm thanh tĩnh thì tự nhiên cùng Đạo hợp nhất. Nói thế có đúng không, thỉnh thiền sư giải thích cho con rõ.
11 -Hiểu được đạo lý này thì ở chỗ nào cũng an bình. Như một người sống nơi đô thị, tai nghe, mắt thấy hàng trăm ngàn chuyện lạ cũng không cho là kỳ. Nhưng một người sống ở thôn quê chỉ nhìn hoặc nghe một chuyện đã cho là lạ, loan truyền khắp nơi. Hoa Nghiêm nghe lời này tâm bỗng có chỗ lãnh ngộ. Tâm bình thường là Đạo. Như người đi thuyền gập sóng gió nhưng tâm không sợ thì coi như không. 16- Đại tục, đại nhã. Hòa thượng Lại Toản ẩn cư nhiều năm ở Hành Sơn. Đời Đường, Hoàng thất Đức Tông mến mộ danh tiếng ông, phái sứ giả đến mời ông về kinh. Sứ giả đến am hô : -Thánh chỉ đến ! Thỉnh hòa thượng đứng dậy tạ ơn tiếp chỉ. Hòa thượng chính đương nhất tâm sào rau đâu có để ý đến Vương pháp, thánh chỉ. Đối với con mắt Thiền thì hiện thực sào rau và ánh dương là hiện thực đáng quý, đại tục tức là đại nhã. 17- Thân bầy gió vàng. Có một vị tu hành hỏi Vân Môn : -Lá rụng, cây khô làm sao tu ? Câu hỏi thực phân minh. Cây khô, lá rụng Thiền ý là phiền não, sinh tử đã hết rồi, lá Bồ đề của Niết bàn rơi đầy trên đất, đến cái cảnh thân tâm thoát lạc này thì thiền tăng phải làm sao ? -Thân bầy gió vàng. Câu trả lời của Vân Môn thật cao nhã, giản khiết. Câu trả lời có nghĩa là cây khô bị gió thu thổi rơi hết. Tuyết Đậu có bài tụng đại ý : Hỏi cũng khéo, đáp cũng hay, như bắn tên lên không. Thu về trên đỉnh núi Hùng Nhĩ, không thấy Tổ sư đi về, trong khoảng khoáng dã vô tận, gió mát khởi, mưa nhỏ hạt đó thật là một diệu cảnh.
12 Tổ sư an giấc đã lâu rồi, nhưng chân ý vẫn trường tồn trong mưa thu, gió thu. Nguyện cây sinh mạng của chúng ta hòa vào đại tự nhiên. 18- Đánh cầu trên nước chẩy nhanh. Có một ông tăng hỏi Triệu Châu : -Trẻ sơ sinh có sáu thức không ? -Đánh cầu trên nước chẩy nhanh. Ông tăng đem chuyện này hỏi Đầu Tử : -Đánh cầu trên nước chẩy nhanh là ý gì ? -Niệm, niệm trôi chảy chẳng ngưng. Ý là trên mặt thì dòng nước yên tĩnh, nhưng ở dưới thì dòng nước vẫn cuồn cuộn chẩy. Đó là trong tĩnh có động. Đó là cảnh giới đại trí như ngu. 19- Trấn Châu sản xuất củ cải to. Có ông tăng hỏi Triệu Châu : -Nghe nói lão sư thân theo hầu Nam Tuyền, kế thừa đại pháp của người có phải không ? Triêu Châu là Nam Tuyền pháp từ là người thừa kế, thiên hạ đều hay. Ông tăng đã biết sao còn hỏi ? Đó là muốn biết Thiền phong của Triệu Châu cao hay thấp. Không như Lâm Tế với Định thượng tọa, ông tin sâu rằng tâm bình thường là Đạo, nên ông đáp : -Trấn Châu sản xuất củ cải to. Trấn Châu thuộc tỉnh Hà Bắc, nơi ở của Triệu Châu. Từ lời nói bình dị, Triệu Châu đã cho chúng ta biết thâm ý của Thiền. Đúng là lão nạp là học trò của Nam Tuyền, nhưng sản vật củ cải (Triệu Châu) cũng không thể thể thiếu trong sinh hoạt được. 20- Phòng ngủ không người. Có ông tăng hỏi Giáp Sơn : -Làm sao đạt được Niết Bàn ? Nếu đạt được rồi thì phải làm gì ? -Như phòng ngủ to lớn mà không có người.
13 Không có người là vô ngã. 21- Rõ ràng không ngộ pháp. Thiền sư Giáp Sơn cảnh giới chư tăng : -Vạn sự, vạn vật đều rõ ràng ở nơi này. Các ông đừng chấp có một ngộ pháp, rồi dùng pháp ấy mà xem vạn vật, chỉ làm cho người ta bị mê hoặc. Đối với vấn đề này thì thà ruỗi thẳng hai chân ngủ còn hơn tính toán thật , giả làm gì. Bản thân sinh hoạt trong Đạo. Hãy tự thể nghiệm, đừng chấp mê không ngộ. Cho nên không ngộ là chân ngộ vậy. 22- Một phiến đá trước am. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn đến am Đầu Tử Đại Đồng tham học. Đại Đồng chỉ phiến đá trước am nói : -Quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời chư Phật đều thuyết pháp ở phiến đá này ! -Cũng có nhiều vị Phật không thuyết pháp ở phiến đá này mà ở nơi khác. Phật không đâu không ở, không lúc nào không tại. Nếu thấy Phật ở chỗ này là chỉ thấy một tầng lớp. 23- Cha mẹ dưới đám cỏ. Có ông tăng hỏi thiền sư Thạch Thất Thiện Đạo : -Hòa thượng có đi Ngũ Đài Sơn không ? -Có đi. -Hòa thượng có thấy Bồ tát Văn Thù không ? -Có thấy. -Vậy, Bồ tát Văn Thù có nói Phật pháp cao diệu gì không ? -Bồ tát Văn Thù nói : “Cha mẹ ông đều ở dưới đám cỏ rậm này.” Thiền sư không tìm thâm sâu, cao diệu, huyền bí. Bình thường là Đạo lớn.
14 24- Trăng khuyết, trăng tròn. Thạch Thất và thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thưởng trăng. Ngưỡng Sơn hỏi : -Khi trăng khuyết thì trăng tròn đi đâu ? Khi trăng tròn thì trăng khuyết đi đâu ? -Khi trăng khuyết thì trăng tròn ẩn mình. Khi trăng tròn thì trăng khuyết ẩn mình. Cảnh trăng là cảnh Thiền. Trong tròn có khuyết, trong khuyết có tròn. 25- Ở bên bờ sông mà chết khát. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn bảo chư tăng : -Các ông ngày ngày học Phật, tham Thiền, nên nhớ có người ngồi bên mâm cơm mà chết đói, có người ở bên bờ sông nước chẩy cuồn cuộn mà chết khát. Đó không phải là chuyện cười chơi đâu. Chúng ta đang sống trong Đạo, vậy mà có người không biết, thậm chí đi ngược lại Đạo, trầm luân trong sinh hoạt, bị sinh hoạt làm điên đảo uổng phí một kiếp người. 26- Bầy khỉ và gương cổ. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn có lần cùng chúng đệ tử ra ngoài chơi, trên đường gập một bầy khỉ. -Các ông không biết lũ súc sinh này trên lưng chúng đều có một gương cổ, đều có linh tánh, chúng thường ăn trái trong vườn, ruộng người. -Những súc sanh này không có trí tuệ của người nên đều là súc sinh. Sư phụ nói chúng đều có gương cổ. Vậy là có trí tuệ của Phật sao ? -Nói như thế thì gương cổ của ông đã phủ đầy bụi rồi ! -Hòa thượng không trả lời vào câu hỏi, ngay lời con cũng không rõ. -Xin lỗi nhé, coi như tôi sai, có được không ? Vạn vật đều có Phật tánh. Bụi trần trên gương cổ của ông tăng này chỉ tự ông ta lau được thôi, người khác thì vô phương. 27- Biết chỉ là chuyện đó.
