ỨNG DỤNG THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀO CUỘC SỐNG I. ĐẶT VẤN ĐỀ: * Thánh Augustine đã nói “Con người đi khắp nơi để kinh ngạc trước những ngọn núi cao ngất, trước những ngọn sóng thần của biển cả, trước những dòng sông dài nhất, trước sự hùng vĩ của biển khơi, sự đẹp đẽ của những vì tinh tú, mà bỏ qua chính mình không một chút băn khoăn”. Theo quan điểm của Phật giáo thì con người và vũ trụ là một, hay nói cách khác con người là một tiểu vũ trụ thu nhỏ. Thật vây: - Trong thế gian thường nói một năm có 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông), chia làm 24 tiết. Vậy trong nhân thể của ta có 24 đốt xương sống, 12 cặp xương sườn, 24 nhịp thở trung bình / mỗi phút. - Mỗi tiết 15 ngày chia làm 3 nguyên (thượng nguyên, hạ nguyên và trung nguyên), nhân với 24 tiết thì mỗi năm có 72 nguyên của thời tiết. Trong lúc đó mạch động trung bình của ta mỗi phút là 72 nhịp (trong tây y gọi là huyết áp). Như vậy nếu ai đập trên 90 nhịp, hoặc dưới 60 là bị bệnh (thấp huyết áp hoặc cao huyết áp), mỗi khi đau ốm là chúng ta biết rằng chúng ta chưa đủ hoặc vượt quá 72 nhịp mạch động trung bình trong mỗi phút, chưa đủ hoặc vượt quá 24 nhịp thở trong một phút. * Vậy cái gì là điểm chung tao nên sự thống nhất giữa con người và vũ trụ, hay nói đúng hơn là sự thống nhất giữa vạn hữu vũ trụ? Theo thuyết âm dương cổ đại thì điểm chung đó chính là KHÍ ÂM và KHÍ DƯƠNG, hay nói cách khác là LƯỠNG NGHĨ, hay là ÂM và DƯƠNG. Trong thuyết âm dương của thì thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh ra vạn hữu vũ trụ trong đó có cả con người và sinh vật. Như vậy bất cứ một vật thể nào trên trái đất dù to hay nhỏ từ núi, sông, ao hồ, trăng, sao, người, động vật, thực vật đều được có một gốc là Âm và Dương. Giữa Âm và Dương luôn luôn có sự tương tác lẫn nhau, hài hoà với nhau, đấu tranh lẫn nhau, không thể có âm mà không có dương và ngược lại không thể có dương mà không có âm. Khi âm phát triển đến cực thịnh thì sẽ bị dương khắc chế và tạo ra một thực thể mới, ngược lại khi dương phát triển đến cực thịnh thì sẽ bị âm khắc chết và tạo ra một thực thể mới. Nói tóm lại âm và dương luôn tác động qua lại lẫn nhau, mọi sự vật hiện tượng tượng muốn tồn tại thì phải cân bằng được âm và dương, ngược lại muốn tiêu giệt hoặc thay thế cái mới thì phải để cho một bên phát triển đến cực thịnh của nó. Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta hãy lấy những ví dụ sau đây: II. VÍ DỤ ÂM VÀ DƯƠNG TRONG ĐỜI SỐNG *1 Trong luồng điện bao giờ cũng phải có 2 cực âm và dương, nếu thiếu một cực thì dòng điện sẽ không phát sáng.
