Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
Bài thu hoạch Tư Tưởng Hồ Chí Minh CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH ( BẾN NHÀ RỒNG ) I. Vài nét về Bảo tàng Hồ Chí Minh ( Bến Nhà Rồng ): -
Bảo tàng Hồ Chí Minh ( hay còn
biết đến với tên gọi khác là Bến Nhà Rồng tọa lạc tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành, phường 12, Quận 4, TP Hồ Chí Minh. Đây là một đơn vị thuộc Sở Văn Hóa Thông Tin TP Hồ Chí Minh và là một chi nhánh nằm trong hệ thống các Bảo tàng vì Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cả nước. -
Bến Nhà Rồng trước đây là trụ sở đại diện cho hãng chuyên chở hàng hải Pháp
(thuộc Tổng Công ty Vận tải đường biển Pháp - Messageries Impériales) - một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây dựng từ giữa nǎm 1862 đến cuối nǎm 1863, để làm nơi ở cho Viên Tổng quản lý và làm nới bán vé Tàu thủy. Con tàu đầu tiên rời Bến Nhà Rồng vào tháng 11 năm 1862. -
Hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu
đầu vào mặt trǎng theo mô típ "lưỡng long chầu nguyệt", một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng. Nǎm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài. Năm 1965, ngôi Nhà Rồng do quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan Tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1975, sau
PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 1
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
ngày đất nước thống nhất, Nhà Rồng - biểu tượng của cảng Sài Gòn - thuộc Cục đường biển Việt Nam quản lý. -
Để ghi nhớ sự kiện ngày 5/6/1911, Bác Hồ đã xuống tàu Amiral Latouche Tréville từ
bến cảng Sài Gòn, để đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, sau ngày giải phóng đất nước Nhà Rồng được giữ lại làm Di tích Lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, năm 1998 nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà Rồng đã được chọn làm biểu tượng của Thành phố. -
Nơi đây, vào ngày 5/6/1911, người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành
đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang Châu Âu ra đi tìm đường cứu nước. Sau hơn 30 năm bôn ba ở nước ngoài Nguyễn Tất Thành trở thành nhà cách mạng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người thanh niên ra đi tìm đường cứu nước năm xưa chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. -
Trong hơn 20 nǎm hoạt động, Bảo tàng Hồ Chí Minh – Bến Nhà Rồng, đã đón tiếp
gần 20 triệu lượt khách từ khắp nơi trong nước và nước ngoài đến tham quan. Đặc biệt có hàng trǎm đoàn nguyên thủ quốc gia và đoàn cao cấp các nước đến thǎm viếng tìm hiểu, nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ 400 tư liệu, hiện vật (nǎm 1980) đến nay đã có 11.372 tư liệu, hiện vật và 3300 đầu sách chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. II. Thời thơ ấu và thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: -
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc thời niên thiếu tên là
Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến, và mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.
PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 2
Tư Tưởng Hồ Chí Minh -
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
Thân phụ của Bác là Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), mồ côi cha mẹ từ
nhỏ và rất thông minh ham học, được cụ Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Năm 1891, ông vào Vinh thi tú tài nhưng không đỗ. Năm 1894, ông tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An và được làm quan lớn trong triều đình. Ông được người cha nuôi, cụ tú Hoàng Xuân Đường, cũng là thầy giáo, gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ. Bà Hoàng Thị Loan (18681901), là một hình mẫu cho hình ảnh người Việt Nam hiền hậu và hết lòng vì chồng con. Bác có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận. -
Sinh ra trong một gia đình Nho học, có nề nếp gia phong mẫu mực, giữ đạo hiếu và có
tính truyền thống hiếu học, yêu thương đùm bọc, … Cụ Nguyễn Sinh Sắc có tư tưởng yêu nước thương dân, cuộc đời cụ Phó bảng có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách và tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. -
Quê hương Nghệ Tĩnh, huyện Nam Đàn, Xã Kim Liên có truyền thống cách mạng
đậm nét, giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Quê hương của Người có nhiều anh hùng nổi tiếng như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…, đã thấm máu của các anh hùng liệt sĩ chống Pháp như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến… Vào trạc tuổi 13, khi Bác nghe được từ cuộc nói chuyện giữa cha, cụ Phan Bội Châu và một số cụ khác bàn chuyện nước có những từ Pháp “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” thì lòng Bác muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem có những gì ẩn giấu sau những từ ấy. Bản thân anh trai, chị gái của Bác cũng tham gia chiến đấu dũng cảm. Khi còn học ở Huế, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến bọn thực dân Pháp đàn áp đồng bào mình, điều đó đã thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 3