15 Dương Kỳ Phương Hội theo học Thạch Sương Sở Viên Từ Minh lâu năm mà chưa ngộ. Một hôm, Sở Viên vừa ra khỏi cửa thì trời mưa. Dương Kỳ đoán Sở Viên sẽ theo con đường nhỏ trở về, liền đứng trên đường đợi. Khi Sở Viên tới, Dương Kỳ nắm lấy : -Lão đầu tử, hôm nay phải đem cái áo bí của Thiền nói cho tôi biết, nếu không tôi sẽ đánh lão. -Ông biết chỉ là chuyện đó, đến đây thì ngừng, đừng nghĩ tưởng gì nữa cả. Chưa hết lời, Dương Kỳ đã ngộ. Chỉ là chuyện đó là đem trời đất, vạn vật tất cả đều nói ra hết. Chúng ta từ đâu tới và đi về đâu, phải tự mình tham. 28- Gà gáy, chó sủa. Có ông tăng hỏi Đại Thiện : -Thế nào là chủ ý của Phật pháp ? -Ngày Xuân, gà gáy. -Con không hiểu. -Trung Thu chó sủa. Trong con mắt thiền sư đã giác ngộ về nghiệp thì bất cứ một sự việc gì cũng hàm chứa thâm cơ; gà gáy, chó sủa đều là Phật pháp. 29- Gập chỗ vui chơi. Khắc Cần lên giảng đàn bảo chúng tăng : -Lửa không đợi mặt trời mà nóng, gió không chờ trăng lên mà mát, hạc chân dài, vịt chân ngắn, thiên nga trắng, quạ đen. Mọi sự việc đều lộ bầy, nếu hiểu được điều đó thì ở nơi nào cũng làm chủ. Mỗi khi gập cơ duyên thì đều là Thiền chỉ, cũng như nghệ nhân đều mang gậy trúc bên mình gập chỗ thì vui chơi. Có loại người này chăng ? Vạn vật đều hàm thiền chỉ. Ở mọi nơi, mọi thời đều có thể tham ngộ. 30- Cây nhà nào chẳng Xuân. Có người hỏi thiền sư Quy Nhân :
16 -Người tục có thể hiểu Phật pháp không ? -Có bệ đài nào không chịu ánh trăng ? Cây nhà nào không đón Xuân sang ? Phật quang chiếu khắp, Phật tánh ở mọi nơi. 31- Năm chuyện lớn. Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo muốn Đạo Khiêm đưa một lá thư đến Trường Sa. Đạo Khiêm tự nghĩ : -Tôi tham thiền đã 20 năm rồi mà chả được gì, nay phải đi xa thế, thật là phí thời gian. Cho nên không muốn đi. Bạn ông là Tông Nguyên trách : -Ông ở trên đường không tham thiền được sao ? Tôi sẽ đi với ông. Đạo Khiêm bất đắc dĩ phải đi đưa thư. Trên đường đi, bạn ông bảo : -Ông phải quên hết các chuyện của các tổ sư tham thiền, ngộ thiền ; bao gồm cả những lời giảng của lão hòa thượng Viên Ngộ, Đại Huệ v . v . ông đều vất cả đi. Trên đường đi tôi sẽ giúp ông làm mọi việc, ông không phải lo, chỉ việc tham thiền. Chỉ có 5 việc ông phải tự làm. -Đó là những việc gì ? -Đó là : thứ nhất mặc áo, thứ hai ăn cơm, thứ ba đi tiểu, thứ tư đi tiêu, thứ năm trên đường ông phải tự đi. 5 việc này ông phải tự làm, tôi không giúp được. Đạo Khiêm nghe lời đó tức thì đại ngộ, tay múa chân nhẩy cẫng lên. Ngã huyền diệu mà cũng bình thường. 5 việc lớn gồm ngã. Nói cho cùng thì ai giúp ai ? Tối thâm ảo chân nghĩa là phác thực. 32- Uống trà đi. Một ông tăng mới đến thiền viện, Triệu Châu hỏi : -Lúc trước đã qua đây chưa ? -Đã qua. -Đi uống trà đi. Lại hỏi một ông tăng khác : -Lúc trước đã qua đây chưa ?
17 -Chưa từng qua. -Đi uống trà đi. Sau, viện chủ hỏi : -Sao đối với ông tăng đã qua và ông tăng chưa qua thiền sư đều bảo “Đi uống trà đi” ? -Viện chủ ! -Dạ ! -Đi uống trà đi. Trà là phổ thông, Đạo là bình thường, không thấy trong trà có vị Thiền sao ? 33- Chỉ thị tâm yếu. Một ngày, Long Đàm hỏi Đạo Ngộ : -Con tham tu đã lâu, mong được chỉ thị tâm yếu. -Từ khi ông tới đây, không lúc nào là tôi không chỉ thị tâm yếu. -Hòa thượng chỉ ở chỗ nào ? -Ông mang trà lại, tôi uống; đưa cơm lại tôi ăn; ông lạy tôi gật đầu, không phải là chỉ thị tâm yếu sao ? Long Đàm cúi đầu suy nghĩ. -Thấy Đạo thì thấy ngay, suy nghĩ là sai. -Làm sao giữ gìn ? -Mặc sức tiêu dao, giữ gìn tâm phàm, ngoài ra không có gì khác. Đạo là sinh hoạt không tu là tu. 34- Chỉ trời, chỉ đất. Có một ông tăng đến tham Đạo Khâm, hỏi : -Đệ tử mới tới chùa, thỉnh sư phụ chỉ giáo. -Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Đây là truyền thuyết ngày đản sanh của Đức Phật, Thiền dạy người mới học phải phát hiện tự ngã. 35- Dùng chĩa chỉ cơ.
18 Thiền sư Bí Ma ở Ngũ Đài Sơn hễ có ông tăng nào lại lạy liền giơ cái chĩa gỗ lên hỏi : -Ma quỷ nào bảo ông xuất gia ? Ma quỷ nào bảo ông hành cước ? Đáp được thì chết ngay dưới cái chĩa này, không đáp được cũng chết ngay dưới cái chĩa này ! Nói mau ! Nói Mau! Có ít người trả lời được. Trực tâm là đạo, nghểnh cổ lên để ông ta chĩa là xong. 36- Mây trên trời xanh, nước trong bình. Thích sử Hồ Nam là Lý Thường nhiều lần mời Dược Sơn đến gập mặt mà thiền sư không tới. Do đó ông thân đến gập. Dược Sơn thấy Lý Thường đến, nhưng mặc kệ vẫn xem kinh Phật. Lý Thường rất nóng lòng : -Thật là gập mặt chẳng bằng nghe danh ! Rồi rũ tay áo định đi. -Sao ông lại trọng tai mà khinh mắt vậy ? Lý Thường xin lỗi và hỏi : -Thế nào là Đạo lớn ? -Mây trên trời xanh, nước trong bình. Lý Thường tĩnh tâm, hoát nhiên đốn ngộ. Ông làm một bài kệ : Luyện được thân hình giống hạc hình Dưới tùng ngàn gốc hai hòm kinh Tôi đến hỏi Đạo, không thừa thãi Mây trên trời xanh, nước trong bình. Mây trên trời tự do bay lượn có thể thành mưa, nước trong bình không động hình thái không đồng nhưng vốn là một. Vạn sự, vạn vật nhìn, nghe đều không có cao thấp, nặng nhẹ. Chúng ta phải thể nhận chúng là bình đẳng thì mới nắm bắt được chân lý của Đạo. 37- Tôi ngộ rồi ! Thiền sư Trí Thông ở Ngũ Đài Sơn mới đầu tham học với Trí Thường. Một hôm ở tăng đường hô lớn :
19 -Tôi ngộ rồi ! Làm chúng tăng đang ngủ say, giật mình tưởng ông hóa điên. Hôm sau, Trí Thường lên giảng đàn nói : -Ông tăng hôm qua nói lớn rằng mình đã ngộ, bước ra. Trí Thường bước ra. -Hôm qua ông ngộ cái gì, hãy nói thử coi. -Con ngộ ni cô vốn là người nữ. Trí Thường kinh ngạc, tán thán : -Thật là khác thường ! Rất sâu, rất thật là rất bình thường, đó là Thiền đạo. 38- Trong tro có lửa. Quy Sơn là đệ tử của Bách Trượng. Một hôm trời lạnh, Quy Sơn thị hầu Bách Trượng đốt lửa. -Ông xem trong lò còn lửa không ? Quy Sơn dùng que cời lửa quậy tro mấy lần, nói : -Trong lò không có lửa. Bách Trượng tiếp lấy que cời lửa, tìm được một tinh hỏa trong đống tro tàn, nói : -Ông nói không có, vậy đây là gì ? Quy Sơn do đó khai ngộ. Công đáo tự nhiên thành. Trong sinh hoạt mọi chỗ đều là Thiền, có một cái bất diệt tinh hỏa, chỉ cần ta nhìn kỹ thì ta sẽ đạt được cảnh giới giác ngộ. 39- Bắt tay ở chỗ nào ? Thiền sư Triệu Châu và thủ tọa cùng đi xem cầu Triệu Châu bằng đá. -Cây cầu này ai xây ? -Lý Dung xây. -Bắt tay từ chỗ nào ? Thủ tọa không trả lời được. Chỗ nào chính là chỗ này. Đạo Thiền chính là ở đây, bây giờ.
20
40- Gió nhẹ thổi rặng tùng. Đây là câu thơ của Hàn Sơn : Gió nhẹ thổi qua rặng tùng, lại gần nghe mới rõ. Người bình thường thường phân biệt chủ thể nghe và khách thể bị nghe. Nhưng thiền nhân thì không vậy, phải làm sao cho chủ, khách là một tức là vô tâm tức tự tha bất nhị. Lại gần là phương pháp thật nhất. Cho nên trong Thiền có nói : Chuyện tùng hỏi tùng, chuyện cúc hỏi cúc. 41- Phương Nam có cái này không ? Khi còn trẻ hòa thượng Vô Trước có gập Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn, cùng Văn Thù đối mặt luận Thiền. Văn Thù đưa cho Vô Trước một tách trà hiếm quý bằng pha lê, hỏi : -Phương Nam có thứ này không ? -Không. -Vậy sao ? Người phương Nam dùng gì để uống trà ? Vô Trước hiểu là Văn Thù không nói đến tách trà mà là một thiền ngữ chỉ thiền cơ. Trong lòng không an, không lòng ăn uống bèn từ biệt. Khi ra khỏi cửa hỏi đồng tử : -Sư phụ ông nói :”Trước ba ba, sau ba ba”, là ý gì ? Đồng tử gọi : -Hòa thượng ! -Dạ ! -Lời đáp của ông là mấy tiếng ? Vô Trước ngay đó có sở ngộ. Một tức ba, một là trời đất, một là thiền tâm. 42- Vạn pháp về một, một về đâu ? Một ông tăng hỏi Triệu Châu : -Vạn pháp trở về một, một trở về đâu ? -Tôi ở quê cũ Thanh Châu, may một cái bông nặng 7 cân.