1
*2 Vũ trụ là dương, con người là âm, con người là hình bóng của vũ trụ, họa theo vũ trụ. Và cũng chính cái quan hệ xướng họa này mà con người không thể đứng ngoài các quy luật của vũ trụ. Vì vũ trụ thay đổi (thời tiết chẳng hạn), người nào mà không dung hòa được thì dĩ nhiên là có bệnh ngay. Cho nên người già cả thường hay có bệnh hơn người trẻ vì người già thay đổi chậm không theo kịp sự thay đổi của thời tiết, trong khi đó người trẻ ít bị bênh hơn nhưng thường hay bị bệnh nặng hơn người già vì người trẻ linh hoạt theo sự thay đổi đó nhưng đôi lúc thay đổi vượt quá giới hạn. Ngược lại khi con người thay đổi, tác động đến môi trường thì vũ trụ cũng thay đổi theo tạo ra lũ lụt, bão, động đất, núi lửa …. Nói tóm lại, con người muốn sống tốt thì phải sống thuận theo tự nhiên, không nên phá vỡ quy luật của tự nhiên. *3 Cũng tương tự như vậy thì tâm linh (tinh thần) là dương, xác thịt là âm, hai cái đó không tách rời ra nhau được. Vì vậy mọi hoạt động của xác thịt sẽ ánh xạ lên tâm linh. Mọi hành động tốt hay xấu của ta đó đều được ánh xạ và chiếu rọi lên tâm linh (tâm thức). Cuộc sống vật chất ta đang sống thuộc về thế giới dương, thế giới vô hình (người đời thường gọi là địa ngục, quỹ sứ, thiên đường, thần, thánh, bồ tát, phật ..vv..) thuộc về thế giới âm. Người nào biết dung hoà giữa hai thế giới này thì thành công bền vững, ngược lại ai chỉ thiên về một thế giới đều có nguy cơ đi tới chỗ thất bại. Ví dụ những người quá coi trọng vật chất có thể trở nên giàu có nhưng dần dần sẽ khô cằn, nghèo nàn tình cảm .... dẫn tới chỗ điên loạn, tù tội, bệnh hoạn. Ngược lại những kẻ quá dấn sâu vào thế giới vô hình sẽ trở nên mộng tưởng điên đảo, mê tín dị đoan và dần dần cũng trở nên tẩu hoả nhập ma. Theo thống kê thì, hầu hết những người thành công và giàu có trên thế giới, thì họ luôn luôn biết cân bằng giữa cuộc sống vật chất và cuộc sống tâm linh như làm từ thiện, kính Chúa, tôn Phật, luôn hướng về tổ tiên và những người đã khuất.... *4 Nam là dương, nữ là âm, nam và nữ khác nhau nhưng không thể thiếu nhau. Trong một tổ chức, nếu quá nhiều nam cũng không tốt, mà quá nhiều nữ cũng không tốt. Nam và nữ cân bằng thì mới tốt. *5 Nóng giận là dương, nhu mềm là âm. Khi chồng nóng thì vợ phải mềm (cơm sôi bớt lửa) thì mọi việc ổn thoả, ngược lại vợ cũng nóng theo thì đổ bể ngay, vì lúc đó là dương quá thịnh. *6 Bệnh tật là âm, khoẻ mạnh là âm, cho nên trong thức ăn có những thứ bổ dương và bổ âm. Chính vì thế, ngay trong cái triết lý âm dương này mà ông OSAWA người Nhật mới chế ra món ăn âm dương tương hợp là món “gạo lứt muối mè” có thể chữa được mọi bệnh tật. Ai mà bị bệnh có nặng mấy đi nữa, chỉ cần ăn gạo lứt muối mè trong suốt 21 ngày thì có thể chấm dứt hoặc chuyển nặng thành nhẹ. Trong gạo lứt thì dương nhiều hơn, còn gạo trắng thuộc về âm. Nấu trong nồi đất thì thuộc về dương, nấu trong nồi nhôm thì thuộc về âm. Người bị bệnh nặng, chỉ cần 21 ngày ăn toàn là các món dương, sau 21 ngày mới thêm các món âm vào (như rau luộc) để âm dương tương hợp. Ăn dương không là để trị bệnh, còn ăn thêm âm vào là để cho âm dương tương hợp. Ví dụ buổi sáng ăn một cũ cà rốt (thuộc về dương), và một củ khoai 2