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
III. Quá trình tìm đường cứu nước của Bác và tiếp nhận Chủ nghĩa Mác – Lênin và khẳng định con đường Cách mạng Việt Nam (1911 – 1920): -
Ngày 5-6-1911 với tên Văn Ba, Người làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche
Tréville, Nguyễn Tất Thành rời cảng Sài Gòn bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành đã đi qua nhiều nơi, từ Châu Á sang Châu Âu, qua Châu Phi rồi đến Châu Mỹ, đi đến đâu Nguyễn Tất Thành cũng để ý xem xét tình hình và suy nghĩ những điều mắt thấy, tai nghe, mong sao thực hiện được hoài bão cao cả của mình. -
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt
động trong phong trào công nhân Pháp, cùng lúc này cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga bùng nổ làm chấn động thế giới. Cuộc cách mạng này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho xã hội loài người, thời kỳ tan rã của chủ nghĩa tư bản, kỷ nguyên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Phấn khởi và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Cách mạng Việt Nam và Cách mạng thế giới, Nguyễn Tất Thành quyết tâm đi theo con đường của Cách mạng tháng 10 Nga - con đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin. -
Năm 1919, các nước đế quốc thắng trận họp hội nghị ở Versailles nhằm chia lại thị
trường thế giới, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” yêu cầu chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và các quyền bình đẳng cho nhân dân Việt Nam. -
Tháng 7-1920, qua báo Nhân đạo của Pháp, “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc, từ đây Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. -
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc
tham dự với tư cách chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa Đông. Người đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III,trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Từ một người với lý tưởng yêu nước, Người đến với Chủ nghĩa cộng sản và tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam: kết hợp đấu tranh PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 4
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tư tưởng yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả. IV.Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh bảo vệ vấn đề dân tộc và thuộc địa, sáng lập chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam (1920-1930): -
Qua yêu cầu thực tế của hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần phải
xúc tiến các hoạt động tuyên truyền, tổ chức nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. -
Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhân vật yêu nước của các nước
thuộc địa ở Pháp sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, cho ra đời tờ báo “Le Paria” để tuyên truyền, vận động cách mạng ở các nước thuộc địa. -
Năm 1923 Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, tham dự Đại hội I Quốc tế Nông dân, Đại
hội V Quốc tế Cộng sản và một số Đại hội quốc tế khác. Tại Đại hội V, Nguyễn Ái Quốc trình bày tham luận của mình nêu lên những lập luận, quan điểm về vấn đề cách mạng ở thuộc địa và được Đại hội chú ý quan tâm. -
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu (Trung Quốc), tại đây Nguyễn
Ái Quốc chọn một số thanh niên yêu nước vào học tại các lớp huấn luyện chính trị nhằm đào tạo họ trở thành cán bộ cách mạng. Cũng trong thời gian ở Quảng Châu, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 6-1925 Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu trở về Liên Xô, rồi hoạt động ở nhiều quốc gia, cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hồng Kông. -
Từ 3-2-1930 đến 7-2-1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Hội nghị hợp nhất các tổ
chức Cộng sản được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. -
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, là kết quả có được từ
những điều kiện khách quan trong và ngoài nước, từ sự hoạt động đấu tranh sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc trong các phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, là kết quả của sự kiên trì học tập, nghiên cứu và rèn luyện về mặt tư tưởng chính trị, PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 5
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
đường lối, tổ chức. Sự kiện ấy đã đưa Việt Nam bước vào con đường mới dưới ánh sáng của cách mạng vô sản. V. Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp ( 1930 – 1954 ): -
Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, theo sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản,
cuối tháng 4/1930 Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm (Thái Lan) và Malaysia. Tháng 5/1930, Người qua Singapro rồi trở lại Hồng Kông. Tháng 10/1930 tại Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành T.W Đảng Cộng sản Việt Nam. -
Tháng 6/1931, đế quốc Anh đã bắt giam Người (lúc ấy lấy tên là Tống Văn Sơ) một
cách trái phép tại Hồng Kông. Mùa xuân năm 1933 Người ra khỏi nhà lao của đế quốc Anh và trở về Liên Xô. -