21 Đối với câu hỏi này, câu trả lời của nhà Phật là trở về vạn pháp. Nhưng câu trả lời của Triệu Châu mở toang cửa huyền diệu khiến thâm ảo biến thành phác thực. Đó là Thiền. 43- Xuân tới, trăm hoa nở vì ai ? Hòa thượng Tuyết Phong bảo đại chúng : -Cả địa cầu nhỏ bằng một hạt gạo, ném vào mắt không thấy đâu. Mau đánh trống tụ chúng, xem cảnh giới này. Tuyết Đậu đối với chuyện này có bài tụng sau : Chẳng thấy đầu trâu cùng mặt ngựa Gương cổ Tào Khê, tuyệt trần ai Đánh trống mà coi, ông chẳng thấy Trăm hoa Xuân tới, nở vì ai ? Xuân tới trăm hoa nở vì ai ? cho chúng ta biết một hạt bụi là một thế giới, một đóa hoa là một thiên đường. 44- Mây trắng làm lọng, nước suối là đàn. Hòa Sơn hỏi chúng đệ tử : -Thế giới cái gì cũng không có, các ông đi đâu mà tìm tâm ? Đó chính là câu : Ba giới không pháp, chỗ nào cầu tâm ? Tam giới là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Chỉ sự tồn tại của chúng ta trong thế giới này. Đối với chuyện này Tuyết Đậu có bài kệ : Tam giới không pháp Chỗ nào cầu tâm Mây trắng làm lọng Suối reo, đàn cầm Một khúc, hai khúc, người chẳng hay Đêm, ao thu, nước sâu, mưa bay. Ngửng đầu chỉ thấy mây trắng bay, nào ai để ý đến nhanh, chậm. Cúi đầu nghe tiếng suối reo nào nghĩ là đàn không dây. 45- Câu Chi ngộ Đạo.
22 Hòa thượng Câu Chi lúc mới xuất gia, ở trong một mái nhà tranh tu hành. Một hôm, có một ni cô tên là Thật Tế đến bái phỏng. Ni cô vào am, không bỏ nón, tay cầm thiền trượng, đi vòng quanh thiền sàng của Câu Chi ba vòng : -Ông nói được một câu thì tôi sẽ ngả nón. Thật Tế nhắc lại câu hỏi 3 lần mà Câu Chi vẫn không đáp được. -Nếu ông không trả lời được, tôi xin từ biệt. -Trời đã tối rồi, bà hãy trú tạm một đêm. -Nếu quả ông nói được một lời, tôi sẽ ở lại. Câu Chi cúi đầu không đáp được. Thật Tế bèn đi. Câu Chi than : -Ta là một gã không ra gì, đối phó với một ni cô chẳng nổi thì còn độc tu cái gì ? Định bỏ am đi, thì gập thiền sư Thiên Long, bèn kể chuyện đã qua. Thiên Long không nói chỉ giơ một ngón tay lên. Câu Chi nhìn thấy bỗng nhiên đại ngộ. Đối với chuyện này Tuyết Đậu có bài kệ : Câu Chi giơ ngón tay Ứng đối như nước chẩy Nêu cao được tông chỉ Thật là kỳ diệu thay. Thiền nhận định rằng thiên sai vạn biệt cùng là một thể; những gì trong mắt ta đều là chân lý, ảo diệu vô cùng. 46- Không gì không là thuốc. Bồ tát Văn Thù có một lần bảo Thiện Tài đồng tử đi hái dược thảo : -Ông mang những gì không phải là thuốc ra đây. Thiện Tài đồng tử vâng lệnh đi khắp nơi kiếm nhưng chỉ thấy cây độc không làm thuốc được. Nhưng kiểm soát lại thì những chất độc này cũng có dược tánh. Do đó Thiện Tài đồng tử về báo cáo : -Không gì không là thuốc. -Vậy ông mang thứ gì có thể làm thuốc ra đây. Thiện Tài đồng tử liền hái một nhánh cỏ đưa cho Văn Thù. Văn Thù giơ cỏ lên bảo đại chúng :
23 -Nhánh cỏ này có thể cứu người cũng có thể giết người. Phiền não có thể giết người cũng có thể cứu người; phiền não tức bồ đề. 47- Trước ba ba, sau ba ba. Có một ngày Vô Trước gập Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn. Văn Thù bảo : -Ông từ đâu tới ? -Từ phương Nam. -Phật pháp phương Nam thế nào ? -Là thời mạt pháp, ít người giữ giới luật. -Tổng quát là bao nhiêu ? -Từ 300 đến 500 người. Và hỏi ngược lại : -Tình hình nơi đây thế nào ? -Phàm thánh cùng ở, rồng rắn hỗn tạp. -Là bao nhiêu người ? -Trước ba ba, sau ba ba. Lời của Vô Trước chỉ Tiểu Thừa, lời của Văn Thù chỉ Đại Thừa. Phàm thánh cùng ở, rồng rắn hỗn tạp lại là giới, định, tuệ. 48- Phật tánh vốn không Nam Bắc. Lục tổ Huệ Năng lúc đến tham Ngũ tổ, Ngũ tổ hỏi : -Ông người phương nào, đến đây làm gì ? -Con người Lãnh Nam, chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác. -Ông là người mọi rợ sao thành Phật được ? -Người có Bắc Nam, Phật tánh nào có Bắc Nam ? Ngũ tổ thấy ông biểu thị như thế rất bằng lòng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đó là chủ trương của Phật giáo cũng như của Thiền tông. 49- Cái nào không tốt nhất ? Bàn Sơn thấy người mua thịt heo nói :
24 -Bán cho tôi một cân thịt hảo hạng. Người bán thịt bỏ dao xuống khoanh tay trước ngực, nói : -Ông chỉ cho tôi chỗ nào không hảo hạng đi ? Bàn Sơn đương thắc mắc về vấn đề thiện-ác và bình đẳng, nghe vậy hốt nhiên đại ngộ. Bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể khai ngộ.
Quyển Hai Điều Tâm Về Nguồn. 50- Trời sáng, gà gáy. Có ông tăng hỏi thiền sư Nguyệt Thiền : -Tu làm sao để thấy khuôn mặt xưa nay ? -Chẳng cần treo gương cổ; trời sáng thì gà gáy. Treo gương cổ chỉ cầu Phật (hư vọng) Trời sáng, gà gáy : khi giác ngộ rồi thì tự nhiên thấy tánh. 51- Khuôn mặt xưa nay. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn sau khi truyền y bát lại cho Huệ Năng thì không thuyết pháp nữa. Việc trao y bát cho người tục làm cho các đệ tử bất mãn. Minh thượng tọa đuổi theo Huệ Năng và đuổi kịp ở Đại Dữu lãnh. Huệ Năng thấy vậy : để y bát trên một tảng đá nói : -Y, bát tượng trưng cho chính nghĩa, không dùng sức mà tranh dành, nếu ông muốn dùng sức thì hãy đến mang đi.
25 Thượng tọa Minh dùng sức nhưng không thể nào giỡ y, bát lên được. Minh sợ toát mồ hôi lạnh, xin lỗi nói : -Tôi tới đây vì pháp chứ không phải vì y, bát. Xin chỉ thị tâm yếu. -Không nghĩ thiện, không nghĩ ác lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay của Minh thượng tọa? Thượng tọa Minh tức thì giác ngộ. Biết được khuôn mặt xưa nay thì mới đối diện chân chính với chúng sinh, với trời đất. 52- Có nhiều mặt mũi. Một ông tăng hỏi thiền sư Hồng Tiến : -Khuôn mặt xưa nay là thế nào ? Hồng Tiến nhắm mắt thè lưỡi, rồi mở mắt thè lưỡi. -Khuôn mặt xưa nay lại có nhiều dạng vậy sao ? -Vừa rồi ông thấy gì ? Ông tăng không trả lời được. Khuôn mặt xưa nay chỉ bản tâm, không phải là mặt thịt. Ông tăng nhìn thấy nhiều mặt có gì để nói chứ ? 53- Tâm sinh pháp sinh, tâm diệt pháp diệt. Lúc trước, trước cửa Nam Thiền tự, có một bà già được gọi là khốc bà (bà già hay khóc). Trời mưa bà khóc, trời nắng bà cũng khóc. Ông tăng ở Nam Thiền tự hỏi : -Bà lão ! Vì sao bà khóc ? -Lão có 2 con gái, đứa lớn gả cho gã bán giầy, đứa nhỏ gả cho gã bán dù. Trời nắng, tôi thương cho con nhỏ không bán được dù, trời mưa tôi thương cho con lớn, ai mua giầy của nhà nó chứ ? Tưởng tới tưởng lui tôi không rơi lệ sao được ? -Bà lão à ! Không cần phải khóc đâu. Sao bà không nghĩ trời nắng nhà con lớn sẽ bán được giầy, trời mưa nhà con nhỏ sẽ bán được dù. -Phải a ! Từ đó bà lão cả ngày chỉ cười ha hả.