tây (thuộc về âm). Cho nên đối với người bình thường thì bửa ăn nào mà chúng ta thấy khỏe khoắn tức là bửa ăn đó âm dương hòa hợp, dương xướng âm họa. Còn bữa nào ăn nhiều đồ dương thì hơi mệt, ăn nhiều đồ âm thì hơi khó chịu. Ví dụ cũ mì thuộc về dương, khoai lang thuộc về âm, cho nên người dương tính mà ăn khoai lang thì được không bị nóng cổ, còn người âm tính mà ăn khoai lang vào là bị nóng cổ. Cũng như vậy, người dương tính mà ăn cũ mì vào sẽ bị nóng cổ, nhưng người âm tính thì không. Do đó trong một bửa ăn, nếu biết dung hợp được âm và dương thì luôn luôn khỏe mạnh. Chất ngọt là thuộc về âm, những cái nào ngon là thuộc về âm, những cái dở lại thuộc về dương, nhưng con người lại thường thích ăn ngon. Con người khi đang bệnh thường là thừa âm mà lại toàn ăn ngon vào tức là càng bệnh nặng. Vì vậy ăn uống nó cũng là điều hòa cuộc sống, biết món nào âm, món nào dương, ăn thời điểm nào … thì hợp lý. Ví dụ cam là thuộc về âm, chanh thuộc về dương, buổi sáng và trưa là thuộc về dương, buổi chiều và tối lại thuộc về âm. Vì vậy cam thuộc về âm mà ăn buổi sáng hoặc trưa thì tốt, còn ăn buổi chiều và tối thì lại không tốt. Cho nên ăn trái cây mà không biết cái nào âm dương thì rất khó chịu. Về vấn đề này có một bảng phân chia cụ thể cái loại thực phẩm âm và dương để quý vị biết mà sử dụng. *7 Về lĩnh vực chính trị, trên thế giới hiện nay, người ta phân biệt các nước tư bản chủ nghĩa với các nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên tiêu chí: các nước tư bản chủ nghĩa nhằm thu được lợi nhuận tối đa, còn các nước xã hội chủ nghĩa lại nhằm đạt được hạnh phúc tối đa cho nhân dân. Nhưng trong thực tế, các nước tư bản chủ nghĩa đều có những chính sách đảm bảo phúc lợi cho nhân dân của họ, còn phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa đều đã phải đi theo nền kinh tế thị trường. Đó là những trường hợp không cực đoan. Nhưng cũng có những trường hợp cực đoan. Đó là trường hợp nước Đức phát xít, theo đuổi một lý tưởng sai lầm, tàn sát nhân dân thế giới và sau đó đã bị tiêu diệt. Đó là trường hợp âm tính cực đoan. Cũng có trường hợp dương tính cực đoan như Bắc Triều Tiên, hoàn toàn không chấp nhận cơ chế thị trường nên kinh tế đất nước suy sụp, ngoại giao bị cô lập, và khó có thể kéo dài mãi như thế được. Các nước có chế độ không cực đoan, cả âm tính (tư bản chủ nghĩa hiện nay) và dương tính (xã hội chủ nghĩa hiện nay) đều có thể tồn tại lâu dài vì đều không vi phạm qui luật âm dương (không đi đến cực đoan). Trên thực tế, muốn kinh tế phát triển nhịp nhàng thì phải đi bằng hai chân: một mặt phải dùng cơ chế thị trường để giàu lên càng nhanh càng tốt, mặt khác phải luôn luôn chú trọng nâng cao phúc lợi của nhân dân. Trong hai mặt này, bất cứ một mặt nào bị lãng quên cũng đều dẫn đến bế tắc, đình trệ. Còn nếu cả hai mặt đều được chú ý đúng mức, thì dù tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa cũng đều có thể phát triển được. Bởi vậy, việc phân biệt các nước thành tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa về khía cạnh nào đó chỉ có tính chất chủ quan, bởi lẽ các nước xã hội chủ nghĩa chưa chắc đã có một nền tảng phúc lợi xã hội bằng nhiều nước tư bản chủ nghĩa. *8 Thuận lợi là thuộc về dương, không thuận là thuộc về âm, vui vẻ thuộc về dương, buồn phiền thuộc về âm. Do đó khi nào gặp thuận lợi thì con người vui vẻ , không thuận lợi thì làm cho con người buồn phiền. Âm thì lúc nào cũng ủ rụ, mà 3
