BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ GÁI
THẾ GIỚI TÂM LINH TRONG TRUYỆN THƠ NÔM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN Trong quá trình tham gia khóa học Sau Đại học và thực hiện luận văn này, người viết đã đón nhận sự giúp đỡ, chia sẻ, động viên của khá nhiều bạn bè, đồng nghiệp và quí Thầy Cô. Người viết xin chân thành biết ơn PGS. TS. Lê Thu Yến – Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Cô đã cảm thông, chia sẻ và hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn người viết trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn quí Thầy Cô trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý Thầy Cô trong ban giảng huấn đã tận tình truyền đạt kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Xin cảm ơn Ban Giám Hiệu và tập thể giáo viên Tổ Văn Trường THPT Thạnh Lộc đã tạo điều kiện cho người viết trong quá trình tham gia khóa học Sau Đại học. Xin cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo và quí đồng nghiệp cơ quan Công đoàn Giáo dục Thành phố, Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã chia sẻ, tạo điều kiện cho người viết trong quá trình thực hiện luận văn. Xin cảm ơn tất cả quí đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã chia sẻ, động viên, giúp đỡ người viết trong suốt quá trình thực hiện và hoàn tất luận văn. Tuy đã cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được sự chỉ dẫn của quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp và bạn bè. Người thực hiện Luận văn Nguyễn Thị Gái
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bất kỳ thời đại nào của xã hội, cuộc sống của con người đều có mối quan hệ tiềm ẩn với thế giới tâm linh. Một mối quan hệ có lúc hiển hiện khá rõ trong sinh hoạt văn hóa, tinh thần của con người nhưng cũng có lúc tồn tại ẩn kín trong tâm hồn, trong nếp nghĩ của cá nhân, cộng đồng mà chúng ta thật sự chưa lý giải hết… Có thể nói, thế giới tâm linh là đời sống tinh thần vô cùng huyền bí của nhân dân chi phối rất nhiều đối với cuộc sống và rất quan trọng đối với mọi người. “Thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở của cái thiêng liêng ấy”. [70, tr. 115] Theo Đỗ Lai Thúy, “con người là một thực thể đa chiều…Đó là bản chất sinh học, bản chất xã hội và bản chất tâm linh. Ba bản chất này tạo thành chiều sâu, chiều rộng và chiều cao của con người”. [103, tr. 7]. Chính vì vậy, đời sống của con người luôn tồn tại và tiềm ẩn thế giới tâm linh, một lĩnh vực của đời sống tinh thần. Đó là một lĩnh vực gắn liền với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt… không chỉ có ở đời sống tôn giáo mà còn có cả trong đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Không chỉ có Trời, Phật, Thần, Thánh mới thể hiện sự thiêng liêng mà đất nước, quê hương, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý, đạo làm người cũng thiêng liêng không kém. Vì vậy, thế giới tâm linh luôn tồn tại trong đời sống con người và trở thành truyền thống văn hóa đậm nét qua mọi thời đại. Đó là một giá trị cơ bản và vĩnh hằng của đời sống con người. Qua nhiều tài liệu nghiên cứu về tâm linh, có thể nói Nguyễn Đăng Duy đã đúc kết thật sự giá trị về tâm linh: “Tâm linh là những cái trừu tượng thiêng liêng, thanh khiết, giá trị tâm linh bắt nguồn từ cái thiêng liêng. Tâm linh là cái nền vững chắc, là hằng số, và vĩnh cửu trong nhiều mối quan hệ con người.” Thế giới tâm linh luôn tồn tại trong lòng mọi người. Điều đó được thể hiện thật sinh động trong văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn học trung và hiện đại. Trong đó, văn học Trung đại là một bộ phận văn học thể hiện khá phong phú thế giới tâm linh cả trong văn xuôi và trong Truyện thơ Nôm. Đặc biệt, Truyện thơ Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo, có giá trị và nó cũng có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người bình dân xưa. Vì vậy, thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm cũng vô cùng phong phú, đa dạng và có dấu ấn riêng. Chính điều này đã hấp dẫn tôi chọn đề tài: “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm” để làm luận văn cho khóa học của mình. Cùng với xu hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thế mạnh của khoa học tự nhiên
đang ngự trị thì việc tìm về “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm” như sự tìm về những giá trị tinh thần thiêng liêng, cao quý của dân tộc. 2. Mục đích nghiên cứu Với sự đa dạng, phong phú, với những giá trị thiêng liêng và huyền diệu của thế giới tâm linh, nó góp phần thể hiện sâu sắc hơn thế giới tinh thần của con người. Cùng với sự ra đời và phát triển của văn học Trung đại, Truyện thơ Nôm đã góp phần thể hiện chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Những biến động xã hội đã ảnh hưởng đến tư tưởng, đạo đức của chế độ phong kiến và làm nảy sinh, phát triển tư tưởng nhân văn của thời đại. Đó cũng là cội nguồn tư tưởng nhân văn của Truyện thơ Nôm. Từ nền tảng trên, luận văn hướng đến tìm hiểu nét độc đáo của Truyện thơ Nôm từ khía cạnh thế giới tâm linh để minh chứng cho thế giới tinh thần phong phú của người bình dân lúc bấy giờ. Đồng thời luận văn muốn khẳng định về sự tồn tại và giá trị vững bền của thế giới tâm linh trong tư tưởng, nhận thức, tình cảm của con người nhất là trong giai đoạn hội nhập, giao lưu văn hóa nhưng chúng ta vẫn giữ lại được những nét truyền thống quý báu riêng của dân tộc Việt Nam.
3. Lịch sử vấn đề Với đề tài “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm”, chúng tôi xuất phát từ việc tìm hiểu quyển “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm. Với giáo trình này, chúng tôi nhận thấy có các vấn đề tạo nền tảng cho thế giới tâm linh sinh sôi, phát triển. Đó là, đất nước ta thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp nên trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Chính vì vậy, người Việt Nam mở miệng ra là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”. Từ đó, người Việt đã hình thành tục thờ cúng, khấn vái, cầu đảo, tôn thờ Trời, Phật… thể hiện tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Trần Ngọc Thêm cũng đề cập đến khía cạnh tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định, lâu dài với nhau, phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Lối sống tình cảm ấy dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn trong cộng đồng, tập thể. Bên cạnh đó, triết lý âm dương tạo nên mối liên thông giữa âm - dương hình thành tín ngưỡng sùng bái con người. Người còn sống là ở cõi dương, người chết sang cõi âm, thế giới của âm ti, âm phủ; chết là tiếp theo sự luân hồi chứ không chấm dứt. Từ đó, con người có quan niệm về hồn ma, hóa kiếp, không gian âm phủ… Về văn hóa tâm linh, với khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, hầu hết các tác giả đều đề cập đến các vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, các tác giả thường chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng và nhìn nhận một cách khái quát.
Với công trình “Văn hóa tâm linh”, Nguyễn Đăng Duy tập trung những khái niệm khá sâu sắc về văn hóa tâm linh – một sự gắn bó sâu sắc với đời sống con người. Công trình đã xác định văn hóa tâm linh là một phần của văn hóa tinh thần, biểu hiện những giá trị thiêng liêng, cao cả trong cuộc sống đời thường với những biểu tượng, thần tượng và những kỳ vọng vươn tới chân – thiện – mỹ… Đây là công trình tập trung nghiên cứu về văn hóa tâm linh của người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín ngưỡng thần thánh, trời đất, thờ cúng tổ tiên, thờ mẫu, tang ma và các tôn giáo Phật, Đạo, Thiên chúa giáo. Công trình đề cập đến thế giới tâm linh trong nhiều mặt của đời sống: cá nhân, gia đình, tôn giáo, mê tín dị đoan… Công trình cũng xác định văn hóa tâm linh là cái nền vững chắc của mối quan hệ cộng đồng, làng xã và là một vấn đề hết sức rộng lớn. Cũng với tác giả Nguyễn Đăng Duy, ở công trình “Văn hóa tâm linh Nam Bộ”, tác giả tập trung thể hiện những ý niệm thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và những niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng dân cư sinh sống trên đất Nam Bộ. Công trình tập trung nghiên cứu về đặc điểm tính cách tâm linh của bộ phận dân cư chủ yếu ở Nam Bộ, biểu hiện ở mối quan hệ không gian, sự xuất hiện những nét tín ngưỡng mới. Và tâm linh thể hiện trong các tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu..., tâm linh trong Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành… Ngoài ra, tác giả còn giới thiệu văn hóa tâm linh ở các dân tộc ít người: Khơme, Chăm, Hoa. Ở công trình “Văn hóa tâm linh Nam Bộ”, Nguyễn Đăng Duy đã hệ thống về đời sống tâm linh của các cộng đồng cư dân trên đất Nam Bộ từ xưa đến nay. Với công trình “Tôn trọng tự do tín ngưỡng bài trừ mê tín dị đoan” của nhà Dân tộc học Trương Thìn, công trình đã giúp chúng ta xác định được giá trị đích thực của văn hóa tâm linh, thế giới tâm linh – những biểu hiện của đời sống tinh thần phong phú. Đồng thời, tác giả cũng cho chúng ta thấy sự phức tạp, ranh giới rất ngắn giữa thế giới tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo đúng nghĩa với sự lợi dụng từ tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo để phát triển mê tín dị đoan – một biến dạng của văn hóa tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo cần phải bài trừ. Ngoài ra, nghiên cứu về tâm linh và các nội dung liên quan đến tâm linh, tín ngưỡng, chúng tôi cũng đi vào tìm hiểu các công trình của Nguyễn Đăng Duy về Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Tất cả các công trình đều liên quan đến tâm linh nhưng chỉ mang tính chất chung về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Ở lĩnh vực nghiên cứu Truyện thơ Nôm người Việt, chúng tôi tập trung vào các công trình: - Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học, luận án tiến sĩ Ngữ văn của tác giả Lê Thị Hồng Minh, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. - Truyện Nôm bình dân của người Việt – lịch sử hình thành và bản chất thể loại, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Kiều Thu Hoạch, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
- Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm của tác giả Đặng Thanh Lê. - Văn hóa ứng xử trong Truyện thơ Nôm, luận văn của Triệu Thuỳ Dương, trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Ở các công trình trên, các tác giả tập trung đi vào nghiên cứu khía cạnh ngôn ngữ, thể loại, nhân vật của loại hình Truyện thơ Nôm và văn hóa ứng xử. Các công trình này chưa đề cập đến vấn đề tâm linh của Truyện thơ Nôm. Liên quan và gần gũi với thế giới tâm linh, chúng tôi tìm hiểu hai Luận văn: - Truyền thống văn hóa Việt trong Truyện Kiều, luận văn thạc sĩ của Đặng Văn Kim, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. - Tín ngưỡng dân gian và quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, luận văn của Trần Ngọc Minh Nguyệt, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Hai công trình này tập trung vào một Truyện thơ Nôm cụ thể là “Truyện Kiều”. Một công trình thì nghiên cứu theo hướng văn hóa người Việt, tác giả có sự đối chiếu, so sánh khá chi tiết giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ đó, công trình đã nêu lên những nét văn hóa có tính truyền thống của người Việt. Một công trình thì nghiên cứu theo hướng lý giải tín ngưỡng dân gian và quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều để từ đó xác định đâu là nguồn gốc hình thành quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Như vậy, từ hai nguồn tìm hiểu về văn hóa tâm linh và Truyện thơ Nôm cho chúng ta nhận thấy đó là hai hướng tìm hiểu, nghiên cứu độc lập. Hướng thứ nhất, các tác giả đi vào tìm hiểu tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo và sự ảnh hưởng của chúng đối với đời sống tinh thần của con người. Hướng thứ hai, các tác giả đi vào nghiên cứu Truyện thơ Nôm với các khía cạnh về thể loại, nội dung, hình thức, ngôn ngữ, nhân vật xa hơn cũng mới dừng lại ở nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong Truyện thơ Nôm. Việc nghiên cứu, tìm ra sự phối kết hợp thế giới tâm linh vào các sáng tác văn học Trung đại được Lê Thu Yến và Hoàng Thị Minh Phương thể hiện qua hai công trình nghiên cứu khá hấp dẫn. Với “Thế giới tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du – một biểu hiện của văn hóa Việt” [124], nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã có cái nhìn bao quát và hệ thống những yếu tố tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du. Qua việc phân tích, tổng hợp, thống kê những biểu hiện của thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du. Tác giả đã khẳng định: “Thế giới này biểu hiện rõ rệt trong sáng tác Nguyễn Du làm cho người đọc không thể không nhận ra. Một Văn Chiêu Hồn thấm đẫm màu sắc của thế giới bên kia, một Truyện Kiều bàng bạc không gian của cõi âm và nhất là thơ chữ Hán nhan nhản bày ra những đình, đền, miếu, mộ...” [124, tr. 29]. Với công trình “Văn hóa tâm linh trong văn xuôi Trung đại” của Hoàng Thị Minh Phương, đây là công trình đã có sự công phu, đầu tư để nghiên cứu về văn hóa tâm linh trong văn xuôi Trung
đại. Tác giả đã đề cập đến những biểu hiện phong phú của thế giới tâm linh như: giấc mộng, thờ cúng, khấn vái, điềm báo, phép thuật, tướng số, linh ứng, hồn ma hóa kiếp… Từ đó, tác giả đúc kết được hiệu quả của yếu tố tâm linh trong phản ánh hiện thực và nhận thức, tư tưởng về cuộc sống; phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đồng thời tác giả cho thấy yếu tố tâm linh có hiệu quả nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn riêng của văn xuôi Trung đại. Từ hai công trình nghiên cứu của Lê Thu Yến và Hoàng Thị Minh Phương như gợi mở và cuốn hút tôi vào thế giới tâm linh trong bộ phận Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại còn bỏ ngỏ... Có thể chúng tôi sưu tầm chưa đầy đủ về các công trình nghiên cứu liên quan đến Truyện thơ Nôm và thế giới tâm linh. Nhưng qua các công trình tìm được, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào cụ thể, chi tiết, quy mô nghiên cứu về sự phối, kết hợp thế giới tâm linh vào Truyện thơ Nôm. Trong xu thế chung, nhiều nhà nghiên cứu đang quay về tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc trong đó tâm linh là một khía cạnh đang được chú ý, quan tâm. Từ cơ sở đó đã giúp chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm hiểu, tiếp cận Truyện thơ Nôm với góc độ liên quan đến thế giới tâm linh – yếu tố cơ bản làm nên nét độc đáo, dấu ấn riêng của văn học Trung đại nói chung và Truyện thơ Nôm nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu, sưu tập tài liệu liên quan đến đề tài nhưng có lẽ số tài liệu cũng chưa thật sự phong phú nên chúng tôi chỉ chọn 30 tác phẩm có tần số xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh để khảo sát, gồm có hai mảng: * Truyện thơ Nôm hữu danh 1. “Hoa Tiên” (Nguyễn Huy Tự).
3. “Truyện Kiều” ( Nguyễn Du).
2. “Sơ Kính Tân Trang” (Phạm Thái).
4. “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) .
* Truyện thơ Nôm khuyết danh 5. Phạm Tải – Ngọc Hoa.
