BÀI THUYẾT MINH VỀ CHÙA THIÊN MỤ Vâng, thưa quý khách! Sau một chặng đường dài bây giờ chúng ta đang đến với điểm di tích Chùa Thiên Mụ, một trong những ngôi chùa cổ nhất, đẹp nhất ở Huế. Vâng! Nói đến Huế, người ta nghĩ đến ngay Quần thể di tích triều Nguyễn với những đền đài, thành quách, miếu vũ, lăng tẩm tráng lệ. Và Huế cũng là vùng đất Thiền kinh với hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Ai đến Huế mà chưa ghé thăm Chùa Thiên Mụ thì xem như chưa hiểu Huế, như chưa đến Huế. Bởi lẽ đây là ngôi chùa đã có hơn 400 năm tuổi, qua bao biến động đổi thay theo năm tháng. Chùa Thiên Mụ là một trong những hình ảnh biểu trưng cho xứ Huế. Và tiếng chuông Thiên Mụ đã đi vào đời sống văn hóa của người dân xứ Huế từ bao đời nay: “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.” Thưa quý khách! Chùa Thiên Mụ được xây dựng trên đồi Hà Khê, bên tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế chừng 5km về phía Tây. Chúng ta có thể đến thăm Chùa Thiên Mụ bằng đường bộ hoặc đường thủy, có thể đi bằng thuyền rồng trên sông Hương.
Cảnh đẹp chùa Thiên Mụ Đã có nhiều câu chuyện nói về lịch sử của Chùa Thiên Mụ - nơi có sự tích ra đời gắn liền với bước chân mở đường của vị chúa Nguyễn đầu tiên xứ Đàng Trong. Truyền thuyết kể rằng, khi vào Trấn thủ xứ Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây có một bà lão mặc áo đỏ quần lục thường xuất hiện trên đồi và nói với mọi người rằng “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt kịp được với ý nguyện của dân chúng. Ông cho
dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ Tự” (chùa Thiên Mụ) để nhớ tới bà tiên nhà trời trong lời kể của người dân. Trong thực tế, ở đây đã từng tồn tại một ngôi chùa của người Chăm – di tích được nhắc đến trong Ô châu cận lục của Dương Văn An vào năm 1553. Nhưng phải đến năm 1601 với quyết định của chúa Nguyễn Hoàng, chùa Thiên Mụ mới chính thức được xây dựng. Theo đà phát triển và hưng thịnh của phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1619 – 1725). Năm 1710 chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, Chúa lại cho trùng tu lại ngôi chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền…mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Đến thời các vua Nguyễn chùa cũng được trùng tu vào các năm 1815 thời vua Gia Long và vua Minh Mạng (1831), tiếp đến dưới thời vua Thiệu Trị, vua Thành Thái và được tu sửa vào năm 1957 (điện Đại Hùng được thay thế bằng bê-tông giả gỗ). Trong đợt đại trùng tu năm 2005 đến 2008, ngôi điện Đại Hùng lại được làm lại bằng gỗ như trước. Vâng, thưa đoàn! Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là Linh Mụ (bà mụ linh thiêng). Chùa được đổi tên là Linh Mụ vào năm 1862 dưới thời vua Tự Đức. Cuộc đời của vua Tự Đức thường gặp những điều không may mắn. Đất nước bị quân thù dày xéo, để mất 6 tỉnh Nam Kỳ vào tay Pháp, đặc biệt nỗi buồn lớn nhất của ông là không có con. Cho nên ông sợ chữ “Thiên” là đụng chạm đến húy Trời bị trời quở phạt. Nhà vua đã cho đổi tên thành chùa Linh Mụ. Đến năm 1869 thấy cuộc đời của mình cũng không có gì thay đổi vua mới cho dùng lại tên Thiên Mụ như trước. Vì thế trong dân gian người ta vẫn dùng cả hai tên khi nhắc đến chùa Thiên Mụ. Ngoài ra chữ “Linh” đồng nghĩa vớ chữ “Thiên”, âm người Huế khi nói “Thiên” nghe tựa “Thiêng” nên khi người Huế nói “Linh Mụ”, “Thiên Mụ” hay “Thiêng Mụ” thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa này. Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao sóng gió lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà Nguyễn. Năm 1884, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua.