dương thì lúc nào cũng sảng khoái. Hai cái này cũng tương quan với nhau. Nhưng trong cuốc sống thì trong âm có dương, trong dương có âm, nghĩa là cái thuận lợi và không thuận lợi luôn xen kẻ nhau tạo thành một đồ thị hình sin không ngừng nghĩ. Chính vì vậy, Phật đưa ra 10 điều tâm niệm sau đây: 1. Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh tật, vì không bệnh tật thì tham dục vọng dễ sinh. 2. Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn thì kiêu sa nổi dậy. 3. Cứu xét tâm tính thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. 4. Sự nghiệp đừng cầu không chông gai, vì không chông gai thì chí nguyện không kiên cường. 5. Làm việc đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng thị thường , kiêu ngạo. 6. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. 7. Với người thì đừng mong thuận chiều ý mình, vì thuận chiều ý mình thì tất sinh tự kiêu. 8. Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu tính. 9. Thấy lợi đừng nhúng tay , vì nhúng tay thì hắc ám tâm trí. 10. Oan ức không cần bày tỏ vì bày tỏ là hèn nhát, mà trả thù thì oán đối kéo dài. *9 Cho nên âm mà cực thì sinh dương, dương cực thì sinh âm. Cho nên con người mà hưng thịnh quá thì đến chỗ đau buồn, mà hễ đau buồn cùng cực quá thì nó sẽ đến giai đoạn vui sướng. Như thế mọi sự thái quá đều dẫn đến mặt phản diện của vấn đề, đó là nguyên lý phản phục. Cho nên Đông Y chữa bệnh theo kinh dịch, do 2 nguyên nhân chủ yếu: một là khí vượng (dương cực) dẫn đến bệnh thực chứng (khó tiêu), hai là khí suy (âm cực) dẫn đến bệnh hư chứng (con người suy bại, mệt mỏi). Như vậy là nó có hai nguyên nhân khí vượng và khí suy. *10 Ăn uống và làm việc không điều độ không những sinh ra bệnh tật mà còn làm méo mó cái diện mạo, nghĩa là diện mạo không điều hòa nên cái gương mặt trông rất khó chịu. Vì vậy có người mới 30 tuổi mà da đã nhăn, nhưng ngược lại có người 70 tuổi da vẫn rất đẹp. Do vậy mà khi các ông bác sĩ mà khám bệnh cho các vị chân tu, họ đều nhận xét rằng những người tu hành thì các bộ phận trong cơ thể rất khác với người thường. Nói cách khác ăn uống, làm việc không điều độ hay mọi thái độ cực đoan, mê tín, cuồng tín đều mang đến một sự hết sức tai họa.
4
*11 Cho nên sự cân bằng âm dương chỉ là một trạng thái tĩnh nhất thời (gọi là cân bằng tĩnh), còn sự mất cân đối âm dương chính là động lực của mọi tiến hóa (cũng gọi là cân bằng động). Ví dụ ngày và đêm là nhờ sự cân bằng động của trái đất xoay quanh chính mình, 4 mùa xuân hạ thu đông là cân bằng động của quả đất trong hệ mặt trời. Sự thịnh và suy là các thời đại của cân bằng động của sự tiến hóa cộng đồng. Hễ có thịnh thì có suy, có suy thì có thịnh. *12. Trong cơ thể con người chúng ta là một tổng thể gồm cả âm và dương vừa tương khắc, tương đồng và tương hòa với nhau. Nước bọt là có tính kiềm (dương), các dịch vị của dạ dày, mật mang tính dương, các dịch của ruột lại là tính âm. Như vậy khí chạy trong các đường kinh chính theo trình tự của âm dương và luân phiên nhau như