15. Truyện Chàng Chuối
6. Mã Phụng – Xuân Hương.
16. Trinh Thử Tân Truyện
7. Phương Hoa.
17. Chuyện Cái Tấm – Cái Cám
8. Tống Trân – Cúc Hoa.
18. Phạm Công Cúc Hoa
9. Phan Trần.
19. Truyện Từ Thức
10. Bà chúa Ba.
20. Thoại Khanh Châu Tuấn
11. Hoàng Trừu.
21. Gương sáng trời Nam
12. Lý Công
22. Thạch Sanh
13. Lưu Nữ Tướng
23. Liễu Hạnh Công Chúa – Diễn Âm
14. Bần Nữ Thán
24. Nhị Độ Mai.
25. Nữ Tú Tài 26. Quan Âm Thị Kính 27. Bích Câu Kỳ Ngộ 28. Phù Dung tân truyện 29. Lâm Tuyền Kỳ Ngộ 30. Trần Minh khố chuối
Chúng tôi sẽ khảo sát trên các văn bản đang hiện hành, phổ biến. Từ các thao tác thống kê, phân loại các yếu tố tâm linh trong các truyện đã xác định dựa vào văn hóa tâm linh như phong tục, tập quán, tín ngưỡng… Chúng tôi sẽ đi vào giải thích một số yếu tố tâm linh để từ đó thấy được giá trị nghệ thuật, vai trò, ý nghĩa của thế giới tâm linh. Chính nó đã góp phần làm nên nét độc đáo của Truyện thơ Nôm. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn tập trung tìm hiểu sự đa dạng, phong phú của thế giới tâm linh trong một số Truyện thơ Nôm. Từ đó, luận văn xác định giá trị nghệ thuật của yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm. Đồng thời, luận văn cũng đúc kết những giá trị bền vững của các yếu tố tâm linh trong đời sống con người. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi sẽ sử dụng nhiều phương pháp luận nghiên cứu Văn học. Bên cạnh đó, với đối tượng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ tập trung vào các phương pháp lịch sử, hệ thống và phân tích, tổng hợp. 6.1 Phương pháp lịch sử Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy, phương pháp hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội, môi trường văn hoá, tư tưởng chung của thời đại, mối tương tác của chúng với các tác giả, sự ra đời của các tác phẩm để lý giải các yếu tố tâm linh trong một bộ phận văn học của một thời đại. 6.2 Phương pháp hệ thống Chúng ta coi Truyện thơ Nôm là một cấu trúc, một hệ thống nhỏ trong hệ thống nền văn học Trung đại bao gồm nhiều đơn vị tác phẩm và từng tác phẩm cụ thể để có cái nhìn bao quát, đồng thời xem xét chúng trong tương quan với văn học dân gian và văn học cận hiện đại. Phương pháp giúp chúmg ta có cái nhìn hệ thống trong quá trình nghiên cứu. 6.3 Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp chúng ta tiến hành phân tích các yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm từ đó tổng hợp lại và đưa ra những nhận định chung về ý nghĩa của yếu tố tâm linh trong tác phẩm. Ngoài ba phương pháp nghiên cứu trên, trong quá trình thực hiện Luận văn chúng tôi sẽ kết hợp các thao tác thống kê, phân loại, so sánh tần số xuất hiện của các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm và đơn vị tác phẩm. Từ đó, các phương pháp, các thao tác này giúp chúng ta thấy mức độ ảnh hưởng của yếu tố tâm linh đối với sáng tác của các tác giả và cả thời đại văn học cũng như hiệu quả của chúng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Truyện thơ Nôm. 7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn sẽ triển khai trong ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung 1.1. Truyện thơ Nôm 1.1.1 Sự ra đời và phát triển 1.1.2 Phân loại 1.1.3. Nội dung 1.1.4 Hình thức 1.2. Thế giới tâm linh và cơ sở hình thành 1.2.1. Các khái niệm: 1.2.1.1. Văn hóa 1.2.1.2. Tâm linh 1.2.1.3. Thế giới tâm linh 1.2.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt và Truyện thơ Nôm 1.2.2.1. Cơ sở tư tưởng của Việt Nam 1.2.2.1.1. Từ triết lý âm dương 1.2.2.1.2. Từ tín ngưỡng dân gian 1.2.2.2. Cơ sở tư tưởng của Nho – Phật – Đạo Chương 2: Những biểu hiện của yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm 2.1. Tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời , Phật, Thần, Tiên 2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng 2.1.2. Trời, Phật, Thần, Tiên 2.2. Duyên kiếp, số mệnh, bói toán 2.2.1. Duyên kiếp, số mệnh 2.2.2. Bói toán 2.3. Hồn ma 2.4. Lời thề 2.5. Phép lạ 2.6. Chiêm bao, mộng mị Chương 3: Yếu tố tâm linh và sức hấp dẫn của Truyện thơ Nôm 3.1. Yếu tố tâm linh phản ánh hiện thực và trí tưởng tượng phong phú của con người 3.1.1. Thế giới thiên đình 3.1.2. Thế giới âm phủ 3.1.3. Thế giới dương gian 3.2. Yếu tố tâm linh và chức năng hoá giải những vấn đề xã hội 3.3. Yếu tố tâm linh kế thừa và tiếp nối
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Truyện thơ Nôm 1.1.1. Sự ra đời và phát triển Truyện thơ Nôm là một bộ phận Văn học khá độc đáo, có dấu ấn riêng trong văn học Trung đại. Dù sự ra đời của Truyện thơ Nôm cũng chỉ dừng lại ở các giả thuyết của các nhà nghiên cứu nhưng hầu như các nhà nghiên cứu xác định Truyện thơ Nôm ra đời trên nền tảng của Văn học dân gian. Theo giáo sư Đinh Gia Khánh: “Truyện Nôm chỉ là một hiện tượng chứng tỏ ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ của văn học dân gian vào văn học viết bằng chữ Nôm của trí thức phong kiến. Đó là ảnh hưởng của truyện cổ tích. Nhưng ở đây lại còn phải thấy ảnh hưởng rất lớn của thơ ca dân gian. Thể thơ trong Truyện Nôm bắt nguồn từ thể thơ dân gian. Ngôn ngữ văn học trong Truyện Nôm cũng bắt đầu từ ngôn ngữ thơ dân gian. Cho nên sự nở rộ của Truyện Nôm trong khoảng từ thế kỷ XVI trở đi, đặc biệt là từ thế kỷ XVIII cũng lại phản ánh tình hình thơ ca dân gian trong các thế kỷ ấy”. [51, tr. 67] Khảo sát Truyện thơ Nôm trong kho tàng Truyện Nôm hiện nay, chúng ta có thể thấy Truyện thơ Nôm có hai loại: một loại viết theo thể thơ lục bát, một loại viết bằng thể thơ đường luật. Theo Nguyễn Lộc, “Truyện Nôm đường luật ra đời trước thế kỷ XVIII, từ thế kỷ XVIII trở đi không thấy có nữa. Còn Truyện Nôm lục bát thì không xác định ra đời khi nào nhưng chỉ biết nó phát triển nhiều nhất ở cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX” [64, tr.30] Theo Đặng Thanh Lê: “Sự ra đời của Truyện Nôm bắt nguồn từ một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”. [61, tr. 50] Kết hợp hai ý kiến của Nguyễn Lộc và Đặng Thanh Lê, chúng ta gắn vào lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam thì hai giả thuyết trên có cơ sở. Bởi vì bắt đầu thế kỷ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến cầm quyền của giai cấp thống trị và mâu thuẫn giữa nhân dân bị trị với triều đình đã dẫn đến sự sụp đổ của triều Lê, thay vào nhà Mạc. Nhà Mạc cũng không giữ được sự đoàn kết, phát triển bởi những mâu thuẫn trước đó vẫn tiếp tục ngấm ngầm và cuối cùng bùng phát qua các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Đặc biệt là đến thế kỷ XVIII, xã hội phong kiến ngày một khủng hoảng dẫn đến đời sống nhân dân ngày một đau khổ, lầm than; những truyền thống đạo đức tốt đẹp ngày một lung lay và phá vỡ. Có lẽ đây là nền tảng cho những ước mơ, khao khát về công lý, tình người, cuộc đời… là cơ sở cho tư tưởng nhân văn nảy sinh và phát triển. Đó cũng là cội nguồn phát triển của Truyện thơ Nôm như Đặng
Thanh Lê đã nhận định “Truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kỳ phong kiến suy tàn mang ý nghĩa phản ánh một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp dưới chế độ phong kiến” [61, tr.57]. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Truyện thơ Nôm ban đầu là loại truyện truyền khẩu từ các nghệ nhân hát rong. Sau đó, các nho sĩ đã ghi chép lại các Truyện thơ Nôm đã có trước đó và tiếp tục sáng tác mới nên Truyện thơ Nôm với hình thức viết đã được ra đời. 1.1.2. Phân loại Truyện thơ Nôm là một bộ phận khá lớn trong văn học Trung đại. Theo nhiều hướng nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu theo những khía cạnh khác nhau, Truyện thơ Nôm dựa vào tác giả có hai loại Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh; dựa vào nội dung, hình thức có Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học; cũng có hướng phân loại dựa theo nguồn gốc và đề tài. Cách phân loại Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh được thể hiện trong “Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam” [77] của Bùi Văn Nguyên. Theo tác giả, Truyện Nôm khuyết danh thật sự là có tác giả nhưng có thể vì lý do nào đó đã không còn xác định rõ tác giả là ai. Có thể do tâm lý coi thường những sáng tác bằng chữ Nôm, văn học Nôm được coi là văn học nôm na, đơn giản nên khi tác phẩm ra đời, tác giả cũng không được chú ý đến và dần dần bị lãng quên. Mặt khác, do Truyện thơ Nôm có nội dung phê phán, lên án các tầng lớp vua quan độc ác, tham lam nên thường bị giai cấp thống trị cấm đoán. Có thể vì điều này mà tác giả cũng ngại lưu tên mình trên tác phẩm. Chúng ta cũng cần xét đến yếu tố trước khi có chữ viết ra đời, Truyện Nôm được truyền miệng là phổ biến. Vì vậy, quá trình lưu truyền tác phẩm từ người này sang người khác, từ địa phương này sang địa phương kia và được thêm, bớt ít nhiều nên tác giả chính đã dần dần mờ nhạt và trở thành khuyết danh. Cách phân chia Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh cũng được thể hiện trong Luận án của Nguyễn Thị Chiến [12, tr.11]. Tác giả xác định cách chia này xuất hiện trước những năm 1960 từ công trình “Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn”. Sau đó, Truyện thơ Nôm đã được các nhà nghiên cứu văn học cổ, trung đại đi vào hướng nghiên cứu khác. Đó là hướng nghiên cứu sâu về nội dung, tư tưởng của truyện và đặc điểm nghệ thuật, cách thức biểu hiện. Có thể nói đây là hướng đi có tính khoa học và đi sâu vào tác phẩm hơn. Cũng từ hướng nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã cho ra đời sự phân loại Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học. Theo Nguyễn Lộc [63], Truyện Nôm bình dân là sáng tác của những nhà Nho không thành đạt, họ sống gần gũi với quần chúng nhân dân lao động. Chính vì vậy, nội dung của Truyện Nôm bình dân gắn với cuộc sống của nhân dân với các khía cạnh đạo đức khá nhiều. Vấn đề trung hiếu, tiết nghĩa, việc đấu tranh bảo vệ gia đình, tình yêu, hạnh phúc được thể
hiện khá tập trung nhưng hình thức nghệ thuật khá đơn giản. Còn Truyện Nôm bác học thì có nội dung tư tưởng và tính nghệ thuật cao hơn Truyện Nôm bình dân. Nội dung Truyện Nôm bác học đã tiến đến vấn đề bảo vệ tình yêu tự do vượt khỏi lễ giáo phong kiến, bảo vệ và giải phóng cho tình cảm chân chính. Đây là những sáng tác của những nhà Nho có học vấn cao, có khả năng khai thác và thể hiện được chiều sâu tâm trạng nhân vật. Cách phân loại này khoa học hơn và cũng có tính thuyết phục hơn. Bởi vì so với hướng phân loại Truyện Nôm hữu danh - khuyết danh, thì hướng phân loại Truyện Nôm bình dân – Truyện Nôm bác học là sự đổi mới trong nghiên cứu: đi sâu vào thi pháp truyện Nôm. Cái mới của hướng phân loại này là đi vào đặc điểm thi pháp học như kỹ năng thể hiện của tác giả qua nghệ thuật biểu hiện, qua loại hình nhân vật. Đặc biệt là chủ đề, nội dung tư tưởng của tác phẩm được thể hiện khá tập trung và sinh động. Đồng tình với hướng phân loại này, Trần Đình Hượu đã có ý kiến: “Phải nói rằng cho đến Nguyễn Đình Chiểu, một số lượng đáng kể Truyện Nôm mà ngày nay nhiều nhà nghiên cứu chia ra hai loại bác học và bình dân đã làm cho thể loại đó gần như ổn định, có nề nếp và ít nhiều đã hình thành một thứ khuôn khổ khuynh hướng” [12, tr.12]. Ngoài ra, Truyện thơ Nôm còn được phân loại theo nguồn gốc, đề tài. Những Truyện thơ Nôm lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian như Tấm Cám, Thạch Sanh… Những Truyện thơ Nôm có nguồn gốc đề tài từ Trung Quốc như: Truyện Hoa Tiên, Nhị Độ Mai, Phù Dung Tân Truyện, Lâm Tuyền Kỳ Ngộ… Những truyện lấy đề tài từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích ở Việt Nam như: Tống Trân – Cúc Hoa, Bích Câu Kỳ Ngộ… Từ ba hướng phân loại trên, chúng tôi nhận thấy hướng phân loại Truyện Nôm bình dân – Truyện Nôm bác học mang tính khoa học và thuyết phục nhất. Do đó trong quá trình thể hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào hướng phân loại này. Và cũng trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ khai thác yếu tố tâm linh để thể hiện qua Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học. Điều này sẽ gắn liền với nội dung mang đậm tính dân dã cùng với nghệ thuật mộc mạc, giản dị của các nho sĩ bình dân và tương ứng với nội dung phức tạp, tình tiết, tâm lý nhân vật, nghệ thuật điêu luyện hơn ở các nhà Nho thuộc tầng lớp trên của xã hội. 1.1.3. Nội dung Truyện thơ Nôm bị chi phối khá lớn bởi lễ giáo phong kiến. Chính vì vậy, nội dung của Truyện thơ Nôm thể hiện khá rõ những quan niệm của lễ giáo thời kỳ này. Chúng ta thấy rất rõ quan niệm về môn đăng hộ đối trong hôn nhân, tư tưởng trung quân của Nho giáo... những quan niệm về trung, hiếu, tiết, nghĩa luôn được ca ngợi trong Truyện thơ Nôm. Nhưng không vì thế mà Truyện thơ Nôm chỉ hạn hẹp trong những phạm vi gò bó của lễ giáo phong kiến. Chúng ta dễ dàng thấy được những mối tình tự do vượt ra ngoài khuôn khổ khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến trong
Truyện thơ Nôm, những nhân vật khổ đau cùng cực trong xã hội đã biết vươn lên để thay đổi số phận, những tình yêu chân chính luôn có hậu, hợp lẽ đời… Đó là những điều mà Truyện thơ Nôm thể hiện khá phong phú, đa dạng và sinh động. . . Truyện thơ Nôm phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh của đời sống xã hội phong kiến. Dù Truyện thơ Nôm thường đề cập đến “trung, hiếu, tiết, nghĩa” nhưng Truyện thơ Nôm không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi đạo đức phong kiến từ những khía cạnh hợp lẽ đời mà cao hơn là Truyện thơ Nôm đã thể hiện ý thức vươn lên để bảo vệ tình yêu, khát vọng sống một cách mạnh mẽ, cảm động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Phương Hoa…Các nhân vật nữ trong Truyện thơ Nôm thực sự là những đóa hoa hồng đầy sức sống. Họ đã mạnh mẽ đấu tranh để bảo vệ tình yêu, tấm lòng họ vẫn luôn thủy chung và khao khát được sống với tình yêu, đạo nghĩa vợ chồng son sắt (Ngọc Hoa, Thoại Khanh, Công chúa Nam Việt). Truyện thơ Nôm đặc biệt thể hiện khá đậm nét tấm lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ. Hình ảnh nàng dâu Thoại Khanh (Thoại Khanh – Châu Tuấn), Cúc Hoa (Tống Trân – Cúc Hoa) đã đánh đổ quan niệm mẹ chồng, nàng dâu thường xung khắc nhau. Thoại Khanh và Cúc Hoa đã hết lòng, hết dạ với mẹ chồng khi Châu Tuấn bị đi đày và Tống Trân đang đi xứ. Chúa Ba (Bà Chúa Ba) nêu gương một người con đại hiếu. Bởi Chúa Ba đã vượt hơn tất cả những công việc đời thường của người con có hiếu. Chúa Ba một lòng mộ Phật, dù phải trải qua biết bao oan ức, đau khổ nhưng Chúa Ba vẫn quyết tâm tu hành. Nhờ công đức tu hành, nàng đã cứu được bệnh tình nguy khốn của vua cha, trừ loài yêu quái. Cũng chính lòng từ bi của công chúa đã giúp vua cha tỉnh ngộ, cải hối quy thiên phật pháp và cuối cùng Ngọc Hoàng đã sắc phong ngôi Phật, toàn gia sổ chép nhập dòng tiên. Chúa Ba đã giúp cho mẹ cha thoát khỏi cảnh luân hồi của số kiếp. Với tấm lòng hiếu thảo, nàng Tấm (Chuyện Cái Tấm – Cái Cám) đã sẵn sàng trèo lên cây để bẻ cau giỗ bố và bị mẹ ghẻ hãm hại, nàng Thúy Kiều bán mình để chuộc cha (Truyện Kiều)... Trong Truyện thơ Nôm, các nhân vật nam cũng rất hiếu thảo. Phạm Công nhà nghèo, cha mất sớm, chàng kiếm củi bán lấy tiền làm chay cho cha, rồi dắt mẹ đi xin ăn. Ngọc Hoàng cho hai tiên nữ xuống kết duyên với chàng, Phạm Công vẫn kiên quyết từ chối để một lòng lo cho mẹ… Hay Lương Sinh trong Truyện “Hoa Tiên”, dù đã hẹn thề, trao gởi tình cảm cho nàng Dương Dao Tiên nhưng cũng vì chữ hiếu mà vâng theo cách sắp đặt hôn sự của cha mẹ, đính ước với tiểu thư Lưu Ngọc Khanh: “Dẫu vàng dẫu đá với người Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân”. (Hoa Tiên)
Truyện thơ Nôm xây dựng những mối tình của những con người ở những hoàn cảnh trái ngược nhau như nàng Ngọc Hoa, con gái một “tướng công quan đại phú gia”, yêu Phạm Tải là một hàn sĩ nhỡ thời phải ăn xin để đi học, nàng Phương Hoa, con gái quan Thượng thư Bộ hộ, yêu Cảnh Yên, tuy cũng là con một quan ngự sử, nhưng thực tế thì đang đi ăn xin để nuôi mẹ. Cô gái trong truyện Lý Công là một công chúa lại yêu say đắm một chàng trai: “Ăn mày đèn sách gian truân, Khắp chốn xa gần ai thấy cũng thương”. Nàng Cúc Hoa yêu Tống Trân hay Cúc Hoa yêu Phạm Công tuy không phải con quan nhưng cũng là con gái gia đình phú hộ, và Phạm Công hay Tống Trân thì cũng giống như Phạm Tải. Trong truyện “Hoàng Trừu”, nàng công chúa Nam Việt yêu chàng Hoàng tử Trung Quốc, cả hai người đều xuất thân từ tầng lớp quyền quí là một trường hợp hiếm có trong Truyện thơ Nôm. Có thể nói, các tác giả Truyện thơ Nôm xây dựng những mối tình như vậy là một cách để phủ định quan niệm hôn nhân phong kiến, bắt buộc trai gái lấy nhau trước hết phải tương xứng về gia sản và đẳng cấp. Chính vì vậy, những mối tình trong Truyện thơ Nôm không theo lễ giáo phong kiến nên đến rất tự nhiên, thuận theo tình cảm, đạo lý nên những mối tình ấy thường rất đẹp và sâu sắc. Tất cả những đôi trai gái trong Truyện thơ Nôm, họ không quá đặt nặng về luân lý, đạo đức, về dư luận và thành kiến của xã hội phong kiến khi đến với tình yêu. Cơ sở để họ yêu nhau là phẩm chất, tài đức của con người, là sự xúc động trước cảnh ngộ không may trong cuộc đời của họ. Ở Truyện thơ Nôm bình dân, phạm trù đạo đức được thể hiện là phạm vi gia đình mà nổi bật là tiết, nghĩa. Nội dung Truyện Nôm là cuộc đấu tranh của thiện thắng ác, của ngay thắng gian, của chính nghĩa thắng phi nghĩa, đồng thời đó cũng là cuộc đấu tranh để bảo vệ tình nghĩa vợ chồng, bảo vệ gia đình chống lại nguy cơ làm cho nó tan vỡ. Các Truyện Nôm bình dân Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Phương Hoa, Phạm Công – Cúc Hoa, Lý Công, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Hoàng Trừu, Phù Dung tân truyện,… đều có nội dung như thế. Bên cạnh những tấm lòng sắt son, thủy chung của những người vợ, Truyện thơ Nôm cũng làm nổi bật hình ảnh của những người chồng rất mực chung tình. Phạm Tải đã từ chối mọi tước quyền và “ba trăm mỹ nữ cung tần chia đôi”, dứt khoát chung thủy với Ngọc Hoa. Phạm Công ba lần đi thi đậu Trạng, ba lần vua ép gả công chúa. Cả ba lần Phạm Công đều từ chối, trước sau chàng vẫn trọn vẹn với Cúc Hoa. Đến khi Cúc Hoa chết, chàng còn đánh đồng thiếp xuống âm cung tìm vợ. Nhân vật Tống Trân và Châu Tuấn cũng có những nét tương tự như vậy. Truyện Nôm đặc biệt đề cao vai trò người phụ nữ. Từ nàng Cúc Hoa đến nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công đến nàng công chúa trong truyện Hoàng Trừu hay nàng Phương Hoa trong truyện cùng tên, tất cả đều mạnh mẽ và chủ động. Họ chủ động trong tình yêu và
chủ động trong việc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Dù hoàn cảnh có trái ngang, éo le đến đâu cũng không làm họ gục ngã. Họ không dễ dàng đầu hàng trước hoàn cảnh hoặc buông xuôi theo định mệnh mà họ luôn kiên quyết đấu tranh, vượt qua. Khi yếu sức thì họ có thần linh giúp đỡ, đấu tranh trên dương thế không xong, chết xuống âm phủ họ lại tiếp tục đấu tranh cho đến khi chiến thắng. Có thể nói vai trò của người phụ nữ trong Truyện thơ Nôm thực chất phản ánh vai trò của người phụ nữ trên bình diện gia đình, đặc biệt là gia đình trong giai đoạn chế độ phong kiến suy tàn. Ở Truyện thơ Nôm, sự liên hệ giữa chủ đề đấu tranh để bảo vệ tình vợ chồng, bảo vệ gia đình với việc đề cao đặc biệt vai trò chủ động của người phụ nữ, không phải là ngẫu nhiên mà có tính chất tất yếu của nó. Truyện thơ Nôm cũng đã bắt đầu tiến vào phản ánh hiện thực cuộc sống với nhiều mối quan hệ phức tạp, những xung đột mạnh mẽ giữa con người với con người trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam trong thời kỳ suy tàn, khủng hoảng dữ dội… Chính vì vậy, nội dung của Truyện thơ Nôm trong giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX tập trung vào hiện thực xã hội với số phận con người trong cảnh bế tắc, mất phương hướng trong một xã hội bao trùm màu xám xịt từ bước thăng trầm của thế sự. Với nội dung tập trung vào hiện thực cuộc sống, Truyện thơ Nôm phê phán, tố cáo giai cấp thống trị với bọn quan lại, tầng lớp quý tộc cho đến bọn nhà giàu phú hộ. Ở truyện “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã phản ánh những bậc thư sinh theo học sách thánh hiền nhưng lại nhỏ nhen, hiểm độc như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Những tên quan lại sai nha đến cướp phá của cải gia đình Thúy Kiều, trắng trợn đòi tiền hối lộ, hình ảnh quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến với hạ sách lừa gạt Thúy Kiều để chiến thắng Từ Hải… Truyện thơ Nôm bên cạnh xây dựng những mối tình của những con người, có hai hoàn cảnh trái ngược nhau thì cũng xây dựng những mối tình của những giai nhân tài tử sống trong gia đình quan lại giàu sang. Đó là mối tình giữa Phạm Kim và Quỳnh Thư, giữa Thúy Kiều với Kim Trọng, giữa Dao Tiên với Lương Sinh, Phan Tất Chánh và Trần Kiều Liên… đều môn đăng hộ đối theo quan điểm của Nho giáo phong kiến. Những mối tình của những đôi giai nhân tài tử thường đi vào tan vỡ. Các nhân vật tỏ ra thiếu mạnh mẽ, quyết liệt để bảo vệ tình yêu nhưng cũng có thể nói một phần do thế lực của xã hội phong kiến chi phối mạnh mẽ. “Sơ kính tân trang” diễn ra giữa một bên là tình yêu của Phạm Kim và Quỳnh Thư với một bên là việc cưỡng hôn của viên đô đốc. Trước sự nham hiểm của tên quan lại đô đốc, mối tình Phạm Kim – Quỳnh Thư tan vỡ một cách dễ dàng. Người viết truyện tỏ lòng thương cảm mối duyên của họ và phê phán mạnh mẽ thế lực đen tối đã chà đạp lên mối tình đẹp đẽ ấy.
