CHƯƠNG 1 NHẬP MÔN CƠ THỂ HỌC VẬN ĐỘNG 1.1 Cơ thể học vận động Cơ thể người là toàn bộ cấu trúc vật lý của một con người, cơ thể người bao gồm đầu, thân và tứ chi (chi trên và chi dưới), chiều cao trung bình của một người trưởng thành là khoảng 1,7 m, kích thước này được quyết định chủ yếu bởi các gen di truyền. Hình dáng và thể trạng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như chế độ dinh dưỡng và thể dục hay hoạt động hàng ngày. Khi con người đạt đến tuổi trưởng thành, cơ thể có khoảng 75 ngàn tỉ tế bào, mỗi tế bào là một phần của một cơ quan được thiết kế để thực hiện các chức năng sống thiết yếu, các hệ cơ quan của cơ thể bao gồm: hệ vận động, các hệ mạch (hệ tuần hoàn, hệ bạch huyết), hệ miễn dịch, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, hệ thần kinh, hệ nội tiết và hệ sinh dục nam hoặc nữ, các cơ quan khác nhau có cùng một chức năng tạo thành một hệ cơ quan. 1.1.1 Sự phối hợp của các cơ quan Cơ thể người là một khối thống nhất, sự hoạt động của các cơ quan trong một hệ cũng như sự hoạt động của các hệ cơ quan trong cơ thể đều luôn luôn thống nhất với nhau. Ví dụ: khi chạy, hệ vận động làm việc với cường độ lớn. Lúc đó, các hệ cơ quan khác cũng tăng cường hoạt động, tim đập nhanh và mạnh hơn, mạch máu dãn (hệ tuần hoàn), thở nhanh và sâu (hệ hô hấp), mồ hôi tiết nhiều (hệ bài tiết). Điều đó chứng tỏ các hệ cơ quan trong cơ thể có sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng, đảm bảo tính thống nhất. Sự thống nhất đó được thực hiện nhờ sự điều khiển của hệ thần kinh (cơ chế thần kinh) và nhờ dòng máu chảy trong hệ tuần hoàn mang theo các hormone do các tuyến nội tiết tiết ra (cơ chế thể dịch). 1.1.2 Tính thống nhất của cơ thể người
Cơ thể người cũng như mọi động vật là một khối thống nhất, bao gồm rất nhiều cơ quan, hệ cơ quan khác nhau. Mỗi cơ quan đảm nhận một nhiệm vụ riêng, nhưng tất cả đều được cấu tạo bằng các tế bào, nên tế bào được coi là đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể sống. Các tế bào tồn tại, luôn luôn đổi mới thành phần, lớn lên và phân chia là do thường xuyên được cung cấp các chất dinh dưỡng dưới dạng các hợp chất đơn giản, nhờ đó các tế bào có thể tổng hợp nên những chất phức tạp cho từng cơ quan và cơ thể (quá trình đồng hóa) với sự tham gia của các hệ en-zim có trong tế bào. Chính những hợp chất đơn giản này lại là kết quả của quá trình biến đổi những hợp chất phức tạp có trong thành phần thức ăn lấy ở môi trường ngoài nhờ các cơ quan tiêu hóa. Trong quá trình hoạt động của các tế bào (co rút của tế bào cơ, tiết của tế bào tuyến, truyền hưng phấn của tế bào thần kinh, hoạt động đổi mới thành phần của tế bào,...) đòi hỏi phải tiêu dùng năng lượng. Nguồn năng lượng này chính là do quá trình ô-xi hóa các hợp chất tích năng lượng có trong thành phần của tế bào cung cấp (quá trình dị hóa), nhờ ô-xi của không khí bên ngoài được cơ quan hô hấp tiếp nhận theo dòng máu và thông qua nước mô tới tận các tế bào. Kết quả của quá trình dị hóa, một mặt tạo ra năng lượng, nhưng mặt khác cũng tạo ra các sản phẩm phân hủy, không cần thiết cho cơ thể, thậm chí còn có hại. Cuối cùng các chất này sẽ được thải ra ngoài qua các cơ quan bài tiết (thận, phổi, các tuyến mồ hôi,...). Sự vận chuyển các chất dinh dưỡng do cơ quan tiêu hóa cung cấp cùng O2 từ cơ quan hô hấp tới các tế bào đảm bảo cho quá trình đồng hóa và dị hóa ở tế bào, đồng thời chuyển các sản phẩm phân hủy từ tế bào đến các cơ quan bài tiết theo dòng máu là nhờ các cơ quan tuần hoàn. Như vậy, hoạt động của các cơ quan trong cơ thể không biệt lập mà phối hợp, ăn khớp với nhau một cách nhịp nhàng để thực hiện một quá trình sinh lí cơ bản, đó là quá trình trao đổi chất ở phạm vi tế bào, giữa tế bào với môi
trường trong cơ thể (máu, nước mô và bạch huyết) để đảm bảo cho quá trình đồng hóa và dị hóa (quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng) ở trong tế bào có thể được thực hiện một cách liên tục. Các quá trình trên thực hiện được lại nhờ chính sự trao đổi chất với môi trường ngoài thông qua các cơ quan tiêu hóa, hô hấp, bài tiết và nhờ cơ quan tuần hoàn làm môi giới trung gian. Sự thay đổi hoạt động sống của cơ thể liên quan đến sự tăng giảm nhu cầu vật chất và năng lượng của các tế bào, từ đó sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của các cơ quan của cơ thể. Điều khiển, điều hòa và phối hợp hoạt động của các cơ quan trong đời sống của cơ thể cho phù hợp với sự thay đổi hoạt động từng lúc, ở từng nơi, phù hợp với nhu cầu trao đổi chất của cơ thể là do hệ thần kinh đảm nhiệm, thực hiện bằng cơ chế phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện (ảnh hưởng thần kinh) và có sự tham gia, hỗ trợ của các tuyến nội tiết (ảnh hưởng thể dịch) trong sự điều hòa hoạt động của các cơ quan, đảm bảo cho cơ thể là một khối thống nhất toàn vẹn. Ngoài ra, còn có các cơ quan sinh sản thực hiện chức năng duy trì nòi giống, đảm bảo cho sự tồn tại của loài thông qua quá trình thụ tinh, thụ thai, mang thai và sinh con, nuôi dưỡng con (bằng sữa).
CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẨU SINH LÝ CƠ THỂ HỌC VẬN ĐỘNG 2.1 Khái niệm Giải phẫu học (Anatome) là môn khoa học nghiên cứu hình thái và cấu trúc của cơ thể người, mối liên quan của các bộ phận trong cơ thể với nhau cũng như tương quan của cơ thể với môi trường (Ví dụ: nghiên cứu về xương, khớp xương, cơ, não, tim….v.v). Giải phẫu theo tiếng Hy Lạp: Anatome (Ana: phân tích ra và tome: cắt). Nghĩa là “cắt ra” hoặc “cắt liên tiếp nhiều lần”. Nói theo ngôn ngữ hiện nay là “phân tích”. 2.2 Đại cương về hệ vận động (Hệ xương, khớp, cơ) - Vận động là một trong những hình thức cảm ứng chủ yếu của động vật với môi trường. - Vận động có thể là sự di chuyển vị trí của một bộ phận hoặc có thể là sự di chuyển của toàn bộ cơ thể trong không gian do sự hoạt động của các cơ quan vận động. Chính nhờ các hình thức vận động mà động vật có thể tiến hành trao đổi chất, lao động tự vệ, duy trì và phát triển nòi giống. Vì vậy cơ quan vận động đối với động vật nói chung và đối với cơ thể người nói riêng là vô cùng quan trọng. - Vận động là do xương làm đòn bẩy, khớp xương làm điểm tựa và cơ bắp sản sinh ra lực tác động vì cơ có đặc tính co rút được. Cơ co rút sinh ra công. Tốc độ co rút cơ của các loài động vật khác nhau thì cũng khác nhau. Ví dụ: Rùa 1 lần/giây; ếch 5 lần/giây; ruồi, ong 300 lần/giây; người ở mức trung bình so với các loài trên. - Các hình thức vận động ở các động vật khác nhau cũng có sự khác nhau: Ở cá sự vận động chủ yếu là do cột sống. Cơ bắp phát triển chủ yếu là các cơ thân mình, các khớp xương đều nằm ở cột sống. Xương sống có nhiều
khớp, cơ phân bố theo các đốt sống đó. Còn sự vận động của người chủ yếu là dựa vào tứ chi. Vì vậy cơ bắp tứ chi rất phát triển. Xương tứ chi chủ yếu là các xương đai, khớp xương rất linh hoạt, cơ phân hóa rất cao, sức co rút rất lớn. Do vậy hệ vận động chiếm phần lớn trọng lượng cơ thể (70%). - Ở một cơ thể toàn vẹn thì hệ cơ quan vận động đều có sự điều khiển của hệ thần kinh để thực hiện mọi chức năng vận động. Chính do chức năng này giúp cơ thể thích ứng được với môi trường bên trong và bên ngoài. Sự thích ứng này chính là những phản xạ vận động (Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện). - Cơ quan vận động bao gồm hệ thống tổ chức tế bào tham gia vào bộ phận thực hiện cung phản xạ. Ở người, cơ quan vận động bao gồm:
Neuron vận động và đuôi trục của nó chạy đến tận cơ. Neuron vận động nằm trong chất xám của tủy sống và hành tủy.
Hệ xương bao gồm xương, khớp và dây chằng.
Hệ cơ (cơ vân).
2.2.1 Hệ xương 2.2.1.1 Đại cương về bộ xương Bộ xương người gồm có 205 - 206 xương, được chia thành xương trục và xương phụ, liên kết với nhau tạo thành bộ xương hoàn chỉnh. Các xương trục gồm xương đầu mặt, cột sống, các xương sườn và xương ức. Các xương phụ gồm các xương chi trên và các xương chi dưới. Trong số 206 xương thì có 85 đôi xương (hay xương chẵn: 170 xương) và 36 xương lẻ. Ngoài ra còn có các xương vừng trong gân cơ và các xương bất thường khác.