sau: tiểu trường, bàng quang là kinh dương, thận và tam bào là kinh âm, tam tiêu và đờm là kinh dương, Cho nên đức Xạc - Đin nói: khi lên đến đỉnh cao huy hoàng thì chúng ta sẽ quay trở lại với cái bình thường của nó. Giống như khói của Lôi Sơn, sóng của Triết Giang, ai chưa đên đó thì hậm hực trong lòng muốn thấy cho được cái khói và cái sóng đó. Nhưng khi đã đến rồi thì cũng chẳng có gì khác. Cho nên có những người từ nhỏ mong muốn làm vua, khi làm vua rồi thì muốn trở lại làm dân. TÀI NĂNG LÀ MỘT PHÉP NHÂN: CỐ x SỐ = CỐ ĐÚNG CÁI SỐ RÈN x GEN = RÈN ĐÚNG CÁI GEN THIÊN PHÚ x TU LUYỆN = THIÊN PHÚ NHƯNG PHẢI TU LUYỆN III. VÍ DỤ ÂM DƯƠNG VÀ Y HỌC * ÂM DƯƠNG VÀ ĐÔNG Y Trong cuốn Y gia quan niệm, HảI Thượng Lãn Ông nói: "Học Kinh Dịch đã rồi mới nói tới chuyện làm thuốc nhưng nói học Kinh Dịch không phải là học những quẻ, những hào, những từ của Kinh Dịch mà cần học để biết quy luật biến hoá của âm dương, quy luật sinh khắc của ngũ hành tựa như chiếc vòng không đầu không cuối. Vì bệnh tật phát sinh ra đều do sự thịnh suy của âm dương và do sự thắng phục của Ngũ hành. Nghề làm thuốc đâu có thể vượt ra ngoài nguyên lý của âm dương - Ngũ hành mà cứu chữa được những bệnh tật nguy nan”. Theo ông, cơ thể con người không chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên, mà bản thân nó cũng là một khối thống nhất. Khi mới sinh ra, con người vốn không có bệnh tật, nhưng trong quá trình tồn tại và sinh hoạt, các mặt âm dương, khí huyết trong cơ thể con người trở nên "thiên lệch" thì bệnh tật bắt đầu nảy sinh. Xuất phất từ cách nhìn đó, Lãn ông đã xây dựng lý thuyết điều trị chủ về Thuỷ hoả rất nổi tiếng dựa trên những nguyên tắc căn bản được thể hiện trong Kinh Dịch. Theo ông, Thuỷ hoả là gốc sinh ra con người, Thuỷ hoả phải cân bằng mà không nên chểnh lệch, nên giao hợp mà không nên phân chia. Đó là 5
nguyên tắc tương giao tương hợp giữa Thủy và Hoả trong giới tự nhiên mà cả Kinh Dịch và Nội kinh đều phải thừa nhận. Trong quan niệm về Thuỷ hoả, ông còn cho rằng, hai quả thận trong cơ thể con người ta đã hợp lại thành một "Đồ thái cực”. Hai quả thận đều thuộc hành Thủy, bên trái là âm thủy, bên phải là dương thủy, giữa là "Đồ thái cực", là "mệnh môn", là cửa ngõ của sinh mệnh thuộc Hoả (nằm trong tạng thủy). Ông nói: "Người không có hoả ấy thì không thể sống được". Dựa trên quan niệm Thuỷ hoả hay quan niệm tâm thận như trên, ông đã đề ra một đường lối tổng quát về điều trị bệnh tật nói chung, đó là đường lối bổ thận. Ông đã sử dụng hai bài bổ thận trong cổ phương là “Lục vị" và "Bát vị" để điều chỉnh âm dương (Thuỷ hoả). Nhờ đó, ông đã điều trị có hiệu quả nhiều bệnh hiểm nghèo. Sự linh nghiệm của phương pháp bổ thận mà ông đề ra đã làm cho ông tâm đắc trong đời làm thuốc. Ông viết: “Bách bệnh đều gốc ở tạng thận". 