Mặc dù ngôi chùa này được xây dựng ở thế kỷ XVII nhưng tổng thể kiến trúc của ngôi chùa này lại chủ yếu được hoàn chỉnh dưới 3 đời vua Nguyễn đó là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ trên cao nhìn xuống, tổng thể kiến trúc của chùa Thiên Mụ giống hình con rùa đang nằm soi bóng xuống dòng sông Hương. Toàn bộ kiến trúc của chùa nằm trên một ngọn đồi hình chữ nhật chạy theo hướng Bắc Nam. Chùa Thiên Mụ được bao quanh bằng tường đá xây hai vòng, bên trong được chia làm hai khu vực: Khu vực trước cửa Nghi Môn: Gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền đúc bê-tông có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng Tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng Tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại là nền đất và bộ móng xây bằng đá Thanh), sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch, cao 7 tầng. Hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác, một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời chúa Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp). Khu vực phía trong cửa Nghi Môn: Gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm, nhà Trai, nhà khách, vườn hoa, phía sau là hồ nước và vườn thông tĩnh mịch. Nhìn từ dưới lên chúng ta có thể thấy công trình đầu tiên là 4 trụ biểu là cổng vào chùa. Chùa Thiên Mụ nhìn từ sông Hương Phía sau 4 trụ biểu là nền của đình Hương Nguyện. Đình Hương Nguyện được xây dựng vào năm Giáp Thìn (1844) và Ất Tỵ (1845) trùng với thời gian xây dựng tháp Phước Duyên dưới thời vua Thiệu Trị. Sở dĩ bây giờ đình chỉ còn lại phần nền là vì sau trận bão năm Thìn (1904) thổi qua Kinh Thành Huế đã làm nhà cửa điện đài miếu mạo xung quanh Huế sụp đổ rất nhiều. Tại chùa Thiên Mụ, điện Di Lặc phía sau và hai dãy điện Thập Vương ở trước bị sập nát, nên vào năm 1907 khi tái thiết chùa người ta đã cho dẹp những nhà này luôn. Tượng Di Lặc được di chuyển ra trước tiền đường, hai chục tượng Thập Điện Minh Vương được chuyển ra sau điện Quan Âm. Và bộ sườn của đình Hương Nguyện được chuyển ra làm lại trên nền điện Di Lặc mà bây giờ là điện Địa Tạng. Nền Đình được ghép bằng một loại đá ở xung quanh đó là đá Thanh, nền được lát gạch Bát Tràng nhưng về sau đã bị cạy gỡ đem dùng vào nơi khác. Ở hai bên đình Hương Nguyện là hai bi đình của vua Thiệu Trị. Đó là hai nhà vuông xây gạch theo lối đúc cuốn dày, bốn mặt đều có khoét cửa tò vò. Bi đình phía Đông chứa bia nói về việc xây dựng tháp Phước Duyên nên thường gọi là bia “Ngự chế Thiên Mụ Tự Phước Duyên bảo tháp bi”. Bi đình phía Tây chứa bia khắc thơ của vua Thiệu Trị vào những lúc thăm viếng hoặc vịnh cảnh chùa Thiên Mụ mà nhà vua cho là cảnh đẹp thứ 14
trong 20 thắng cảnh ở chốn Kinh Đô. Trên cả hai bia đều đề “Thiệu Trị lục niên, tứ nguyệt cát nhật tạo”, nhằm tháng sáu năm Bính Ngọ (1846). Kiến trúc của hai bi đình này rất giống nhau. Nền bi đình hình vuông, dưới cùng có một lớp gạch vồ, nền được lát đá thanh. Phần chính giữa nền ngày xưa lát bằng gạch Bát Tràng. Từ nền lên đến vách cao hơn 2m. Cửa cuốn tò vò ở 4 mặt đều có chiều rộng giống nhau. Trong hai bi đình này đều có hai tấm bia làm từ một tấm đá thanh. Đầu bia có chạm rồng, mây. Bên dưới có một đường chạm hình hoa sen cánh phượng. Từ đuôi rồng, những cánh hoa sen rẽ ra hai ngã cân đối. Nét chữ của văn bia chạm lặn theo lối viết chân phương. Phần đầu bia giáp với thân bia có hai tai ở hai bên. Dưới chân bia cũng có hai bia xòe ra và rộng bằng tai bia. Kể từ chân lên đến đầu bia cao 1,78m. Phía sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên, một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng, mỗi tầng thờ một tượng Phật. Bảo tháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiến trúc và trong lịch sử chùa Thiên Mụ. Tháp được xây thời vua Thiệu Trị, cách đây gần một thế kỷ rưỡi. Tháp Phước Duyên