Từ năm đầu 1934 đến cuối năm 1938, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Liên Xô, Người
vào học trường Quốc tế Lênin, công tác tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước trong bối cảnh chủ nghĩa phát xít đã công khai đàn áp mọi phong trào dân chủ và hòa bình. -
Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc. Cuối năm 1940, Người
về sát biên giới Việt – Trung, bắt liên lạc với tổ chức Đảng. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, Người chọn Cao Bằng làm căn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng và chủ trì Hội nghị lần VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1941. -
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực
lượng cách mạng của người Việt Nam. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam. Tháng 9/1943, sau khi ra khỏi nhà tù, Người tiếp tục tham gia các hoạt động với các tổ chức chống Nhật, chống Pháp của người Việt Nam ở Liễu Châu, đồng thời nối lại liên lạc với Đảng ta để tổ chức về nước tiếp xúc lãnh đạo phong trào. -
Tháng 9/1944, Người trở lại Cao Bằng, tháng 12/1944 Người ra chỉ thị thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Pắc Bó về Tân Trào để trực tiếp chỉ đạo phong trào trong cả nước. Tháng 8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 6
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. -
Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển
cử đầu tiên của nước ta được tổ chức và đạt được thắng lợi. Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp lần thứ nhất bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tiếp tục lãnh đạo toàn dân đấu tranh xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Trước tình hình thực dân Pháp phản bội những Hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta, rắp tâm mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính từng bước giành thắng lợi và tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. -
Từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp
tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng. Tháng 12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị, Trung ương Đảng thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Tháng 5/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, báo hiệu sự tan rã của hệ thống thuộc địa Pháp, mở đầu cho kỷ nguyên giành độc lập trên toàn thế giới. VI.Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1954- 1969): -
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch
sử cách mạng Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam đang bị đế quốc Mỹ xâm lược. Trước tình hình đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng T.W Đảng và Chính phủ lãnh đạo nhân dân vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm đánh đuổi Mỹ, thống nhất đất nước. -
Tháng 1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại thủ đô Hà Nội, cùng toàn dân thi hành
đúng Hiệp định Gieneve về Đông Dương, củng cố hòa bình, đấu tranh để thực hiện thống PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 7
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
nhất đất nước bằng Tổng tuyển cử tự do, củng cố miền Bắc về mọi mặt, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng. Ngoài ra, thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đi thăm các nước làng giềng, các nước xã hội chủ nghĩa để thắt chặt mối quan hệ quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới. -
Sau 1954, Mỹ vào miền Nam, xây dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và tiến
hành các chiến lược chiến tranh. Tháng 9-1954, tại hội nghị Bộ Chính trị, Người khẳng định: Đế quốc Mỹ và tay sai đang phá hoại Hiệp định Gieneve, chia cắt lâu dài đất nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối cho cách mạng miền Nam là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ đó cách mạng miền Nam tiến lên giành nhiều chiến thắng như phong trào Đồng Khởi Bến Tre. -
Tháng 9-1960, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam
họp tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh được đại hội bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. -
Năm 1961-1965, miền Bắc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, miền Nam tiếp
tục sự nghiệp đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. -
Ngày 20/10/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đón Đoàn đại biểu Mặt trận giải phóng miền
Nam Việt Nam lần đầu tiên ra thăm miền Bắc. Đến tháng 11-1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội là sự cổ vũ lớn lao cho cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam. VII. Sự ra đi của vị Cha già kính yêu của Dân tộc Việt Nam là sự mất mát không thể bù đắp được cho dân tộc Việt Nam: -
Ngày 2/9/1969, Người đã ra đi để lại niềm thương tiếc vô hạn cho toàn thể dân tộc
Việt Nam và bạn bè Quốc tế, nhất là khi Cách mạng Việt Nam đã đến rất gần ngày thắng lợi nhưng Người đã không còn để chung vui niềm vui với quân dân miền Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. -
Trước khi qua đời, trong bản di chúc đã để lại cho nhân dân Việt Nam, Bác dặn dò tất