Tình yêu trong Truyện thơ Nôm thường chứa đựng nhiều mâu thuẫn và ảnh hưởng khá lớn bởi lễ giáo phong kiến. Ở “Hoa Tiên”, mâu thuẫn ấy không biểu hiện bằng hai tuyến nhân vật đối lập, mà thể hiện ngay trong các nhân vật chính – Lương Sinh, Dao Tiên – thành cuộc đấu tranh giữa tình cảm và lý trí, giữa cái khát vọng yêu đương tha thiết với những quan niệm chật hẹp của lễ giáo, đạo đức phong kiến. Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng cũng là tình yêu vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo phong kiến thể hiện ở việc Thúy Kiều đã hẹn hò ở vườn Thúy với Kim Trọng và hai người đã thề ước với nhau. Dù có muốn vượt qua lễ giáo phong kiến để chủ động đến với nhau nhưng có thể nói tư tưởng phong kiến cũng ảnh hưởng khá lớn. Cho nên, dù Nguyễn Du rất ưu ái Thúy Kiều, rất cảm thông với Thúy Kiều nhưng Nguyễn Du vẫn để thế lực của bọn quan lại phong kiến vùi dập Thúy Kiều và làm tình yêu giữa Kim – Kiều phải tan vỡ. Có thể nói, sức mạnh đấu tranh được thể hiện đậm nét hơn ở Truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên”. Thông qua hàng loạt nhân vật chia làm hai tuyến, Truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu đã thẳng thắn lên án bọn vua quan hèn nhát, ác độc và các hạng người xấu xa, tệ hại khác. Đối lập với chúng là những con người trung trinh, tiết nghĩa, biết sống theo những điều tốt lành và biết tôn trọng lẽ phải. Nhìn chung, Truyện thơ Nôm đã dần dần đi sâu vào mối quan hệ của đời sống xã bội với cách nhận thức và phản ảnh của chủ nghĩa hiện thực nên nội dung phản ánh, phê phán những vấn đề tiêu cực được thể hiện khá rõ nét. 1.1.4. Hình thức Về thi pháp, hình thức của truyện Nôm, có lẽ Cao Huy Đỉnh là người đầu tiên nêu lên đặc điểm thi pháp thể loại truyện này. Ông cho rằng Truyện Nôm “về cơ bản bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ tích”, bao gồm: lai lịch nhân vật, những thử thách ngày càng khó khăn, những phấn đấu chống lại thế lực tàn ác của thiên nhiên và xã hội, thắng lợi tất yếu, kết thúc có hậu. Tuy nhiên, Truyện Nôm là một hiện tượng khác cổ tích do có “xu hướng tiểu thuyết hóa truyện dân gian”. Khi khảo sát, nghiên cứu về Truyện thơ Nôm, hầu hết loại truyện này dựa theo cốt truyện của truyện cổ tích, hay diễn ca truyện cổ tích. Vì vậy, về nhiều phương diện, kết cấu nghệ thuật của nó rất giống với kết cấu trong nghệ thuật của truyện cổ tích. Ở loại truyện này, câu chuyện diễn biến theo trật tự thời gian, việc gì xảy ra trước được kể trước, việc gì xảy ra sau được kể sau. Câu chuyện thường bắt đầu bằng việc giới thiệu khá tỉ mỉ lai lịch của nhân vật trung tâm từ lúc mới ra đời, sau đó kể ngay vào nội dung chính. Người kể bao giờ cũng đứng ở ngôi thứ ba và luôn luôn ghi nhớ câu chuyện mình đang kể thuộc về thời quá khứ.
Đa số Truyện Nôm thường xây dựng theo mô típ và kết cấu giống nhau. Đó là thường rơi vào trường hợp một anh nho sĩ nghèo đi ăn xin lấy được người vợ đảm đang chịu khó nuôi cho ăn học. Về sau hoặc người chồng học thành tài vua ép gả công chúa, hoặc người vợ có nhan sắc bị bọn vua quan hay cường hào cưỡng bức phải bỏ chồng nhưng cả hai đều cự tuyệt, dứt khoát chung thủy với người bạn trăm năm của mình. Họ phải đấu tranh quyết liệt và phải vượt qua nhiều thử thách để cuối cùng được chiến thắng và vợ chồng sum họp. Theo Nguyễn Lộc [66, tr. 299] cốt truyện của Truyện Nôm bình dân có hai đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, những tình tiết, những sự kiện trong truyện không có ý nghĩa khách quan chân thực của nó mà chỉ có tác dụng soi sáng hay tô đậm cho tính cách nhân vật. Vì vậy, trong nhiều Truyện thơ Nôm bình dân, chi tiết nhiều khi được cường điệu đến mức hoang đường. Chúng ta có thể thấy trong “Phạm Tải – Ngọc Hoa”, Phạm Tải chết rồi mà đêm đêm Ngọc Hoa vẫn mở nắp quan tài vào nằm với chồng. Nàng công chúa trong truyện Lý Công bị chặt tay chân, xẻo tai vất ra ngoài chợ mà vẫn sống... Trong Truyện thơ Nôm, nhiều chi tiết được sử dụng láy đi láy lại như những mô-típ trong truyện cổ tích, chẳng hạn trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa”, Phạm Công đi thi đậu trạng, vua ép gả công chúa, Phạm Công không lấy, vua tức giận đày chàng sang Ô-qua. Bên Ô-qua, Phạm Công lại đi thi đậu trạng, vua lại ép lấy công chúa, Phạm Công lại chối từ. Vua tức giận, sai chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai Phạm Công. Sau đó nhờ có Ngọc Hoàng cho tiên dược nên Phạm Công thoát nạn. Tới nước Triệu, Phạm Công lại một lần nữa đi thi, lại đậu Trạng và vua cũng lại ép gả công chúa nhưng lần này may cho chàng là khi Vua toan trị tội, thì nàng công chúa đứng ra xin tha cho chàng… Một đặc điểm nữa là kết thúc của Truyện thơ Nôm thường có hậu. Đó cũng là sự nối tiếp, kết thúc có hậu do ảnh hưởng của truyện kể dân gian. Nhân vật tích cực trong Truyện Nôm nhiều khi rơi vào những tình thế bất lợi nhưng về phương diện tinh thần, không bao giờ họ ở thế thua kém mà họ chống đến cùng. Nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công, chàng Tống Trân, chàng Phạm Công hay chàng Châu Tuấn có thể họ không thắng lợi ngay nhưng họ không thất bại, các thế lực phản động không khuất phục được ý chí phản kháng của họ. Những nhân vật như thế, lô - gic tất yếu của nó phải là kết thúc thắng lợi, phải là “có hậu”. Xét về mặt nghệ thuật, để thực hiện mô hình kết thúc có hậu, Truyện thơ Nôm thường sử dụng các yếu tố thần kỳ tương tự như trong thể loại truyện cổ tích. Có thể nói, việc sử dụng các yếu tố thần kỳ không những là một biện pháp nghệ thuật quan trọng để thực hiện mô hình cấu trúc gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ của Truyện thơ Nôm, mà còn là đặc trưng thi pháp không thể thiếu được của thể loại này.
Trong Truyện thơ Nôm, mô hình cấu trúc gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ thì trường đoạn tai biến là trường đoạn có nhiều diễn biến phức tạp nhất của cốt truyện. Đa phần, nhân vật chính phải trải qua những biến cố cực kỳ quan trọng với những thử thách rất khó vượt qua. Trong những trường hợp như thế, nhân vật của Truyện thơ Nôm thường được sự hỗ trợ của sức mạnh vô hình của những yếu tố thần kỳ. Nhờ vậy, các nhân vật chính mới có thể vượt qua các thử thách đi đến thắng lợi cuối cùng để bước vào trường đoạn đoàn tụ như cấu trúc có hậu của nó (Lý Công, Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Truyện Chàng Chuối, Chuyện Cái Tấm – Cái Cám, Hoàng Trừu, Phù Dung Tân Truyện...). Song song với yếu tố thần kỳ, Truyện thơ Nôm còn sử dụng các mô - típ dân gian như đặc điểm nghệ thuật có sức hấp dẫn đặc biệt của thể loại Truyện thơ Nôm bình dân. Chúng ta dễ dàng tìm gặp mô – típ của nhân vật chính trong Truyện thơ Nôm xuống âm phủ tìm người thân như Ngọc Hoa xuống âm phủ tìm chồng là Phạm Tải, còn Phạm Công thì xuống âm phủ để tìm vợ Cúc Hoa. Mô – típ “Xử kiện cành đa” được vận dụng vào việc Tống Trân xử kiện ở nước Tần. Mô – típ gái giả trai phổ biến trong truyện dân gian thì trong Truyện thơ Nôm đó cũng là một mô – típ khá quen thuộc. Nàng Phương Hoa trong truyện “Phương Hoa” đóng giả trai và đổi tên Cảnh Yên để đi thi. Ngay trong “Sơ Kính Tân Trang” cũng có nàng Thụy Châu giả trai để đi dự lãm các nơi danh lam, thắng cảnh, Thị Kính giả trai để đi tu (Quan Âm Thị Kính), nàng Phi Nga giả trai để đi học, đi thi (Nữ Tú Tài). Chúng ta cũng thấy các trò thi may áo, thi thổi cơm, làm bánh mà Tống Trân đưa ra để chọn giữa Cúc Hoa và Công chúa nước Tần xem ai đáng là “chánh thê”, đó cũng là những mô – típ dân gian trong truyện cổ tích thần kỳ “lấy vợ cóc”. Một mô – típ phong chức hương cống cho chuột để từ đó có tên gọi chuột cống, cũng được sử dụng trong truyện Tống Trân – Cúc Hoa. Truyện thơ Nôm, còn có sử dụng mô – típ tiếng đàn. Tiếng đàn nghe như trách móc, oán than trong truyện “Thạch Sanh”, “Thoại Khanh – Châu Tuấn”... Như vậy, việc sử dụng các mô – típ dân gian trong Truyện thơ Nôm nhìn chung rất linh hoạt. Có khi người ta giữ nguyên dạng mô – típ của truyện dân gian và sử dụng nó như một tình tiết nào đó như mô – típ xuống địa ngục tìm người thân… Song cũng có khi người ta chỉ mượn ở mô – típ dân gian cái chủ đề cơ bản để phát triển nội dung của truyện. Qua một số thí dụ vừa nêu, chúng ta thấy rằng việc sử dụng các mô – típ dân gian không những là một thủ pháp nghệ thuật, mà hơn thế việc sử dụng các mô – típ dân gian còn là một quy luật có tính tất yếu trong quy trình sáng tạo của thể loại Truyện thơ Nôm. Đồng thời, việc sử dụng
các mô – típ này có tính phổ biến. Các tác giả Truyện Nôm sử dụng những tình tiết rút ra từ kho tàng tri thức dân gian, hoặc những chi tiết mang tính chất ly kỳ, hấp dẫn của nghệ thuật dân gian. Mặt khác, cách nói khoa trương, phóng đại, cách nói ước lệ tượng trưng của nghệ thuật kể chuyện dân gian hầu như cũng được các tác giả Truyện Nôm kế thừa và sử dụng rộng rãi như một đặc trưng trong phong cách tự sự của thể loại này. Hoàng Trừu từng đi khắp mười tám nước chư hầu để kén vợ, Thạch Sanh lấy được Công chúa bị quân của mười tám nước chư hầu kéo đến bao vây... Tính công thức, ước lệ, nhiều khi còn được thể hiện ngay ở những câu mở đầu hoặc ở những câu kết thúc của một Truyện Nôm. Có thể kể hàng loạt dẫn chứng, chẳng kể nội dung truyện như thế nào, bao giờ truyện cũng phải được mở đầu hoặc kết thúc bằng những lời ca tụng tốt đẹp, hoặc bằng những câu mang tính chúc mừng: “Mừng nay vừa thuận nước non, Lê dân lạc nghiệp bốn phương yên hòa. (Phạm Công – Cúc Hoa) “Nay mừng Nam Bắc thuận hòa, Chẳng còn lo ngại đường xa nỗi gần. (Hoàng Trừu) Diễn biến nội tâm của nhân vật cũng được tác giả thể hiện khá đặc sắc trong tâm trạng dằn vặt, đau khổ của Thúy Kiều, tâm trạng miêu tả có chiều sâu ở Trương Quỳnh Thư, Kiều Nguyệt Nga, Dương Dao Tiên ... Xét về ngôn ngữ, Truyện thơ Nôm sử dụng từ ngữ đời thường, bởi Truyện Nôm vốn là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn văn học dân gian. Và ngôn ngữ sinh hoạt đời thường góp phần làm cho nhân vật của Truyện thơ Nôm gần gũi với cuộc sống, giàu chất sống và phản ánh hiện thực một cách sinh động. Ngoài ra, Truyện thơ Nôm cũng sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong lời nhân vật (Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Hoa Tiên...). Cách vận dụng sinh động ngôn ngữ tự nhiên của nhân dân từ trong thành ngữ, ca dao, tục ngữ đã góp phần đưa Truyện thơ Nôm không những đến với tầng lớp quí tộc mà cũng gần gũi với tầng lớp bình dân. Bên cạnh đó, sự vận dụng này đã làm cho ngôn ngữ, suy nghĩ, nội tâm của nhân vật trong Truyện thơ Nôm càng hàm súc, giàu hình ảnh và thâm trầm. Cũng nhờ sử dụng thành ngữ, tục ngữ, Truyện thơ Nôm và ngôn ngữ nhân vật Truyện thơ Nôm không những nói đúng mà còn nói rất ngắn gọn, rất hay, rất gần gũi, rất tâm lý về nhiều vấn đề của cuộc sống. Chính đặc điểm này là một trong những lý do cơ bản giúp Truyện thơ Nôm được nhân dân yêu thích.
1.2. Thế giới tâm linh và cơ sở hình thành 1.2.1. Các khái niệm 1.2.1.1. Văn hóa Văn hóa là một phạm trù rất rộng bao hàm các sinh hoạt của loài người từ sinh hoạt tinh thần, sinh hoạt xã hội. Theo từ điển Tiếng Việt 2000, “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Văn hóa được hiểu theo nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống, hoặc theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn… Văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hóa chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên và xã hội quy định. Văn hóa là một phạm trù rất rộng, nhiều học giả nghiên cứu về văn hóa đã không đưa ra một định nghĩa rõ ràng, vì định nghĩa văn hóa là gì không phải là một việc dễ dàng giản dị. Như hai nhà nhân chủng học trứ danh Kroeber và Clyde KhucKhoher trong bài phi lộ cuốn Culture đã mượn lời của một học giả khác, ông Lowell mà thú nhận rằng: “Tôi đã được ủy nhiệm nói về văn hóa, nhưng ở trên đời này không có gì phiêu diêu mông lung hơn là danh từ văn hóa. Người ta không thể tách văn hóa vì thành phần nó vô cùng tận… Người ta không thể mô tả văn hóa vì nó muôn mặt. Muốn cô động ý nghĩa văn hóa thành lời lẽ thì cũng như tay không bắt không khí: ta sẽ thấy không khí ở khắp nơi và riêng trong tay chẳng nắm được gì”. [5, tr. 9] Khi định nghĩa về văn hóa các nhà khoa học cũng thường chú ý đến các khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật và hầu như đều thống nhất văn hóa là một khái niệm bao trùm “nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần” [100, tr. 25]. Tại một hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì ở Mexico vào năm 1982, trong tuyên bố về những chính sách văn hóa, UNESCO đã định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra và xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [108, tr. 24].
Định nghĩa này cho thấy văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt mà là một tổng thể bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Đồng thời văn hóa là chìa khóa của sự phát triển xã hội. Trong “Cảm nhận về văn hóa”, Bùi Thiết cho rằng văn hóa gồm 3 cấu thành: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa ứng xử [108, tr. 11 – 12]. Xuất phát từ góc độ nguồn gốc P. Sorokin có định nghĩa về văn hóa: “Với nghĩa rộng của từ, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động lối ứng xử của nhau”. Cũng chính vì thế văn hóa liên quan đến con người rất lớn và ở từng khu vực khác nhau, địa phương khác nhau với đặc điểm khác nhau của con người đã hình thành nên đặc trưng bản sắc dân tộc khác nhau. Ở Việt Nam cũng hình thành nhiều định nghĩa về văn hóa: Theo giáo sư Đặng Thanh Lê, “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho các cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau”. [61, tr. 11]. Cũng trên cơ sở khẳng định vai trò của con người, xã hội loài người trong việc sáng tạo và làm nên văn hóa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát sinh đó tức là văn hóa”. [123, tr. 21]. Đồng quan điểm với Chủ tịch Hồ Chí Minh khi định nghĩa về văn hóa với sự liên hệ mật thiết của con người. Con người với vai trò chủ thể trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu của cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. [123, tr. 21]. Tiếp nối tư tưởng, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề văn hóa. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội toàn quốc lần thứ IX (tháng 04/2001), Đảng cũng đã xác định: “Hướng mọi hoạt
động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị tư tưởng trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình cộng đồng và xã hội…” (Báo Nhân Dân ngày 21/04/2001). Trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta, văn hóa vẫn luôn luôn là mục tiêu quan trọng. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng đã tiếp tục chú trọng phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Đảng ta xác định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”. (118, tr. 647). Số lượng định nghĩa về văn hóa rất phong phú, đa dạng theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Qua nhiều tài liệu nghiên cứu, số lượng định nghĩa về văn hóa rất nhiều. Đầu tiên là định nghĩa theo lối miêu tả của E.B. Taylor: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” (34). Đây là định nghĩa bao hàm những yếu tố tinh thần của khái niệm văn hóa. Khi nói về văn hóa Việt Nam, Phan Ngọc đã nhận định: “Văn hóa Việt Nam là một văn hóa khiêm tốn mộc mạc, không có gì cực đoan. Nhưng không vì thế mà văn hóa Việt Nam thiếu cá tính”, “Nó tránh cầu kì. Nó đi vào cái nên thơ bình dị nhưng tha thiết với cuộc sống con người”, “trong học, trong thư pháp, họa, thơ văn, người Việt không tìm cái kinh người, cái phi thường mà tìm cái bình dị, tìm cái gần gũi”. [75, tr. 126] Trần Quốc Vượng định nghĩa: “Văn hóa… là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế … để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người”. [123, tr. 35 – 36] Qua một số định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy văn hóa theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và giá trị tinh thần, còn theo nghĩa hẹp truyền thống văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người.