Vua Minh Mạng là người đã nghĩ ra việc xây dựng một ngôi tháp tại chùa Thiên Mụ để tấn yểm cho Kinh thành song chưa thực hiện được thì nhà vua đã băng hà, chỉ kịp để lại di ngôn cho người kế vị. Vua Thiệu Trị (1841 – 1847) lên nối ngôi. Nhà vua đã cho xây ở Thiên Mụ một ngọn tháp lớn 7 tầng gọi là Từ Nhân tháp, sau đổi lại là Phước Duyên Bửu Tháp. Theo bia hiện còn ở chùa Thiên Mụ thì chính vua Thiệu Trị là người đã vẽ nên đồ án kiến trúc tháp. Cứ như hình tháp hiện nay, người ta thấy người vẽ họa đồ đã là một kiến trúc sư đại tài, vì tính chất cân đối, kiên cố của ngôi tháp đã tỏ ra có thể chịu đựng bền bỉ với sức phá hoại của thời gian và khí hậu miền nhiệt đới. Vẻ đẹp của ngôi tháp cũng đã tỏ ra đây là một công trình kiến trúc mỹ thuật độc đáo. Ngày xưa, để kiến trúc tháp Phước Duyên chắc chắn phải có một ê-kíp người chung góp ý, mới có được đồ án như vậy. Bởi vào thời đó ông cha ta làm gì tính được lượng giác học, trọng lực và trọng lượng khối gạch đá đồ sộ ấy sẽ có một độ nén, độ lún như thế nào qua thời gian mà các Ngài đã xây dựng được một ngôi tháp vừa bền chắc vừa đẹp như thế. Phương pháp kiến trúc của ngôi tháp thì hiện nay chúng ta khó lòng biết được. Chỉ biết rằng, trong viễn tưởng tâm linh tín ngưỡng, vua Thiệu Trị đã ra lệnh thiết trai đàn 3 ngày đêm vào tháng 2 âm lịch năm Tân Sửu (1841) để tụng kinh cầu nguyện cho việc xây dựng một tòa tháp ở chùa Thiên Mụ. Công việc được chuẩn bị từ đó cho đến năm Giáp
Thìn (1844) thì tháp được khởi công xây dựng và đến năm sau Ất Tỵ (1845) mới xong. Lúc đó vua Thiệu Trị mới 34 tuổi. Lúc đầu tháp được gọi là Từ Nhân, nhưng không hiểu vì lẽ gì, sau khi làm xong vua Thiệu Trị lại đổi tên thành Phước Duyên Bửu Tháp. Tháp được xây chính giữa sân, phần ngoài của chùa, một vị trí rất đắc địa. Nếu tháp được xích ra một chút sẽ soi bóng xuống dòng sông Hương rõ hơn. Nhưng đối với toàn kiến trúc hình chữ “Nhất” sẽ thiếu cân đối, vì tháp sẽ đè nặng lên một đầu. Nếu xích vào một chút, phần trống ở bên ngoài quá nhiều thì tháp lại không soi bóng xuống dòng sông Hương được. Tháp được xây trên một nền bát giác, mặt tháp nhìn về hướng Nam chếch sang Đông 15 độ. Tầng dưới lớn, tầng trên nhỏ dần. Cứ một lớp gạch xây lên lại có sự thu dồn tỷ lệ lại, cho đến tầng cuối cùng. Trên chóp tháp có đặt một hình cam lộ. Chiều cao toàn thân tháp kể từ mặt sân lên tới đỉnh của bình cam lộ cao 37 thước, so với cách đo của thời Thiệu Trị là 5 trượng 3 thước 2 tấc, so với cách tính của chúng ta hiện nay thì được khoảng 21m24. Từ khi xây dựng đến nay tháp đã được trùng tu nhiều lần. Năm Tự Đức thứ 20 năm Đinh Mão (1867), Bộ Lễ có đến kiểm tra một lần vì tua tràng phan đứt và mũ đội trên các Tượng phật bị gián nhấm. Qua nhiều đợt trùng tu tháp vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc cơ bản như bây giờ. Như chúng ta đã biết thì tháp Phước Duyên có 7 tầng. Nhìn chung tất cả các tầng tháp đều có kiến trúc rất giống nhau, chỉ khác nhau về màu sắc. Mỗi tầng tháp đều có hoành phi nằm ngang, hai vế đối xứng thẳng tạo thế đăng đối nghiêm nghị cho mặt tháp. Sự đăng đối này có ý nghìa điều hòa tâm tưởng cho con