Bộ xương người.
Trọng lượng tương đối của toàn bộ xương chiếm 18% của trọng lượng cơ thể ở nam giới, 16% ở nữ giới và 14% ở trẻ sơ sinh. Sự khác nhau này là do ở người lớn, tổ chức xương phần nào bị mất nước do đó tỷ trọng cao hơn. 2.2.1.2 Chức năng bộ xương người Bộ xương người có chức năng quan trọng như : + Nâng đỡ: Bộ xương tạo thành bộ khung cứng nâng đỡ và tạo chỗ bám cho các cấu trúc mềm của cơ thể: Như các xương chi dưới nâng đỡ thân mình; lồng ngực nâng đỡ thành ngực. . . + Bảo vệ: Các xương đầu mặt tạo thành hộp sọ bảo vệ sọ não; Lồng ngực bảo vệ tim, phổi; Khung chậu bảo vệ bàng quang, tử cung . . . + Vận động: Các cơ bám vào xương nên khi co cơ sẽ tạo cử động quanh các khớp. + Tạo máu và trao đổi chất: Tủy xương tạo ra hồng cầu, bạch cầu hạt và tiểu cầu. Đồng thời xương cũng là nơi dự trữ và trao đổi mỡ, canxi, phospho. . . khi cần thiết thì được huy động để sử dụng. 2.2.1.3 Hình thể các xương Các xương có hình thù, kích thước cấu tạo khác nhau. Hình thù của các xương không những do đặc tính di truyền mà còn do những trình trạng chức năng của xương. Nói chung người ta phân biệt 4 loại xương chính: Xương dài ; Xương ngắn; Xương dẹt; Xương bất định hình (không có hình dáng nhất định) và xương vừng (xương bánh chè).
Xương dài
Xương ngắn
Xương dẹt
Xương bất định hình
2.2.1.4 Sự phát triển của bộ xương Ở giai đoạn đầu của bào thai, bộ xương chưa phân hóa thành các phần riêng biệt. Qua từng thời kỳ, các sụn xương dần dần bị cốt hóa để tạo xương. Điểm cốt hóa ở các đầu xương làm cho lan dần mãi (phát triển bề dài). Nói chung sự phát triển và lớn lên của xương từ tổ chức sụn được thực hiện bằng cốt hóa màng ngoài xương và cốt hóa sụn đầu xương. Đến tuổi trưởng thành, sụn hóa thành xương hoàn thành (trừ một số ít sụn như: sụn lá mía ở mũi, sụn diện khớp, sụn của các xương sườn...) và bộ xương phân hóa thành xương đầu mặt, thân mình và tứ chi. Sự phát triển của xương và quá trình trao đổi chất xảy ra trong xương được điều hòa bởi hệ thống thần kinh và các tuyến nội tiết làm ảnh hưởng tới sự phát triển và lớn lên của các xương. Đặc biệt là tuyến yên, tuyến giáp, tuyến sinh dục.. . và kể cả một số vitamin. Những điều kiện dinh dưỡng và những chức năng đã thực hiện cũng đóng một vai trò lớn (như các bài tập thể lực làm cho các thuộc tính cơ học của xương cũng được nâng cao hơn, về phương diện sức chống đỡ khi bẻ gãy hay uốn cong, đè ép, kéo dãn, xoắn vặn. . .). Nếu lao động liên tục quá sức từ nhỏ thì quá trình cốt hóa sẽ diễn ra nhanh làm ảnh hưởng đến sức lớn của bộ xương, quá trình cốt hóa sẽ kết thúc nhanh, cơ thể không phát triển được. Người bình thường, khoảng 25 tuổi, xương hết phát triển (song cũng có thể sai số phần nào). Ở nữ giới sức lớn của xương kết thúc sớm hơn nam giới chút ít. Cũng có một số tác giả chứng minh rằng chiều cao của cơ thể vẫn có thể tăng thêm ở tuổi trên 25 khi có tập luyện thể thao, đặc biệt là bơi lội. Nếu lao động đúng mức và nhất là luyện tập thể dục thể thao thường xuyên, có hệ thống, bộ xương được phát triển mạnh cùng với độ cứng rắn bền vững và có
nhiều mấu gồ ghề hơn làm chỗ bám vững H.1. 9 chắc cho hệ cơ. Ở những môn thể dục thể thao khác nhau thì sự phát triển của hệ xương cũng khác nhau. Căn cứ vào sự quan sát các bộ xương của các vận động viên ưu tú ở các môn thể dục, thể thao thì thấy " những biến đổi về hình thái chức năng tiến triển hết sức rõ rệt". 2.2.2 Khớp xương 2.2.2.1 Khái niệm khớp xương Khớp xương là tổ chức nối tiếp giữa đầu gần của xương này với đầu xa của xương kia hay các bờ của các xương khác nhau. Trong thành phần của khớp xương ngoài hai đầu tiếp khớp của xương còn có các tổ chức khác như bao khớp, sụn chêm hoặc sụn viền, bao hoạt dịch, dây chằng, mô mỡ. . . Ở thời kỳ phôi thai tổ chức khớp chỉ là mô liên kết. Sau đó trong quá trình phát triển và hoàn thiện bộ xương, tổ chức khớp phát triển có tính chuyên biệt theo chức năng của những phần cơ thể khác nhau. Do đó phát triển có nhiều dạng khớp khác nhau. 2.2.2.2 Phân loại các dạng khớp Về mặt chức năng sự liên kết của xương có thể phân chia thành 3 loại khớp: khớp bất động (khớp răng cưa, khớp vảy, khớp nhịp, khớp mào), khớp bán động, khớp động.
Khớp bất động
Khớp bất động
Khớp bán động
Khớp động
2.2.2.3 Hình thể các loại khớp - Trong cơ thể hình dáng tiếp xúc của các diện khớp rất khác nhau. Căn cứ vào hình dáng các diện khớp và số trục vận động của nó mà người ta phân loại ra nhiều loại khớp như: Khớp 1 trục.
Hoặc:
Khớp 2 trục.
Khớp hình ròng rọc.
Khớp nhiều trục.
Khớp hình yên ngựa. Khớp hình trụ. Khớp hình bầu dục.
Khôùp choûm caàu. Khôùp roøng roïc Khôùp hình truï Khôùp baàu duïc Khôùp yeân ngöïa
Khớp chỏm cầu.
H.2. 5
Khôùp hai truïc
Khôùp moät truïc
Xöông quay
Xöông truï
Xöông nguyeätï
Xöông thuyeàn Xöông thang
Khôùp coå tay (khôùp baàu)
Xöông ñoát baøn 1
Khôùp ngoùn caùi-xöông thang (khôùp yeân ngöïa)
Khớp khuỷu
Khôùp ña truïc
Khớp yên ngựa
Xöông caùnh tay Xöông baû vai Khôùp vai
Khớp vai
2.2.2.4 Sự vận động của khớp Hình dạng cấu tạo của các khớp khác nhau cho nên sự vận động của nó cũng khác nhau. Có thể phân sự vận động của khớp ra làm 4 loại vận động chủ yếu: Gập duỗi, dạng khép, xoay và quay.
Gaäp duoãi
Gập duỗi
Dạng khép
Quay
Xoay thaân ngöôøi
Daïng kheùp
Xoay
Quay
Độ linh hoạt của các khớp còn phụ thuộc vào lứa tuổi giới tính và sự cấu tạo của bao khớp, dây chằng của từng người khác nhau, độ đàn hồi của các tổ chức nối khớp khác nhau. Người trẻ, khớp linh hoạt hơn người già, nữ linh hoạt hơn nam. Đối với những người luyện tập thể dục thể thao thì độ linh hoạt các khớp hơn những người không tập luyện nhiều. Vì vậy ở những vận động viên thể dục thể thao thì cử động của các khớp rất nhẹ nhàng và uyển chuyển. 2.2.3 Hệ cơ 2.2.3.1 Khái quát hệ cơ Hệ cơ cấu tạo gồm những mô cơ phân bố đều khắp cơ thể, chiếm tỷ lệ khá lớn. Ví dụ cơ thể trẻ sơ sinh cơ chiếm 25% trọng lượng cơ thể . Mô cơ là những tế bào có đặc tính co rút giúp vận động các bộ phận của cơ thể. Đặc tính co rút của tế bào cơ là nhờ trong bào tương có cấu trúc đặc biệt các vi sợi Actin và Myozin. Các vi sợi này sắp xếp xen kẽ nhau tạo thành các phức hợp trượt lên nhau để rút ngắn chiều dài gây co cơ. Căn cứ sự co rút cơ theo ý thức hay tự động ta có ba loại mô cơ: cơ trơn, cơ vân và cơ tim. 2.2.3.2 Hình dạng của cơ Mỗi cơ gồm hai phần: Phần thân cơ màu nâu đỏ, được tạo thành bởi nhiều tế bào cơ hợp lại.
Ñaà u g aân (n gu yeâ n uû y )
Th aân cô
Phần gân cơ được tạo thành bởi các sợi liên kết trắng, chắc, óng ánh, bám
Ñaà u g aân (b aùm taä n)
vào xương. Nếu gân tạo thành bản dẹt rộng
Các phần của cơ
thì gọi là cân. Sự khác biệt về hình thể của cơ cũng liên quan đến sự khác biệt về chức năng của chúng. Những cơ dài, mỏng có diện bám vào xương không lớn thì tham gia vào những động tác với biên độ rộng. Ngược lại, những cơ ngắn, dày tham gia những động tác có biên độ nhỏ, có thể chia các dạng cơ thành hai nhóm: cơ mạnh và cơ khéo.