Với đề tài “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm”, tâm linh thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng, tình cảm nên các yếu tố về phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng thuộc về thế giới tâm linh bởi chúng đã gắn với yếu tố tâm linh, đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. 1.2.1.2. Tâm linh Trong cuộc sống hiện đại ngày càng phát triển, con người đã vươn tới một điều kiện sống khá cao về vật chất thì nhu cầu về đời sống tinh thần cũng được con người đặc biệt quan tâm. Đời sống tinh thần, những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, những khía cạnh trong tư duy, nếp nghĩ rất được chú ý. Bởi tất cả những điều đó có ảnh hưởng và chi phối rất nhiều đối với đời sống tinh thần của con người trong xã hội. Chính vì vậy, hai chữ “Tâm linh” cũng được nhắc đến rất nhiều trong văn học, văn hóa và trong hiện thực đời sống xã hội. Trong từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, Tâm linh theo hướng thứ nhất là: “Khả năng biết trước mọi biến cố nào đó sẽ xảy ra theo quan niệm duy tâm” [79, tr. 1112]; theo hướng thứ hai Tâm linh là “Tâm hồn, tinh thần” (thường có tính chất thiêng liêng) [79, tr. 1112]. Xét về cấu trúc, Tâm linh gồm hai chữ tâm và linh kết hợp lại. Tâm hiểu theo hướng tình cảm thì đó là “tấm lòng nhân ái” (sống có tâm) [79, tr. 1111]. Tâm hiểu theo từ tâm niệm là “nghĩ tới thường xuyên và tự nhắc mình để ghi nhớ và làm theo” [79, tr.1112] tức là tin theo điều đó. Như vậy, tâm trong tâm linh là niềm tin. Còn linh là thiêng trong linh thiêng, thiêng liêng. Vậy tâm linh được hiểu khái quát là niềm tin của con người vào sự linh thiêng. Cũng từ đó, Nguyễn Đăng Duy đã đưa ra khái niệm: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”. [27, tr. 11] Ý thức tâm linh được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất là ở ý niệm của con người. Thứ hai là đọng lại ở các hình ảnh, biểu tượng. Biểu tượng là tiếng nói chung để biểu thị về một tín hiệu. Cây đa, giếng nước, mái đình là tiếng nói chung để biểu thị về tín hiệu làng quê người Việt Nam. Mồ mả, bát hương là tiếng nói chung về tín hiệu thờ cúng tổ tiên. Ngôi đình, ngôi đền là tiếng nói chung về tín hiệu thờ thần của người Việt. Ngôi chùa là tiếng nói chung về thờ Phật ở nước ta… Tất cả đều là những biểu tượng thiêng liêng. Mọi biểu tượng thiêng liêng là cơ sở bền vững cho nhiều mối quan hệ của con người trong xã hội. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về tâm linh và văn hóa tâm linh cho chúng ta thấy tâm linh luôn tồn tại và gắn bó với ý thức của con người. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu, tâm linh là một hình thái ý thức, được hình thành từ trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và phản ánh vào ý thức con người, không có ý thức con người thì không có tâm linh. Tâm linh là niềm tin thiêng liêng cao cả trong cuộc sống con người; nó cũng là niềm tin tôn giáo. Cái niềm tin thiêng liêng đó được thể
hiện qua ý niệm và biểu tượng. Trong sinh hoạt tâm linh, con người thể hiện đức tin, niềm xác tín về một đối tượng thiêng liêng bằng cách phải tạo ra một nơi, một chỗ thờ phượng với bài vị, tượng chân dung của đối tượng đó cùng với nghi thức cầu cúng. Nói một cách khái quát, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu cho rằng cách biểu hiện sinh hoạt văn hóa tâm linh thể hiện qua ba dạng: “Văn hóa tinh thần (vô hình): đó là những hiểu biết, những suy luận, nhận thức về một niềm tin thiêng liêng đối với một đối tượng nào đó”. “Văn hóa vật chất (hữu hình): đó là cơ sở vật chất, nơi chốn thờ phượng: đình, chùa, miễu, đền thờ… với các đồ khí tự và những biểu tượng liên quan”. “Văn hóa hoạt động: đó là nghi thức cúng tế” [39, tr. 8]. Theo tài liệu biên soạn của Đỗ Lai Thúy về “Phân tâm học và văn hóa tâm linh”, đây có thể xem là một nhận xét, bàn luận khá tổng quát về tâm linh: “Trước đây, nói đến tâm linh là người ta nghĩ ngay đến tín ngưỡng và tôn giáo, và đồng nhất nó với tín ngưỡng và tôn giáo. Thực ra, khái niệm tâm linh vừa hẹp hơn lại vừa rộng hơn khái niệm tín ngưỡng tôn giáo. Hẹp hơn là ở tín ngưỡng tôn giáo ngoài phần tâm linh ra còn có phần mê tín dị đoan và sự cuồng tín tôn giáo. Bởi đó vừa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần vừa là một thiết chế xã hội, mà đã là một thiết chế xã hội thì không tránh khỏi sự thế tục hóa, sự tha hóa do việc lợi dụng của giai cấp thống trị. Rộng hơn vì tâm linh gắn liền với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt... không chỉ có ở đời sống tôn giáo, mà còn có trong đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Không chỉ có Thượng đế, có chúa trời, Thần, Phật mới thiêng liêng, mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý cũng thiêng liêng không kém. Có như vậy, con người mới đạt đến chiều cao của con người. Vì nếu những cái đó bị giải thiêng thì con người không còn biết lấy gì để khu biệt mình với động vật”. [103, tr. 7 – 8] Bên cạnh đó, tâm linh còn tồn tại rất đa dạng, phong phú trên nhiều phạm vi như đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng làng xã, tổ quốc giang sơn, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng tôn giáo. Và có thể nói tâm linh còn có ranh giới rất gần gũi với mê tín dị đoan – mặt tiêu cực của đời sống tinh thần con người trong xã hội. Như vậy, tâm linh là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của con người bên cạnh đời sống vật chất tồn tại cụ thể, bởi “trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua những gì cụ thể nhất định, thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất trừu tượng, rất mong lung, nhưng lại không thể thiếu được ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó” [70, tr. 36].
Vì thế, tâm linh là thế giới của cái cao cả, thiêng liêng mà con người luôn hướng đến. Tâm linh tồn tại trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã hội và đời sống tôn giáo. Từ những mối quan hệ phong phú giữa tâm linh đối với các phương diện, lĩnh vực khác, chúng ta cần xem xét các mối quan hệ của tâm linh để nhận thức về tâm linh toàn diện và sâu sắc hơn. Tâm linh với tín ngưỡng Trong Hán – Việt từ điển “Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa” [102, tr. 95]. Như định nghĩa trên, tín ngưỡng không chỉ giới hạn ở lòng ngưỡng mộ và niềm tin tôn giáo mà tín ngưỡng còn thể hiện ở phạm vi khá rộng trong đời sống tinh thần của con người. Bởi trong thực tế, nhiều người không theo tôn giáo nào cả nhưng họ vẫn có niềm tin vào đấng thiêng liêng, cao cả, những đấng linh thiêng, thần bí... Trên cơ sở tín ngưỡng từ quan niệm sùng bái tự nhiên và sùng bái con người, người Việt có những tín ngưỡng dân gian rất phong phú ngoài tín ngưỡng tôn giáo. Nói đến tín ngưỡng dân gian tất nhiên có nhiều điều mâu thuẫn và huyền hoặc. Khoa học hiện đại cho rằng: những dạng thức sinh hoạt tâm linh, tuy có nội dung tôn giáo song chưa đạt tới trình độ của một tôn giáo – Người ta thường gọi là tín ngưỡng như thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ các thần linh khác đang tồn tại ở Việt Nam. Có thể nói thờ cúng là một tín ngưỡng mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam. Gần gũi nhất là việc thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Truyền thống này xuất phát từ quan niệm: chết là sự luân hồi, thay đổi từ cuộc sống này sang cuộc sống khác. Việc thờ cúng thể hiện khá phong phú qua: Thờ tổ tiên, cúng tế người chết, thờ các vị thần. Người Việt có một niềm tin đặc biệt vào tín ngưỡng dân gian. Chính vì thế mà tín ngưỡng chi phối sâu sắc đời sống của họ. Những đôi lứa thề nguyền khi yêu nhau và tin tưởng vào lời thề đó. Vì tin nên họ chờ nhau đôi khi suốt cả một đời cũng như tin rằng sự trừng phạt sẽ đến với những ai phản bội lời thề. Hoặc như mỗi đứa con khi lớn lên phải học bài học về chữ “hiếu”, đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ – đó là đạo lý ở đời và màu sắc tín ngưỡng là ở chỗ người ta tin rằng những kẻ bất hiếu thì sẽ gặp quả báo, sẽ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời như sự báo ứng ở thế hệ sau, bị trời trừng phạt, khi chết đi sẽ không được siêu thoát hoặc phải bị đày xuống mười tám tầng địa ngục, tắm trong vạc dầu sôi… Những người nông dân sống thuần hậu, chân chất, thật thà bởi lẽ họ tin “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” và điều đó được xem như một lẽ dĩ nhiên ở đời. Người ta tin vào sự trừng phạt hoặc ban
thưởng xứng đáng của một thế lực siêu nhiên ở đời nên họ không chỉ tự nhủ mình phải sống như thế nào mà còn dạy bảo con cháu bằng một lòng tin gần như tuyệt đối. Dù tin Phật, dù đi chùa nhưng người Việt coi trọng việc sống phúc đức hơn là đi chùa, coi trọng truyền thống thờ ông bà hơn là thờ Phật. Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng giúp đỡ người dân thoát khỏi mọi tai họa, người ta không rạch ròi giữa những đặc trưng của các tôn giáo, họ chỉ quan tâm đến những gì có thể mang lại bình an cho cuộc sống mà thôi. Phật có thể ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ Phật, hái lộc lúc giao thừa), cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư đến cầu kinh và làm lễ tiễn đưa người chết). Người dân đi bất cứ đâu đều có thể ghé vào chùa xin dùng một bữa cơm hoặc nghỉ qua đêm. Người Việt quan tâm nhiều đến tướng số, người ta thích coi bói để biết trước vận mạng; khi dựng vợ gả chồng thì coi tuổi, coi ngày; xây nhà thì coi phong thủy, ngày khởi công… đến chết cũng coi ngày tẩn liệm, chôn cất cho phù hợp… Đó là những phong tục, những quan niệm không thể thiếu trong cuộc sống của đại bộ phận người Việt. Tóm lại, tín ngưỡng dân gian chi phối sâu sắc đời sống xã hội Việt Nam. Với người Việt đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống cũng như trong cuộc đời của mỗi con người… Ngoài mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian, tâm linh còn có mối quan hệ với tín ngưỡng qua niềm tin vào các tôn giáo. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, tôn giáo được hiểu theo hai hướng. Thứ nhất, tôn giáo là “hình thái, ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ” [79, tr. 1253]. Thứ hai, tôn giáo là “hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy” [79, tr. 1253]. Kết hợp từ hai hướng giải thích về “tôn giáo”, chúng ta có thể khẳng định tín ngưỡng tôn giáo, niềm tin tôn giáo tồn tại rất rõ, rất đậm nét trong tâm linh người Việt. Bởi trong tâm linh người Việt không ít thì nhiều đều hướng đến những hình tượng thiêng liêng. Nho giáo tin vào Trời, Phật giáo tin vào lòng từ bi của Phật, Thiên chúa tin vào Chúa sẽ cứu rỗi linh hồn con người sau khi chết... Dù mỗi tôn giáo có hình tượng thiêng liêng khác nhau, có tín điều khác nhau nhưng các tôn giáo đều có điểm chung là hướng đến một thế giới khác hoàn toàn với thế giới mà con người đang sống. Đó là thế giới cực lạc, linh hồn con người được hưởng cuộc sống hạnh phúc thật sự sau khi mất (Cõi Niết Bàn, Thiên đường...). Khi còn sống, con người tin tưởng thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên sẽ phù trợ, giúp đỡ cho con người khi gặp khó khăn, hoạn nạn... Tín ngưỡng và tôn giáo có
nhiều mặt tích cực nhưng bên cạnh đó cũng có mặt tiêu cực. Đó là khi con người nhận thức không đúng về tâm linh hoặc dùng niềm tin tâm linh của con người để thực hiện những mục đích trục lợi từ niềm tin, tín ngưỡng. Trường hợp con người mê muội, tin tưởng mù quáng vào những biểu hiện tín ngưỡng theo hướng tiêu cực thì đó là mê tín dị đoan. Tâm linh với mê tín dị đoan Chúng ta đã xác định tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng. Nhưng niềm tin ấy, sự linh thiêng ấy phải hiểu theo hướng tích cực. Tâm linh hoàn toàn khác với mê tín dị đoan. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, mê tín là “tin một cách mù quáng vào thần thánh, ma quỷ, số mệnh và những điều huyền hoặc” [79, tr. 776]. Theo hướng nghĩa thứ hai mê tín là “ưa chuộng, tin tưởng một cách mù quáng, thiếu suy xét” [79, tr. 776]. Còn dị đoan là “lòng tin vào điều quái lạ, huyền hoặc, nhảm nhí” [79, tr. 328]. Vậy, mê tín dị đoan là tin một cách mù quáng vào những điều quái lạ, sự tin tưởng mà thiếu suy xét, không có cơ sở nên dễ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Điều này hoàn toàn khác với tâm linh – niềm tin vào sự thiêng liêng cao cả vì chính tâm linh sẽ hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp với lòng nhân ái, hiếu nghĩa, với những đối nhân xử thế mang tính nhân bản, nhân văn... Và tin vào sự kỳ diệu của cuộc đời nếu chúng ta sống tốt, sống phải đạo theo niềm tin “ở hiền gặp lành”, ở đời có luật nhân quả... Bởi vì mê tín dị đoan là “những ý thức, hành vi mê muội, tin và dựa vào những biểu tượng, trái lẽ tự nhiên, có hành vi lễ bái ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí trái với lẽ phải và hành vi thông thường của mọi người chung quanh; làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi người” (Từ điển Tôn giáo – dẫn theo Mai Thanh Hải) [36, tr. 107]. Như vậy, điều quan trọng là làm sao cho mọi người hiểu được tâm linh khác với mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan có tác hại như thế nào để mọi người bài trừ, loại bỏ. Theo ý kiến của Trương Thìn, “Cần nhận thức đúng và tách bóc thành hai vấn đề: Mê tín và Dị đoan. Vì có những điều mê tín mà không có dị đoan. Thực chất tín ngưỡng, tôn giáo là mê tín (vì tin vào những điều không có thật), nhưng bản chất của nó lại không có dị đoan. Ngay thuật ngữ dị đoan: dị là khác biệt, đoan là mối,... là lắm mối, rắc rối. Cái gì khác với chính thống gọi là dị - có nghĩa là khác biệt, tôn giáo này coi tôn giáo kia là dị - là khác biệt, nhưng không gọi đó là dị đoan được. Ở đây chúng ta cần hiểu dị đoan là lắm mối, là rắc rối, là quàng xiên, dẫn đến mù quáng” [102, tr. 153 – 154]. Từ cơ sở phân tích trên, Trương Thìn cũng đã đề xuất hai vấn đề “tôn trọng tín ngưỡng” và “bài trừ mê tín dị đoan”. Bởi vì, tín ngưỡng có những mặt tích cực đáng trân trọng, duy trì còn mê tín dị đoan là tin một cách mê muội, kỳ dị, khác thường dẫn đến những tác hại nên cần phải bài trừ.
Trương Thìn đã khẳng định “ta không chống mê tín, nhưng phải chống dị đoan hoặc phải dùng cả cụm từ mê tín dị đoan để chỉ niềm tin đã biến dạng, quái dị, xằng bậy – đó là những tôn giáo, tín ngưỡng bị lợi dụng... có hại đến con người – ta phải bài trừ, phải chống. Tôn trọng tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan là chính xác, là phù hợp” [102, tr. 154]. Với nhận thức về tâm linh như trên, chúng tôi sẽ trình bày trong Luận văn tâm linh trong tín ngưỡng dân gian từ truyền thống thông qua bộ phận văn học cụ thể là Truyện thơ Nôm và trên phạm vi đời sống tinh thần của cá nhân con người. 1.2.1.3. Thế giới tâm linh Tâm linh là thế giới thiêng liêng, cao cả. Ngoài đời sống vật chất, phàm tục thì tâm hồn con người luôn hướng đến cái linh thiêng, cái cao đẹp của tinh thần. Thế giới tâm linh biểu hiện rất đa dạng và vô cùng phong phú. Bởi tất cả biểu hiện của con người liên thông với ngoài thế giới ta đang sống đều trở thành yếu tố tâm linh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy, với công trình “Văn hóa tâm linh”, tác giả đã thể hiện văn hóa tâm linh – một sự gắn bó sâu sắc đối với đời sống con người. Ở công trình này, tác giả đã cho chúng ta thấy mối quan hệ của tâm linh trong mọi mặt của đời sống. Với tâm linh trong đời sống cá nhân, điều này đã giúp cho con người có một niềm tin vào Trời Phật, Thần Tiên, vào Chúa để họ sống với một đức tin (tin vào luật nhân quả, hồn ma, hóa kiếp) để họ sống hướng thiện, sống lạc quan hơn (tin rằng chết không phải là hết), để con người được yên tâm (tin rằng có Trời, Phật, Thần Tiên phù trợ)… Với tâm linh trong đời sống gia đình, mồ mả, bát hương, việc thờ cúng ông bà tổ tiên là những biểu tượng thiêng liêng có sức tập hợp to lớn trong mỗi gia đình. “Có thể nói bàn thờ tổ tiên là biểu tượng máu thịt thiêng liêng nhất, lôi cuốn người ta quây quần đoàn tụ, nhớ về cội nguồn, duy trì những giá trị thiêng liêng chuyển giao cho con cháu. Những giá trị tâm linh là hết sức bền vững, là hằng số của văn hóa gia đình, mấu chốt là ở chỗ đó”. [29, tr. 34 – 35]. Tâm linh trong đời sống gia đình được thể hiện trong những ngày họp mặt, giỗ chạp đông vui, những lúc tất cả những thành viên trong gia đình tập trung về để cùng quây quần tưởng nhớ đến những người thân đã khuất. Tâm linh trong đời sống gia đình đã tạo cho mỗi người chúng ta một nếp nghĩ thường trực, bất biến: gia đình là nơi ta về trong mỗi ngày, mỗi chuyến đi xa. Đó cũng là nơi ta về và được yên tâm cả lúc còn sống và cả khi đã qua đời. Vì khi đã mất linh hồn cũng mong được có nơi trở về trong khói hương thờ cúng. Rộng hơn khuôn khổ gia đình, chúng ta sẽ thấy được tâm linh từ đời sống cộng đồng, làng xã. Vậy tâm linh ở đây được biểu hiện như thế nào? Đó là thần tượng thiêng liêng về các anh hùng có công dựng làng, giữ nước đang được tôn thờ trong những không gian thiêng liêng, những ngôi
đình, đền. Ở những không gian thiêng liêng ấy, hàng năm lễ thần và hội làng diễn ra, thì lại là những dịp niềm tin thiêng liêng được củng cố. Thần thánh thiêng liêng nhắc nhở chúng ta nhớ về cội nguồn, lễ hội thiêng liêng nhắc nhở chúng ta xóa bỏ những gì khúc mắc bất hòa. Đó là những sợi dây tình cảm vô cùng thiêng liêng cố kết xóm làng, củng cố khối cộng đồng. Đó là những quan hệ thiêng liêng nhất trong đời sống cộng đồng làng xã. Nó là cái nền vững chắc trong mối quan hệ làng xã. Cũng từ đó, khi xa quê hương, xứ sở gặp người đồng hương không hề có quan hệ huyết thống, ruột thịt nhưng người ta sẽ cảm thấy rất vui và họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau trên nhiều phương diện có thể. Đó là nét đẹp của con người xuất phát từ tâm linh trong đời sống cộng đồng, làng xã. Vượt qua giới hạn của cộng đồng làng xã, người Việt cũng có tâm linh với Tổ quốc, giang sơn. Người Việt của chúng ta chắc chắn sẽ tự hào về ý chí kiên cường của Bà Trưng, Bà Triệu, tự hào về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đầy vẻ vang của dân tộc và cũng chạnh lòng khi tưởng nhớ đến các thế hệ chiến sĩ, đồng bào đã nằm xuống vì quê hương, đất nước… Những chiến tích anh hùng gắn liền với những địa danh, địa phương làm cho chúng ta khó có thể quên… Chắc chắn trong mỗi người dân Việt Nam của chúng ta đều cảm thấy thiêng liêng khi nghe bài hát quốc ca, sẽ thấy xúc động khi vào viếng thăm lăng Bác… Bên cạnh đó, tâm linh còn thể hiện trong văn học nghệ thuật, tâm linh với mê tín dị đoan. Phân biệt giữa tâm linh với mê tín dị đoan ta thấy tâm linh là niềm tin thiêng liêng có ở trong nhiều mặt đời sống tinh thần. Những người tin vào Phật và Chúa, đi tu, theo đạo, suốt cuộc đời tâm niệm vào Phật, vào Chúa có thể giải thoát về cái chết cho mình ấy là tâm linh. Hoặc những người không theo tôn giáo nào, nhưng vẫn tin vào thần Phật thiêng liêng, tự đến đình chùa thắp hương khấn lễ, cầu mong sự phù hộ bình yên, mạnh khỏe gặp nhiều may mắn ấy cũng là tâm linh. Còn xuất phát từ số người muốn kiếm lợi bằng dựa vào thần Phật, thương mại hóa niềm tin, đặt ra những phán bảo, nhiều điều kỳ dị khác thường, cúng lễ cho người khác, khiến cho người khác tin theo mê muội, hành động theo họ, gây tốn kém sức khỏe, tiền bạc vô ích, thậm chí nguy hại tính mệnh, ấy là mê tín dị đoan. Để tâm linh thật sự là cái thiêng liêng, cao cả mọi người cần hiểu đúng và đầy đủ ý nghĩa biểu hiện tích cực của tâm linh. Với đề tài “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm”, chúng tôi sẽ tìm hiểu những yếu tố tâm linh được thể hiện trong một số Truyện thơ Nôm mà chúng tôi chọn khảo sát. Với sự phong phú của các yếu tố tâm linh về thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên và tín ngưỡng thờ cúng; duyên kiếp số mệnh; hồn ma và không gian âm phủ; phép thuật, tướng số; lời thề; chiêm bao mộng mị, chúng biểu hiện sự liên thông của con người với thế giới ngoài mà nhân vật đang sống và chúng đã làm nên
chiều rộng, chiều sâu của thế giới tâm linh. Đồng thời tạo nên nét độc đáo, đặc sắc riêng cho Truyện thơ Nôm. 1.2.2. Cơ sở hình thành thế giới tâm linh trong văn hóa Việt và Truyện thơ Nôm 1.2.2.1. Cơ sở tư tưởng Việt Nam Trên cơ sở tư tưởng xuất phát từ bản chất của vũ trụ về triết lý âm dương, người Việt Nam đã hình thành tư duy lưỡng phân lưỡng hợp. Cuộc đời có sự phân chia giàu – nghèo, bản chất con người tồn tại giữa tốt – xấu, thế giới âm – dương là sự phân định gữa người chết và người sống… Nền văn hóa, văn học, tín ngưỡng dân gian mang nhiều dấu ấn thể hiện ước mơ bay bổng của con người trước hiện thực thiên nhiên, xã hội còn nhiều trở lực, khó khăn. Đồng thời, sự ảnh hưởng, tiếp thu tinh thần của ba hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo đã tạo nên sự phong phú trong quá trình hình thành và phát triển đời sống tinh thần của người Việt. Đó cũng là nền tảng, là cơ sở cho sự hình thành thế giới tâm linh trong văn hóa Việt và Truyện thơ Nôm. 1.2.2.1.1. Thế giới tâm linh ảnh hưởng từ triết lý âm dương Theo Trần Ngọc Thêm: “Triết lý âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cặp đối lập gốc “mẹ – cha” và “đất – trời”, người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp có phần chất phác và thô sơ về thế giới mà nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đã từng nói”. [100, tr.56] Người Việt hình thành tư tưởng theo triết lý âm – dương qua biểu tượng âm – dương có truyền thống lâu đời từ biểu tượng “vuông – tròn”. Có vuông có tròn, tức có âm có dương; nói “vuông tròn” là nói lên sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu: “Mẹ tròn con vuông; Ba vuông bảy tròn…” Ca dao thì có: “Ba vuông sánh với bảy tròn Trăm năm cho trọn lòng son với chàng!” Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng theo triết lý âm - dương: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông; Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”. (Truyện Kiều) Biểu tượng vuông tròn còn là biểu tượng cho trời – đất. Trời được biểu tượng là tròn, đất biểu tượng là vuông. Sở dĩ trời tròn vì trời là dương, mà biểu tượng của dương là tròn, đất vuông vì đất là âm, mà biểu tượng của âm là vuông.