người, vì khi nhìn vào toàn bộ mặt tháp du khách có thái độ khiêm cung tôn kính. Mỗi một tầng tháp cách nhau một gờ rất lớn, xây có dạng ngửa lên để đỡ lấy những vành mái hẹp. Các đường gờ này được tô vôi, có nhiều màu: Màu vàng, màu đỏ, màu da cam, màu khói, màu sương phủ, màu nước, màu mây, màu rêu… Đường gờ được tô uốn cong lượn như hình cánh sen nhìn nghiêng đỡ lấy vành mái hẹp lợp ngói hình ống Thanh lưu ly hoặc Hoàng lưu ly. Viên ngói được chế tạo như nửa hình ống có hai phần: Phần tráng men màu và phần không tráng men. Tám mái cửa mở, tầng tháp đều được lợp với một màu ngói giống nhau. Tầng dưới kết hợp màu vàng, tầng thứ hai màu lục trông như ngọc, tầng thứ 3 lại màu vàng… cứ như vậy xen kẽ cho đến mái của tầng cuối cùng lại lợp ngói màu vàng, màu ngói lúc đầu của tháp. Nhưng trải qua nhiều sự tác động của thời tiết mưa gió nên màu của ngói không được giống như xưa nữa. Lòng tháp được kiến trúc theo hình viên trụ. Ở giữa có một viên trụ thẳng đứng từ dưới nhìn lên tháp. Quanh viên trụ chính này là lối đi lên tháp bằng nhiều bậc cấp theo đường xoáy ốc. Muốn vào tháp, người ta đi qua 2 cánh cửa bằng đồng mở cánh ra ngoài, lại mở khóa ở cánh cửa gương ở bên trong có khung gỗ sơn vàng, trang trí bằng nhiều hình chữ
nhật, nhiều ô vuông, đẩy 2 cánh cửa vào trong thì người ta đứng ngay trước bàn thờ đức “Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Ni Phật”. Bàn thờ được xây lõm vào viên trụ lòng tháp dưới hình thức một vòi cuốn tò vò. Qua tay phải để lên 11 tầng cấp đi vòng phía sau sang tay trái, đến trước tầng thứ 2, ở đây thờ đức “Ca Diếp Phật”. Tiếp tục đi qua tay phải để lên 11 bậc cấp vòng ra sau, lên bên trái là tầng thứ 3. Đến trước bàn thờ “Câu Ná Xá Mâu Ni Phật”. Lại đi vòng quanh lên 11 tầng cấp thì đến tầng thứ 4. Tầng này thờ “Câu Lưu Tôn Phật”. Lại đi vòng qua tay phải, lên 10 tầng cấp, để từ tay trái đi ra trước bàn thờ “Tì Xá Phù Phật” ở tầng thứ 5. Đi tiếp vòng quanh để lên 9 bậc cấp, vòng qua phía trái để đến tầng tháp thứ 6, thờ đức “Thi Khí Phật”. Tất cả các bàn thờ Phật đều được kiến trúc và chạm hoa văn giống y như của tầng đầu tiên, chỉ có điều càng lên thì càng hẹp lại mà thôi. Để lên được tầng trên cùng của tháp chúng ta phải bước qua độ một bước thì thấy trước mắt có một cái thang bằng gỗ lim. Ngày xưa, thang không phải được kê thường trực ở đó mà chỗ này chỉ trống không. Nhìn lên, khung vuông ở bên trên lại có tấm cửa bằng đồng đóng khít lại và có khóa rất chắc chắn. Sở dĩ lại có lối kiến trúc lạ như vậy là bởi vì ở tầng trên cùng này pho tượng phật được đúc bằng vàng khối. Ngoài ra còn có bộ chén, bình trà bằng ngọc quý, lư hương, chân đèn, kể cả lò trầm, đài nước… Tất cả đều được đúc bằng bạc nén. Cầu thang này ngày xưa do Bộ Công cất giữ. Theo sử sách ghi lại thì kể từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Nhâm Ngọ (1942) tầng trên đã xảy ra vụ trộm tượng phật bằng vàng ròng. Do đặc trưng về kiến trúc, về màu sắc, nhất là các màu ngói Thanh lưu ly, Hoàng lưu ly, độ nung của các loại ngói này, và nét trang trí hoa văn độc đáo mà tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ được xem là một công trình văn hóa mang sắc thái mĩ thuật đặc sắc cho nền văn hóa Phú Xuân. Tháp Phước Duyên có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa vùng Á Đông, và nhất là trên bán đảo Đông Dương. Đó là văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và nhất là văn hóa Đại Việt. Bảo tháp Phước Duyên cũng thể hiện nét đặc sắc riêng của