Cơ mạnh: Là những cơ to, diện bám rộng, tham gia những động tác sức mạnh,
Các cơ khéo: Thường là những cơ nhỏ hoặc dẹt diện bám
nhỏ như các cơ ở bàn tay, ở đầu, mặt. Hướng của các sợi cơ cũng không giống nhau trong tất cả các cơ. Đa số trường hợp, các sợi cơ xếp song song với trục của cơ (cơ hình thoi). Song cũng có những cơ mà sợi cơ có hướng xiên (cơ hình lông chim). Do vậy mà sức mạnh (lực) của các cơ này cũng khác nhau vì lực do cơ sản sinh ra phụ thuộc vào số lượng sợi cơ trên thiết diện ngang sinh lý (mặt phẳng cắt ngang bắp cơ và thẳng góc với các sợi cơ) của nó, hay nói cách khác: Lực tuyệt đối của cơ càng lớn khi số lượng sợi cơ càng nhiều. Vì thế nó được quy định bởi tổng số của tất cả các bó cơ hay bởi thiết diện ngang sinh lý. - Thiết diện ngang sinh lý càng lớn thì sức co cơ càng lớn. Do đó cơ hình lông chim có lúc mạnh nhất vì cơ này có thiết diện ngang sinh lý lớn nhất.
1
2
3
Các dạng sắp xếp của sợi cơ 1. Sợi cơ xếp song song; 2. Sợi cơ xiên hình lông chim; 3. Sợi cơ hình rẽ quạt.
2.2.3.3 Tên gọi các cơ Người ta căn cứ vào một số dấu hiệu chủ yếu của các cơ để gọi tên chúng như: + Gọi theo chức năng của cơ như duỗi chung ngón tay, cơ gấp, cơ dạng, cơ khép, cơ nâng, cơ hạ. . . + Gọi theo đầu nguyên ủy (đầu bám gốc) như cơ nhị đầu, cơ tam đầu . . . + Gọi tên theo hình dáng bắp cơ như cơ lược, cơ thang, cơ trám, cơ delta. + Gọi theo vị trí như cơ ngực lớn, cơ thắt lưng chậu... + Gọi theo hướng các sợi cơ như cơ thẳng, cơ chéo . . . Hay gọi theo một số các dấu hiệu khác nữa . . . Mỗi cơ thường có 2 nơi bám vào Nguyeân uûy Baùm taän
xương. Chỗ đầu cơ bám vào xương gọi là nguyên ủy, chỗ đuôi cơ bám vào xương gọi là bám tận.
Đối với các cơ chi và cơ đầu thì đầu nguyên ủy nằm ở trên, đầu bám tận nằm ở dưới. Mỗi cơ thường bám vào hai (hay nhiều) xương, vắt qua một (hay nhiều) khớp. Khi cơ co rút sẽ kéo hai xương lại gần nhau hoặc ra xa (tức góc tạo giữa 2 xương bé lại hoặc lớn lên). Trong vận động nguyên ủy được coi như điểm tĩnh (điểm tựa) là điểm không chuyển dịch khi vận động, đầu bám tận là điểm vận động (điểm động hay điểm di động). 2.2.3.4 Phân tích tính chất hoạt động của cơ - Ta thấy sự bố trí của các nhóm cơ tùy theo các trục vận động của các khớp. Đối với khớp một trục thì có hai nhóm cơ đối lập nhau (gập và duỗi).
Đối với các khớp hai trục thì có 4 nhóm cơ tương ứng với nhau (gập, duỗi, dạng, khép). Với khớp nhiều trục thì có 6 nhóm cơ tương ứng nhau (gập, duỗi, dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài) như khớp vai, khớp châu đùi. Nói chung ta thấy mọi cử động của cơ thể đều có sự tham gia của rất nhiều cơ. Ngoài những cơ có tác dụng chủ yếu để thực hiện động tác còn có các cơ có tác dụng liên minh và các cơ có tác dụng đối kháng (cơ cộng tác, cơ hiệp đồng, cơ cố định và cơ đối kháng). Đó chính là những cơ đồng vận và cơ đối kháng. Sự phối hợp các hoạt động liên minh và đối kháng là vô cùng đa dạng. Các cơ là đồng vận đối với động tác này nhưng có thể trở thành đối kháng đối với động tác khác và ngược lại. Trong vận động, các cơ này hiệp đồng tốt chừng nào thì các động tác trở nên nhẹ nhàng, uyển chuyển, thuần thục chừng nấy (do quá trình tập luyện).
Cơ cộng tác hiệp đồng và cơ đối kháng
2.2.3.5 Ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với cơ Cơ hoạt động sinh ra năng lượng và cơ muốn phát triển cần nhiều chất dinh dưỡng, vì vậy tăng cường vận động cơ và dinh dưỡng đầy đủ sẽ làm cơ phát triển. Điều này được nhận thấy rõ ở những người lao động chân tay, luyện tập thân thể nhiều. Do một số nghề nghiệp làm phát triển lệch một số cơ, do đó cần phải luyện tập TDTT để làm cho cơ phát triển đều đặn. 2.2.4 Ảnh hưởng của hoạt động thể dục thể thao đến hệ vận động
2.2.4.1 Hệ xương Qua quá trình tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ dẫn đến sự thay đổi của hệ xương như sau: - Hệ xương luôn luôn được cung cấp máu đầy đủ khi vận động, các tế bào xương được nuôi dưỡng tốt. - Do đó, tổ chức xương có sự thay đổi về cấu trúc: + xương phát triển tốt, cứng, dày nên rất vững chắc. + bề mặt xương sần sùi, tạo điều kiện cho các cơ bám vào. Cho nên những người tập luyện thể thao khi bị va chạm mạnh hoặc bị té ngã, nguy cơ chấn thương về xương thấp hơn so với những người không tập luyện thể thao là do cấu trúc xương đã thay đổi xương khỏe và khả năng chống đỡ tốt hơn. 2.2.4.2 Khớp xương Qua quá trình tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ dẫn đến sự thay đổi của hệ khớp như sau: + Bao hoạt dịch trong khớp sẽ tiết chất nhờn đầy đủ, + Khớp được bôi trơn, cử động dễ dàng, các dây chằng vừa chắc, khỏe và dai. Do đó, khi thực hiện các động tác với biên độ lớn sẽ không bị hạn chế, khớp hoạt động linh hoạt sẽ hạn chế việc giãn dây chằng và sai khớp trong quá trình vận động. 2.2.4.3 Hệ cơ Hệ cơ bị ảnh hưởng rõ rệt sau quá trình tập luyện, được biểu hiện như sau: Phì đại cơ: Là do kích thước của từng sợi cơ trong bó cơ dày lên, lượng cơ tương, số tơ cơ và các yếu tố cấu tạo khác đều tăng. Do đó, người không tập luyện
thể thao cơ sẽ bị nhão dẫn đến mau mỏi. Sự phì đại cơ vân làm cho việc cung cấp máu cho chúng được cải thiện hơn, đồng thời phần cơ được rèn luyện bên trong sẽ xảy ra quá trình biến đổi về sinh hóa. + Quá trình tổng hợp đạm trong sợi cơ tăng lên, trong khi sự phân hủy của chúng lại giảm đi. Hàm lượng ARN và AND trong cơ phì đại tăng cao hơn so với bình thường, hàm lượng creatin cao trong cơ khi hoạt động có khả năng kích thích sự tổng hợp actin và miozym và như vậy thúc đẩy phì đại cơ. Chức năng của cơ được rèn luyện cũng thay đổi: Tính hưng phấn và tính linh hoạt của cơ tăng lên do biến đổi về cấu tạo và hóa sinh xảy ra làm cho sự phối hợp giữa các cơ co khi thực hiện động tác được hoàn thiện hơn. Tốc độ co và thả lỏng của cơ tăng lên: Là một yếu tố quan trọng của sức mạnh, dưới tác động của tập luyện. Người hoạt động thể dục thể thao thường xuyên, các cơ phối hợp hoạt động nhịp nhàng, động tác thực hiện chính xác, loại bỏ được động tác thừa, tiết kiệm sức lực. Mỗi lần co cơ là đáp ứng những yêu cầu hữu ích, trở thành khéo léo và bền bỉ. Hoạt động thể dục thể thao không chỉ phát triển các cơ xương mà còn rèn luyện và làm tăng tính của các cơ quan nội tạng như: cơ tim, cơ dạ dày, cơ thành ruột… 2.3 Hệ thần kinh - giác quan và nội tạng 2.3.1 Hệ thần kinh Hệ thần kinh là một hệ cơ quan phân hóa cao nhất trong cơ thể người, ở dưới dạng ống và mạng lưới đi khắp cơ thể, được cấu tạo bởi một loại mô chuyên biệt là mô thần kinh, gồm các tế bào thần kinh - nơ-ron và các tế bào thần kinh đệm (thần kinh giao). Cũng chính các nơ-ron đã tạo ra hai thành
phần cơ bản của não, tủy sống và hạch thần kinh là chất xám và chất trắng. Về mặt cấu tạo, hệ thần kinh được chia ra làm 2 bộ phận là bộ phận trung ương (não bộ, tủy sống) và bộ phận ngoại biên (các dây thần kinh, hạch thần kinh), trong đó bộ phận trung ương giữ vai trò chủ đạo. Về chức năng, hệ thần kinh được chia thành hệ thần kinh vận động (điều khiển cơ, xương) và hệ thần kinh sinh dưỡng (hệ thần kinh thực vật). Hệ thần kinh sinh dưỡng lại gồm 2 phân hệ là phân hệ giao cảm và phân hệ đối giao cảm. Hoạt động thần kinh cấp cao ở người hình thành nên nhiều phản xạ được tập quen (PXĐTQ) rất phức tạp mà không sinh vật nào có được. Vì vậy, việc "vệ sinh" hệ thần kinh có cơ sở khoa học là cần thiết để hệ thần kinh luôn đạt chất lượng hoạt động cao. Nơ-ron, đơn vị cấu tạo của hệ thần kinh, chức năng cơ bản của nơ-ron là cảm ứng và dẫn truyền xung thần kinh dưới dạng các tín hiệu hóa học. Từ đó nơ-ron chia làm ba loại: + Nơ-ron hướng tâm (nơ-ron cảm giác) có thân nằm ngoài trung ương thần kinh dẫn xung thần kinh về trung ương thần kinh. + Nơ-ron trung gian (nơ-ron liên lạc) nằm trong trung ương thần kinh, gồm những sợi hướng tâm và li tâm, làm nhiệm vụ liên lạc. + Nơ-ron li tâm (nơ-ron vận động) có thân nằm trong trung ương thần kinh (hoặc ở hạch thần kinh sinh dưỡng), dẫn các xung li tâm từ bộ não và tủy sống đến các cơ quan phản ứng để gây ra sự vận động hoặc bài tiết. Nơ-ron là những tế bào dài nhất trong cơ thể, biệt hóa cao độ nên mất trung thể và khả năng phân chia, nhưng đổi lại nó có khả năng tái sinh phần cuối sợi trục nếu bị tổn thương. 2.3.2 Hệ tim mạch Hệ tim mạch làm nhiệm vụ đẩy máu từ tim đi khắp cơ thể và hút máu