26 Tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt; thành Phật, thành ma chỉ trong một niệm; đều do tâm khởi. 54- Khách chưa về, nhớ cố hương. Thiền sư Nhân Dõng lên đàn bảo đại chúng : Từng trận gió mát thổi rặng thông Khách chưa về nhớ đến cố hương Ai là người khách nhớ quê cũ ? Nơi đâu lại gọi là cố hương ? Im lặng hồi lâu lại nói : -Nằm thẳng cẳng trên giường, có cháo, có cơm. Bản tâm là cố hương của người học Thiền. 55- Cây bách và tôi. Một ông tăng hỏi Triệu Châu : -Chân lý của Thiền là gì ? -Cây bách trước sân. -Thiền sư đừng lấy cảnh chỉ sự. -Tôi không lấy cảnh chỉ sự. Quan điểm của Thiền là nhân cảnh bất nhị, vật cảnh hợp nhất. 56- Trên cửa phải viết chữ môn chứ ? Có ông tăng già trên cửa ra vào viết chữ tâm, trên cửa sổ viết chữ tâm, trên tường cũng viết chữ tâm nữa. Thiền sư Văn Ích bảo : -Trên cửa ra vào viết chữ môn, trên cửa sổ viết chữ song và trên tường phải viết chữ tường chứ ? Mọi chỗ đều là tâm là chấp mê, phải tĩnh tâm lại. Cứ tuân theo tự nhiên thì thấy chân tâm. 57- Không tâm đánh không tâm. Có ông quan chỉ cái mõ hỏi thiền sư Hồng Nhân : -Đây là cái gì ? -Cảnh tỉnh người buồn ngủ.
27 -May đến chỗ này. -Vô tâm (người) đánh vô tâm (vật). Mõ vô tâm, người vô tâm là không vọng niệm, mới vào được cửa không. 58- Tâm xong chuyện. Lưu Thị Ngự hỏi Ngưỡng Sơn Huệ Tịch : -Xin sư phụ chỉ cho con minh tâm kiến tánh, bỏ hết vọng niệm là tâm xong chuyện. -Muốn tâm xong chuyện phải biết : không có tâm để sáng, không có vọng niệm để trừ, không có tánh để thấy, đối với vạn vật, vạn sự không có cảnh giới nào là không xong chuyện; đó là chân chính minh tâm kiến tánh. Thiền truy tìm cảnh giới từng tâm (lặng, trong). 59- Ra cửa liền là cỏ. Có ông tăng hỏi Thạch Sơn Khánh Chư về câu nói của Động Sơn Lương Giới :”Các ông phải tu hành thế nào để đi vạn dậm không thấy cỏ.” -Ra cửa liền là cỏ. Ông tăng này đem câu trả lời của Khánh Chư cho Động Sơn nghe, Động Sơn bảo : -Đó là bậc Đạo sư của 1.500 chúng. Tấc cỏ chỉ phiền não. Ra cửa liền là cỏ là thấy phiền não tức bồ đề cần gì phải đi vạn dậm ? 60- Văn Thù, Phổ Hiền. Động Sơn Thủ Sơ là học trò Vân Môn có một lần có ông tăng hỏi ông : -Hòa thượng tu hành cao thâm nếu Văn Thù và Phổ Hiền đến hỏi Đạo thì phải làm sao ?
28 -Tôi coi họ như trâu, lùa vào chuồng. Mong cầu bồ tát là vọng niệm, vọng tưởng. Đối với chúng phải như chăn trâu, phải xem kỹ. 61- Quay đầu về Nam nhìn Bắc Đẩu. Có ông tăng hỏi thiền sư Huệ Thanh : -Thế nào là tự thân, tự tâm ? -Quay đầu về Nam nhìn Bắc Đẩu. Tự thân, tự tâm chỉ qua kinh nghiệm tự giác mới có thể triệt ngộ. Đó là tự tánh phản quán. 62- Trời mưa không làm ướt một người. Có một lão thiền sư hỏi tăng chúng : -Thời cổ có một bài kệ : Rào, rào mưa rơi xuống hai người Trời mưa không làm ướt một người. Các ông thử nói lý do tại sao ? -Một người mặc áo mưa, một người không. -Đây là một trận mưa cục bộ, nên một người bị ướt, một người không. -Một người ngoài đường, một người đi dưới mái hiên. Mọi người bàn tán mà không đi đến kết quả nào. Lão thiền sư cuối cùng nói : -Các ông đều chấp vào câu không làm ướt một người, kỳ thực chẳng phải là hai cùng bị ướt sao ? Đã ngộ, không thông thì tái ngộ cho thông. Chúng ta cứ chấp ngộ rồi thì tất cả đều thông. Đó là chấp trước, tự mình trói buộc mình. 63- Đáy thùng rơi xuống, trời đất một vành. Thiền sư Lâm Tế từng nói : -Khi chưa ngộ tôi thấy mình như ở đáy thùng sơn. Do đó người sau hoát nhiên khai ngộ gọi là đánh vỡ thùng sơn.
29 Ni cô Thiên Đại, khi ở chùa Tùng Kiến, đi gánh nước, đáy thùng trước bỗng nhiên rơi ra, nước đổ tung trên mặt đất. Ni cô bỗng nhiên khai ngộ, có làm bài kệ : Ni cô Thiên Đại đi gánh nước Đáy thùng bỗng tự nhiên rớt ra Nước đựng trong thùng không còn nữa Và đâu trăng vàng chiếu sáng lòa ? Cô đã thể nghiệm cảnh giới “bản lai vô nhất vật”. Về sau thiền sư Bàn Khuê cũng có tâm cảnh này : Đáy thùng cũ rơi ra Trời đất vành bao la. Chúng ta phải tự hỏi, đáy thùng ở đâu ? Chúng ta có thể phá vỡ đáy thùng không ? 64- Cảnh Thanh hôm nay thất lợi. Một hôm, một ông tăng tới tham Cảnh Thanh. Cảnh Thanh bèn giơ phất tử lên. Ông tăng hỏi : -Nghe danh đã lâu nên đến bái phỏng, chả lẽ hòa thượng chỉ có thủ đoạn ấy ? -Hôm nay trước mặt ông, lão tăng thất lợi. Có lần Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc : -Ông từ đâu tới ? -Núi Thiên Thai. -Ai bảo ông đến Thiên Thai ? -Lão sư, đây là đầu hổ, đuôi rắn. -Hôm nay tôi thất lợi. Có lần Cảnh Thanh đọc kinh, có ông tăng hỏi : -Lão sư đọc kinh gì vậy ? -Tôi chơi trò trăm cỏ của người xưa, ông biết chơi không ? -Trò nào lúc bé con cũng chơi qua. -Hiện giờ thì sao ? Ông tăng giơ nắm đấm lên. -Hôm nay tôi thua ông rồi.
30 Tục ngữ có nói : Không chỗ phong lưu cũng phong lưu, hay suy binh tất thắng. Lùi một bước trời rộng, đất dài ẩn tàng biết bao lợi hại. Đó là thiền cơ. 65- Bỏ xuống đi ! Nham Dương tôn giả hỏi Triệu Châu : -Con đến đây tay không, tâm bát ngát, con có ngộ thiền không ? -Ông bỏ xuống đi ! -Con không mang gì đến đây thì bỏ xuống cái gì ? -Vậy, ông hãy mang đi. Không chấp một vật, nhưng đồng thời cũng không chấp một niệm thì mới là chân chính ngộ. 66- Không biết tối thân thiết. Pháp Nhãn tham Trường Khánh nhưng không ngộ, bèn đi vân du bốn phương. Một hôm trời mưa, ẩn ở viện Địa tạng. Hòa thượng Địa Tạng thấy ông muốn đi bèn hỏi : -Ông định đi đâu ? -Đi hành cước. -Hành cước làm gì ? -Không biết. -Không biết tối thân thiết. Pháp Nhãn ngay đó có sở ngộ. Đối với mọi sự đều hoài nghi. Bỗng nhiên thấu triệt thiền cảnh, hợp thành một thể. 67- Không biết cái đó có bị hủy không ? Có ông tăng hỏi Đại Tùy : -Khi thế giới bị lửa tiêu diệt không biết cái đó có bị hủy không ? -Bị hủy diệt. -Vậy là cùng thế giới hủy diệt. -Đúng ! Cùng thế giới hủy diệt.
31 Cái đó chỉ Phật tánh, giả sử đại thiên thế giới bị hủy diệt thì Phật tánh tồn tại nào có ý nghĩa gì ? 68- Đơn Hà đốt Phật gỗ. Thiền sư Đơn Hà có một lần đến Huệ Lâm tự ở Lạc Dương. Vì trời lạnh ông đem tượng Phật bằng gỗ đốt để sưởi ấm. Viện chủ nổi lôi đình : -Ông sao lại đốt tượng Phật ? -Để lấy xá lợi. -Tượng Phật bằng gỗ sao có xá lợi được ? -Nếu không có xá lợi, thì tôi có thể thiêu 2 tượng bên cạnh để được sưởi ấm không ? Người đạo vô tâm, chỉ cần hành động theo bản tính là hoàn thành Phật đạo. 69- Lời nói không làm cho no. Ngộ Tâm, người đời Bắc Tống chỉ học lý thuyết không có thực hành. Một hôm luận Thiền với Hối Đường; Hối Đường bảo : -Lời nói không làm cho no bụng. Ông chỉ lý thuyết mà không có thực hành thì chả đi đến đâu. -Như bẻ cung và tên bắn hết rồi, xin hòa thượng chỉ cho con. -Như mắt vương một hạt bụi nhỏ cũng khó chịu. Người nhiều trí thức cũng vậy, càng nhiều trí thức càng khó gập Thiền. Một hôm, Ngộ Tâm nghe một ông tăng cãi nhau với tín đồ, bỗng nhiên trong không có một tiếng sấm nổ. Ngộ Tâm tức khắc đại ngộ. Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật, chỉ duyên thân tại ngọn núi này. 70- Nghĩa Huyền thị tịch. Lâm Tế sắp mất bảo tăng chúng : -Tôi mất rồi, đừng để chánh pháp nhãn tạng của tôi bị hủy diệt. Tam Thánh, đồ đệ của ông nói : -Không dám để chánh pháp nhãn tạng của sư phụ mất đâu. -Nếu về sau có người hỏi thì ông trả lời làm sao ? Tam Thánh liền hét lên.