nền văn hóa Phú Xuân. Tuy nói là có sự giao thoa của những nền văn hóa cổ song các yếu tố ngoại lai đã bị biến đổi và dung hòa gần hết. Nói chung, bảo tháp Phước Duyên là một kiến trúc văn hóa dung hợp được hai nền văn hóa Trung Quốc và Chăm Pa để sáng tạo ra một nền văn hóa Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19. Nói một cách khái quát hơn, bảo tháp Phước Duyên là một thành tựu rực rỡ về tinh thần biết dung hòa và sáng tạo của Việt Nam. Hai công trình nằm trên trục ngang với tháp Phước Duyên là hai nhà lục giác ở hai bên. Được xây dựng sớm hơn hai bi đình tứ giác 31 năm, hai nhà lục giác này thuộc kiến trúc mỹ thuật thời vua Gia Long, cùng lần với Nghi Môn, lầu chuông và lầu trống ở phía bên trong. Chúng cũng biểu trưng cho sắc thái kiến trúc thuộc về văn hóa của một triều đại
khác với triều đại Thiệu Trị, hai nhà lục giác này trông rất bề thế, kín đáo và kiên cố hơn hai bi đình tứ giác kia. Đó chính là đặc trưng của mọi kiến trúc dưới thời vua Gia Long. Nền xây bằng gạch vồ, lại cũng khác với hai tứ giác ở phía ngoài ở chỗ là hai nhà lục giác này có xây dựng bậc tam cấp để đi lên. Mặt hai nhà luc giác đối nhau, tức là đều quay ra tháp. Mặt nền được lát viền một lớp đá thanh xung quanh, tất cả có khoảng 30 viên đá. Ngày xưa, giữa nền được lát bằng gạch Bát Tràng, nhưng trong đợt đại trùng tu năm Mậu Tuất (1958) người ta đã tráng thay bằng xi măng. Trên nền lục giác là ngôi nhà đúc cuốn bằng gạch và vôi keo hồ. Nhà lục giác phía Tây là gác treo Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn, một cái chuông lớn. Đại Hồng Chung là một công trình đặc sắc về việc trình bày nhiều mô típ của nghành điêu khắc, hội họa, ngoài ra lại còn đặc sắc về kỹ thuật đúc đồng cỡ lớn nữa. So với chuông Gia Long ở trên gác chuông cao, ta thấy Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn đã có kĩ thuật đúc đồng tốt hơn. Nếu so với Đại Hồng Chung của vua Thiệu Trị đúc vào năm Bính Ngọ (1846) hiện còn để lại chùa Diệu Đế, người ta lại thấy rõ kỹ thuật đúc đồng dưới thời minh vương Nguyễn Phúc Chu đã đạt đến trình độ tinh xảo nổi bật mà các đời sau không sao theo kịp. Chuông cao 2,5m nặng 3.825 cân xưa. Chu vi của chuông rất lớn, chu vi miệng chuông đo được là 4,36m. Vòng cườm đo được 3,6m. Còn chu vi ở giữa thân là 3,56m. Đường kính miệng chuông kể từ bên này sang bên kia theo vòng ngoài đo được là 1,36m. Mặt trên quả chuông có 8 chữ Thọ khắc theo lối chữ Triện, ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài viết của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba. Tương truyền rằng tiếng chuông Đại Hồng Chung vang xa 12 dặm. Có nghĩa là từ chùa Thiên Mụ đánh mà ở biển Thuận An vẫn có thể nghe được. Đại hồng chung Nhà lục giác phía Đông chứa bia của Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m. Bia nói về việc xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm Giáp Ngọ (1714), cao 2,6m, rộng 1,25m. Đây chính là tấm bia mà Phan Huy Ích đời Tây Sơn đã từng mô tả trong câu: “Dựng bia đá trắng khắc văn ghi tiệc”. Thực ra chỉ có đầu bia và con rùa là bằng cẩm thạch trắng, còn thân bia là cẩm thạch màu đen. Toàn bộ sự trình bày ở bia này là cả một công trình điêu khắc có giá trị mỹ thuật rất lớn. Bia dựng trên lưng một con rùa, con rùa nằm trên cái bệ, bệ lại được chạm thành một cái kỷ có bốn chân quỳ và một đường hồi văn. Theo quan niệm tâm linh của người thời xưa, rùa là một trong tứ linh “long, lân, quy, phụng”, nó biểu hiện cho sự trường tồn vĩnh cửu.