từ các cơ quan trong cơ thể về tim. Máu mang các chất dinh dưỡng hấp thụ được từ các cơ quan tiêu hóa đi khắp cơ thể đồng thời thải các chất độc qua hệ thống cơ quan bài tiết. Ngoài ra
Hình ảnh tim
máu còn có nhiệm vụ rất quan trọng là mang oxy từ phổi đến các cơ quan và thải khí cacbonic từ các cơ quan qua phổi ngoài ra ngoài. Cơ quan chủ yếu của hệ tim mạch là tim, tim có một hệ thống buồng và van tim làm nhiệm vụ như một cái bơm vừa hút vừa đẩy. Tim đẩy máu vào các động mạch và hút máu từ tĩnh mạch trở về. Từ tim có một hệ thống động mạch đi ra chia nhỏ dần đến tận các mao mạch tạo nên một mạng lưới dầy đặc nuôi tất cả các mô của các cơ quan trong cơ thể. Thành của mao mạch rất mỏng chỉ gồm một lớp nội mô nên có thể thẩm thấu, trao đổi khí và các chất dinh dưỡng với các mô. Từ hệ thống mao mạch, máu sẽ tập trung về các tĩnh mạch lớn dần để trở về tim. So với động mạch tương ứng thì thành tĩnh mạch thường mỏng hơn, áp lực máu thấp hơn, không đập và thường có van trong lòng tĩnh mạch. Ngoài ra còn có một hệ thống bạch mạch mang dịch kẽ thừa, chất dinh dưỡng từ các mô đổ về lại tĩnh mạch. Có thể coi bạch mạch là một hệ thống dẫn lưu phụ cho hệ tĩnh mạch. Lách là một tạng huyết có nhiệm vụ tạo huyết trong phôi thai và ở người trưởng thành là mồ chôn của những hồng cầu già cỗi. 2.3.3 Hệ hô hấp
Hệ thống hô hấp đảm nhận chức năng trao đổi, hấp thụ oxy và thải khí cacbonic. Hệ hô hấp là một hệ thống bao gồm mũi, hầu, thanh quản, khí quản, phế quản chính đảm nhận chức năng dẫn khí. Và cơ quan trao đổi khí là 2 lá phổi và thành phần phụ thuộc là phức hợp màng phổi. Khí hít vào, phần lớn không khí đi qua xoan và ngách mũi dưới và
Hình ảnh hệ hô hấp
giữa để được làm ấm, làm ẩm và lọc sạch, chỉ một ít đi qua trên xoăn mũi giữa để được cảm nhận khứu giác. Sau đó không khí qua ngã tư hô hấp - tiêu hóa là hầu vào thanh quản rồi qua khí quản, phế quản để vào phổi. Phổi giãn nở một cách chủ động khi hít vào nhờ sự gia tăng dung tích lồng ngực do sự tác động của các cơ hô hấp mà chủ yếu là cơ hoành. Lúc đó áp lực âm xuất hiện trong ổ màng phổi kéo phổi nở theo lồng ngực. Do đó, khi có thủng màng phổi thành hay tạng, không khí bị kéo vào ổ màng phổi gây tràn khí màng phổi. Không khí đi qua các thành phần của cây phế quản đến tận các phế nang để thực hiện quá trình trao đổi khí ở đây. 2.3.4 Hệ tiêu hóa
Hệ tiêu hóa là hệ thống có nhiệm vụ biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp thành dạng đơn giản bằng phương tiện hóa học và cơ học để hấp thụ và bài tiết chất cặn bã khỏi cơ thể. Hệ tiêu hóa là một hệ thống ống thông từ miệng đến hậu môn. Mỗi đoạn của hệ tiêu hóa đảm nhận chức năng riêng do đó có cấu trúc giải phẩu đặc trưng. Ống tiêu hóa bao gồm: miệng, hầu, thực quản, dạ dày, tá tràng, ruột non, ruột già. Các tuyến tiêu hóa như: tuyến nước bọt, Hệ tiêu hóa
tuyến dạ dày, gan, tụy và tuyến ruột.
2.3.5 Hệ bài tiết Các chất khác nhau của môi trường bên ngoài, sau khi tham gia vào các quá trình trao đổi chất và trao đổi nhiệt trong cơ thể, sẽ biến thành các sản phảm phân hủy cuối cùng mà cơ thể không sử dụng được nữa. Chúng được đào thải ra ngoài qua cơ quan bài tiết và theo những con đường nhất định, các quá trình đó được được là quá trình bài tiết. Ở người những cơ quan đảm nhận quá trình bài tiết chủ yếu là: thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo (gọi chung là hệ tiết niệu) và tuyến mồ hôi… THẬN Là một cơ quan chẵn có vai trò quan trọng trong việc duy trì thăng bằng nước và điện giải trong cơ thể và thải một số chất độc đối với cơ thể ra ngoài qua sự bài tiết nước tiểu, do đó thận có thể được xem là một tuyến ngoại tiết. Tuy nhiên thận còn có vai trò nội tiết có ảnh hưởng đến sự điều chỉnh huyết áp và tạo hồng huyết cầu. Tuyến thượng thận là một cơ quan chẵn,
là một tuyến nội tiết có liên quan đến nhiều chuyển hóa quan trọng trong cơ thể. Tuyến thượng thận nằm ở hai bên cột sống và phía trên của thận. Ở nam và nữ, thận và niệu quản không có sự khác biệt nhau quan trọng. Thận nằm ở vùng bụng sau phúc mạc, trong góc hợp bởi xương sườn thứ XI và cột sống thắt lưng, ngay phía trước cơ thắt lưng. Thận là bộ phận chủ yếu của hệ tiết niệu, có 2 quả thận hình dạng như hạt đậu, nằm ở vùng bụng dưới. Chúng điều hòa lượng chất lỏng và lượng muối của cơ thể, giúp kiểm soát độ acid trong máu. Mỗi quả thận cao khoảng 12 cm, rộng 6cm, dày 3cm, nặng khoảng 150g và chứa hai lớp mô: Một lớp vỏ bên ngoài và một lớp tủy sống bên trong. Thận là nơi tích lũy và lọc nước để tạo thành nước tiểu. Các dòng nước tiểu này sẽ được chuyển bằng hai ống dẫn tiểu xuống bọng đái. Ống dẫn tiểu ở người nam dài 20 cm - còn ở người nữ chỉ dài khoảng 4 cm. Do đó, người nam có khả năng nhịn tiểu hơn người nữ. Mỗi ngày thận lọc khoảng 170 lít dung dịch và chuyển vào máu. Chỉ có khoảng 1/100 lượng nước này được đưa xuống bàng quang để thải ra ngoài. Nước tiểu được hình thành từ máu, khi máu đi qua các tiểu thể thận, ở vùng vỏ thận, dịch lọc sẽ thấm qua các tiểu thể thận vào trong hệ thống ống lượn, tại đây tiếp tục có một quá trình tái hấp thụ và bài tiết một số chất, sau đó dịch lọc sẽ đi qua hệ thống ống thu thập ở vùng tủy thận và sau cùng đổ qua các đài thận vào bể thận, ở đây dịch lọc mới trở thành nước tiểu thật sự và được niệu quản dẫn về bàng quan nhờ tác động co thắt nhu động của niệu quản. NIỆU QUẢN Là ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang, niệu quản nằm sau phúc mạc, dọc hai bên cột sống thắt lưng và ép sát vào thành bụng sau.
Đường kính niệu quản khi căng vào khoảng 5mm, đều từ trên xuống dưới trừ 3 chổ hẹp: khúc nối bể thận - niệu quản, nơi niệu quản bắt chéo động mạch chậu và một ở trong thành bàng quang. Chiều dài của niệu quản thay đổi theo chiều cao của cơ thể, giới tính, vị trí của thận và bàng quan. Trung bình niệu quản dài từ 25 - 28cm và chia làm 2 đoạn: đoạn bụng và đoạn chậu hông, niệu quản trái dài hơn niệu quản phải, nam giới dài hơn nữ giới. BÀNG QUANG Bàng quang là một tạng rỗng mà hình dạng, kích thước và vị trí thay đổi tùy thuộc vào lượng nước tiểu chứa bên trong nó. Bàng quan nhận nước tiểu từ hai thận qua hai niệu quản rồi thải nước tiểu ra ngoài qua niệu đạo. Trung bình bàng quang có thể chứa tới 500ml nước tiểu mà không căng quá. Lúc bình thường khi bàng quang chứa khoảng 250-350 nước tiểu thì có cảm giác đi tiểu. Trong trường hợp bí tiểu, bàng quang có thể chứa vài lít nước tiểu. Bàng quang là một túi chứa có tính đàn hồi cao dùng để chứa nước tiểu. Nước tiểu gồm 95% là nước và các chất độc như urea được tạo ra ở gan. Ngoài ra còn có một ít protéin và một số chất khác, nếu người đó thận bị yếu, không lọc hết được. Vì vậy, xét nghiệm nước tiểu cũng là một cách để kiểm tra tình trạng sức khỏe. Bàng quang là một tạng nằm dưới phúc mạc, nằm hoàn toàn trong phần trước vùng chậu khi rỗng. Trước bàng quang là xương mu, phía sau là các tạng sinh dục và trực tràng. Khi căng bàng quang có hình cầu và nằm trong ổ bụng NIỆU ĐẠO Niệu đạo là ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài, niệu đạo nam khác niệu đạo nữ.