1. ÂM DƯƠNG VÀ CƠ THỂ a) Trên là âm, dưới là dương Theo cách phân chia này thì Đầu là âm và chân là Dương. Thực tế cho thấy, đầu (cụ thể là trán) sờ vào lúc nào cũng thấy mát và chân (dưới) luôn thấy ấm. Khi cơ thể bệnh (có rối loạn thăng bằng âm dương) thì đầu (phía trên) sờ vào thấy nóng (trán nóng, mắt đỏ, mặt đỏ bừng...) thay vì mát, và chân (phía dưới) thấy lạnh (ẩm, ra mồ hôi, đau ê ẩm...) thay vì nóng. Cách chữa bệnh đơn giản nhất là dùng khăn lạnh đắp vào trán (thêm âm vào để đẩy dương ra) hoặc ngâm chân vào nước nóng (thêm dương vào để đẩy âm ra). Cách điều trị trên chủ yếu nhằm thực hiện lại thế quân bình (điều hòa âm dương) đã bị xáo trộn vì bệnh gây ra, vì thế, đã có một nhận xét hết sức lý thú: "Hãy giữ cho đầu bạn mới mát (âm) và chân bạn luôn ấm (dương) thì bạn sẽ không cần đến thầy thuốc". Theo các nhà nghiên cứu : Ở tư thế nằm, đầu thấp, chân cao sẽ dễ nhớ và tiếp thu nhanh hơn, họ cho rằng vì máu dồn về não giúp não làm việc tốt hơn. Có thể hiểu như sau: Máu (âm) dồn về đầu (âm) tức tăng thêm âm, giúp cho dễ nhớ hơn. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng ở tư thế này rất dễ buồn ngủ, vì âm mang tính tĩnh. b) Bên trái là Dương, Bên phải là Âm Vấn đề quy định bên phải, bên trái thuộc Âm hay Dương, chưa có tài liệu nào nghiên cứu 1 cách sâu xa và giải thích thỏa đáng. Tuy nhiên, dựa vào 1 số công trình nghiên cứu và quan sát tự nhiên, ta thấy : - Khi khởi động 1 cách tự nhiên, hầu như bao giờ chân trái cũng khởi động trước. Theo các nhà nghiên cứu, khi chuyển động trái đất tạo nên 1 dòng điện gọi là địa từ lực lôi cuốn mọi vật - Địa từ lực này mang đặc tính âm. Theo nguyên tắc vật lý, 2 vật cùng tên đẩy nhau, khác tên hút nhau. Lực của trái đất là âm, do đó sẽ hút lực dương, vì thế có thể coi như chân trái mang đặc tính dương. - Theo giáo sư Hirasawa, chuyên viên nghiên cứu sinh lý học thể dục Trường đại học bách khoa Tokyo, sau 35 năm chuyên nghiên cứu về bàn chân đã nhận xét 6
rằng : "từ 6-50 tuổi, diện tích tiếp xúc mặt đất của chân trái phái nam và nữ đều lớn hơn so với chân phải và diện tích tiếp xúc với mặt đất khi đứng của bàn chân trái lớn hơn. Thời gian chạm đất khi đi phía bên trái cũng nhiều hơn. Cảm giác ổn định khi đứng 1 chân bằng chân trái cũng tốt hơn. Vết chân người cổ đại cách đây 3000 năm cũng cho thấy vết chân trái in sâu hơn xuống đất hơn là chân phải. Các vận động viên, diễn viên... cũng đều dùng chân trái làm trục chống đỡ cơ thể, còn chân phải dùng để biểu diễn các động tác". - Các vận động viên điền kinh, đua xe, chạy... bao giờ cũng phải rẽ về bên trái. - Hình ảnh người chèo đò cho thấy, bao giờ mái chèo cũng nằm bên trái. - Bác sĩ Nogier (tác giả môn châm trị liệu loa tai), khi nghiên cứu về 2 bình tai cũng đã nhận xét : "Với các nhà châm cứu, Nhâm mạch (quản lý các kinh Âm) nằm trên bình tai Phải, của người thuận phải và Đốc mạch (thống xuất các kinh Dương), nằm trên bình tai Trái (Pour les acupuntures le RenMo se trouve sur le tragus droigt du droigtier, le Tu Mo sur le tragus gauche)". - Viện vật lý và sinh hóa ở Leningrat (Liên Xô) khi tiến hành thí nghiệm về độ nhạy của tai người đã nhận thấy rằng: tai trái nhạy cảm hơn tai phải. Qua các nhận xét trên, tạm thời nêu lên nhận định là bên trái thuộc Dương và bên phải thuộc Âm. Điều này rất có giá trị trong việc điều trị bằng châm cứu khi phải chọn huyệt để châm. c) Trong (bụng, ngực) là Âm, Ngoài (lưng) là Dương Thiên 'Ngũ Tạng Sinh Thành Luận' (TVấn 10) ghi : "Phù ngôn chi Âm Dương, Nội vi âm, ngoại vi Dương, Phúc vi âm, Bối vi Dương" (Nói về Âm Dương, trong thuộc âm, ngoài thuộc dương, bụng thuộc