32 -Chánh pháp nhãn tạng của tôi bị con lừa mù này diệt rồi ! Nói xong, ngồi nghiêm mà mất. Vô niệm là chân chính thanh tĩnh. 71- Một giọt nước cũng không hưởng được. Trí Thường và Nam Tuyền cùng hành cước. Có một ngày tưởng chia tay. Trong lúc đun trà Nam Tuyền hỏi : -Lúc trước, bàn luận với sư huynh bỉ thử đều đã biết rồi, nay có người hỏi Đạo thì phải trả lời sao ? -Chỗ này dựng am tốt. -Việc dựng am để nói sau, chuyện ngộ đạo thì sao ? Trí Thường nghe câu nói đó, dốc ngược siêu trà rồi đứng dậy. -Sư huynh uống trà rồi, nhưng đệ thì chưa. -Ông nói như thế, thì một giọt nước cũng không được hưởng. Chuyện này không phải là chuyện thường tục không dùng lý mà giải được, càng uống trà càng hồ đồ. 72- Thạch Đầu rút đao. Thạch Thất tham học với Thạch Đầu. Một hôm, Thạch Thất theo Thạch Đầu đi chơi núi. Thạch Đầu bảo : -Ông phạt cây phía trước làm trở ngại tầm nhìn của chúng ta. -Con không mang dao theo. Thạch Đầu rút dao ra, đưa mũi nhọn về phía Thạch Thất. -Hòa thượng đưa cho con đuôi dao chứ ? -Cán có ích gì ? Thạch Thất ngộ ngay khi đó. Mọi lúc không bị ngoại cảnh chi phối mà sinh phiền não. 73- Cây bách có tặc cơ. Ẩn Nguyên đến thăm Diệu Tâm tự hỏi : -Khai Sơn Huệ Hiền có để lại ngữ lục gì không ?
33 -Không, chỉ có câu nói “Cây bách có tặc cơ”. Ẩn Nguyên nghe rồi lạy tháp mười lần rồi lui. Thiền giả đoạt đi phiền não của người tham thiền. 74- Đi Giang Nam, Giang Bắc hỏi lão Vương. Có ông tăng hỏi Trí Môn : -Hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào ? -Vẫn là hoa sen. -Ra khỏi nước rồi sao ? -Liền thành lá sen (hà diệp). Đối với chuyện này Tuyết Đậu có bài kệ : Hoa sen, lá sen bảo ông hay Sẽ ra thế nào, khỏi nước rồi Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão Nghi cũ xong rồi lại nghi nay. Nếu không quay lại mà xem mình thì không bao giờ hết nghi. 75- Thế nào không là Phật. Có ông tăng hỏi Diên Chiểu : -Thế nào là Phật ? -Thế nào là không Phật ? -Con không hiểu lời nói cao xa này xin hòa thượng chỉ một cách trực tiếp. -Nhà ở bờ biển Đông, mặt trời mọc sẽ được chiếu trước. Trừ bỏ không là Phật thì bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng đều là Phật. Phật tại tự tâm. Có ngộ tánh này tự nhiên linh quang chiếu trước. 76- Một hòn đá trong không. Một ông tăng hỏi Thạch Sương : -Ý tổ sư từ Tây sang là gì ? -Như có một hòn đá trong không. Ông tăng đó có chỗ ngộ bèn lạy tạ.
34 -Ông có hiểu lý đó không? -Con cũng chẳng rõ. -May là như vậy, nếu không ông đã bị hòn đá đó đánh bể đầu rồi. Nếu đã nhấc lên được thì cũng phải bỏ xuống được nếu không bị hòn đá đánh bể đầu. 77- Hư không chẳng có loại đó. Có ông tăng hỏi Cảnh Huyền : -Thế nào là ngộ cảnh của người dưới đáy thùng sơn ? -Hư không không có loại này. -Thế nào là pháp thân thanh tịnh ? -Trâu trắng thổ ra hoa tuyết, quạ đen đậu trên ngựa ô. Phàm người triệt ngộ thì tất cả đều hỗn nhiên. 78- Đêm tuyết thả gà đen. Cảnh Huyền đến tham Lương Sơn hỏi : -Thế nào là đạo trường vô tướng ? Lương Sơn chỉ bức họa Quán Âm : -Bức tranh này vẽ ở chỗ mỗ. Và hỏi tiếp: -Đó là hữu tướng, còn đâu là vô tướng? Cảnh Huyền bèn tỉnh ngộ, lạy tạ. -Sao không nói gì ? -Nếu nói thì rơi vào giấy, bút. -Câu này nên khắc vào bia đá. Cảnh Huyền bèn làm bài kệ sau : Lúc mới học Đạo thật si mê Vượt qua ngàn núi, với sông hề Mới biết chuyện ấy khó mà hiểu May được lão sư chỉ đường mê Nói thẳng chẳng có điều nào si Mặt xưa, gương cổ đã soi hết Nay người giác ngộ thấy được gì. Đem thả gà đen dưới trời tuyết.
35 -Pháp của Động Sơn có hy vọng. Không lâu thanh danh của Cảnh Huyền vang dội. Đó là cảnh giới hư vào thực của thiền cảnh. 79- Cho tôi một đồng. Hòa thượng Bố Đại đứng bên đường, có một ông tăng hỏi : -Ông đứng đây làm gì ? -Chờ một người. -Đến rồi ! Đến rồi ! -Ông không phải là người đó. -Người đó là thế nào ? -Cho tôi một đồng. Chờ người là chỉ cơ; ông tăng còn chấp người nào nên Bố Đại chỉ còn cách xin tiền. 80- Như mèo bắt chuột. Hối Đường hỏi Thảo Đường : -Trong Đàn kinh có nói không phải gió động, cờ động, ông hiểu thế nào ? -Con không có chỗ hạ thủ. Xin sư phụ chỉ dẫn. -Ông đã thấy mèo bắt chuột chưa ? Lúc nó rình bắt, mắt không chớp, cẳng sẵn sàng vồ, tai mắt mũi tâm đều chú ý vào con chuột, đầu đuôi đều hướng về con chuột đó. Cho nên khi hành động thì trăm lần trúng cả trăm. Nếu ông làm được như thế, tâm không nghĩ chuyện khác, mắt, mũi, tai, lưỡi, thân ý tự thanh tĩnh thì tự mình thể ngộ. Thảo Đường y theo pháp đó, một năm sau quả nhiên khai ngộ. Thành bại ở như “toàn thân quán chú”. 81- Đào đất tìm trời. Có ông tăng hỏi Thiện Chiêu : -Khởi nguyên của Đạo là gì ? -Đào đất tìm trời.
36 -Sao làm thế được ? -Hãy nhận thức lẽ huyền. Muốn biết khởi nguyên của Đạo là chấp mê, đi ngược lại Đạo. 82- Về tăng đường hơ lửa. Thiền sư Trùng Hiển thượng đường nói : -Dù nói đến trời long, đất lở, hoa thơm từ trời rơi xuống cũng không bằng về tăng đường hơ lửa. Nói rồi hạ tọa. Chữ nghĩa bó buộc Thiền, càng nói nhiều càng chấp mê, chẳng thà về tăng đường hơ lửa, còn gần thiền hơn. 83- Không thể được vật thật. Một hôm, Bảo Thông đứng hầu Thạch Đầu.Thạch Đầu hỏi : -Ông là tăng tham thiền hay tăng tụng niệm ? -Tăng tham thiền. -Thế nào là Thiền ? -Nhăn mày chớp mắt. -Ngoài nhăn mày chớp mắt ra, ông đưa khuôn mặt xưa nay ra coi. -Bỏ ngoài nhăn mày chớp mắt, thỉnh hòa thượng coi. -Tôi đã trừ rồi. -Con đã trình hòa thượng xem rồi. -Tâm ông thế nào ? -Cùng tâm hòa thượng không khác. -Tâm tôi không quan tâm chuyện của ông. -Tâm hòa thượng không có vật gì. -Tâm ông cũng không có vật gì. -Không có vật gì mới là vật thật. -Vật thật khó được, ông phải giữ gìn. Hai người đối đáp như nước chẩy, đã thấy bản tâm, đã thấy Đạo. Chỉ có trừ bỏ mọi niệm mới thấy được chân tâm.
37 84- Vịt trời bay đi rồi. Một lần, Bách Trượng theo Mã Tổ đi dã hành. Trông thấy bầy vịt trời bay tới. Mã Tổ hỏi : -Con gì vậy ? -Vịt trời. -Bay đi đâu ? -Bay qua rồi. Mã Tổ bóp mũi Bách Trượng, Bách Trượng đau quá kêu lên. -Ông chẳng nói đã bay rồi ư ? Bách Trượng tức khắc tỉnh ngộ. Căn bản của Thiền là vô trú. Vịt trời bay qua, nhưng tâm không thể bay theo vịt trời được. 85- Nở đã lâu rồi. Có ông tăng hỏi thiền sư : -Cây nở hoa chưa ? -Nở đã lâu rồi. -Không biết đã kết quả chưa ? -Đêm qua sương xuống đã rụng rồi ! Nở hoa, kết quả là bản tánh của cây. Nếu chấp kết quả là chấp mê, là vọng tưởng. 86- Tử Hồ có một con chó. Trên bia ở chân núi Tử Hồ có khắc : -Tử Hồ có một con chó, trên cắn đầu, giữa cắn tâm, dưới cắn chân. Nếu do dự sẽ bị chôn thây mất mạng. Lâm Tế thấy 2 ông tăng đến tham, kêu lên : -Coi chừng chó dữ. Hai ông tăng ngoảnh đầu lại, Lâm Tế bỏ về phòng phương trượng. Ở giữa cắn tâm là là vô tâm, là không chấp mê. Thiền sư hét để hai ông tăng quay đầu lại tự ngộ bản tánh.