TUYẾN MỒ HÔI Các tuyến mồ hôi được phân bố trong da ở các phần khác nhau của cơ thể, số lượng tuyến mồ hôi tùy từng người, nói chung trong da có khoảng 2 triệu tuyến mồ hôi. Thành phần của tuyến mồ hôi chủ yếu là nước, chiếm 98-99% các muối khoáng (NaCl, muối kali). Ngoài ra mồ hôi còn chứa u-rê, glucoza, acid amin, ammoniac, acid lactic và một số chất khác với nồng độ thấp. Độ pH của mồ hôi trung bình gần 6,0 tủy trọng từ 1,001 - 1,006 so với máu, mồ hôi có nồng độ muối ít hơn, vì thế khi tiết mồ hôi cơ thể mất nước nhiều hơn muối. Tuyến Mồ Hôi Ở Người Có 2 Loại: Một là tuyến mồ hôi nhỏ, phân bố khắp cơ thể, chức năng chủ yếu là bài tiết mồ hôi, điều hòa thân nhiệt, Hai là tuyến mồ hôi lớn còn gọi là tuyến rụng đầu, phân bố ở nách, âm hộ,…trong đó nách được phân bố nhiều nhất. Bản thân mồ hôi của tuyến mồ hôi lớn tiết ra không có mùi nhưng vì sau khi gặp sự phân hủy của vi khuẩn, sẽ trở thành dịch tiết có mùi hôi. Cùng với mồ hôi, các tuyến mồ hôi bài tiết ra môi trường bên ngoài các sản phẩm phâm hủy của quá trình trao đổi chất, đồng thời qua việc bài tiết nước và muối khoáng các tuyến mồ hôi còn duy trì sự ổn định áp suất thẩm thấu và thân nhiệt, tức là tham gia vào quá trình ổn định nội môi. Lượng mồ hôi bài tiết phụ thuộc vào điều kiện và môi trường bên ngoài và mức độ trao đổi chất của cơ thể. Mồ hôi tiết nhiều và kéo dài có thể làm mất muối, gây rối loạn nội môi và gây nên những hậu quả xấu cho cơ thể. 2.3.6 Hệ sinh dục Hệ sinh dục hay hệ sinh sản (Latinh: systemata genitalia) là một hệ cơ quan bao gồm các cơ quan cùng làm nhiệm vụ sinh sản. Nhiều chất khôngsống như hormone và pheromone cũng là những vật chất quan trọng của hệ sinh dục.[1] Không giống như nhiều hệ cơ quan khác, cấu trúc của hệ phụ
thuộc vào những sự khác biệt về giới tính của cá thể trong loài, đặc biệt là ở những loài đơn tính. Những sự khác biệt này cho phép sự kết hợp của vật chất di truyền giữa hai cá thể riêng biệt, tạo khả năng đa dạng và phù hợp về gen của thế hệ con cháu.[2] 2.3.7 Hệ nội tiết Hệ nội tiết gồm các tuyến nội tiết tiết ra các nội tiết tố (hormone) để tham gia vào điều hòa các hoạt động của tế bào và điều khiển các hoạt động chuyển hóa của cơ thể. Hệ nội tiết chỉ gồm một số tuyến nhỏ nằm rải rác ở nhiều vùng khác nhau trong cơ thể và không liên quan với nhau về mặt giải phẩu nhưng lại liên quan chặt chẽ với nhau về mặt sinh lý. Các tuyến nội tiết có những đặc điểm cơ bản như sau: Các chất tiết của chúng đổ thẳng vào máu mà không qua một ống tiết nào cho nên chúng còn được gọi là “tuyến không có ống tiết”. Các chất tiết của chúng gọi là hormone hay nội tiết tố là những chất hóa học với số lượng tiết rất nhỏ nhưng lại có tác dụng rất lớn trong sự chuyển hóa, sự phát triển của cơ thể và sự sinh sản. Kích thướt tuyến nhỏ nhưng lại có rất nhiều mạch máu cấp huyết. Hệ nội tiết gồm nhiều loại tuyến, có những tuyến bản thân là một cơ quan riêng biệt như tuyến yên, tuyến giáp trạng. Có những tuyến chỉ là những đám tế bào tập trung trong một cơ quan khác như các đảo tụy ở trong tụy hoặc các tế bào kẽ ở trong tinh hoàn, còn lại những cơ quan cũng làm chức năng nội tiết như gan, thận, ruột và sau cùng có những cơ quan được gọi là tuyến nội tiết như tuyến tùng, tuyến ức nhưng chức năng nội tiết chưa được biết một cách rõ ràng. Hoạt động của tuyến nội tiết chịu sự kiểm soát của thần kinh trung ương, mỗi tuyến đều có các sợi điều khiển của thần kinh thực vật. Hệ thần
kinh trung ương có khả năng điều khiển hoạt động của các chức năng bằng cách tăng hoặc giảm việc tiết hormone tương ứng. Cách tác động đến hoạt động của các cơ quan và tổ chức khác nhau như vậy tạo ra một hệ thống điều hòa thống nhất gọi là điều hòa thần kinh - nội tiết. Hệ thống này tạo cho cơ thể có thể thích nghi nhanh và có hiệu quả với những thay đổi liên tục của môi trường sống. TUYẾN YÊN Tuyến yên nằm ở sàn não thất III trong hố yên của thân xương bướm,được cấu tạo bởi 2 thùy có nguồn gốc khác nhau. Thùy trước còn gọi là tuyến yên tuyến có nguồn gốc từ ngoại bì ở thành trên của hầu. Thùy trước được chia làm 3 phần: phần phiễu, phần trung gian và phần xa còn gọi là phần hầu. Thùy sau còn gọi là tuyến yên thần kinh có nguồn gốc từ ngoại bì thần kinh, thùy sau tuyến yên tiết ra 2 hormone chính là: Vasopressine có tác dụng chống lợi tiểu, khi hoạt động thể lực, mồ hôi tiết ra nhiều cũng gây tăng bài tiết Vasopressine. Oxytocine có tác dụng làm co bóp cơ trơn tử cung và tăng tiết sữa trong thời gian nuôi con bằng sữa. Thùy trước tuyến yên có tính chất là một tuyến thực sự và tiết ra rất nhiều loại hormone mà cho đến nay vẫn chưa biết hết được. Nói chung các hormone của thùy trước tuyến yên tham gia vào rất nhiều hoạt động quan trọng như quyết định sự tăng trưởng của cơ thể nói chung, sự tăng trưởng và phát triển các tuyến sinh dục…có vai trò điều khiển hoạt động của các tuyến nội tiết khác do nó tiết ra hormone kích thích là Corticotropin kích thích tuyến thượng thận; Gonadotropin kích thích tuyến sinh dục; Thyrotropin kích thích tuyến giáp. Đặc biệt các hormone của thùy trước tuyến yên có tác động qua lại với hầu hết các tuyến nội tiết khác đặc biệt là tuyến giáp trạng và tuyến thượng thận, vì vậy gọi tuyến yên là tuyến chỉ đạo hệ các tuyến nội tiết.
Nếu thiếu hormone tăng trưởng của thùy trước tuyến yên sẽ gây ngừng tăng trưởng và ngược lại nếu thừa hormone tăng trưởng sẽ gây nên phát triển quá mức thành bệnh người khổng lồ hoặc người to đầu và chi. TUYẾN GIÁP Là một tuyến nội tiết nằm trước phần trên khí quản gồm hai thùy và một eo tuyến. Tuyến giáp màu nâu đỏ được cấu tạo ở ngoài bởi một bao sơ, trong là các túi được vây quanh bởi các tế bào thượng mô. Hormone của tuyến giáp có chứa I-ốt, vì vậy khẩu phần có chứa i-ốt rất cần thiết cho việc tạo ra hormone giáp trạng. Nếu khẩu phần thiếu i-ốt, tuyến giáp phải tiết nhiều hormone để bù vào, do đó sẽ phình to ra tạo thành phình giáp. Tác dụng chủ yếu của hormone tuyến giáp là tham gia vào việc giữ chuyển hóa cơ bản. Thiểu năng tuyến giáp ở người lớn sẽ làm giảm chuyển hóa cơ bản, thân nhiệt hạ, mạch chậm, mặt phị và người đờ đẫn, chậm chạp do thiểu năng tâm thần. Ở trẻ em thiếu hormone giáp trạng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển cả về hình thái lẫn tâm thần gây nên chứng lùn và đần độn. Ngược lại nếu cường tuyến giáp (tiết quá nhiều hormone giáp trạng) sẽ làm tăng chuyển hóa cơ bản, gầy, mạch nhanh, dễ bị kích động và lồi mắt (bệnh Basedow). TUYẾN CẬN GIÁP Tuyến cận giáp thường có 4 tuyến: hai trên và hai dưới nhỏ bằng hạt gạo nếp nằm ở ngay mặt sau của tuyến giáp nhưng lại khác tuyến giáp cả về nguồn gốc lẫn sinh lý. Chúng xuất hiện từ nội bì của thành túi mang thứ ba và thứ tư và sau đó mới gần lại tuyến giáp. Hormone của tuyến giáp tham gia vào việc chuyển hóa chất canxi trong cơ thể, nếu thiếu sẽ làm giảm canxi trong máu gây rối loạn hoạt động của cơ và thần kinh trong bệnh tê-ta-ni; làm co quắt bàn tay. Vì vậy trong phẫu thuật
cắt bỏ tuyến giáp cần chú y giữ lại tuyến cận giáp. Ngược lại, nếu thừa hormone tuyến cận giáp (ví dụ: trong trường hợp u tuyến cận giáp) thì tỷ lệ canxi trong máu sẽ tăng lên do canxi từ xương chuyển vào, kết quả làm xương dễ bị gãy. TUYẾN THƯỢNG THẬN Tuyến thượng thận là hai tuyến nằm ở cực trên của thận. Tuyến gồm nhiều thừng tế bào thượng mô với rất nhiều mao mạch giữa các thừng đó, tuyến được chia làm hai phần rất rõ rệt là phần vỏ và phần tủy. Giống như hai thùy của tuyến yên, hai phần vỏ và tủy của tuyến thượng thận rất khác nhau của về nguồn gốc lẫn sinh lý. Phần tủy bắt nguồn từ những tế bào ngoại bì của mào thần kinh giống như nguồn gốc của các hạch giao cảm cạnh sống. Còn phần vỏ thì lại xuất phát từ lớp thượng mô của xoang cơ thể giống như tinh hoàn và buồng trứng. Phần tủy tiết ra Epinephrine và Norepinephrine tác dụng lên cơ trơn giống như thần kinh giao cảm, còn phần vỏ thì sinh ra 2 hoặc 3 hormone loại Steroid như Aldosterone, Corticosterone, Hydrocorticosterone tham gia vào sự chuyển hóa đường và các chất điện giải. Thoái hóa tuyến thượng thận sẽ gây nên bệnh Addision làm bệnh nhân bị đen xạm da, ói mửa, suy nhược cơ. Ngược lại quá sản hoặc u của vỏ thượng thận làm sản sinh quá nhiều hormone Steroit gây nên dậy thì sớm ở trẻ em và thay đổi giới tính ở người lớn… TUYẾN ỨC Tuyến ức gồm hai thùy phải và trái nằm ở trung thất trên và trung thất trước. Tuyến ức rất lớn ở trẻ em, đạt kích thước tối đa lúc 13, 14 tuổi và thoái hóa sau lúc dậy thì. Tuyến ức có nguồn gốc từ phần bụng của túi hầu thứ 4, xuất hiện vào tuần lễ thứ 4 của bào thai, cạnh tuyến cận giáp thứ 3.