cả nhiệm cần phải làm của Cách mạng Việt Nam trong thời đại tới cũng như tăng cường cho thế hệ trẻ làm nền tảng cho đất nước sau này. Đối với cuộc kháng chiến, Bác đã hết sức tin tưởng vào thắng lợi gần kề. Điều mong muốn cuối cùng của Người là: “Toàn PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 8
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiêp Cách mạng thế giới”. Đến lúc sắp ra đi, Người đã để lại tấm gương cho cán bộ Đảng viên, quân và dân cả nước đức tính “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” của mình. Đến những ngày cuối đời, Người vẫn canh cánh một nỗi niềm muốn được cống hiến nhiều hơn nữa cho Cách mạng Việt Nam: “Suối đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là không được phục lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. -
Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã
hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện được mong ước thiêng liêng của vị Cha già kính yêu. -
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại không chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà
còn là vị lãnh tụ của các dân tộc bị áp bức và của toàn thể giai cấp công nhân trên thế giới. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn Cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị. -
Cả cuộc đời vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời chí khí cách
mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước thương dân thắm thiết, đạo đức, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn giản dị. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. -
Chủ tịch Hồ Chí Minh những là một nhà chính trị lỗi lạc mà còn là một nhà giáo dục,
một nhà văn hóa lớn. Vì vậy năm 1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, Tổ chức Giáo dục và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”. Người còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng ra khỏi Trái Đất này. PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 9
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
VIII. Vai trò của tư tưởng HCM đối với công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước: -
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. -
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. -
Văn kiện Đại hội VII cũng như điều lệ Đảng sửa đổi thông qua Đại hội đã khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chi nam cho hành động”. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. IX. Cảm nhận của bản thân qua chuyến tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh: -
Bảo tàng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam trong việc giáo dục chủ
nghĩa yêu nước, học tập tư tưởng, đạo đức trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; bồi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Như được thấy chiếc micro Bác đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2-9, thấy những bức ảnh thật, những văn kiện cũng như những bức tượng và những mô hình tái PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 10
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên: Nguyễn Đức Đạt
hiện lại những giai đoạn hoạt động cách mạng của Bác cho em dễ dàng hiểu kỹ và sâu hơn về Bác – một con người vĩ đại của cả dân tộc. -
Điều tôi ấn tượng sâu sắc nhất là hình ảnh chiếc áo
nâu đã bạc màu, bộ đồ kaki chấp vá, chiếc gậy tre đơn sơ mộc mạc, chiếc nón cối cũ kĩ phai màu, đôi dép cao su…ôi nó không còn là bốn từ “đôi dép cao su” mà em vẫn tự hình dung khi đọc sách. Một người bôn ba gần 40 năm trời, hơn nửa đời mình đi tìm đường cứu nước, cả cuộc đời đấu tranh cho giải phóng dân tộc, một vị lãnh tụ đất nước, một danh nhân văn hóa thế giới mà không đòi hỏi cho bản thân mình thứ gì cả. Cả cuộc đời lo cho dân cho nước, lo hạnh phúc cho nhân dân còn bản thân mình thì sống đơn sơ đạm bạc, lúc nào cũng nghĩ những gì Bác dùng là mồ hôi nước mắt của nhân dân. Tất cả những thứ ấy thật là giản dị và đơn sơ đến mức ngạc nhiên. Một con người, một tư tưởng lớn đã đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh, đưa đất nước phát triển. Tham quan bảo tàng, cảm xúc tôi thật dâng trào, cảm thấy rất biết ơn những người đi trước, những người đã đổ máu xương để chúng ta sống, học tập ngày hôm nay, để sáng dậy, mở mắt ra ta được nhìn thấy những người thân yêu, được hít thở bầu không khí trong lành, được làm những công việc yêu thích. Thật sự đó thật sự là niềm hổ thẹn đối với chính con người trong bản thân tôi khi nghe và tìm hiểu về Bác ở bào tàng này. Tôi khâm phục Bác vô cùng và cảm thấy thương Bác vô hạn, Bác luôn phải sống bình dị, thanh bạch luôn đồng khổ với nhân dân lao động. Và tự tôi bỗng thấy mình trước giờ được sống trong cảnh hòa bình, trong sự lo toan của gia đình, sống trong hạnh phúc mà không biết quý trọng nó. Chuyến thăm này đã cho tôi nhận ra nhiều điều để bồi dưỡng cả về tinh thần lẫn tri thức. Mọi thứ đã dường như thức tỉnh lại trong tôi tìm về với chính bản thân, với chính con người mình. Sống một cuộc sống có ý nghĩa, có đam mê, sống sao không phải hối tiếc vì thời gian đã qua và phấn đấu hết sức mình vì Tổ quốc. PHẠM ĐỨC TRUNG – K17C2
Trang 11