38 87- Chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng. Có một ngày, Thuyền Tử đậu thuyền ở bờ sông, ngồi nhàn. Có một vị quan nhân hỏi : -Việc hàng ngày của hòa thượng là gì ? Thuyền Tử giơ mái chèo lên hỏi : -Ông hiểu không ? -Không hiểu. -Chèo quậy sóng xanh, cá vàng khó gập. Ngồi nhàn (vô tâm) thì gần thiền cảnh. 88- Còn có giả ngộ không ? Hòa thượng Mễ ở Trường An sai một ông tăng đến hỏi Ngưỡng Sơn : -Người học Thiền hiện nay có cần nương vào quá trình khai ngộ không ? -Người khai ngộ mà nói khai ngộ thì không phải là Phật pháp chân chính. Mễ hòa thượng cho là lời đáp cao minh. Mê và ngộ đều do mình, chìa khóa đã nắm trong tay, chỉ xem mình mở cách nào thôi. 89- Gánh tuyết lấp giếng. Một hôm tự viện dọn cơm trễ. Đức Sơn bưng bình bát đi về tăng đường, thủ tọa Tuyết Phong trông thấy bảo : -Ông già này ! Chuông chưa đánh, trống chưa báo, ông bưng bình bát đi đâu ? Đức Sơn không trả lời, về phòng phương trượng coi như không có gì xẩy ra. Chuyện này đã thành giai thoại thiên cổ. người sau kể chuyện này khen ngợi thái độ của Đức Sơn bằng câu : “Trước theo lối cỏ mà đi, sau theo hoa rụng mà về” Và thêm : “Gánh tuyết lấp giếng”
39 Câu nói trên chỉ tâm không chấp. 90- Gập nóng, lạnh. Có một lần, một ông tăng hỏi Động Sơn : -Lúc nóng, lạnh thỉ đến đâu trú ? -Sao ông không đến nơi không nóng, không lạnh. -Đó là chỗ nào vậy ? -Đó là chỗ nóng làm ông chết thiêu, lạnh làm ông chết cóng. Lạnh, nóng (phiền não) đều do tâm sinh. 91- Sinh tử đến. Có ông tăng hỏi Vân Môn : -Sinh tử đến, làm sao để tránh ? Vân Môn giang hai tay ra. -Ông giao sinh tử cho tôi. Người thiền chân chính không gọi cái gì là sinh tử. Người không bỏ được sinh tử thích nói sinh tử. 92- Hiểu không được. Một ông tăng hỏi Vân Môn : -Người xuất gia chân chính, phải tu sao ? -Không người hiểu. -Sao không để mọi người hiểu ? -Sao ông không hiểu cái không hiểu đó. Cái biết đến từ cái không biết.
40
Quyển Ba Quán Tâm, Thấy Tánh. 93- Thanh tịnh pháp thân. Trên đời này vạn sự đều do tự tánh sinh ra. Làm ác, làm thiện đều do tự tánh cả. Tự tánh vốn thanh tịnh như mặt trời luôn chiếu sáng, nhưng có đám mây đen (vọng tưởng) ở bên dưới che lấp. Trên thì sáng, dưới thì tối. Có một cơn gió (trí tuệ) thổi bay đi đám mây đen thì bên dưới mặt trời lại sáng. Tự tánh vốn thanh tịnh. Vạn vật đều ở trong tự tánh. 94- Mười phương thế giới là tâm ông. Có ông tăng hỏi Trường Sa : -Tâm con có dạng gì ? -Mười phương thế giới là tâm ông. -Nếu tâm con to như thế thì thân con để vào đâu ? Chẳng lẽ không có chỗ an thân sao ? -Đó chính là chỗ an thân. Tâm và thân hợp một là thiền cảnh. 95- Phật tánh của hòa thượng. Có một ông tăng hỏi Ứng Thiên : -Mọi người đều có Phật tánh, Phật tánh của hòa thượng biểu hiện ở đâu ? -Ông gọi cái gì là Phật tánh ? -Vậy lão hòa thượng là người không có Phật tánh? -Chính là thế đó, tôi rất vui. Tứ đại đều không, Phật tánh thường tương tùy.
41 96- Tôi nay được tự tại. Lương Giới hỏi Vân Nham : -Hòa thượng trăm năm rồi, nếu như có người hỏi hình dung như thế nào, thì trả lời làm sao ? -Chỉ là cái đó. Lương Giới không đáp được. Vân Nham lại nói : -Lương Giới à ! Đối với việc này ông phải thận trọng. Về sau Lương Giới qua sông thấy bóng mình dưới nước bỗng nhiên đại ngộ, làm bài kệ : Rất kỵ tìm nơi người Cách xa tôi xa vời Nay, tôi tự tìm tới Mọi nơi đều gập người Người nay chính là tôi Tôi nay đâu phải người Nếu cứ hiểu như thế Là hợp như như thôi. Vô ngã chính là chân ngã. 97- Nói được sẽ mở cửa. Triệu Châu một ngày làm hỏa phu, ông đóng chặt cửa, đốt lửa khói mù, kêu lớn : -Chữa lửa ! Chữa lửa ! Đại chúng chạy tới. -Nói được thì tôi mới mở cửa. Đại chúng không nói được. Nam Tuyền đưa chìa khóa qua cửa sổ. Triệu Châu mở cửa chạy ra. Tự tánh phải tự mình mở. 98- Người mù theo người mù đi trước. Có một ông tăng hỏi Bảo Thông : -Biển khổ sóng lớn dùng gì làm thuyền đi ? -Dùng gỗ.
42 -Vậy được sao ? -Người mù theo người mù đi trước, người câm theo người câm đi trước. Chỉ có tâm mới độ được biển khổ. 99- Tự tánh vốn tự đầy đủ. Có ông tăng hỏi Mã Tổ : -Lý giải thế nào để đạt Đạo ? -Tự mình đã đầy đủ Đạo, chỉ cần không dính thiện, ác; không nắm thiện, bỏ ác, không hướng ngoại tìm cầu thì Đạo không xa. Thiền ở trong tâm, Đạo ngay dước chân. 100- Ngày sau làm Phật. Hoài Hải, lúc nhỏ theo mẹ lên chùa chỉ tượng Phật hỏi : -Đây là cái gì ? -Đây là Phật. -Phật cũng giống người ta, sau này con cũng sẽ làm Phật. Lời con nít là lời nói thật. Huệ Hải từ nhỏ đã có ngộ tánh há sau này không thành Phật. 101- Hôm qua lão tăng bị thiệt. Một hôm, Ngũ tổ Pháp Diễn bảo tăng chúng : -Hôm qua lão tăng vào thành xem trò múa rối, thấy các con rối đi đứng như thật, không cầm được háo kỳ lại gần xem. Thì ra toàn do người điều khiển. Lão tăng hỏi : -Ông tên gì ? -Lão hòa thượng xem múa rối là được rồi, còn hỏi tên làm gì ? Lão tăng nghe nói vậy, không lời đối lại, không lý để cãi, có người nào đáp hộ không ? Hôm qua lão tăng bị thiệt, hôm nay có thể lấy lại không ?
43 Hành động của con người giống như con rối gỗ, đều từ tự tánh mà ra; tự tánh chỉ có thể nhận thức chứ không thể nói ra lời. 102- Như phòng không người. Có một ông tăng già thấy nắng chiếu vào song cửa, bèn hỏi Duy Chính : -Nắng vào song hay song vào nắng ? -Trưởng lão, phòng ông có khách rồi, sao không về tiếp khách ? Ông tăng già còn phân biệt là còn chấp. 103- Hoa sen trên tảng đá, ngọn lửa trong suối nước. Có ông tăng hỏi thiền sư Uẩn : -Thế nào là Thiền ? -Hoa sen trên tảng đá, ngọn lửa trong suối nước. -Thế nào là Đạo ? -Một ngọn cỏ trên đỉnh Lăng già. -Thiền và Đạo khác nhau thế nào ? -Người bùn té xuống nước, người gỗ mò lên. Thiền, Đạo ngộ trong tâm, ở ngoài không thấy, không sờ mó được. 104- Tùy hoàn cảnh. Có ông tăng hỏi Hoằng Thông : -Gia cảnh hòa thượng thế nào ? -Không đáng 5 đồng. -Quá nghèo đi. -Thời cổ cũng thế thôi. -Làm sao chỉ người ? -Nhà giầu khó dạy. Nghèo chỉ tánh không, giầu chỉ “thực”. 105- Người trong mật thất. Có một ông tăng hỏi một lão thiền sư :
44 -Tình cảnh của người trong mật thất thế nào ? -Đã ở trong mật thất còn sợ khách tới sao ? Đã ở trong mật thất không lên tiếng, trừ ông ta ra, ai mà biết ? Chúng ta là người trong mật thất sao ? Trong tâm ta có người trong mật thất à ? Nếu là vậy xin đừng lên tiếng. 106- Ông là Huệ Siêu. Có một ông tăng cầu kiến Pháp Nhãn : -Con là Huệ Siêu, xin hỏi hòa thượng thế nào là Phật ? -Ông là Huệ Siêu. Thấy tâm phàm là thấy Phật. 107- Phi tâm, phi Phật. Có người hỏi Mã Tổ : -Phật là thế nào ? -Phi tâm, phi Phật. -Sao lão sư lại nói tâm là Phật ? -Để dỗ con nít khỏi khóc. -Nín khóc rồi làm sao ? -Phi tâm, phi Phật. Vô tâm là Phật. 108- Tâm các ông động. Ngũ tổ có huệ nhãn truyền pháp cho Huệ Năng. Huệ Năng ở trong núi sâu hơn 10 năm. Một hôm đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu. Trong chùa có 2 ông tăng đang cãi nhau. Một ông cho rằng gió động, một ông cho rằng cờ động. Huệ Năng thấy 2 ông càng cãi càng xa, bèn nói : -Không phải gió động, cũng không phải cờ động , mà là tâm các ông động. Tham thiền là quán tâm, tối hậu đạt tới cảnh giới vô tâm, vô ngã của thiền cảnh.