Về chức năng, tuyến ức giống như các mô lympho, phát triển mạnh ở trẻ, tuy nhiên tính chất nội tiết của nó còn chưa rõ ràng và đang bàn cãi. Ở động vật, tuyến ức rất cần cho sự phát triển tế bào lympho trong các mô lympho và là nguồn cung cấp các tế bào có chức năng tạo ra kháng thể, do đó đóng vai trò quan trọng trong hệ thống miễn dịch. TUYẾN TÙNG Tuyến tùng hay thể tùng là một vật hình quả tùng to bằng hạt bắp, tuyến được bọc bởi một bao tổ chức liên kết xơ, trong là các tế bào thượng mô và nguồn gốc từ các tế bào màng não thất III. Tuyến tùng xuất hiện vào tháng 2 của đời sống bào thai, có 3 túi phát triển ở mái của đồi não, ở người 2 túi trước thoái hóa còn túi sau phát triển thành tuyến tùng. Cũng giống tuyến ức, tuyến tùng tuy được coi là một tuyến nội tiết nhưng chức năng chưa rõ ràng. Người ta đã phân lập được một chất hóa học gọi là melatonin trong tuyến tùng, chất này có tác dụng làm co chất melamin (sắc tố đen) trong tế bào sắc tố. Còn sự phát dục sớm do tổn thương tuyến tùng thì có lẽ do có sự liên hệ với các trung khu ở vùng dưới thị. TUYẾN TỤY Tuyến tụy là tuyến thuộc bộ phận tiêu hóa vừa là tuyến nội tiết vừa ngoại tiết. Ngoại tiết: tiết ra các men để tiêu hóa các chất đường, đạm, mỡ. Nội tiết: phần nội tiết là do các đảo Langerhans, chỉ chiếm 1% toàn bộ tuyến, các đảo langerhans tiết ra hormone insulin và glucagon. Tiết vào máu chất insulin để chuyển hóa đường trong cơ thể, ngoài ra insulin còn tham gia tổng hợp protit và sản xuất lipit trong cơ thể. Glucagon là chất đối kháng với insulin, nó tăng cường các quá trình phân giải glycogen ở gan và phân giải lipit.
Tụy đi từ phần xuống tá tràng đến cuốn lách, nằm vắt ngang trước cột sống thắt lưng, chếch lên trên, sang trái, phần lớn tụy ở tầng trên mạc treo kết tràng ngang, một phần nhỏ ở dưới mạc treo này. Tụy có hình giống cái búa và có 3 phần: đầu, thân và đuôi. Kích thước tụy thay đổi trung bình dài 15cm, cao 6cm, dày 3cm và nặng 80g. Tổ chức tụy mềm và có màu trắng hồng. 2.3.8 Hệ giác quan Hệ giác quan gồm các cơ quan cảm giác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giao tiếp giữa cơ thể với môi trường xung quanh. Nhờ các giác quan mà cơ thể nhận được các kích thích từ môi trường xung quanh để đưa lên thần kinh trung ương và đáp ứng lại gồm: thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác. Mỗi giác quan bao gồm 3 phần: + Bộ phận nhận cảm biến các năng lượng kích thích thành các hưng phấn thần kinh. + Bộ phận dẫn truyền dẫn các hưng phấn thần kinh. + Bộ phận phân tích ở vỏ não chuyển các hưng phấn thành cảm giác. THỊ GIÁC Thị giác là khả năng nhận và diễn giải thông tin từ ánh sáng đi vào mắt. Việc tri giác này còn được gọi là thị lực, sự nhìn. Hệ thị giác cho phép con người thu nhận và xử lý thông tin từ môi trường. Hành động nhìn bắt đầu từ khi thấu kính của mắt điều chỉnh để thu được ảnh của cảnh vật xung quanh vào một màng lưới nhạy sáng nằm sau mắt (võng mạc). Về bản chất, võng mạc là một phần của tách biệt não bộ, hoạt động như là một máy biến đổi để chuyển đổi mẫu ánh sáng thành các tín hiệu thần kinh. THÍNH GIÁC
Thính giác là một trong năm giác quan. Đây là khả năng tiếp thu âm thanh bằng cách phát hiện các dao động qua một cơ quan ví dụ như tai. Ở con người và các động vật có xương sống khác, việc nghe được thực hiện chủ yếu bởi hệ thính giác: các dao động được tai phát hiện và chuyển thành các xung thần kinh mà bộ não thu nhận. Cũng như xúc giác, thính giác đòi hỏi sự nhạy cảm đối với chuyển động của các phân tử trong thế giới bên ngoài cơ thể. Cả thính giác và xúc giác đều là các loại cảm giác cơ học Hệ thống thính giác ngoại vi chịu trách nhiệm về các quá trình sinh lý của thính giác. Đây là những quy trình cho phép tiếp nhận những âm thanh và chuyển đổi nó thành các xung điện có thể được gửi đến não thông qua các dây thần kinh thính giác. Thính giác ngoại vi là tai. Tai của con người được chia thành ba phần: Tai ngoài, là các kênh năng lượng âm thanh. Tai giữa, trong đó chuyển đổi năng lượng âm thanh thành năng lượng cơ học, truyền - và khuếch đại đến tai trong. Tai trong, thực hiện công việc chuyển đổi cuối cùng của năng lượng cơ học thành các xung điện. Thính giác trung tâm Hệ thống thính giác trung tâm bao gồm: 30.000 tế bào thần kinh được tạo thành dây thần kinh thính giác và truyền xung điện đến não để xử lý, và vùng bộ não dành riêng cho việc xử lý tín hiện. Thông qua các dây thần kinh thính giác, não nhận được thông tin có chứa kiểu mẫu đặc trưng của mỗi âm thanh và so sánh với những khác biệt được lưu trữ trong bộ nhớ (kinh nghiệm quá khứ) để nhận dạng chúng. Mặc dù các thông tin nhận được không tương ứng với các thông tin được lưu trữ trong bộ nhớ, bộ não cũng cố gắng để thích ứng với một mô hình được biết đến với những người xem xét mà bạn mong muốn. Nếu nó không thể tìm thấy một mô hình tương tự như thông tin nhận
được, bộ não có hai lựa chọn: nó từ chối hoặc lưu trữ. Nếu lưu trữ, sẽ tạo ra một mô hình mới có thể được so sánh. VỊ GIÁC Vị giác là một hình thức cảm nhận hóa học trực tiếp. Vị giác là một trong năm giác quan của con người. Khái niệm vị giác đề cập đến khả năng phát hiện mùi vị của các chất như thực phẩm, một số khoáng chất và các chất độc (độc tố). Ở con người và động vật có xương sống khác, sự cảm nhận vị kết hợp với một phần cảm nhận mùi trong nhận thức của não về mùi vị. Ở phương Tây, người ta xác định được bốn cảm giác vị truyền thống: mặn, ngọt, chua và đắng. Trong khi đó người phương Đông quan niệm có năm vị cơ bản là mặn, ngọt, chua, cay và đắng, hoặc thậm chí là sáu vị (thêm vị umami). Vị giác là một chức năng cảm giác của hệ thần kinh trung ương. Các tế bào tiếp nhận vị của con người có trên bề mặt của lưỡi, dọc theo vòm miệng và trong biểu mô của họng và nắp thanh quản. Khứu giác Khứu giác là một trong năm giác quan của con người và động vật. Giác quan này có tác dụng cảm nhận mùi. Ở người cơ quan này là mũi. Xúc giác Xúc giác là những cảm giác có được khi đụng chạm, tiếp xúc bằng da (qua tay, chân...). Những nhận thức này được coi là một trong năm giác quan của động vật có thể nhận biết hay ước lượng cấu tạo bề mặt, trọng lượng, độ lớn, độ nóng của vật chất hay đối tượng qua tiếp xúc bằng da, qua các động tác như rờ, nắn, nâng, cọ xát, ôm... Những nhận thức này được chuyển thẳng lên não và cho phép não đánh giá và xác định nhiệt độ, sự nguy hiểm (tạo cảm giác đau đớn, nóng lạnh... và tạo phỏng, bị thương)... 2.4 Tác động của hoạt động thể thao đến các hệ cơ quan trong cơ thể
2.4.1 Hệ thần kinh Giữa cơ thể và môi trường sống luôn có sự tác động tương hỗ và mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Các kích thích của môi trường bên trong và bên ngoài thường rất đa dạng, phong phú và trong đó có các kích thích của lượng vận động trong các bài tập thể chất và hoạt động thể thao. Để tồn tại và phát triển cơ thể cần phải đáp ứng các kích thích đó thông qua các phản ứng, phản xạ tương ứng để giữ cho cơ thể luôn ở trạng thái cân bằng động. Mối liên hệ này được đảm bảo nhờ vào hoạt động của hệ thần kinh, thần kinh thể dịch và thần kinh cơ. Như vậy có thể nói rằng hệ thần kinh đã chỉ đạo mọi hoạt động sống của cơ thể. Tuy nhiên nhìn chung hoạt động của hệ thần kinh đều được hình thành thông qua các cung phản xạ đơn giản hay phức tạp. Việc đánh giá trạng thái chức năng của hệ thần kinh và thần kinh cơ sẽ không chỉ cho phép chúng ta đánh giá được về trình độ tập luyện của vận động viên mà còn giúp chúng ta đưa ra chỉ định tập luyện và thi đấu, giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc lập kế hoạch cho quá trình tập luyện, nghỉ ngơi và xác định chế độ vận động cho vận động viên. Trong hoạt động thể dục thể thao trạng thái chức năng thần kinh giữ một vai trò rất quan trọng trong việc nắm bắt kỹ thuật động tác và là một trong các yếu tố quyết định tốc độ và sự phối hợp vận động của vận động viên. Trạng thái chức năng thần kinh tốt sẽ giúp cho các vận động viên hoàn thiện được chương trình, kế hoạch huấn luyện và giữ được phong độ thi đấu lâu dài. Việc tập luyện thể thao một cách có hệ thống và hoạt động thi đấu đã đưa ra những yêu cầu đòi hỏi rất lớn đối với vận động viên về chức năng của hệ thần kinh và vì vậy ở ngay chính trong hệ thần kinh của vận động viên cũng diễn ra những biến đổi nhằm hoàn thiện chức năng hoạt động của mình.