Người Việt Nam còn nhận thức rõ về hai quy luật của triết lý âm dương. Những quan niệm dân gian: “Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc”; “Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo”… Đó cũng là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “trong dương có âm” và “trong âm có dương”. Cũng từ đó mà đã hình thành nhận thức dân gian về quan hệ nhân quả ở đời: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ; Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa, Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa… Đó cũng là sự diễn đạt cụ thể của quy luật âm dương có sự chuyển hóa, liên thông. Cũng chính nhờ có lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lý sống quân bình. Trong cuộc sống, gắng không làm mất lòng ai; trong việc ăn ở, gắng giữ sự hài hòa âm dương trong cơ thể và hài hòa với môi trường thiên nhiên… Triết lý quân bình âm dương được vận dụng không chỉ cho người sống mà ngay cả cho người chết. Chính triết lý quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt Nam một khả năng thích nghi cao với mọi hoàn cảnh với lối sống linh hoạt, dù khó khăn đến đâu vẫn không chán nản. Người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai (tinh thần lạc quan): thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng (Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời...) Triết lý âm dương còn cho thấy sự phân định giữa cõi thực (dương thế) và cõi hư vô (âm phủ). Và con người tin rằng giữa hai cõi âm dương này có sự liên thông vô hình mà luôn luôn tồn tại trong nếp nghĩ của nhân dân. Điều này cũng được thể hiện khá rõ trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa”, Nghi Xuân – Tiến Lực hai đứa con khốn khổ của Cúc Hoa bị mẹ kế Tào Thị hành hạ, bạc đãi phải bỏ nhà ra đi. Thương hai con bất hạnh, hồn Cúc Hoa từ âm cung lên dương thế để vỗ về, ru ngủ cho con trong bước đường lưu lạc. Hay cảnh Phạm Công xuống âm cung tìm vợ Cúc Hoa, hay nàng Ngọc Hoa tự tử để được xuống âm phủ gặp chồng. Theo triết lý âm dương, chết tức là cơ thể từ trạng thái động trở thành tĩnh, hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là một thế giới bên kia, là nơi hồn người chết trở về còn được gọi là nơi chín suối. Với niềm tin chết là về với tổ tiên nơi chín suối, nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa – nơi trang trọng nhất. Người Việt Nam quan niệm dương sao âm vậy cho nên cúng tổ tiên bằng cả đồ ăn lẫn đồ mặc, đồ dùng, tiền nong (làm bằng giấy, gọi là vàng mã). Cùng với đồ ăn đồ mặc là hương hoa, trà rượu. Rượu (rượu gạo) có thể có hoặc không, nhưng ly nước lã thì nhất thiết không thể thiếu. Nhất thiết có, vì nó đơn giản nhất, nhà nào, lúc nào cũng sẵn, nhất thiết có, còn vì ý nghĩa triết lý: nước là thứ quý
nhất (sau đất) của dân nông nghiệp lúa nước. Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã được đem đốt, chén rượu cúng đem rót xuống đống tàn vàng – có như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế. Hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất – trước mắt ta là một sự hòa quyện lửa – nước (âm dương) mang tính triết lý sâu sắc. 1.2.2.1.2. Thế giới tâm linh ảnh hưởng từ tín ngưỡng dân gian Từ sơ khởi, dân ta tôn thờ và tin tưởng tất cả những sức mạnh vô hình hay hữu hình mà người ta cho rằng có thể giúp đỡ hoặc làm hại đến con người như: trời, đất, sấm, sét, gió, mưa, nước, lửa... Dần dần, với sự hiểu biết và giao lưu văn hóa với các nước chung quanh ta, trong sự tín ngưỡng của dân ta chỉ còn tôn thờ: Trời, Phật, Thần thánh và Tổ tiên. Thờ cúng là biểu hiện rõ nhất của thế giới tâm linh. Là hình thức thể hiện nguyện vọng, mong ước của con người vào thế giới siêu nhiên. Con người gởi gắm niềm tin vào Trời, Phật, Thần linh… và mong được các đấng siêu nhiên ấy phù trợ. Việc thờ cúng có thể diễn ra tại nhà, tại chùa, tại miếu, đền, tại những nơi tổ chức các lễ hội… và ngay cả những lúc con người cảm thấy bất an, bế tắc cần được các đấng siêu nhiên chở che, giúp đỡ để giải thoát… Trong gia đình, ngoài việc thờ tổ tiên, người Việt còn thờ các vị Phật, Thánh khác như: Ngọc Hoàng thượng đế, Phật Bà Quan Âm (thường đặt trên bàn thờ tổ tiên). Thờ ngũ hổ (thường đặt dưới bàn thờ tổ tiên). Sở dĩ bàn thờ được đặt chồng nhau ba bốn tầng như vậy là theo quan niệm: bàn thờ là nơi tượng trưng cho tổ tiên, xã hội, vũ trụ, trời và đất. Do vậy, bàn thờ thường để ở gian giữa – là nơi trang nghiêm nhất để nhìn ra cửa chính. Trong các dạng tín ngưỡng, thờ cúng là một hình thức tồn tại rất phổ biến và lâu dài trong đời sống tinh thần của nhân dân. Con người thờ cúng tổ tiên, cúng tế người chết, thờ thiên thần, nhiên thần... Bởi con người có quan niệm về thế giới: mọi vật đều có linh hồn (thuyết vạn vật hữu linh), thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, triết lý sinh tử của Nho giáo, quan niệm chết là về cõi tiên của Đạo giáo, nhận thức của dân gian chết là một dạng sống mới ở môi trường khác và niềm tin âm phù dương trợ đã hình thành tục thờ cúng. Bởi mọi người quan niệm rằng khói hương sau khi khấn vái, thờ cúng sẽ là mối liên thông giữa người sống với người chết, giữa con người với Trời Phật, Thần Tiên, giữa con người ở trần gian với thế giới âm ty, âm phủ... Xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người, tín ngưỡng thờ cúng trở thành một dạng của tâm linh rất gần gũi và rất phổ biến ở người Việt. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên Việt Nam là một đất nước thuộc nền văn minh lúa nước nên người Việt từ xưa đã từng gắn bó với đời sống nông nghiệp. Và chính vì vậy, thế giới tâm linh cũng bắt đầu từ đó. Với điều kiện
khí hậu, thời tiết thất thường và hoàn cảnh địa lý không thuận lợi nên người dân sống theo nông nghiệp luôn gặp phải những trở lực, khó khăn từ thiên nhiên như: lũ lụt, hạn hán dẫn đến thất mùa, đời sống khó khăn. Cũng từ đó, khí hậu, thời tiết, thiên nhiên rất quan trọng trong đời sống nhân dân. Việc thờ cúng thần sông, thần nước, thần lửa… tục tế lễ trời, đất khá phổ biến. Vì vậy, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên được hình thành và rất phổ biến trong nhân dân. Với bản chất hiền lành, chân chất và tâm lý cam chịu của người nông dân nên khi đứng trước những trở lực, khó khăn của thiên nhiên người nông dân thường rơi vào thụ động. Do đó, người Việt không đi theo hướng nhận thức để đối phó với tự nhiên, chế ngự, làm chủ nó mà họ tìm cách thích nghi với tự nhiên, hài hòa, tôn trọng tự nhiên. Thái độ tôn trọng cùng với nỗi lo lắng trước những cơn thịnh nộ của thiên nhiên đã dẫn đến tín ngưỡng sùng bái các vị thần tự nhiên như thờ thiên thần, nhiên thần tức là tục thờ các vị thần có nguồn gốc từ trời, từ các hiện tượng thiên nhiên: mây, mưa, sấm chớp, nước, núi, đất, đá… Thờ vật thiêng như: rắn, chim, cá sấu, rồng,… Và cũng từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên đã dẫn đến tục tế lễ trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa… Theo Phan Đại Doãn: “Ở gốc độ vũ trụ quan, người Việt Nam và cả một số nước Đông Á quan niệm về quan hệ giữa con người và thiên nhiên có ba yếu tố: trời – đất – người (thiên, địa, nhân) mà trong đó con người là bộ phận của thiên nhiên, đúng như tục ngữ của người Việt Nam đã nói người là hoa của đất, nghĩa là con người là tinh hoa của đất nhưng không tách khỏi đất. Trời và đất, theo cách nói ngày nay là thiên nhiên, được xem như một thực tế ngoài con người. Con người là cao quý, nhưng không thể thoát ly khỏi thiên nhiên, mà chính là do thiên nhiên tạo nên”. [28, tr. 205] Cũng theo Phan Đại Doãn, trong vũ trụ quan của người Việt (cũng như ở một số nước Á Đông), ba yếu tố thiên – địa – nhân thì trong ý thức vẫn lấy cái “thiên” làm yếu tố thứ nhất. Triết học phương Tây thường coi trọng nhận thức luận, thường sử dụng cặp phạm trù “tư duy” và “tồn tại” làm hệ quy chiếu. Ở người Việt thường chú ý nhiều đến các mối quan hệ, thường hay dùng cặp phạm trù “thiên” và “nhân” để khảo sát thiên nhiên và xã hội. Trong mối quan hệ “thiên” và “nhân”, theo quan điểm phương Đông là hợp nhất, là tương cảm (những biến chuyển của thiên nhiên đều ảnh hưởng trực tiếp đến con người). Trong mối quan hệ đó, thế ứng xử của con người là phải giữ mối hài hòa, tạo thế cân bằng, tôn trọng thiên nhiên. Không thể cho rằng quan niệm truyền thống về quan hệ giữa con người với thiên nhiên của người Việt đã hoàn chỉnh khoa học. Thậm chí trong quan niệm về thiên nhiên vẫn còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí. Thuyết “phong thủy” khá sâu rộng trong dân gian đã tạo ra quan niệm cái gọi là “mạch đất” của “thầy địa lý” hạn chế tính năng động của con người, mặt nào đó cũng là sự khuất
phục của con người trước thiên nhiên. Đồng thời quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá, rừng núi có sơn thần” là tư tưởng thần thánh hóa, tôn giáo hóa lực lượng thiên nhiên. Trên đường khai hoang mở cõi về phương Nam, lưu dân người Việt có cơ hội tiếp xúc với nhiều tộc người bản địa như Chăm, Khơme và cả người Hoa nhập cư ở Nam bộ vào thế kỷ XVII và sau đó. Sự giao lưu văn hóa tất yếu dẫn đến hiện tượng giao thoa của con người trong trời đất bao la trên vùng đất mới. Do đó, đời sống tâm linh (ngoài niềm tin tôn giáo) của lưu dân từng bước hình thành bên cạnh niềm tin, thần linh chính thống được họ mang theo từ quê cũ, những tín điều mới có pha trộn ít nhiều tín ngưỡng của các tộc người bản địa. Giao tiếp tín ngưỡng là một quá trình sàng lọc qua tâm thức, qua nếp sinh hoạt của lưu dân trên vùng đất mới dưới sự tác động của hoàn cảnh kinh tế – xã hội cụ thể. Từ đó, từng nơi, từng lúc, từng bước hình thành hệ thống tín điều mang nét riêng của mỗi địa phương. Để được bình yên trong cuộc sống mới nơi xứ lạ, để được an toàn khi vào rừng lấy cây, lấy củi, lấy mật, săn bắn…; ra sông chài lưới bắt tôm cá… lưu dân tin là có một vị thần nào đó phù hộ và phải cầu cúng để gởi gắm niềm tin. Đó là cơ sở để hình thành một số dạng sinh hoạt tâm linh trên vùng đất mới, với miễu thờ ông Tà, ông Địa, bà Chúa Xứ, Ngũ Hành, Hà Bá, Sơn Thần, Long Vương, Bà Thủy, dinh Ông, dinh Bà, dinh Cậu, dinh Cô… lần lượt xuất hiện ở nơi mà họ cho là thích hợp. Nhìn chung, quan niệm truyền thống của người Việt về quan hệ giữa con người với thiên nhiên không phải là đối lập mà ngược lại cho rằng: con người với thiên nhiên là một chỉnh thể. Tạo lập một mái nhà, một ngôi chùa, một chốn ở hay tổ chức một lễ hội con người đều tìm cách gắn bó, hòa nhập với thiên nhiên. Trong sản xuất nông nghiệp, người Việt cũng luôn giữ mối cân bằng, hài hòa với thiên nhiên. Từ đó, hình thành tín ngưỡng sùng bái tự nhiên qua thờ thiên thần, nhiên thần; thờ vật thiêng; tục tế lễ trời đất... Nông thôn Việt Nam hiện nay có nhiều đình, chùa, miếu. Đó là di sản kiến trúc truyền thống còn lại, là địa điểm tổ chức lễ hội dân gian, nơi thờ cúng những người có công với nước với dân, những người khai cơ lập ấp tại địa phương, tổ tiên ông bà thuở trước, mang đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và nếp sống của người Việt. Đình, chùa và sinh hoạt đình, chùa phản ánh đặc điểm của văn hóa và văn minh Việt Nam từ ngàn xưa tới nay. Tín ngưỡng sùng bái con người Người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” để bắt đầu chú ý về mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và vô hình, nhất là giữa sự sống và cái chết. Họ tin rằng mỗi con người đều có phần hồn và xác. Trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn của con người vừa gắn bó vừa tách biệt. Khi con người chết đi, xác hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại ở một thế giới khác và
liên hệ với người sống bằng hiện tượng “linh hồn”. Người sống có thể liên thông với người đã khuất qua giấc mộng, chiêm bao... Người sống có thể cầu xin người chết che chở, phù trợ cho sự bình yên của cuộc sống hằng ngày. Không biết sự cầu xin ấy có hiệu quả như thế nào nhưng trước hết con người thấy thanh thản về mặt tinh thần, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Người chết cần có sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn ở thế giới bên kia, không thành ma đói lang thang, con người sống có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của người chết. Với mong ước bình dị và niềm tin có thật ở người Việt, thờ tổ tiên được coi là thứ tín ngưỡng ở mọi lớp người. Ở đây, việc ứng xử với quá khứ, với những người đã khuất không phải chủ yếu là vì họ, cho họ mà là vì những người đang sống, chính vì thế mà tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tồn tại vững chắc trong mọi thời gian. Lý do chủ yếu cho việc hình thành và tồn tại tín ngưỡng đó là lòng yêu nước và tự tôn dân tộc đã trở thành một đặc trưng sâu đậm của tâm thức dân gian người Việt. Sinh sống trên một mảnh đất luôn bị giặc ngoại xâm dòm ngó, người Việt ý thức được sự tồn vong của đất nước phụ thuộc vào ý chí tự lực, tự cường của mình. Có thể nói đã tồn tại một dòng truyền thuyết về những người anh hùng chống giặc ngoại xâm và họ được thờ như những vị thần mà rõ nhất là Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Vua Hùng,… đó cũng là một dạng tín ngưỡng, họ tôn sùng những người anh hùng đã góp phần quan trọng giữ gìn đất nước. So với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ thần có qui mô rộng lớn hơn, có ảnh hưởng đến cả một vùng cả một dân tộc và được mọi người chấp nhận dạng tín ngưỡng này một cách hết sức tự nhiên. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam giản dị như chính con người họ. Ở Việt Nam, tín ngưỡng chủ yếu phục vụ đời sống tinh thần. Đó là một niềm tin lý giải ước mơ về một chỗ dựa trong tinh thần, tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng người Việt không có những kiểu lễ bái, thờ cúng phức tạp đậm chất tôn giáo như một số quốc gia ở châu Á. Đối với người Việt, tín ngưỡng đôi khi chỉ là sự tin tưởng vào lời thề son sắt trong tình yêu đôi lứa, lòng tin vào quy luật nhân quả trong cuộc đời, tin vào duyên kiếp, số mệnh, bói toán. Từ lòng tin đó họ tự răn dạy bản thân, con cháu, tự an ủi trong những lúc khó khăn… Cũng từ đó, người xưa tin vào thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên. Thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên với những phép lạ nhiệm màu có thể giúp cho con người thực hiện công lý, trừng trị những kẻ bạc ác, đem đến hạnh phúc cho người bất hạnh. 1.2.2.2. Cơ sở tư tưởng của Nho – Phật – Đạo Các tư tưởng Nho – Phật – Đạo đã thâm nhập sâu sắc vào tâm hồn của người dân đất Việt bởi ba đạo này du nhập vào nước ta rất sớm và cùng tồn tại “hòa thuận” trên đất nước ta. Do đó, chính các tư tưởng của ba đạo này đã góp phần làm phong phú thế giới tâm linh trong văn hóa Việt và trong tư tưởng của nhân dân.