45 109- Xem hoa như trong mộng. Lục Hằng một hôm hỏi Nam Tuyền : -Triệu pháp sư có nói qua “Trời đất cùng căn với ta, vạn vật với ta cùng một thể”, xin hòa thượng giảng thêm. -Đại phu ! Lục Hằng ngẩng đầu lên. Nam Tuyền chỉ một cây hoa mẫu đơn trong chùa bảo : -Người đời xem hoa này như trong mộng. Người nhìn hoa trong mộng và nhìn hoa thật khác nhau. 110- Quân tử ngàn dậm, đồng phong. Có một ông tăng hỏi Mã Tổ : -Thỉnh đại sư bỏ tất cả khái niệm, giảng cho con ý tổ sư từ tây sang. -Lão nạp hiện giờ rất bận, ông đi mà hỏi Trí Tạng. Ông tăng đi hỏi Trí tạng. -Sao ông không hỏi sư phụ. -Sư phụ kêu tôi đi hỏi huynh. -Vừa khéo, hôm nay tôi nhức đầu, ông đi mà hỏi Hoài Hải. Ông tăng lại đi hỏi Hoài Hải, kỳ thay câu trả lời của Hoài Hải cũng giống như của Mã Tổ : -Ông đến đây mà chẳng được gì. Ông tăng trở về thuật lại cho Mã Tổ nghe, Mã Tổ nói : -Tạng đầu trắng, Hải đầu đen. Nói rồi về phòng phương trượng. Thiền là hiện thực, vượt qua mọi lý luận, nhưng trọng ở thực tế, quý sự đơn giản. 111- Thị giả thuyết pháp. Thiền sư Nhân Dõng lên giảng đàn, chính lúc thị giả châm hương xong. -Thị giả đã nói pháp cho đại chúng rồi.
46 Thị giả thắp hương chính là tự tánh tự dụng, không khác hiện thân thuyết pháp. 112- Học nhân hiểu. Có ông tăng hỏi Duyên Đức : -Thế nào là tâm của cổ Phật ? -Nước, chim, cây rừng. -Con không hiểu. -Đó lại là hiểu. Tâm của cổ Phật là một loại hư vọng. Học nhân tự ngộ tâm mình mới là cảnh thiền chân chính. 113- Xây tháp vô phùng cho lão tăng. Lúc quốc sư sắp mất, Đại Tông hoàng đế đến thăm hỏi : -Lão sư trăm năm rồi, có hy vọng gì không ? -Xây một tháp vô phùng cho lão tăng. -Tháp có hình dạng gì ? Quốc sư im lặng hồi lâu, sau đó hỏi : -Bệ hạ hiểu không ? -Trẫm không hiểu. -Đam Nguyên là pháp tử của lão nạp, biết rõ chuyện này, hãy đi hỏi ông ta. Quốc sư mất rồi, Đại Tông gọi Đam Nguyên hỏi câu nói của quốc sư. Đam Nguyên đọc bài kệ : Phía Nam Tương Châu, Bắc Đàm Châu Trong đó một nước hoàng kim Bóng cây không làm mát thuyền khách Tìm người tri thức như tìm chim. Tháp tượng chưng cho Phật pháp. Hoằng dương Phật pháp cần có hoạt Phật. 114- Đạp trên đầu Phật mà đi.
47 Hoàng đế Tang Tông là một Phật giáo đồ. Có một lần ông hỏi quốc sư Huệ Trung : -10 thân điều ngự là cái gì ? -Thí chủ, đạp trên đầu Phật mà đi. Trẫm không hiểu. -Hãy nhận biết tự thân thanh tĩnh. Biết được tự thân thanh tĩnh, thì ngộ được Phật là cái gì. 115- Phật mặt trời, Phật mặt trăng. Mã Tổ bị bệnh nặng, viện chủ đến hỏi thăm : -Lão sư , gần đây thân thể thế nào ? -Phật mặt trời, Phật mặt trăng. Phật mặt trời dụ cho trường kỳ, Phật mặt trăng dụ cho đoản kỳ. Chỉ cần biết đạo lý sinh tử là đủ. Sinh cũng tốt, tử cũng tốt, đều có giá trị vô cùng. 116- Đầu gậy trăm thước, bước thêm một bước. Trường Sa có làm một bài kệ (nhân đọc công án của Thạch Sương (xem bài 275 trong sách Những đóa hoa Thiền) : Ngồi trên đầu gậy một trăm thước Cảnh giới Thiền tuy là đạt được Nhưng chân lý Thiền có thấy đâu ? Muốn được phải bước, thêm một bước Mười phương thế giới há phải cầu ! Trời và đất cùng một thể. Vô ngã là vong ngã. Trong ngã có tha, trong tha có ngã. Đó là cảnh giới đầu gậy trăm thước, bước thêm một bước. 117- Dùng xọt hứng mưa. Có một lần trời mưa, thiền sư kêu lên : -Nhà giột rồi, mau lấy gì hứng.
48 Có một chú tiểu vội lấy xọt tre mang lại, thiền sư khen cơ phong của chú. Thiền không chứa tâm phân biệt, nếu đã chấp lý thì sẽ chấp vật. 118- Đánh thành một phiến. Hương Lâm trụ trì chùa Hương Lâm 40 năm, 80 tuổi thì viên tịch. Ông từng nói : -Tôi 40 năm qua đã đánh tâm thành một phiến. Đánh thành một phiến là chỉ tâm chuyên nhất. Người tự nhiên tới tự nhiên về. Tham thiền là quá trình trở về. 119- Một, hai, ba. Đủ số. Có một ông tăng hỏi Bản Tịch : -Cổ nhân nói mọi người đều có, con có không ? -Ông chìa tay ra xem. Ông tăng xòe tay ra, Bản Tịch đếm : -Một, hai, ba,bốn, năm. Đủ số. Người người đều có Phật tánh, như tay mọi người đều có 5 ngón. 120- Nhàn thần dã quỷ. Thiền sư Phần Dương một lần bảo đại chúng : -Hôm qua tôi mơ thấy cha mẹ đòi rượu, thịt, bạc tiền, tôi chỉ đành tùy theo phong tục mà làm. Do đó, cúng tế xong ông uống rượu, ăn thịt. Tăng chúng thấy vậy chỉ trích : -Hôm nay mới biết hòa thượng là một ông tăng uống rượu, ăn thịt không có tư cách làm thầy. Nói rồi bỏ đi. Chỉ có Thạch Sương, Đại Ngu và 6, 7 ông tăng ở lại. Về sau Phần Dương cảm khái nói :
49 -Bọn phàm thần dã quỷ này chỉ có một chút rượu thịt và giấy vàng đã ly tán. Các ông có rõ không người trụ trì phải căn chính, cán chính, có một lòng chân thật. Thiền không cần hình thức. 121- Sắc tức là không. Một ngày, có một người mang đến chùa một tấm hình con gái cho Trạch Am xem, tưởng làm khó hòa thượng, không ngờ hòa thượng cười : -Đẹp quá, lão nạp cũng muốn có người đẹp như vậy bồi bạn. Và viết bài kệ : Phật bán pháp, tổ sư bán Phật Chư tăng bán tổ vào thời mạt Có thân thiếu nữ bốn thước cao Diệt hết phiền não tất tần tật. Sắc tức là không, không là sắc Cây liễu mầu lục, sắc hoa hồng Đêm đêm, ao trong ánh trăng chiếu Ảnh không giữ hình, tâm giữ không. Sắc là không là đạo lý mà người đời thường không hiểu. 122- Hoa sen trong bùn. Hòa thượng Vô Tam xuất thân là nông dân. 21 tuổi làm tạp địch. 51 tuổi xuất gia đi tham học bốn phương, sau bái Động Tuyền làm thầy, khắc khổ tu hành. Được Đồng Tuyền truyền cho chánh pháp nhãn tạng. Về sau, theo lời mời của phiên chủ làm trụ chì chùa Phúc Xương, nhưng phiên chủ có một điều kiện quy định người bá tánh không được trụ trì một tự viện nào. Có vị trụ trì đố kỵ Vô Tam bảo phiên chủ : -Người bá tánh làm sao làm trụ trì được ? Mọi người ngạc nhiên, Vô Tam không đổi sắc nói : -Hoa sen mọc trong bùn. Từ đó về sau, phiên chủ toàn tâm quy phục Vô Tam. Xuất xứ không trọng yếu, chỉ xem cư xử thế nào ?