Xét về thực chất việc thực hiện các bài tập thể chất chính là những hoạt động phức tạp của hệ thần kinh - cơ. Trong quá trình hình thành định hình động tác luôn diễn ra quá trình thiết lập những đường dây liên hệ tạm thời trên vỏ não. Vì vậy, việc luyện tập một cách liên tục, có hệ thống sẽ dẫn đến sự tự động hóa trong thực hiện động tác và làm cho các định hình trở nên bền vững. Trên thực tế cũng thường gặp những biến đổi bất lợi trong trạng thái chức năng của hệ thần kinh như những dấu hiệu ban đầu của sự mệt mỏi quá độ và luyện tập quá sức. Đối với hệ thần kinh dinh dưỡng, ảnh hưởng của quá trình tập luyện sẽ làm tăng trương lực của thần kinh phó giao cảm (nervus Vagus). Điều này có một ý nghĩa rất lớn đối với hiệu suất hoạt động của hệ vận chuyển oxy và làm giảm huyết áp trong yên tĩnh. 2.4.2 Hệ tim mạch Trong hoạt động cơ bắp nhu cầu oxy của cơ thể tăng lên rất cao, song công suất của hệ tuần hoàn và đặc biệt là tim thì lại không phải là vô hạn và điều đó giải thích vì sao trong hoạt động thể lực lại xuất hiện “trần oxy” dao động trong khoảng từ 3 đến 6 lít/phút. Dưới ảnh hưởng của các bài tập thể chất tới cơ thể, hệ tim - mạch sẽ có những biến đổi thích nghi nhằm đáp ứng nhu cầu oxy và máu cho hoạt động. Những ảnh hường này bao gồm ảnh hưởng lâu dài đến hệ tim - mạch trong trạng thái yên tĩnh và ảnh hưởng tức thời trong hoạt động cơ. Những biến đối thích nghi của hệ tim - mạch xảy ra theo cả 2 hướng, đó là biến đổi về cấu trúc và biến đổi về chức năng. Với các vận động viên đẳng cấp cao, có thời gian tập luyện lâu dài, những biến đổi về cấu trúc và chức năng tim đã tạo nên “hội chứng tim thể thao” với 4 đặc tính cơ bản: + Xuất hiện hiện tượng phì đại cơ tim (đặc biệt là ở các môn sức bền), + Giãn buồng tim (diliatasion),
+ Tần số co bóp tim trong trạng thái tĩnh giảm + Tăng thể tích tâm thu. Hiện tượng phì đại cơ tim sẽ làm tăng độ dày của thành tim, chủ yếu là ở tâm thất và diễn ra theo 2 xu hướng: phì đại cơ tương và phì đại tơ cơ. Sự phì đại cơ tim luôn có giới hạn sinh lý, thường không vượt quá giới hạn 1,2cm ở thành tâm thất và không gây nên tiếng thổi do hở van tim. Giãn buồng tim sẽ làm cho thể tích buồng tim lớn hơn nhưng độ dày thành tim không thay đổi. Cả 4 đặc điểm trên đều xảy ra đồng thời, vì thế mà tim sẽ hoạt động bền hơn, công suất hoạt động tăng và hoạt động sẽ kinh tế hơn. Hoạt động thể lực sẽ làm cho độ đàn hồi của động mạch tăng, độ cứng của thành mạch giảm. Hoạt động thể lực cũng gây nên những biến đổi rõ nét đối với hệ thống tĩnh mạch như làm tăng sự phát triển của lớp cơ thành tĩnh mạch, làm độ dài tĩnh mạch ngắn lại, các van tĩnh mạch phát triển cả về độ dày và độ lớn, vì vậy mà sẽ làm cho tốc độ hồi máu diễn ra nhanh hơn. Đối với tim của các vận động viên “tim thể thao” pha tăng áp thường được kéo dài, tốc độ phân áp chậm, pha tống máu được diễn ra nhanh hơn. Như vậy tim sẽ hoạt động kinh tế hơn và phần lớn lượng máu sẽ được tống vào động mạch ở ngay giai đoạn đầu của pha tống máu, đồng thời thời gian duy trì áp lực cao giảm sẽ làm giảm bớt sự căng cơ tim. Tóm lại những ảnh hưởng tức thời của việc tập luyện vừa là hệ quả của những ảnh hưởng lâu dài, vừa là động lực thúc đẩy để tạo nên những biến đổi lâu dài của hệ tim - mạch. Như vậy, có thể nói rằng hoạt động thể lực sẽ làm thay đổi tất cả các chỉ số và tính chất hoạt động của hệ tim - mạch. 2.4.3 Hệ hô hấp
Hệ hô hấp thực hiện chức năng trao đổi khí thông qua hai quá trình là hô hấp trong và hô hấp ngoài. Quá trình hô hấp ngoài diễn ra tại các phế nang, thực hiện chức năng hấp thụ oxy vào máu và đào thải khí CO2 ra môi trường bên ngoài. O2 và CO2 được vận chuyển trong máu nhờ sự kết hợp của chúng với Hemoglobin để tạo thành Oxyhemoglobin hay Cacbonhemoglobin của hồng cầu. Cơ chế của sự trao đổi khí chính là sự chênh lệch về phân áp Oxy và CO2 giữa máu và không khí tại các phế nang. Hô hấp trong được diễn ra giữa máu và tổ chức các tế bào nhằm thực hiện quá trình tiếp nhận CO2 vào máu và cung cấp O2 cho tế bào. Như vậy, cùng với hệ tuần hoàn và hệ máu, hệ hô hấp đã tạo nên hệ thống đảm bảo O2 cho cơ thể. Hoạt động thể chất một cách có hệ thống sẽ tạo nên những ảnh hưởng tác động rất lớn đến chức năng hoạt động của bộ máy hô hấp. Trong đó, hoạt động sức bền sẽ tạo nên những biến đổi chức năng rõ rệt hơn so với những hoạt động sức mạnh - tốc độ. Nhìn chung những biến đổi chức năng này thường được biểu hiện như sau: + Sự gia tăng về độ linh hoạt của khung lồng ngực sẽ làm tăng áp suất âm trong lồng ngực và tăng thể tích lồng ngực, đồng thời độ linh hoạt của khớp xương sườn với xương ức và các đốt sống cũng sẽ tăng lên. Sự biến đổi lớn nhất xảy ra với cơ hoành là biên độ hoạt động của cơ hoành tăng sẽ làm gia tăng độ sâu hô hấp và tăng cường thở hỗn hợp (kết hợp giữa thở ngực và thở bụng). Tần số hô hấp trong yên tĩnh giảm tới 12 đến 13 lần/ phút. Sự biến đổi này có thể được diễn ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như: do tính hưng phấn trội của hệ phó giao cảm; do quá trình trao đổi O2 ở các tổ chức và tế bào của các vận động viên xảy ra tốt hơn cho nên nhu cầu O2 sẽ giảm trong yên tĩnh, do độ sâu hô hấp tăng đã làm tăng thể tích khí lưu thông và điều này
sẽ dẫn đến kết quả là tần số hô hấp giảm nhưng vẫn đảm bảo ổn định được lượng thông khí phổi. Số lượng các phế nang tham gia vào hoạt động trao đổi khí tăng lên, bình thường ở người khỏe mạnh số lượng các phế nang tham gia vào hoạt động hô hấp chỉ chiếm khoảng 60%, còn ở các vận động viên chỉ số này có thể đạt tới 70% đến 80%. Gia tăng khả năng hấp thụ O2 (năng lực tiếp nhận O2 được tính bằng tỷ lệ chênh lệch giữa lượng O2 ở khí hít vào và khí thở ra). Trên thực tế khả năng này luôn phụ thuộc vào các yếu tố như: phổi, tim - mạch, máu và thường thay đổi tùy thuộc vào nhu cầu O2 của cơ thể. Ở vận động viên VO2max thường tăng từ 2 - 2,5 lít/phút đến 4 lít/phút. Có sự khác biệt rõ rệt về sự phản ứng với các kích thích giữa vận động viên và người bình thường. Ở vận động viên nếu kích thích nhỏ thường ít gây biến đổi còn với kích thích mạnh sẽ tạo ra sự biến đổi rất lớn. Ngược lại, ở người bình thường các kích thích nhỏ lại gây ra phản ứng mạnh còn các kích thích lớn lại tạo ra phản ứng yếu. Như vậy có thể thấy rằng trong các hoạt động có cường độ thấp chức năng của hệ hô hấp thường ít biến đổi, còn trong các hoạt động cực đại chức năng hô hấp lại được huy động triệt để để đạt hiệu xuất tối đa. Ví dụ: Người không tập thể thao Người tập luyện thể thao
Dung tích sống (lít) 3 - 3,5 7-8
Thông khí phổi tôi đa (lít) 80 - 100 180 - 200
Tốc độ hít vào (lít/phút) 0,6 - 0,7 1,5 - 1,8
Hô hấp sâu tối đa (lít) 2 - 2,5 3,4 - 3,5
2.4.4 Hệ nội tiết Hệ nội tiết bao gồm các tuyến nội tiết như: tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến tùng, tuyến tụy, tuyến thượng thận và tuyến sinh dục. Tất cả các tuyến này đều thực hiện chung một chức năng là điều tiết các chức năng