Nhà bia phía Đông Phía sau tháp Phước Duyên có một tấm bia lộ thiên. Đó là bia của vua Khải Định, dựng vào ngày 27/11/1919 (năm Khải Định thứ tư, Kỷ Mùi). Bia có 15 chữ nói về chùa Thiên Mụ. Do thời gian và những tác động của thời tiết cho nên hiện nay các chữ trên bia đã bị mờ đi nhiều. Tiếp đến là cổng Tam Quan, Tam là 3, quan nghĩa là cách nhìn nhận. Tam Quan là 3 cách nhìn nhận Phật Giáo, cửa chính ở giữa gọi là Trung quan, bên tay phải là Không quan và bên tay trái là Giả quan. Trên biển có đề 3 chữ Hán “Linh Mụ Tự”. Cửa Tam Quan và hai đoạn thành bên trên có thể xem như phần kiến trúc mặt trước của chùa. Phía tây có lầu trống, phía đông có lầu chuông. Tất cả là những kiến trúc có từ thời vua Gia Long làm lại chùa Thiên Mụ từ năm Ất Hợi (1815).
Cửa Tam Quan và tấm bia lộ thiên
Tam Quan là phần cửa chính đi vào chùa. Nhìn đại thể Nghi Môn có hai phần rõ ràng, phần dưới gồm có 3 cửa chính. Tất cả đều được xây trên nền một hình chữ nhật rộng 4,76m và dài 13,6m. Lên 3 bậc Tam cấp thì đi đến nền Tam Quan. Hai đầu bậc tam cấp đi lên có đắp hình rồng và kiểu thức hóa. Nền này ngày xưa được lát gạch Bát Tràng, song từ đợt trùng tu năm Kỷ Hợi (1959) thì người ta tráng xi măng, chỉ ngoài mép có viền bằng đá Thanh. Từ ngoài nhìn vào, theo chính diện, người ta thấy Tam quan được chia làm ba gian, cách nhau bằng những bức vách. Trước mỗi bức vách được kiến trúc thành một trụ vách. Ba gian của Tam quan có chiều dài khác nhau, gian giữa rộng hơn hai gian cửa hai bên. Mỗi cửa đi vào có đắp tượng Kim Cang Hộ Pháp rất lớn bằng đất sét trộn trấu và rơm, bên ngoài sơn phết bằng vôi màu. Ba cửa có tất cả là 6 pho tượng, các pho tượng này ngày xưa đều đứng trên bệ có lát gạch Bát Tràng, hiện tại thì có lát xi măng. Mỗi tượng đều có dáng điệu riêng, một vũ khí và cách cầm vũ khí riêng, nét mặt rất sinh động. Qua những pho tượng này là đến cửa, cả 3 cửa đều được kiến trúc lối uốn tò vò ở bên trên. Sau các cung uốn tò vò, mỗi cổng có hai cánh rất lớn đóng bằng gỗ cứng. Hai cửa hai bên đều có ngói lợp tận nóc, còn cửa giữa lại côi lên phần đầu. Phần này lại hướng mặt vào chùa và quay lưng ra bên ngoài. Bốn góc đều có giao cù cách điệu. Hai nóc của tầng dưới thì hai đầu Đông – Tây vẫn có hình đám mây cách điệu hóa rồng. Hai bên Tam quan có hai dãy thành cao kéo dài ra tận hai đầu ở hướng Tây và hướng đông. Cuối hai cửa này là hai cửa vào kiến trúc theo kiểu cổ rất to và trình bày nhiều gạch men có hoa văn. Nhưng cửa này ngày nay chỉ còn là vết tích.