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo… đều là những tôn giáo ngoại sinh sớm du nhập vào Việt Nam và có ảnh hưởng rộng rãi đến đời sống tinh thần của người Việt. Bên cạnh tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, sùng bái con người, tục thờ Mẫu, thờ Thần, tục thờ cúng ông bà… chúng ta không thể bỏ quên những tư tưởng và ảnh hưởng của các tôn giáo ngoại sinh. Ngay trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa, văn học dân gian đã có những bằng chứng cho thấy nét văn hóa đạo đức, truyền thống của người Việt đó là sự bình đẳng trước mọi tôn giáo và khả năng tiếp thu, chuyển hóa các tôn giáo ngoại sinh cho hòa hợp với tín ngưỡng bản địa. Trong đó, tam giáo Nho – Phật – Đạo có một ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Xuất phát từ một đất nước theo nền văn minh nông nghiệp, con người Việt Nam luôn có tư tưởng sống ôn hòa, gần gũi với thiên nhiên; tâm lý luôn được sống trong sự che chở, phù trợ của đấng thiêng liêng nào đó để được vững vàng trong tinh thần… Cũng vì vậy, các tư tưởng Nho – Phật – Đạo khi vào Việt Nam đã được người Việt Nam tiếp nhận khá nhanh và có rất nhiều người xem tư tưởng của các tôn giáo là phương châm để tự điều chỉnh cách sống và ứng xử của mình. Phật giáo được truyền bá đến Việt Nam từ đầu công nguyên. Do thâm nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp và có ảnh hưởng rất sâu rộng trong nhân dân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy đã nhận định: “Từ hơn hai nghìn năm nay, người Việt với tính chất là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc gia cầm, lại sớm bị xâm lược thống trị, nên đời sống có tinh thần ghét áp bức bất công, yêu chuộng hòa bình bác ái, trọng nhân nghĩa. Phật giáo với tính chất bình đẳng bác ái, nêu cao cứu khổ cứu nạn cho con người, nên đã được người Việt Nam sớm tiếp thu một cách sâu rộng”. [27, tr.210] Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều chứa đựng ít nhiều triết lý nhà Phật, về hình ảnh ngôi chùa, tiên, bụt, về kiếp luân hồi, nhân quả, về thờ cúng tổ tiên… Phật giáo giáo dục con người lòng từ bi, hỷ xả, đề cao cái tâm, cái đức của con người, điều này đã tạo nên truyền thống đạo đức tốt đẹp trong truyền thống văn hóa của người Việt. Sự sống của con người theo quan điểm của Phật giáo chỉ là cõi tạm “trăm năm như quán trọ”. Mọi người cho rằng đã phàm là con người thì ai cũng có hỷ – nộ – ái – ố – tham – sân – si nên luân hồi, nghiệp báo luôn theo đuổi trong mỗi kiếp người. Tư tưởng của Phật giáo cho rằng nếu ở kiếp này ta làm điều lành, điều tốt thì sẽ có nghiệp tốt, báo ứng điều lành điều tốt cho kiếp sau. Ngược lại nếu ở kiếp này ta làm điều ác, điều xấu thì sẽ có nghiệp xấu, báo ứng xấu cho kiếp tiếp theo. Chúng ta có thể nhận thấy tư tưởng luân hồi, nghiệp báo rất có giá trị trong giáo dục đạo đức ngày nay khi chúng ta đang ở trong nền kinh tế thị trường. Người Việt Nam cho rằng “cha làm con
chịu”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước” hay “quả báo nhãn tiền”, nên có tác dụng răn dạy con người không làm điều ác, sống phải để đức cho đời sau, làm việc thiện để tích đức cho con cháu. Phật giáo Việt Nam coi trọng “cái tâm”, “cái đức” nên phù hợp với giá trị đạo đức truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam ta. Và Phật giáo cũng là cơ sở để thế giới tâm linh của người Việt Nam tồn tại và phát triển. Ở Việt Nam, Nho giáo có lịch sử phát triển lâu dài. Nho giáo vào Việt Nam, trước hết là vì mục đích xâm lược, mục đích thống trị của phong kiến phương Bắc. Mặt khác, Nho giáo thích hợp với nhu cầu của xã hội phong kiến Việt Nam trong công việc tổ chức và quản lý Nhà nước. Do đó, truyền thống văn hóa Nho gia vẫn còn lưu giữ đậm nét trong văn hóa của người Việt. Trong cuộc sống hiện thực, bên ngoài nó là quy phạm lễ nghĩa, bên trong là đức tính nhân ái và trật tự “luân thường”, cùng kết cấu một trật tự đẳng cấp khác nhau suy từ mình đến người, có sức duy trì quan hệ tam cương (vua – tôi, cha – con, chồng – vợ), ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) và sự nương nhờ nhau của con người trong xã hội nông nghiệp. Người Việt yêu thích tình cảm tự nhiên và chú trọng, sùng kính: trọng hiếu, quý hòa, bổn phận, phụng thờ trên, thịnh hành nguyên tắc danh phận… Và phía sau tất cả lại chứa đựng nhiều màu sắc thiết thực nghĩa tình, nương tựa nhau… Tất cả những điều này chủ yếu ảnh hưởng từ các phạm trù lễ giáo của Nho gia: hiếu, lễ, nhân, nghĩa… Chính vì vậy, Nho gia đã trở thành một phần truyền thống văn hóa Việt, có ảnh hưởng đậm nét trong đời sống tinh thần người Việt. Theo Nho giáo, mọi việc đều do ý trời. Họa hay phúc, may hay rủi, vui hay buồn, giàu hay nghèo… tất cả đều do thiên mệnh tiền định. Để tư tưởng nhân nghĩa, hiếu, lễ, trí, tín… của Nho gia được tròn vẹn thì phải có các yếu tố tâm linh như sự trợ giúp của Trời Phật, Thần Tiên, phải có sự hỗ trợ của phép thuật nhiệm màu, con người phải có niềm tin vào duyên số, phải tin rằng chết đi vẫn chưa hết vẫn còn linh hồn tồn tại và có thể tái sinh từ cõi chết trở về. Cũng chính vì vậy mà thế giới tâm linh như giấc mơ, lời thề, hồn ma, hóa kiếp, phép thuật khá phổ biến trong suy nghĩ, trong tinh thần của người Việt. Bên cạnh Phật giáo, Nho giáo, chúng ta có thể nói Đạo giáo khi vào Việt Nam đã sớm tìm được chỗ đứng do tư tưởng của Đạo giáo tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu của người Việt Nam. Bởi người Việt Nam từ xa xưa rất sùng bái ma thuật, phù phép… Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền đến mức hầu như không còn ranh giới. Người Việt tin vào những phép thuật, những quyền lực siêu nhiên. Thế giới tâm linh của người vô cùng bí ẩn với những niềm tin tôn giáo mãnh liệt: người chết có thể giao tiếp với người sống, linh hồn người đã chết cần phải được cầu cúng, lập đàn tràng để giải oan, có những phép thuật linh nghiệm có thể cứu giúp con người… Đạo giáo nguyên thủy với tư cách là một triết lý sống đã được người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng bản địa của
mình để hình thành quan niệm Đạo phù thủy với những bùa chú và phép thuật mà đến nay rất nhiều người Việt vẫn còn tin tưởng. Từ vị trí là một thành tố ngoại lai, Đạo giáo đã hội nhập một cách tự nhiên với đời sống văn hóa của người Việt. Do đó, đạo giáo cũng là cơ sở quan trọng thể hiện thế giới tâm linh của người Việt. Các phép thuật, bói toán, tướng số… của Đạo giáo đã ảnh hưởng và được thể hiện khá phổ biến trong tư tưởng của nhân dân. Như vậy, các tư tưởng của ba đạo Nho – Phật – Đạo đã góp phần làm phong phú thế giới tâm linh người Việt Nam chúng ta. Do đó, tư tưởng của Nho – Phật – Đạo cũng là một trong những cơ sở hình thành yếu tố tâm linh quan trọng đối với con người Việt Nam trên tinh thần tiếp thu, chọn lọc phù hợp với tâm lý, tinh thần của người Việt. Như vậy, từ cơ sở văn hóa Việt với triết lý âm dương, từ tín ngưỡng dân gian cùng với tư tưởng tôn giáo Nho – Phật – Đạo đã hình thành thế giới tâm linh trong văn hóa Việt. Đây cũng là cơ sở, nền tảng cho sự phát sinh, tồn tại của thế giới tâm linh trong văn học Việt Nam qua các thời kỳ. Ngoài sự kế thừa của văn hóa tâm linh trong văn học và tín ngưỡng dân gian, Truyện thơ Nôm còn ảnh hưởng và chi phối bởi tinh thần, tư tưởng khá lớn của văn hóa ngoại sinh qua tín ngưỡng tôn giáo Nho – Phật – Đạo. Cả văn xuôi và Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại đều mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng dân gian qua phong tục thờ cúng, qua niềm tin vào thế giới linh thiêng... Bên cạnh đó, những tư tưởng của tôn giáo Nho – Phật – Đạo chi phối rất rõ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Với tư tưởng của Nho giáo, con người tin tưởng có trời, có thần nên hiện tượng thờ Cha trời, Mẹ đất, thờ Thành hoàng khá phổ biến. So với Nho giáo thì Phật giáo có ảnh hưởng đối với đời sống nhân dân khá rõ. Dù tiếp thu Phật giáo có sự chọn lọc nhưng tư tưởng Phật giáo thật sự có ảnh hưởng lớn đối với mọi người. Nhiều người tin cuộc đời có luật nhân quả, cuộc sống theo vòng luân hồi, kiếp người có sự tiếp diễn… Tư tưởng của Đạo giáo đã làm cho con người tin tưởng vào thế giới thần linh. Nên khi bị bệnh nhiều người cũng tin vào phép thuật, tà ma, cất nhà thì xem phong thủy; họ gởi gắm niềm tin vào thầy cúng, tin tưởng vào thuật xem tướng, bói toán, gieo quẻ… Tất cả những tư tưởng này được thể hiện thật sinh động trong Truyện thơ Nôm. Và chúng ta có thể khẳng định ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh Nho – Phật – Đạo đối với văn học viết nói chung và Truyện thơ Nôm nói riêng sâu đậm hơn so với văn học dân gian. Nếu ảnh hưởng của các tôn giáo Nho – Phật – Đạo tạo nên thế giới tâm linh khá phổ biến về mộng ảo, cầu cúng, khấn vái, điềm báo, linh ứng, phép thuật, tướng số, hồn ma, hóa kiếp trong văn xuôi Trung đại thì Truyện thơ Nôm ngoài những yếu tố tâm linh trên còn thể hiện niềm tin của con người vào thế giới Trời – Phật – Thần – Tiên, duyên kiếp, số mệnh, lời thề thật sâu sắc. Trong Truyện thơ Nôm sự chi phối của Nho giáo được thể hiện rất rõ qua những mối quan hệ của con người trong đời sống như vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, bè bạn... với những phẩm chất
tốt đẹp trung, hiếu, tiết, nghĩa của con người. Đó cũng là cơ sở giúp con người vượt qua những bế tắc khi gặp phải biến cố và giúp họ có thêm nghị lực trong đấu tranh để bảo vệ tình yêu, tình cảm vợ chồng để sống tròn đạo nghĩa (Phạm Công – Cúc Hoa, Phảm Tải – Ngọc Hoa, Lý Công, Hoàng Trừu, Truyện Chàng Chuối, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Phù Dung tân truyện, Lâm Tuyền Kỳ Ngộ, Lục Vân Tiên...). Nho giáo cho rằng mọi việc đều do ý trời: Họa – phúc, mai – rủi, vui – buồn, giàu – nghèo, sống – chết... đều do thiên mệnh tiền định. Muốn biết được nguồn gốc của tất cả các mặt đối lập trên thì Phật giáo, Đạo giáo lại là chỗ dựa tinh thần nhiều nhất và giúp con người lý giải những căn nguyên trong cuộc đời. Những tư tưởng và tinh thần của Phật giáo là nơi trú ngụ, tồn tại cho niềm tin của con người trong xã hội lúc bấy giờ. Vì thế, Phật giáo giúp cho con người củng cố niềm tin đối với cuộc đời. Tấm qua nhiều lần hóa thân cuối cùng trở lại thành hoàng hậu xinh đẹp và sống hạnh phúc bên nhà vua, Thạch Sanh nên duyên cùng công chúa, Phạm Tải – Ngọc Hoa được sum họp, Chàng Chuối và Lý Dung được mãi sống bên nhau giúp con người tin rằng người hiền lành sẽ được phù trợ, sẽ được hạnh phúc, kẻ bạc ác gian tham sẽ bị trừng trị. Sự quyết tâm tu luyện của Chúa Ba, sự chịu đựng oan ức của Thị Kính cho con người hiểu rằng sự nhẫn nhục, khổ đau, hy sinh của con người ở thế gian đều được Trời, Phật, Thần, Tiên thấu rõ và sẽ có sự can thiệp để đem đến kết thúc có hậu, hợp lẽ đời. Với ảnh hưởng của Phật giáo, Truyện thơ Nôm thể hiện sự phong phú trong trí tưởng tượng của con người. Thế giới thiên đình là nơi thần tiên thoát tục, nơi đến cho những người sống hiền lương, nhân đức. Còn thế giới âm phủ với nhiều chi tiết ghê sợ, con người bị trừng phạt sau khi chết đã có tính giáo dục, răn đe khá cao. Sự kỳ ảo qua lời khấn nguyện thành tâm của Chúa Ba đã cứu được ngục tù thoát khỏi cảnh khảo tra và thực sự mang đến cho âm phủ cảnh yên vui, hạnh phúc của thiên đường. Cũng chính yếu tố kỳ ảo, sau khi trải qua nhiều oan ức trong cuộc đời, Thị Kính được tôn ngôi Phật và những người thân của Thị Kính, của Bà Chúa Ba cũng được nhập dòng tiên, cũng được lên thượng giới dể sống một cuộc đời mới. Một cuộc đời thoát tục, yên bình, chấm dứt mọi khổ đau. Có thể nói chính những yếu tố tâm linh là cơ sở, là yếu tố “kỹ thuật” dể giúp Truyện thơ Nôm đi đến kết thúc có hậu. Dù tác giả xây dựng, tạo ra tình tiết phát triển rắc rối của câu chuyện đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng người kể cũng phải dừng lại ở chỗ đẹp nhất, có hậu nhất thì mới thỏa mãn được tâm lý người đọc. Bởi vì, triết lý ngàn đời của dân gian đã ăn sâu trong tiềm thức của con người: thiện phải thắng ác, chính phải thắng tà, hạnh phúc phải đến với người hiền, kẻ gian ác phải bị trừng phạt. Yếu tố kỳ ảo, thần kỳ được kế thừa từ văn học dân gian, những kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích nhưng thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm đã làm cho truyện vừa có
yếu tố bay bổng, thần kỳ nhưng lại gần gũi với cuộc sống đời thường hơn. Thế giới của Truyện thơ Nôm là thế giới gần với hiện thực đời sống hơn so với thế giới của truyện cổ tích. Chính vì vậy, ước mơ của nhân dân cũng gần gũi với hiện thực hơn. Bên cạnh đó, thế giới tâm linh đã đưa con người đến thế giới kỳ diệu, bay bổng đã giúp cho con người xóa bớt đi những hiện thực trần trụi, đời thường lắm bất công, oan trái ... Cảnh Cúc Hoa hiện về trong đêm khuya để vỗ về con như cho người đọc cảm giác xúc động về lòng mẫu tử để từ đó con người trân trọng hơn những hạnh phúc mình đang có trong cuộc đời. Chi tiết tiếng đàn thần của nàng Thoại Khanh giúp Thoại Khanh – Châu Tuấn được hội ngộ tương phùng, tiếng đàn của Thạch Sanh giúp cho Công chúa và Thạch Sanh nên duyên. Những chi tiết trên đã giúp cho con người có niềm tin vào những thế lực thần bí sẽ phù trợ những người hiền gặp nạn. Cũng chính những yếu tố kỳ ảo, thần kỳ đã giúp cho con người có niềm hy vọng và ước mơ trong cuộc đời. Nhìn chung, với sự ảnh hưởng của triết lý âm dương, sự kế thừa yếu tố tâm linh trong tín ngưỡng dân gian và sự ảnh hưởng tư tưởng, tinh thần của văn hóa ngoại sinh Nho – Phật – Đạo là cơ sở hình thành thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm. Chính thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm là thành quả biểu hiện sinh động xã hội nước ta thông qua đời sống tinh thần, thế giới tâm linh của con người trong xã hội lúc bấy giờ.