hoạt động của cơ thể trong các hoạt động sống. Các tuyến nội tiết tiết trực tiếp vào máu các chất có hoạt tính sinh học cao (các hormone). Do trong quá trình hoạt động thể lực có sự biến đổi về cường độ của các phản ứng trao đổi chất không những chỉ ở tim, ở cơ xương mà còn ở trong cả toàn bộ cơ thể, cho nên nồng độ và quá trình tiết hormone của các tuyến cũng sẽ tăng lên. Dưới tác động của lượng vận động và ngay cả ở trong trạng thái yên tĩnh thì giữa những người bình thường và vận động viên cũng có sự khác biệt rõ rệt về lượng hormone được tiết ra. Một trong những tuyến nội tiết đầu tiên phản ứng với tác động của lượng vận động là tủy thượng thận làm tăng quá trình tiết các hormone adrenalin là noadrenalin. Ở vận động viên có thể dễ dàng nhận thấy sự gia tăng của các hormone tủy thượng thận ở ngay trong giai đoạn trước thi đấu nhờ vào các phản xạ có điều kiện đã được kiến lập từ trước. Đây là một phản ứng có lợi cho việc chuẩn bị thi đấu nếu như quá trình tăng tiết không quá cao và vượt ngưỡng sinh lý thường. Theo quy luật ta thấy có sự biến đổi về nồng độ của hormone vỏ thượng thận trong máu và sản phẩm chuyển hóa của chúng trong nước tiểu như sự biến đổi về nồng độ của Hydrocortizon một loại hormone làm tăng khả năng thích nghi của cơ thể. Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng nếu sự tác động này kéo dài liên tục thì sẽ gây nên tình trạng giảm tiết do cạn nguồn hormone. Trong các hoạt động sức bền để đáp ứng cho nhu cầu năng lượng của cơ thể thì các hormone tham gia vào quá trình điều tiết, trao đổi đường và mỡ sẽ là insulin, glucogon và hormone tăng trưởng. Sự biến đổi về nồng độ của các hormone này trong máu cũng như sản phẩm chuyển hóa của chúng trong nước tiểu, trong các giai đoạn hoạt động
thể lực và hồi phục đều là những biến đổi mang tính sinh lý. Tuy nhiên nếu tác động liên tục kéo dài thì cần phải theo dõi một cách chặt chẽ những biến đổi này để sớm phát hiện những biến đổi về bệnh lý ở tuyến nội tiết. 2.4.5 Hệ tiêu hóa Quá trình tiêu hóa lý học và hóa học của thức ăn là một quá trình phức tạp, được thực hiện bởi hệ thống tiêu hóa bao gồm: khoang miệng, thực quản, dạ dày, hành tá tràng, hỗng tràng, ruột già, trực tràng, tuyến tụy ngoại tiết, gan và hệ thống ống dẫn mật. Việc xem xét trạng thái chức năng của các cơ quan hệ tiêu hóa chủ yếu là nhằm để đánh giá về tình trạng sức khỏe của vận động viên. Nhìn chung chức năng của hệ tiêu hóa thường bị phá hủy (rối loạn) do các bệnh như đau dạ dày, viêm loét hành tá tràng, co thắt đại tràng…gây nên và đồng thời đây cũng là các bệnh thường rất hay gặp ở vận động viên (đau dạ dày, viêm hành tá tràng, viêm tụy mãn, viêm túi mật mãn). Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút năng lực hoạt động thể chất của vận động viên rối loạn chức năng tiêu hóa do các bệnh về đường tiêu hóa như viêm dạ dày cấp, viêm dạ dày mãn, loét dạ dày, tá tràng….gây nên. Viêm dạ dày cấp thường xuất hiện khi vận động viên bị ngộ độc thức ăn. Bệnh thường diễn biến rất nhanh và kèm theo những cơn đau dữ dội ở khu vực thượng vị làm bệnh nhân nôn mửa, đi ngoài và có các biểu hiện như: lưỡi trắng, bụng mềm, suy nhược cơ thể do mất nước. Viêm dạ dày mãn là bệnh thường hay gặp nhất ở hệ tiêu hóa. Ở vận động viên nhìn chung thường mắc phải bệnh này khi tập luyện căng thẳng cộng với sự thay đổi bất thường về chế độ dinh dưỡng (ăn uống không đúng giờ, sử dụng thức ăn lạ, hoặc nhiều gia vị lạ…) làm vận động viên mất cảm giác ngon miệng, ợ chua, nóng bụng, đầy hơi, cảm thấy nặng và đau ở khu
vực dạ dày, cơn đau thường tăng lên sau khi ăn và đôi khi có kèm theo hiện tượng ợ chua, khi mắc phải căn bệnh này phải tiến hành điều trị kịp thời và trong giai đoạn điều trị phải đình chỉ việc tập luyện và thi đấu của vận động viên. Dưới ảnh hưởng tác động của stress do sức ép tâm lý quá lớn trước thi đấu thường làm cho vận động viên bị loét dạ dày, hành tá tràng. Đây là bệnh mãn tính có kèm theo những đợt tái phát xuất hiện do rối loạn hệ thần kinh và cường năng hệ thống “tuyến yên - vỏ thượng thận” gây nên. Trong kiểm tra y học cũng rất hay gặp ở vận động viên hội chứng đau vùng gan. Cơn đau thường xuất hiện đột ngột ở vùng gan khi vận động viên tiến hành tập luyện với thời gian dài và cường độ cao. Đôi khi cơn đau cũng diễn ra ở dạng âm ỉ và có xu hướng lan tỏa ra phía sau lưng và vùng bả vai phải cùng với cảm giác nặng ở vùng dưới sườn phải. Thông thường cơn đau sẽ mất đi sau khi ngừng vận động hoặc có thể kéo dài thêm 1-1,5 giờ đồng hồ nữa. Hội chứng đau vùng gan cũng có thể xuất hiện kèm theo các triệu chứng lâm sàng như: gan xưng to, giới hạn gan vượt quá khung lồng ngực phải tới 1 - 1,5 cm. Khi sờ nắn vận động viên sẽ có cảm giác đau và cứng ở vùng bị đau. 2.4.6 Hệ bài tiết Thận là cơ quan quan trọng nhất của hệ bài tiết, đường dẫn nước tiểu từ thận ra ngoài gồm có niệu quản, bàng quan và niệu đạo. Khi nghiên cứu chức năng của thận nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của các bài tập thể chất tới cơ thể vận động viên người ta nhận thấy rằng hầu như không có sự khác biệt cơ bản nào về thành phần nước tiểu giữa vận động viên và người khỏe mạnh bình thường trong điều kiện yên tĩnh. Tuy nhiên dưới ảnh hưởng của lượng vận động có cường độ lớn thì có thể phát hiện thấy trong nước tiểu của vận động viên có xuất hiện protein (protein - niệu), máu (huyết niệu) và tế bào trụ.
Thông thường quá trình hồi phục và ổn định của các thành phần trong nước tiểu thường diễn ra sau 24 giờ sau khi ngừng tập luyện hay thi đấu. Tuy nhiên khi tập luyện và thi đấu căng thẳng, thời gian biến đổi của các thành phần nước tiểu sẽ được duy trì lâu hơn có thể lên tới 48 hoặc 72 giờ. Trong số các trạng thái bệnh lý về thận của vận động viên cần phải đặc biệt lưu ý đến hội chứng Hemoglobin - niệu và Myoglobin - niệu. + Hemoglobin - niệu là huyết sắc tố tự do có trong nước tiểu thường gặp khi vận động viên bị cảm lạnh hay vận động quá mức căng thẳng và thường xuất hiện sau từ 1 đến 3 giờ sau khi ngừng tập luyện. Do xuất hiện huyết sắc tố này cho nên màu của nước tiểu sẽ chuyển thành nâu thẫm. + Myoglobin - niệu là sắc tố cơ (myoglobin) bị đào thải theo nước tiểu. Ngày nay triệu chứng lâm sàng này được coi là biểu hiện của bệnh nặng. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh, trên thực tế ta có thể gặp các dạng myoglobin - niệu như: myoglobin - niệu cơ học (xuất hiện trong hoạt động cơ, do cơ bị chèn ép); myoglobin - niệu cơ tim (xuất hiện trong trường hợp nhồi máu cơ tim); myoglobin - niệu do ngộ độc thức ăn (do bị ngộ độc khi ăn phải một số loại cá hoặc nấm). Tóm tại việc kiểm tra chức năng hệ bài tiết của vận động viên là một việc làm rất cần thiết bởi vì những biến đổi trong thành phần nước tiểu rất có thể là do tác động của lượng vận động trong quá trình tập luyện và thi đấu gây nên và điều này sẽ cho phép chúng ta kịp thời phát hiện những dấu hiệu bệnh lý về thận của vận động viên để đề ra được những phương pháp điều trị hợp lý.