Phía trên hai đoạn thành là lầu trống và lầu chuông, những kiến trúc đã có từ thời vua Gia Long làm lại chùa năm Ất Hợi, từ đó đến nay đã qua nhiều lần sửa chữa, vị trí và các kiến trúc vẫn giữ theo cách cổ truyền ngày xưa. Lầu chuông được xây trên một cái nền cao hơn la thành, từ nền dưới lên đên mặt nền trên xem như là một trụ vuông thẳng đứng, bên trong ruột xây đặc. Chúng ta có thể đi từ mặt đất lên gác chuông bằng những tầng cấp. Tất cả những đòn tay, rui mè ở phần mái lầu chuông đều từ xưa truyền lại nên có chỗ đã có dột nát cũ kĩ. Mái và chái lầu chuông đều được lợp ngói liệt, trên nóc có một đường tàu nóc. Chính giữa có một búp hoa sen, hai đầu tàu nóc có hoa văn hoa lá uốn cong lên. Bốn mái có đến 8 giao cù được tạo hình theo thế “mỏ cu”. Xung quanh phần mái lợp có đóng tua viền vân kiên bằng gỗ chạm. Trên nền gác giá treo chuông được dựng theo chiều dọc với dãy thành. Chuông được treo lên giá bằng hai cái đai sắt rất lớn. Chuông này được đúc dưới thời vua Gia Long. Chuông có âm thanh kỳ diệu thường được gọi là tiếng chuông Thiên Mụ. Chuông này nhỏ hơn chuông thời chúa Nguyễn Phúc Chu để ở nhà lục giác bên ngoài Nghi môn. Nhưng hình thái quả chuông thì tương tự nhau. Chỉ khác là thân chuông thời vua Gia Long không có khắc chữ nhiều như chuông thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Nhưng lại giống nhau là khung ở bên trên hai chuông đều có 8 chữ “Thọ” triện. Chuông thời vua Gia Long có nét đặc trưng riêng mà không nơi nào có và không thời nào có: Đó là âm thanh của quả chuông. Âm thanh này huyền diệu đến nỗi mấy chữ “Hồi chuông Thiên Mụ” hoặc “Tiếng chuông Thiên Mụ” đã trở thành một thành ngữ lung linh ảo điệu để đi vào thơ văn, phim ảnh và âm nhạc. Biết bao bài hát nói về xứ Huế đã dùng những chữ này để hát lên trong điệu nhạc trầm buồn, gợi nhớ.
Lầu chuông Lầu trống hay gác trống đối diện với lầu chuông qua Nghi môn. Nhìn chung kiến trúc của lầu trống cũng giống với gác chuông, chúng đều là những kiến trúc cổ dưới thời vua Gia Long. Trên nền cao của gác trống đặt giá trống, giá này được chạm trổ hình rồng, đuôi rồng ở dưới đế, hai đầu rồng ngẩng cong ra hai bên để đỡ lấy vành tang trống. Trừ hai đầu rồng, còn tất cả các thanh gỗ đều chạm thành vảy rồng. Điểm đặc biệt là tang trống rất lớn, bằng gỗ mít đục luôn theo hình thân cây chứ không gép. Đường kính miệng trống đo được là 1,08m, đường kính giữa bụng trống là hơn 1,4m. Phía trong cửa Nghi môn là hai dãy nhà đối diện nhau là dãy Lôi Gia. Mỗi dãy có 3 pho tượng Dược Xoa Đại Tướng rất lớn.
Lầu trống Công trình tiếp theo là điện Đại Hùng, ngôi điện có lịch sử lâu dài và quy mô tráng lệ. Mặc dù đã trải qua nhiều lần sửa chữa điện đã có nhiều thay đổi, song nói chung về đại thể người ta vẫn tôn trọng hình thức cổ truyền. Cho nên bao giờ điện Đại Hùng cũng vẫn có sắc thái của một kiến trúc thời xưa. Nhìn trong bối cảnh toàn bộ ngôi chùa, điện Đại Hùng có vẻ thấp, nhưng không phải tòa nhà thấp mà vì tòa nhà lớn và khá dài. Tuy nhiên càng tăng thêm vẻ cổ kính, uy nghiêm của ngôi chùa. Điện Đại Hùng có tượng Phật Di Lặc rất lớn tôn trên bệ cao ở chính giữa. Chính điện Đại Hùng là một tòa nhà cao lớn, mặc dù chỉ có ba gian hai chái. Nơi này được bố trí các bàn thờ để thờ các tượng Phật, thờ Kinh Phật.
Điện Đại Hùng
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó còn có hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam Đào Tấn. Phía sau Điện Đại Hùng là nhà tăng, nơi đây chứa chiếc xe của hòa thượng Thích Quảng Đức (trụ trì chùa Thiên Mụ). Di vật này còn gắn với một sự kiện lớn đã gây động trong lịch sử. Sáng ngày 11/6/1963 hòa thượng Thích Quảng Đức (thế danh Lâm Văn Tức) đã lái chiếc xe này sau đó tự thiêu để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Việc tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức đã làm thổn thức bao trái tim con người, vừa nhỏ lệ về cái chết cao cả của hòa thượng, vừa khâm phục vì lòng hiếu phật, biết hi sinh vì phật giáo nước nhà.