Chương 2
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THẾ GIỚI TÂM LINH TRONG TRUYỆN THƠ NÔM Từ cơ sở hình thành, tồn tại của thế giới tâm linh trong đời sống tinh thần người Việt và trong Truyện thơ Nôm như đã trình bày ở phần trên. Đề tài sẽ tập trung khảo sát thế giới tâm linh của người Việt trong một thể loại văn học cụ thể là Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại. Với thế giới tâm linh vô cùng phong phú và sinh động, đó là cơ sở tạo nên sức hấp của Truyện thơ Nôm. Qua 30 tác phẩm khảo sát, đề tài tập trung vào 6 dạng yếu tố tâm linh có tần số xuất hiện nhiều trong tác phẩm để từ đó thấy được giá trị nghệ thuật, vai trò, ý nghĩa của thế giới tâm linh đã góp phần tạo nên nét độc đáo của Truyện thơ Nôm. 2.1. Tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên Với 994/1894 lần xuất hiện của tổng các hiện tượng trong 30 tác phẩm (tương đương 52,48%), yếu tố tâm linh tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên, góp phần thể hiện sự sinh động, hấp dẫn của Truyện thơ Nôm. 2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng Tín ngưỡng thờ cúng là một dạng tâm linh, xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người bên cạnh quan niệm từ triết lý âm – dương và tư tưởng Nho – Phật – Đạo. Đây là một dạng tín ngưỡng rất phổ biến trong đời sống tinh thần của người Việt. Trong Hán – Việt tự điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: “Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ một tôn giáo hay một chủ nghĩa” [102, tr. 95]. Theo Trương Thìn, “Tín ngưỡng, nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa là sự tin vào một điều gì đó thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn giáo (Croyance religieuse). Như vậy, nếu xét về mặt ngữ nghĩa thì tín ngưỡng chỉ là niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà chúng ta thường quen gọi là tín ngưỡng, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó, thì thuật ngữ mà các nhà tôn giáo học thường dùng là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp mà ra”. [102, tr. 96] Gần với quan điểm của Trương Thìn, Hoàng Phê đã đưa quan điểm, khái niệm về “Thờ”, “Thờ cúng” và “Thờ phụng” khá cụ thể. Trong từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, thờ là “lòng tôn kính thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết bằng hình thức lễ nghi, cúng bái theo phong tục hoặc tín ngưỡng” [79, tr. 1184]. Thờ cúng là “sự kết hợp giữa thờ và cúng, nói khái quát là thờ cúng tổ tiên, thờ phụng, thờ tự” [79, tr. 1184]. Còn thờ phụng ngoài ý nghĩa như thờ cúng, thờ
phụng tổ tiên, thờ phụng còn là “sự chăm sóc, nuôi dưỡng một cách tôn kính, hết lòng thờ phụng cha mẹ già” [79, tr. 1184]. Nên việc “thờ cúng”, “thờ phụng” là sự hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ và ông bà. Đồng thời đó cũng là lòng tôn kính của con người đối với đấng linh thiêng. Gần gũi nhất với nhân dân là thờ cúng tổ tiên, bởi thờ Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ là đạo của người Việt Nam. Nói tóm gọn là đạo “hiếu”. [84, tr. 97 – 98]. Với 87 lần xuất hiện yếu tố tâm linh thờ cúng, 30 Truyện thơ Nôm thể hiện khá phong phú tín ngưỡng thờ cúng đặc biệt là sự hiếu nghĩa. Đó là tấm lòng, việc làm được chuyển tải qua yếu tố tâm linh thờ cúng. Xuân Hương (Mã Phụng – Xuân Hương) đã thành tâm khấn vái: “Xuân Hương đáo để trong lòng, Cơm xa muối bạc tạm dùng canh dưa. Hai hàng nước mắt như mưa Lâm râm miệng vái cha xưa tọa bàn. Nay ngày hết chế mãn tang, Lòng thành một tấm đốt hương ba tuần”. Trong lúc lưu lạc, Nghi Xuân và Tiến Lực luôn nhớ đến người mẹ quá cố. Xin được miếng cơm Nghi Xuân, Tiến Lực đều khấn vái, cúng mẹ rồi mới dùng. Đó cũng là tấm lòng hiếu thảo của hai em: “Trạng nguyên liền gọi thong dong: Nào lũ nha phòng cho trẻ cơm đây! Tiến Lực đỡ lấy khi nay, Đem ra cúng mẹ ngày rày xót xa: Mẹ ơi, mẹ hỡi Cúc Hoa Có thiêng về hưởng cơm hòa cùng con Anh em khấn khứa nỉ non, Hai hàng nước mắt chứa chan bồi hồi”. (Phạm Công – Cúc Hoa) Trong “Phạm Công – Cúc Hoa”, tín ngưỡng thờ cúng còn thể hiện ở lúc Phạm Công khấn nguyện, cầu cúng khi cha mất:“Phạm Công nước mắt ròng ròng, Khấn trời thấm thía nguyện cùng cho cha” hay cha mẹ của Cúc Hoa khấn vái xin cho Phạm Công và Cúc Hoa được bình an khi nên vợ nên chồng “Khấn cùng tiên tổ gần xa, Xin cho con cháu cửa nhà bình an”. Cũng như lúc Thoại Khanh khấn vái cúng cơm cho cha chồng trong ngày giỗ. Hay tấm lòng hiếu thảo của Vân Tiên khi trở về nhà và đã đọc bài văn tế khóc mẹ: “Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay”. (Lục Vân Tiên) Vân Tiên tin rằng mẹ sẽ linh thiêng và hiểu được tấm lòng của chàng. Chúng ta cũng nhận ra một Tiểu đồng rất trung thành, kính trọng chủ. Khi Vân Tiên bị hại, Tiểu đồng nghe Trịnh Hâm nói Vân Tiên bị cọp ăn thì người đầy tớ này đã thảm thiết khóc than cho chủ: “Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng. Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên”. (Lục Vân Tiên) Tín ngưỡng thờ cúng thể hiện khá nhiều qua việc khấn vái. Vì con người nghĩ rằng nếu có thành tâm khấn nguyện thì mọi việc sẽ thành. Khi vua nước Tề ép Châu Tuấn lấy công chúa, Châu Tuấn chối từ vì chung thủy với Thoại Khanh. Vua nước Tề đòi giết Châu Tuấn, công chúa đã xin vua cha tha tội chết cho chàng vì Châu Tuấn là người có nghĩa, có tình nhưng vua vẫn kiên quyết đòi giết chàng. Cuối cùng, công chúa bèn khuyên Châu Tuấn nhận lời để bảo toàn mạng sống, trả hiếu cho mẹ cha. Công chúa chấp nhận là người đến sau “Phận đành trên dưới, thiếp hòa tính xong”. Châu Tuấn chấp nhận theo ý của vua dù chàng và công chúa đã được công nhận là vợ chồng nhưng “Trạng thì cứ việc ở riêng một phòng”. Trong khi đó, vua nước Tề đã từng van vái “Đức vua van vái hết lòng, Nguyện cùng Nguyệt lão tơ hồng xe săn”. (Thoại Khanh – Châu Tuấn) Hình ảnh làm chúng ta xúc động, đó là sau khi Cúc Hoa mất, vua đã chiếu lệnh cho Phạm Công trấn giữ Cao Bằng. Trước lúc đến nhận nhiệm vụ ở miền xa, Phạm Công đã ra mộ Cúc Hoa khấn nguyện. Phạm Công như tin rằng Cúc Hoa nơi chín suối sẽ hiểu được hoàn cảnh của chàng và hai con. Lời khấn vái như lời tâm sự giữa người sống và người đã khuất: “Đoạn rồi ra mả Cúc Hoa, Hai hàng nước mắt nhỏ sa khấn rằng: Vua sai anh nhận Cao Bằng Nước non ngàn dặm núi rừng quản chi! Hồn em như có linh kỳ, Em về coi sóc khuê vi cửa nhà”. (Phạm Công – Cúc Hoa)
Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy tín ngưỡng thờ cúng được thể hiện ở những trường hợp khác. Trong truyện “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, khi Châu Tuấn đỗ trạng, vua đãi tiệc linh đình và có ý gả công chúa cho Châu Tuấn và sau này còn dự định sẽ để Châu Tuấn nối ngôi. Châu Tuấn do nặng nghĩa tào khang với Thoại Khanh nên chấp nhận bị đi đày để giữ lòng chung thủy với nàng. Chàng chỉ có một tâm nguyện được cúng tế cha trước lúc bị đi đày. Vua đã thuận lòng và nhận cúng tế để Châu Tuấn yên tâm trước lúc lên đường. Vì thế, vua đã trực tiếp đứng ra cúng tế cho cha Châu Tuấn: “Dọn ra bát sứ mâm sơn, Đức vua van vái niệm hương khuyên mời Có linh về hưởng của đời Ấy là của trẫm tế thôi cho người”. (Thoại Khanh – Châu Tuấn) Trong “Truyện Kiều”, Thúy Kiều và Đạm Tiên đã đối thoại được với nhau qua nén hương Kiều thắp cho người quá cố: “Đã không kẻ đoái người hoài Sẵn đây ta thắp một vài nén hương Gọi là gặp gỡ giữa đường Họa là người dưới suối vàng biết cho”. (Truyện Kiều) Lời khấn nguyện của Thúy Kiều đã trở thành mối giao cảm giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên. Kiều tin vào sự đồng cảm giữa người cùng cảnh ngộ: “Kiều rằng: những đấng tài hoa Thác là thể phách, còn là tinh anh Dễ hay tình lại gặp tình Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ”. (Truyện Kiều) Và cũng kể từ đó, Đạm Tiên đã hiển linh và báo mộng cho Thúy Kiều biết về số phận của mình. Điều này chứng tỏ đó là sự gặp gỡ của tâm linh, một mối giao cảm đặc biệt giữa người sống và người chết. Trong tâm tưởng của Kiều, Đạm Tiên không đơn giản là bóng ma. Đạm Tiên chính là một phần hiện hữu của cuộc sống, là bức nhân ảnh của cuộc đời nàng. Đạm Tiên trở thành chiếc cầu nối hai cõi âm – dương, phản ánh sự phong phú trong tâm hồn người Việt.
Trong “Lục Vân Tiên”, Nguyệt Nga trước khi vâng lệnh triều đình cống Phiên bên nước Ô – Qua đã làm chay bảy ngày để bái tạ Vân Tiên. Nguyệt Nga tin rằng nơi suối vàng Vân Tiên sẽ hiểu được lòng nàng: “Con xin qua lạy Lục ông, Làm chay bảy bữa, tạ lòng Vân Tiên. Để cho ân nghĩa vẹn tuyền, Phòng sau xuống chốn hoàng tuyền gặp nhau”. (Lục Vân Tiên) Các hình ảnh Xuân Hương cúng cha, Nghi Xuân – Tiến Lực khấn mẹ, Vân Tiên tế vong hồn thân mẫu, Chúa Ba, Thị Kính khấn nguyện cho mẹ cha đã thể hiện tấm lòng hiếu thảo của đạo làm con đối với cha mẹ. Tín ngưỡng thờ cúng thể hiện lòng hiếu thảo đối với mẹ cha, bên cạnh đó còn thể hiện đạo nghĩa vợ chồng và trong tình yêu đôi lứa. Đó là lời khấn vái của Phạm Công với Cúc Hoa trước lúc nhận nhiệm vụ miền xa. Đó là hình ảnh Nguyệt Nga thờ cúng Vân Tiên khi nghĩ chàng đã qua đời. Tín ngưỡng thờ cúng còn thông qua các lời khấn vái trong những buổi giao thề hẹn ước của lứa đôi giữa Kim Trọng và Thúy Kiều (Truyện Kiều). Tín ngưỡng thờ cúng còn biểu hiện tấm lòng trung thành của tiểu đồng đối với chủ (Lục Vân Tiên), thể hiện lòng mong mỏi của vua nước Tề đối với hạnh phúc của công chúa (Thoại Khanh – Châu Tuấn), việc cầu cúng của cha mẹ Cúc Hoa cho nàng khỏi bệnh (Phạm Công – Cúc Hoa), lời khấn vái của vua Trang Vương cầu nguyện sinh hoàng tử để nối ngôi (Bà Chúa Ba). Tín ngưỡng thờ cúng không dừng lại ở việc thờ cúng, khấn nguyện cho người thân mà do ảnh hưởng từ tín ngưỡng dân gian, từ Nho – Phật – Đạo, con người có thể thắp hương, khấn nguyện ở tất cả những nơi mà con người cảm thấy linh thiêng. Chính vì vậy, trong không gian mồ mả của ngày thanh minh, trước nấm mồ của người bạc mệnh không kẻ đoái hoài, Thúy Kiều đã thắp hương cho Đạm Tiên. Tín ngưỡng thờ cúng là một mỹ tục đẹp của người Việt Nam nhưng tín ngưỡng này cũng có khi bị kẻ xấu lợi dụng để thực hiện ý đồ không tốt của mình. Như cảnh Bạc Hạnh thề thốt rất long trọng, linh đình để Thúy Kiều tin tưởng nhưng đó chẳng qua chỉ là lừa gạt Thúy Kiều nên Bạc Hạnh khấn nguyện Thành hoàng, Thổ công và thần thánh nào cũng vơ vào để khấn vái nhưng rất hấp tấp, vội vàng vì lời khấn nguyện không thật tâm... Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng là một biểu hiện của văn hóa tâm linh rất rõ trong Truyện thơ Nôm. Việc thờ cúng ông bà, tổ tiên, cha mẹ hết sức gần gũi trong tín ngưỡng, tâm linh của người Việt và trở thành một phong tục đẹp trong đời sống tinh thần của nhân dân bên cạnh thờ cúng các vị thần, các đấng linh thiêng. 2.1.2. Trời, Phật, Thần, Tiên
Thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên là thế giới của những đấng linh thiêng. Với tần số xuất hiện khá lớn 979/1894 trong tổng số các yếu tố tâm linh xuất hiện trong 30 tác phẩm, các yếu tố tâm linh này thể hiện tín ngưỡng, niềm tin của con người rất lớn đối với các đấng siêu nhiên. Trong tín ngưỡng và quan niệm của nhân dân, thế giới Trời Phật, Thần Tiên là một thế giới mà ở đó bao gồm lực lượng có quyền phép và có lòng nhân từ độ lượng có thể giải mọi kiếp nạn. Trời Phật, Thần Tiên là những đấng linh thiêng phù trợ cho con người đòi lại sự công bằng, thực hiện những ước mơ công lý, đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho con người... Để thực hiện được những điều đó, Trời Phật, Thần Tiên thường có những phép nhiệm màu, những khả năng đặc biệt qua phép lạ. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê trời là “lực lượng siêu tự nhiên, coi như ở trên cao sáng tạo và quyết định số phận muôn loài trên mặt đất” [79, tr. 1294] Người Việt phần lớn sống bằng nông nghiệp, biết rằng mùa màng được hay mất cũng do Trời, “Nhờ Trời năm nay được mùa”. Người nông dân lúc nào cũng tâm nguyện cầu Trời cho cơm no áo ấm. Người Việt tin Trời là đấng công bình, cầm quyền họa phúc, vì vậy đã thường nhắn nhủ với nhau:“Ở hiền thì lại gặp lành” Người Việt cũng tin tưởng và khuyên nhau: “Ai ơi trong đạo làm người Giữ điều nhân nghĩa thì giời chứng cho” (Chuyện Cái Tấm – Cái Cám) Thi hào Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: “Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đừng tránh lẫn trời gần trời xa”. Điều dễ hiểu nhất và không ai phủ nhận được là hễ gặp bất cứ việc gì bất chợt xảy đến, dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, câu nói cửa miệng của người Việt Nam trước hết là kêu “Trời ơi!”. Người ta kêu Trời khi gặp buồn khổ, chán nản, chết chóc, thất bại; người ta kêu Trời khi thành công, hạnh phúc, bình an, người ta nói nhờ Trời; khi gặp tai nạn người ta kêu Trời cứu... Chúng ta thường nghe “Cầu Trời cho tai qua nạn khỏi”. Còn Phật thì cứu độ chúng sinh, theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê thì Phật là “người tu hành đã giác ngộ, có đức từ bi, quên mình để cứu độ chúng sinh, theo giáo lý đạo Phật” [79, tr. 959]. Phật hướng cho con người hướng thiện, sống tốt vì Phật dạy ở đời có luật “nhân quả”. Khi nhìn cuộc đời này, ta thấy có những người giàu sang hiển vinh, đồng thời cũng có những kẻ đói nghèo tội lỗi. Ta tưởng đó là những chuyện ngẫu nhiên, nhưng kỳ thực không ngẫu nhiên chút nào mà là do định luật tự nhiên của vạn pháp diễn tiến mãi đến vị lai vô tận. Theo luật nhân quả, hễ làm lành thì Trời sẽ đáp lại bằng phúc đức, người chứa điều
dữ thì Trời sẽ trả lại bằng tai họa. Quả báo là một chân lý hiện thực của thế gian, không do đặt ra, không thuộc riêng một cái gì. Đạo lý quả báo không phải tầm thường và cũng không phải dành cho riêng ai, mà nó là một quy luật tự nhiên, không thiên vị, bình đẳng với tất cả mọi người. Người nguyên thủy sống dựa vào thiên nhiên, họ chưa giải thích được các hiện tượng tự nhiên như: mưa, gió, sấm, chớp... họ cũng chưa giải thích được những hiện tượng sinh, lão, bệnh, tử... của con người. Do đó, người nguyên thủy tin vào thần, thánh, ma quỷ... Đến xã hội có giai cấp, những người thống trị đã sắp xếp lại những ý niệm thần thánh, ma quỷ và vẽ ra một thế giới thần linh vô cùng phức tạp, cũng gần như xã hội loài người. Trước hết, họ phân loại những sức mạnh vô hình thành hai loại khác nhau: Một loại là thần thánh và một loại là ma quỷ. Thần thánh có sức mạnh vô biên, làm chủ cả cái vũ trụ này, con người chịu chi phối của thần thánh. Còn ma quỷ là những sức mạnh vô hình nhỏ bé và chỉ có khả năng can thiệp vào cuộc sống của con người, không có khả năng chi phối vũ trụ; ma quỷ là đối tượng chịu sự chi phối của thần thánh. Đứng trên các thần thánh là ông trời. Thế giới Thần, Tiên thường xuất hiện khi con người gặp nguy khó, gian nan. Bởi vì những lúc như vậy ông Bụt, bà Tiên, các vị thần sẽ ra tay cứu vớt cho người hiền, che chở cho người tốt mà gặp hoạn nạn... Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê Thần là “lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ (như thần tiên, thần thánh), coi là linh thiêng, có sức mạnh và phép lạ phi thường, có thể gây họa hoặc làm phúc cho người đời, theo quan niệm mê tín hoặc theo quan niệm của tôn giáo” [79, tr. 1148]. Còn Tiên là “nhân vật trong truyện thần thoại đẹp khác thường, có những phép màu nhiệm và cuộc sống rất yên vui” [79, tr. 1218]. Cũng vì thế mà thế giới Trời Phật, Thần Tiên là thế giới của các đấng siêu nhiên, thần bí thường mang đến những điều tốt cho con người. Chính vì vậy Trời, Phật, Thần, Tiên là những đấng cứu tinh mà con người rất cần trong tâm linh, tín ngưỡng... Trong “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, khi Châu Tuấn bị đày sang nước Tề, ở đây Châu Tuấn bị vua nước Tề ép gả công chúa. Chàng một mực thủy chung với Thoại Khanh nên bị vua nước Tề đòi giết. Lúc bế tắc ấy, Châu Tuấn cũng chỉ biết kêu Trời “Oan này trời đất có hay, mới vương nạn tám, mắc rày tai ba”. Cũng như Cảnh Yên, Cảnh Tĩnh chỉ biết kêu Trời trước sự bạo tàn của tên trung úy họ Tào. Hắn đã hãm hại cha của Cảnh Yên, Cảnh Tĩnh khi hắn không hỏi được Phương Hoa làm vợ. Trước tình cảnh đó “Cảnh Yên, Cảnh Tĩnh kêu trời đã vang” (Truyện Phương Hoa). Trời Phật, Thần Tiên còn là nơi con người được che chở, nương náu lúc lâm nguy. Gia đình Cảnh Tĩnh, Cảnh Yên đã từng nương nhờ cửa Phật: “Chúng tôi từ thủa tựa nương cảnh triền Đã nhờ chư Phật, hoàng thiên”
(Truyện Phương Hoa) Lời kêu than của Ngọc Hoa làm chúng ta xúc động trước đạo nghĩa vợ chồng khi mà tên Biện Điền và vua Trang Vương đều tìm cách giết Phạm Tải để hòng bắt Ngọc Hoa làm vợ. Trong lúc đau khổ và oan ức trước cái chết của chồng, Ngọc Hoa chỉ biết kêu Trời: “Trời cao đất rộng có hay, Sát thu hiếp phụ, sự này thấu chưa? Chàng dù tai nạn chẳng qua, Thời tôi vẫn tự làm ma theo chồng”. (Phạm Tải – Ngọc Hoa) Có lẽ lời kêu than của Ngọc Hoa đã động đến Trời cao và nhờ có phép nhiệm màu của Thần, Tiên mà Ngọc Hoa và Phạm Tải đã được cải tử hoàn sinh trở lại dương thế: “Diêm Vương vâng lệnh sắc trời Cải hiệu Chu Quốc nối đời Trang Vương. Hoàn sinh cho Phạm Tải chàng, Lại còn cải tử cho nàng Ngọc Hoa”. (Phạm Tải – Ngọc Hoa) Trời còn là nơi mà con người đặt trọn niềm mơ ước và nghĩ rằng Trời mới có thể thấu rõ và giúp con người được toại nguyện. Vua Trang Vương trong truyện “Bà Chúa Ba” cầu tự để sinh được hoàng tử nối ngôi: “Đức vua quỳ xuống khấn rằng: Tôi từ trị nước nuôi chưng dân trời Cũng may dân được yên vui, Mà sao hoàng tử nối đời chưa sinh?”. (Bà Chúa Ba) Ở truyện “Bà Chúa Ba”, Vua Trang Vương tức giận vì nàng Chúa Ba một lòng mộ Phật, xin ở lại chùa để tu mà không chịu trở về lấy chồng. Vua cha giận dữ sai tùy tùng đốt chùa, giết hết tăng ni. Trước tình thế ấy, bằng tấm lòng mộ Phật, ước nguyện chân thành, tâm huyết quên thân, nàng chúa Ba đã được phép Tiên phù trợ dập tắt được ngọn lửa đốt chùa: “Cầm dao cắt máu ròng ròng, Lạy Trời, đem máu rảy tung lên trời. Tự nhiên chuyển động dời dời Sấm ran, mưa xuống khắp nơi chùa chiền.