50 123- Mê, ngộ chỉ trong một niệm. Chức Điền đi qua chùa Tùng Âm vào tham bái Bạch Ẩn : -Có thiên đường, địa ngục không ? -Ông là một vị tướng quân có phải không ? Tướng thì phải hỏi chuyện tướng, lắm mồm hỏi chuyện thiên đường, địa ngục làm gì ? -Tôi thành thực thỉnh giáo, sao hòa thượng vô lễ thế ? -Thế nào, ông nổi giận à. Đồ tiểu quỷ. Chức Điền đỏ mặt, định rút kiếm. -Bây giờ tôi có thể bảo cho ông biết : cửa địa ngục đã mở. Chức Điền vội bái tạ. -Cửa thiên đường đã mở rồi ! Có và không chỉ trong một niệm mê, ngộ. 124- Quán Âm ngàn mắt . Đạo Ngộ hỏi Vân Nham : -Quán Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là mắt chánh ? -Giống như người ngủ trong tối không đèn, trong tối sờ cái gối. -Con hiểu rồi. -Ông hiểu thế nào ? -Toàn thân là mắt. Năng lực con người tiềm tàng vô cùng, chỉ cần biết cách phát huy. 125- Lưỡi người sống trong miệng người chết. Có ông tăng hỏi Quy Nhân : -Nếu không đề cập đến tự thuyết tự thoại, làm sao lý giải ? -Lưỡi người sống trong miệng người chết. -Không biết loại người nào hiểu ? -Con trâu không sừng. Không mồm là vô tâm, người ngộ không sừng. 126- Tường Đông đánh tường Tây.
51 Có ông tăng hỏi Quy Nhân : -Thế nào là Linh Tuyền (pháp hiệu của Quy Nhân) ? -Tường Đông đánh tường Tây. -Làm sao qua ngày? -Bỏ cả nồi niêu, không khói lửa. -Làm sao cung dưỡng sớm, chiều ? -Bữa ăn chẳng có cơm, nước suối cũng không đến. Đối với Linh Tuyền tứ đại đều không. 127- Biết mình ngô ngay trước mắt. Thiền sư Tổ Tâm bảo đại chúng : -Có hai hạng người, một người rõ tự kỷ nhưng không rõ trước mắt, đó là người có mắt, không chân; một người không rõ tự kỷ, nhưng rõ trước mắt, đó là người có chân, không mắt. Hai hạng người này trong tâm có một vật làm cho bất an. Đi đâu cũng nghi, không thông. Tổ sư đã chẳng nói qua sao ? Chấp trước được, mất là đi vào đường tà. Bỏ cả xuống cứ thuận theo tự nhiên thì sẽ lìa khỏi sự sai biệt. Mắt thấy là hư, chân bước là thật, chúng ta đang trên đường Đạo. 128- Theo dòng nước. Có ông tăng là học trò của Tế An, lạc đường gập Pháp Thường hỏi : -Hòa thượng ở nơi này bao lâu ? -Bốn mặt núi , xanh lại vàng. -Ra đây thế nào ? -Đi theo dòng nước. Theo dòng nước là theo tâm. Thiền tâm siêu việt thời gian. 129- Có gì khác. Ngưỡng Sơn khi làm tiểu, tiếng nói rất vang. Nhũ Nguyên nói : -Chú tiểu này tụng kinh như khóc. -Con chỉ thế đó, còn hòa thượng thì sao ?
52 Nhũ Nguyên không hiểu ý. -Nếu hòa thượng như vậy thì khóc có khác gì ? Tự tánh không chấp trước. 130- Châm trà lại. Có ông tăng bảo Lịnh Tham : -Một hạt hoàn đơn, điểm sắt thành vàng, một câu chí lý chuyển phàm thành thánh. Con đến trước mặt xin thầy điểm. -Không điểm. -Vì sao không điểm ? -Sợ ông rơi vào phân biệt phàm, thánh. -Xin thầy chỉ thị chân lý. -Thị giả châm trà lại. Minh tâm kiến tánh phải tự mình. Nghững người chưa ngộ muốn điểm, chỉ còn cách bưng trà lại. 131- Quạt tê ngưu. Thiền sư Tế An gọi thị giả : -Mang quạt tê ngưu ra cho tôi. -Quạt rách rồi. -Vậy mang tê ngưu ra đây. Thị giả không trả lời được. Rách và không rách là còn phân biệt. 132- Đầu đồng, cổ sắt. Có ông tăng hỏi Tuệ Giác : -Thế nào là Phật ? -Trưởng giả đầu đồng, cổ sắt. -Là ý gì ? -Trả lại trưởng giả mỏ chim, má cá. Phật là người phổ thông.
53 133- Nhà tự có con cháu. Một hôm, Pháp Đăng bảo Đạo Tề : -Tôi có đối thoại về ý tổ sư từ Tây sang, ông hiểu thế nào ? -Không Đông, không Tây. -Chưa đúng. -Con chỉ hiểu như thế, không biết hòa thượng hiểu sao ? -Nhà tự có con cháu. Đạo Tề minh bạch ý chỉ. Tâm mình phải tự săn sóc. 134- Đạp đổ tịnh bình. Bách Trượng tìm người trụ trì Quy Sơn, để một tịnh bình trên đất, bảo : -Không gọi là tịnh bình, các ông gọi là gì ? Thủ tọa thưa : -Không thể gọi là bình gỗ. Quy Sơn không nói đạp đổ tịnh bình. -Thủ tọa đã thua một quả núi rồi. Quy Sơn đạp đổ tịnh bình là không chấp vào văn tự. 135- Cơ ngữ qua sông. Lương Giới cùng một sư bá qua sông. Lương Giới hỏi : -Qua sông thế nào ? -Không làm chân ướt. -Sư bá già rồi mà còn nói vậy. -Vậy nói làm sao ? -Sao ướt chân được ? Nói ngược suôi, chỉ đã làm chủ được ngã. 136- Chỗ trúú của chân Phật. Có người hỏi Quang Dõng : -Chân Phật ở đâu ?
54 -Tức thời không tướng trạng, nhưng không ở chỗ khác. Không tướng trạng là chỉ tự tánh ở khắp mọi nơi. 137- Không phải là Phật thì là ai ? Có một lần, các vị pháp sư đến thăm Huệ Hải : -Muốn hỏi một câu, thiền sư có trả lời không ? -Ao sâu trăng chiếu, ông mặc sức hỏi. -Thế nào là Phật ? -Đối diện ao trong, không phải là Phật thì là ai ? Đại chúng mang nhiên không hiểu. Mọi người đều có tâm Phật. 138- Toàn thân là bệnh. Có ông tăng hỏi Tào Sơn: -Con bây giờ toàn thân mang bệnh, xin thầy trị cho. -Tôi không trị. -Vì sao không trị cho con ? -Tôi chỉ muốn ông sống không được, chết không xong. Người thiền bị bệnh không ai chữa được, Tào Sơn chỉ đưa ra tâm được. 139- Không đi chỗ khác. Động Sơn hỏi Tào Sơn : -Thầy định đi đâu ? -Tôi không đi chỗ khác. -Nếu không đi chỗ khác, sao có đến đi, có đến đi là có sai biệt. -Đến đến, đi đi không ảnh hưởng gì đến sự tồn tại không sai biệt. Trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, động tĩnh là một, đó là thiền cảnh. 140- Phật cũng là bụi.
55 Có hòa thượng hỏi Vân Môn : -Khi con trừ đi phiền não thì con thấy Phật, con phải làm sao ? -Khi đó ông thấy Phật, thì Phật cũng là phiền não, cũng phải quét đi. Thấy không phải là thật. Đó không phải là Phật thật. 141- Nói ngược lại. Có ông tăng hỏi Vân Môn : -Nếu con bỏ hết tất cả chuyện ở hiện tại, đồng thời bỏ luôn hiện tại thì sao ? -Ông đem tất cả ra đây. Nếu bỏ ngã và hiện tại thì còn nói gì nữa. 142- Chém giun thành hai. Đời Đường, có ông tăng hỏi Nhượng Dương : -Chém giun thành hai đoạn, đầu nào cũng cựa quậy. Vậy Phật tánh ở đầu nào ? Nhượng Dương không trả lời, chỉ dang hai tay. Phật tánh ở tâm, không đâu không ở. 143- Nghiệp thức mang mang. Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn : - Linh hồn của chúng sinh bị ô nhiễm vì không biết Phật tánh và chỗ về, ông có biết nghiệp thức ở đâu không ? -Dĩ nhiên con có phương pháp. Lúc đó có một ông tăng đi qua, Ngưỡng Sơn gọi và ông tăng quay đầu lại. -Thầy coi ! Đó là nghiệp thức mang mang. Trong chốn hồng trần người người đều là cố nhân. Chỉ cần biết ngã, quên ngã, không là ngã thì mới chân chính ra khỏi ba giới. 144- Gọi tên mà ngộ.
56 Lương Toại đến tham Ma Cốc. Ma Cốc thấy Lương Toại đến bèn giơ cuốc lên. Lương Toại bỏ đi. Ma Cốc trở về phòng phương trượng. Ngày hôm sau, Lương Toại lại đến. Ma Cốc lại đóng cửa lại. Lương Toại gõ cửa : -Ai ? -Lương Toại. Khi xưng danh Lương Toại bỗng khai ngộ : -Nếu không đến tham hòa thượng thì đã bị kinh điển làm mê muội rồi. Ma Cốc mở cửa đón Lương Toại, bảo đại chúng : -Mọi người đều biết tôi biết, nhưng chỗ tôi biết thì mọi người không biết. Tự báo danh, bỗng phát hiện tự ngã tiến đến giác ngộ.