Di vật: Chiếc xe mà hòa thượng Thích Quảng Đức đã từng đi Phía bên phải là điện Địa Tạng. Điện được xây dựng lại từ phần khung của đình Hương Nguyện. Ngày xưa điện này cũng lớn như điện Đại Hùng và gọi là điện Di Lặc có đặt
tượng Di Lặc. Nay còn thấy dấu tích của nền điện cũ. Sau trận bão năm Thìn (1904) tượng Di Lặc được chỉnh ra trước Tiền Đường. Ngôi điện này cũng đã được tu sửa nhiều lần, cho nên việc thờ tự cũng thay đổi. Trong điện này có pho tượng Địa Tạng cưỡi trên con Đế Thính được đặt ở chính giữa, hai bên là bàn thờ linh. Cùng trên một trục với điện Địa Tạng là điện Quan Âm, ở phía sau lưng điện này. Vị trí điện đã có từ thời vua Gia Long và đến nay vẫn chưa dịch chuyển. Nhìn chung điện Quan Âm không có gì thu hút, trừ bảng hoành và các bậc tam cấp ở trước là có vẻ đời xưa nên đượm vẻ cổ kính. Từ nóc nhà cao một mái lợp bằng ngói liệt chạy từ trên xuống. Hai đầu chái, từ nóc thẳng xuống cho tới một đoạn vách hình tam giác, rồi từ đường đáy hình tam giác đó kéo xuống mái chái to rộng. Tất cả đều mang sắc thái đơn giản. Cách thờ tự của điện Quan Âm cũng rất giản dị. Chính giữa là pho tượng “Quan Thế Âm thủ quyền” bằng đồng rất lớn, ngồi trên tòa sen. Tòa sen này lại được đặt trên một đế gỗ thắt cổ bồng cao chạm trổ đầy hoa văn và sơn son thếp vàng lộng lẫy. Pho tượng đồng này là một trong những pho tượng đồng từ xưa còn lại. Tượng hình Quan Thế Âm Bồ Tát, đội mũ có tượng phật ở trước, nét mặt pho tượng rất hiền dịu, thanh thoát. Nhất là hai tay, những ngón tay thon nhỏ và dài rất có nghệ thuật tạo hình. Công trình cuối cùng trong tổng thể chùa Thiên Mụ là mộ tháp của hòa thượng Thích Đôn Hậu. Hòa thượng có pháp danh là Trừng Nguyện, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái Thiền Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương Thuần. Sinh vào ngày 13 tháng Giêng năm Ất Tỵ (16/2/1905) tại làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Theo một số tài liệu thì “Năm 1945, Ngài thay thế bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật Học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, Ngài nhận được chức trụ trì Quốc Tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, Ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên Hiệp Trung Bộ”. Hòa thượng viên tịch vào ngày 23/4/1992 (nhằm ngày 21/3 Nhâm Thân) tại chùa Thiên Mụ, trụ thế 88 năm. Phía sau phần mộ tháp là rừng thông tĩnh mịch.
Mộ của hòa thượng Thích Đôn Hậu Vâng, thưa quý khách!
Bốn trăm năm qua biết bao lần trùng tu xây dựng đã làm nên một ngôi đại cổ tự của đất Thiền Kinh. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt vời, đã trở thành một trong những biểu tượng của Huế. Tọa lạc bên bờ sông Hương thơ mộng, chùa Thiên mụ với kiến trúc cổ kính đã góp phần điểm tô cho bức tranh thiên nhiên nơi đây càng thêm duyên dáng, thi vị. Tiếng chuông chùa như linh hồn của Huế, vang vọng mãi trong dòng nước sông Hương chảy qua trước Kinh Thành, xuôi về cửa biển, đọng lại trong lòng khách phương xa khi đến Huế một nỗi niềm vương vấn chốn Thiền Kinh. Có lẽ vì thế mà du khách thập phương đã xem chùa Thiên Mụ như là một điểm đến trang nghiêm khó lòng mà bỏ qua được. Đúng như nhà thơ Quách Tấn đã viết về chùa Thiên Mụ rằng: Những người phiền não trường danh lợi Đến đó thời lòng cũng phải khuây. Chùa Thiên Mụ như một chứng nhân lịch sử diễn ra trên đôi bờ sông Hương. Ngôi chùa vẫn luôn tồn tại trong tâm thức người dân Huế nói riêng và đời sống văn hóa người Việt Nam nói chung.