âm, lưng thuộc dương). + Ngay từ trong bào thai, sự sắp xếp theo thứ tự trên cũng khá rõ: Bào thai nam, dương khí tụ ở lưng nên thường quay lưng ra, do đó, bụng người mẹ thường có dạng tròn và cứng. Trái lại, bào thai nữ, âm khí tụ ở ngực nên thường quay mặt ra ngoài, do đó bụng người mẹ thường có dạng hình bầu dục (gáo nước) và mềm. + Hình ảnh người chết đuối trên sông cho thấy, xác nam bao giờ cũng nằm sấp vì dương khí tụ ở lưng, còn xác nữ bao giờ cũng nằm ngửa vì âm khí tụ ở ngực. d) Âm Dương và Tạng Phủ + Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" ghi : "Lục phủ giai vi dương, Ngũ tạng giai vi âm" (Lục phủ thuộc dương, Ngũ tạng thuộc âm). Như thế Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thuộc âm, còn Tiểu Trường, Đởm, Vị, Đại Trường, Bàng quang, Tam Tiêu thuộc dương. Tâm Bào, được coi như 1 tạng mới, do đó thuộc âm. + Giáo sư Ohsawa (tác giả phương pháp dưỡng sinh, người Nhật), trong sách "Phương Pháp Dưỡng sinh", lại có 1 số nhận xét hơi khác trong việc phân chia Tạng phủ và Âm Dương. Theo đó, Tâm, Can, Thận thuộc dương (thay vì thuộc âm) còn Phế, Vị thuộc âm. Ohsawa cho rằng Tim, Gan và Thận có hình dáng đặc và nặng nên thuộc dương, còn Phổi và Dạ dầy rỗng, nhẹ nên thuộc âm. 7
Có gì mâu thuẫn giữa 2 quan điểm phân chia Âm Dương giữa sách Nội Kinh và Ohsawa không " Sách Nội Kinh là sách kinh điển, tích chứa kinh nghiệm bao đời của người xưa, Gs. Ohsawa là nhà nghiên cứu có tiếng trên thế giới, như vậy cả 2 quan điểm đều có lý do của nó. Có thể tạm hiểu như sau : Theo "Kinh Dịch", mỗi vật thể, hiện tượng... đều do 2 yếu tố : THỂ (hình thể) và DỤNG (công dụng, chức năng) tạo nên. Một vật nào đó, có thể có hình dạng (thể) là âm nhưng lại có công dụng là dương hoặc ngược lại, Thể là dương nhưng Dụng là âm. Thí dụ : Tạng Tâm, xét về hình thể là 1 quả tim, đặc nặng, nên mang đặc tính dương tức là dương về Thể, nhưng Tâm lại có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn cơ thể, máu thuộc âm, do đó Tâm mang đặc tính âm xét về Dụng. Thí dụ : Quả Ớt, xét về hình thể, quả ớt có màu đỏ, do đó thuộc dương, nhưng ớt có vị cay, khi vào ruột, làm nở các mao trạng ruột, tiêu thức ăn nhanh, như vậy, ớt có đặc tính âm nếu xét về công dụng. TÓM LẠI: Các hình thức chữa bệnh như uống thuốc, ăn uống, châm cứu, ngồi thiền, tâm năng dưỡng sinh, tập Yoga, .... đều nhằm một mục đích là điều hoà khí âm và khí dương trong cở thể để đưa cơ thể về trạng thái cân bằng âm dương. Tuy nhiên không phải ai cũng làm được vấn đề này. * ÂM DƯƠNG VÀ TÂY Y: Nguyên lý âm và dương trong tây y thể hiện rõ nét và tận gốc trong từng tế bào. Mỗi một cở thể con người được cấu tạo bằng hàng trăm ngàn tỷ tế bào, trong mỗi tế bào cũng tồn tại hai dạng: điện tích âm và điện tích dương. Cơ thể khoẻ mạnh khi tế bào khoẻ mạnh, tế bào khoẻ mạnh khi điện tích âm và điện tích dương cân bằng nhau. Vậy cơ thể khoẻ mạnh hay ốm yếu đều do sự mất cân bằng âm dương trong từng tế bào. Điều này đã được minh chứng qua 3 giải Nobel thế giới, và cụ thể hoá chính là máy cân bằng ION để chữa bệnh. ...................................... Đây là phương pháp chữa bệnh tiên tiến nhất trên thế giới vì hiệu quả và đặc biệt đơn giản, ai cũng làm được.
8