Gió êm lửa tắt được liền, Ai cũng khen chúa phép Tiên lạ lùng!” (Bà Chúa Ba) Bà chúa Ba đã tu luyện thành Phật thành Tiên “Chúa đà thành Phật thành Tiên” và cũng chính công đức của công chúa Ba đã giúp vua Trang Vương vượt qua bạo bệnh, trừ được yêu quái và thức tỉnh những tội lỗi đã gây ra để cuối cùng cả gia đình được nhập dòng Tiên. Chúng ta cũng thấy, cô Tấm hiền lành, siêng năng, hiếu thảo và luôn chịu ấm ức trước sự đối xử của mẹ con dì ghẻ. Chính vì vậy, Phật đã chỉ cho cô Tấm mồ côi hiền lành nuôi cá bống, Phật giúp Tấm cho đàn chim sẻ xuống nhặt thóc và gạo để Tấm kịp giờ đi dự hội. Phật đã cho nàng quần áo đẹp từ phép thuật thần kỳ. Và trước sự độc ác, ích kỷ của mẹ con Cám, Tấm đã được Phật cho hóa thân rất nhiều lần và cuối cùng được đoàn tụ với nhà vua. Thế giới Trời Phật, Thần Tiên thật phong phú trong Truyện thơ Nôm. Đó là, hình ảnh nàng Thoại Khanh hiếu thảo đã lóc thịt cánh tay của mình nướng cho mẹ chồng ăn. Thế nhưng cánh tay không hề chảy một giọt máu, vì nàng đã được Phật tổ phù hộ. Khi đi ngang qua rừng, hai mẹ con Thoại Khanh lại được Hổ thần thương tình cõng giúp, chỉ một loáng đã tới địa phận nước Tề. Thoại Khanh hiếu thảo sẵn sàng chấp nhận khổ đau để lo cho mẹ chồng nên được Phật Tổ, Hổ thần cứu giúp. Ngược lại những kẻ gian ác, bội bạc thì sẽ bị trừng phạt bởi đấng linh thiêng. Đạo Lão có câu: “Điều lành, điều dữ đều có trả, như bóng với hình” (Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình). Đạo Nho dạy: “Trồng đậu được đậu, trồng dưa được dưa” (Chưởng đậu đắc đậu, chưởng qua đắc qua). Tục ngữ Pháp cũng có câu: “Ai gieo gió thì gặt bão” (Qui Sème le vent, récolte la tempête). Tục ngữ Việt Nam khẳng định: “Đời xưa quả báo thì chầy, đời nay quả báo một giây nhãn tiền”. Đó cũng là chân lý khi Trời trừng phạt Tào Thị. Trong “Phạm Công – Cúc Hoa” dù Tào Thị đã gây ra biết bao tội lỗi như phản bội Phạm Công, đuổi hai con của chàng là Nghi Xuân – Tiến Lực ra khỏi nhà để đến nỗi hai trẻ phải lang thang ăn mày kiếm sống... nhưng cuối cùng Phạm Công vẫn tha thứ cho Tào Thị... Chàng không hề trách mắng hay áp dụng một hình phạt nào mà người trừng phạt Tào Thị chính là Trời: “Trời sai đánh đứa gian ngoa Là con Tào Thị gian tà bất nhân” (Phạm Công – Cúc Hoa) Chúng ta cũng bắt gặp nhiều trường hợp tương tự như vậy trong Truyện thơ Nôm. Nhân vật chính không trực tiếp trừng phạt những kẻ gian ác mà hầu hết bọn chúng bị trừng trị bởi một thế lực siêu nhiên là Trời. Tên Trang Vương bị ném vào vạc dầu, mẹ con Lý Thông bị Thiên lôi đánh, Biện
Điền, Tương Tử đều bị hỏi tội và trừng trị. Trời cũng không dung tha Vệ - quan, một người bất nghĩa đã quên lời đính ước khi cha mẹ Trần Minh qua đời. Vệ - quan đã tỏ ra khinh khi trước cảnh Trần Minh đói khát ăn mày và không còn nghĩ đến nghĩa tình giao ước. Trần Minh lúc đỗ trạng lại rất rộng lòng tha thứ cho Vệ - quan “Trạng – ngươn là bực đại nhân, Bỏ qua lỗi trước nhớ ơn nghĩa nàng”. Nhưng trời thì không dung tha cho kẻ bất nghĩa, vô nghì: “Vệ - quan vốn kẻ vô nghì, Cho nên trời phạt thây thi tan tành”. (Trần Minh khố chuối) Trịnh Hâm (Lục Vân Tiên) được Vân Tiên sai quan mở trói, tha mạng cho và đuổi đi nhưng hắn về tới Hàn Giang thì gặp sóng to, lật thuyền chết chìm dưới đáy sông. Mẹ con Võ Thể Loan nhục nhã và xấu hổ khi gặp lại Vân Tiên, dù không bị chàng trừng phạt nhưng trên đường về họ gặp cọp giữa đường và bị cọp bắt mang đi... Với tất cả những chi tiết trên thể hiện triết lý nhân quả của nhân dân, một quan niệm khá đúng đắn của người dân Việt Nam: “Ác giả ác báo vần xoay”. Những kẻ bất nhân, bất nghĩa dẫu được người tha, nhưng Trời đất không dung tha. Đúng là, trời tuy cao, tuy xa nhưng thấu hết mọi lẽ đời! Thế giới Trời Phật, Thần Tiên thường cứu độ cho con người khi gặp hoạn nạn nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, hiếm hoi nhưng vẫn có trong truyện “Thoại Khanh – Châu Tuấn” với tên dâm thần độc ác, vô luân. Trong lúc hai mẹ con Thoại Khanh gặp nạn, không những không giúp đỡ mà tên dâm thần còn trắng trợn ép liễu nài hoa “Ép nàng trăng gió mưa mây cùng thần”. Khi nàng Thoại Khanh quyết lòng không thuận theo ý muốn dâm ô của hắn, hắn liền giở phép bắt hồn mẹ chồng nàng để ép buộc Thoại Khanh phải khoét mắt cứu mẹ già. Trong tín ngưỡng của nhân dân, Phật là đấng từ bi, nhân ái, Phật che chở cho mọi người bị nạn. Như nàng Trần Kiều Liên (Truyện Phan Trần) trên đường chạy loạn đã lạc mất mẹ và được nương náu chốn cửa thiền, cũng như Thúy Kiều những lúc bi kịch xảy ra trong cuộc đời nàng thì Phật luôn là chỗ che chở, bảo vệ cho nàng... Trong “Lục Vân Tiên”, Tử Trực và Hớn Minh là những người nghĩa khí, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa. Tử Trực rất mực yêu quý bạn, nghe tin Vân Tiên mất, chàng than khóc bạn: “Nghe qua Tử Trực chạnh lòng Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa .... Trời sao nỡ phụ tài lành Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn”. (Lục Vân Tiên)
Đặc biệt trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên xuất hiện khá nhiều lần trong tác phẩm (43 lần) như một lời khẳng định thế giới tâm linh chi phối rất lớn trong đời sống con người, nhất là Trời. Đến cuối tác phẩm tác giả vẫn nhắc lại như một lời chiêm nghiệm, tổng kết: “Ngẫm hay muôn sự tại Trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. (Truyện Kiều) Bên cạnh Trời, Phật, thế giới thần tiên thể hiện cũng khá nhiều trong truyện Thạch Sanh, Thạch ông qua đời, hồn đã về tiên cảnh. Rồi đến Thạch Bà:“Thạch Bà chẳng bệnh, không đau, Tự nhiên giời gọi về chầu cảnh tiên” để lại Thạch Sanh côi cút trên cõi đời. Tiếp sau đó, Ngọc Hoàng đã cho tiên ông xuống dạy cho Thạch Sanh phép thuật. Cũng nhờ có phép thuật do Tiên ông dạy bảo mà sau này Thạch Sanh giết được xà tinh, cứu công chúa và đó cũng là cơ sở tạo nên nhân duyên của Thạch Sanh “cùng nàng công chúa hợp duyên sau này”. Đối với người hiền thì bao giờ thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên cũng phù trợ còn đối với kẻ gian tham thì Trời Phật, Thần Tiên cũng mạnh tay trừng phạt như trường hợp mẹ con Lý Thông bị Trời trừng trị: “Mẹ con về đến giữa đường Thiên Lôi ngũ hộ đánh liền cả hai Cho hay những kẻ phi loài Người mà không giết, thì giời chẳng tha”. (Thạch Sanh) Nếu Thần Tiên đã giúp cho Thạch Sanh thì ở trường hợp của Xuân Hương (Mã Phụng – Xuân Hương) cũng vậy. Xuân Hương là một cô gái mồ côi, ngày ngày dắt cha đi ăn mày và đã từng nhịn ăn để nuôi cha. Đến khi cha chết, nhờ Mã Phụng, nhờ hàng xóm thương tình giúp đỡ, Xuân Hương đã an táng lo việc mồ yên mả đẹp cho cha “mọi bề đầy đủ”. Suốt ba năm, Xuân Hương một lòng thương nhớ cha không lúc nào nguôi. Cho đến khi mãn tang, lúc thề thốt với Mã Phụng, nàng vẫn thương cha nhớ mẹ. Chính lòng hiếu thảo hiếm có ấy đã làm người nghe chuyện quý mến nàng, vui mừng khi thấy nàng được Tiên ông dạy phép: “Tiên ông dạy phép tái tam, Hóa ra ngũ nhạc đặt làm bát tiên ... Dạy cho các phép đủ rồi, Tiên ông lại dạy một lời cẩn ghi Việc này bất khả thùy tri,
Tùy tài ẩn tích để khi trợ nghèo ... Rằng nay các phép thuộc thành Cõi trần ở lại thiên đình ta lui”. (Mã Phụng – Xuân Hương). Trong truyện “Mã Phụng – Xuân Hương” cũng có triết lý: “Ở hiền rồi lại gặp lành, Người trung mắc nạn có tiên xuống phò”. Đức Phật từ bi không những cứu con người trong lúc hoạn nạn, cùng đường mà còn cảm thông cho những hoàn cảnh éo le, đau khổ. Chùa chiền, cửa Phật còn là nơi mở rộng vòng tay che chở cho những hoàn cảnh nghiệt ngã. Trước tình yêu say đắm của Phan Sinh và Kiều Liên khi phải trải qua bao thử thách, lòng từ bi hải hà của đức Phật đã bao dung cho đôi tài tử giai nhân nên vợ nên chồng: “Thông thông, trúc trúc, mai mai, Ngày người đất bụt, đêm người động tiên”. (Phan Trần) Cửa Phật đã che chở cho Thị Kính sau khi rời khỏi gia đình chồng với nỗi niềm oan ức. Cửa Phật cũng đã chứng giám tấm lòng thương người, cứu người của Thị Kính để cuối cùng Thị Kính được trở thành Đức Phật Quan Âm. Trong “Sơ Kính tân trang”, trước sự bế tắc của tình yêu đang rất đẹp của Phạm Kim và Quỳnh Thư, cũng như các nhân vật trong Truyện thơ Nôm bình dân, Phạm Kim cũng gởi gắm tâm sự và than thở với Trời: “Thề rằng đã có Trời già, Duyên sau chẳng phụ âu thà rằng không, Khăng khăng sắt đá một lòng, Ước nguyền cậy có non sông hết tình”. (Sơ Kính Tân Trang) Ở truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu còn sử dụng sự can thiệp của thần linh để cứu giúp Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Tiểu đồng và để trừng phạt Trịnh Hâm, mẹ con mụ Quỳnh Trang theo quan niệm thông thường của nhân dân, thể hiện lòng khao khát công lý, lòng nhân ái của con người. Truyện “Hoa Tiên” là một câu chuyện tình yêu chịu ảnh hưởng của Nho giáo khá sâu sắc, ngay mở đầu tác phẩm đã thể hiện sự chi phối của Trời đến tình duyên của nhân vật: “Trăm năm một sợi chỉ hồng, Đặt người tài sắc vào trong khuôn trời”.
(Hoa Tiên) Thúy Kiều khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai thì chua xót đay nghiến lẫn nguyền rủa cho cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của mình: “Chém cha cái số hoa đào Gở ra rồi lại buộc vào như chơi Nghĩ đời mà ngán cho đời Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. (Truyện Kiều) Trong tín ngưỡng và suy nghĩ của con người, thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên là thế giới thiêng liêng cao cả. Trời rất cao, rất xa và mênh mông vô tận nên trời là nơi con người gởi gắm tâm sự khi đi xa (Thúy Kiều, Nguyệt Nga). Trời ở cao nhưng thấu hiểu mọi lẽ đời nên con người luôn thành tâm cầu nguyện trời cứu giúp. Nhất là lúc con người rơi vào cảnh khó khăn, hoạn nạn (Phạm Tải – Ngọc Hoa, Hoa Tiên, Sơ Kính tân trang, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Mã Phụng – Xuân Hương, Hoàng Trừu, Lý Công, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Phù Dung tân truyện, Trần Minh khố chuối...). Với 664 lần xuất hiện yếu tố trời trong 30 tác phẩm khảo sát, trời chiếm một vị trí đặc biệt trong tín ngưỡng con người. Trời thay con người trừng trị kẻ độc ác, gian tham, bất nghĩa (Tào Thị, Trịnh Hâm, mẹ con Lý Thông, Vệ - quan...) yếu tố Phật xuất hiện 142 lần và yếu tố thần tiên với 173 lần xuất hiện trong Truyện thơ Nôm, các yếu tố này đã góp phần tạo nên những thế lực cứu độ chúng sinh. Thị Kính nương nhờ cửa Phật khi cuộc đời gặp oan nghiệt, Phật cứu Nguyệt Nga thoát chết. Chúa Ba chọn cửa Phật để tu luyện phép tiên, lòng từ bi nhân ái, Phật nhiều lần chở che giúp đỡ cho Tấm, Phật cho Thoại Khanh đàn thần, cửa Phật che chở cho Vương thị (Phù Dung tân truyện)... Thế giới thần tiên xuất hiện nhiều nhất trong “Mã Phụng – Xuân Hương”, “Bà Chúa Ba”. Thần tiên giúp cho Mã Điểu góp công xây dựng nước nhà, thần tiên độ cho Chúa Ba cứu người, cứu đời, thần tiên giúp cho Thạch Sanh vượt qua nguy khốn. Có thể nói thế giới Trời Phật, Thần Tiên là chỗ dựa tinh thần rất lớn của con người, giúp cho con người có niềm tin, hy vọng để vượt qua những khó khăn, hoạn nạn và sẽ sống tốt hơn để được những đấng linh thiêng phù trợ. Chính vì vậy, trong tâm linh của con người Trời Phật, Thần Tiên luôn được sùng bái, tôn thờ. Tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời Phật, Thần Tiên là những yếu tố tâm linh khá phong phú trong Truyện thơ Nôm. Với 994/1894 lần xuất hiện yếu tố tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát, những yếu tố tâm linh với nội dung tích cực này đã giúp con người có thêm niềm tin, nghị lực để vượt qua những gian khó, thử thách trong cuộc đời. Đồng thời con người tin tưởng rằng có những đấng siêu nhiên sẽ sẵn sàng đem phúc đến cho
người hiền và sẽ trừng phạt kẻ gian ác, bất nhân. Những yếu tố tâm linh này nhắc nhở con người theo hướng thiện, biết nhớ cội nguồn, tổ tiên và tri ân những người đi trước. 2.2. Duyên kiếp, số mệnh, bói toán Trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát, với 581/1894 lần xuất hiện của tổng các hiện tượng tâm linh (tương đương 30,67%) yếu tố duyên kiếp, số mệnh, bói toán thật sự thể hiện niềm tin của con người đối với những đấng siêu nhiên. 2.2.1. Duyên kiếp, số mệnh Duyên kiếp, số mệnh là một nội dung khá phong phú trong Truyện thơ Nôm với 564 lần /1894 lần xuất hiện của tổng các hiện tượng trong 30 tác phẩm (tương đương 29,77%) . Nhắc đến chữ “duyên”, con người hay nghĩ đến sự gặp gỡ tình cờ, có duyên gặp gỡ để rồi nên duyên. Và duyên có mối quan hệ khắng khít với nợ để trở thành duyên nợ, duyên kiếp, duyên phận, nhân duyên. Theo tự điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, duyên kiếp là “nhân duyên có từ kiếp trước theo quan niệm của đạo Phật” (duyên kiếp vợ chồng) [79, tr. 343]. Duyên nợ là “quan hệ tình duyên ràng buộc tựa như nợ nần, được định từ kiếp trước theo quan niệm của đạo Phật” [79, tr. 343]. Duyên phận là “số phận về tình duyên đã được định từ trước” (duyên số) [79, tr. 343]. Còn nhân duyên là “nguyên nhân có từ kiếp trước tạo ra kết quả ở kiếp sau, theo quan niệm của đạo Phật” [79, tr. 879]. “Kiếp người” là thời gian tồn tại của một đời người. Mỗi con người trong cuộc đời được xem như là “một kiếp”. “Kiếp sống” theo quan niệm của nhà Phật là sự luân hồi, xoay chuyển. Kiếp sống này là “quả” của “nhân” từ kiếp sống trước. Chính vì vậy, nhiều người đã quan niệm sống kiếp này có duyên gặp gỡ, chung sống với nhau là do kiếp trước họ có nợ với nhau. Còn quen nhau, yêu thương nhau nhưng không thể nên duyên chồng vợ thì con người thường cho rằng không phải duyên nợ. Xuất phát từ quan niệm này đã có khá nhiều những đôi lứa yêu nhau không thành thì người ta thường cầu nguyện kiếp sau được tái hợp, nên đôi. Cũng đã có những người quyết tâm bảo vệ tình yêu, nhưng không được họ sẵn sàng chọn cái chết để mong kiếp sau được toại nguyện sống bên nhau. Duyên kiếp của Phạm Công và Cúc Hoa chưa hết nên dù Cúc Hoa đã chết, Phạm Công theo lời báo mộng của Cúc Hoa đã đưa Tào Thị về làm mẹ kế cho hai con thơ. Rồi Phạm Công cũng đã trải qua bao thử thách gian nan để được đoàn tụ với Cúc Hoa âu cũng là duyên số. Cũng chính do duyên kiếp, số mệnh nên vua Diêm Vương đã tái sinh cho Cúc Hoa: “Xưa kia vâng mệnh đầu thai Cùng chàng sớm kết duyên hài bấy lâu. Ba mươi năm vẹn Trần Châu,
Hết duyên nên lại về chầu phụ vương. Để hai con lại nhỡ nhàng, Đói cơm, khát sữa, mặc chàng một thân! Vua nghe, phán hỏi ân cần Cha cho con lại dương trần tái sinh, (Phạm Công – Cúc Hoa) Hình ảnh của Ngọc Hoa (Phạm Tải – Ngọc Hoa) là một minh chứng cho lòng chung thủy, sắt son. Từ buổi đầu gặp gỡ khi Phạm Tải còn là một hiền sĩ nghèo khó, Ngọc Hoa như đã nhận ra nhân duyên của mình với Phạm Tải “Hay đâu sự bởi ông tơ, Xui lòng con luống ngẩn ngơ đêm ngày”. Và cha của Ngọc Hoa cũng nghĩ rằng Ngọc Hoa có duyên với người hàn sĩ “Sự này ắt hẳn thiên duyên se vào”. Trần Công nghĩ rằng Phạm Tải và Ngọc Hoa là duyên kiếp Trời định: “Con ta từ độ thấy người, Chẳng hay là sự duyên trời hay sao, Chắc là duyên kiếp thế nào, Cho nên nó thấy người vào, nó thương”. (Phạm Tải – Ngọc Hoa) Duyên số của Phạm Tải – Ngọc Hoa phải vượt qua nhiều thử thách. Tên Biện Điền tức giận vì không hỏi được Ngọc Hoa xinh đẹp làm vợ. Hắn đã thuê kẻ cướp giết Phạm Tải để bắt Ngọc Hoa làm vợ. Sự việc không thành, Biện Điền tạc tượng Ngọc Hoa nộp cho Trang Vương. Vua Trang Vương cho quân lính đến bắt Ngọc Hoa về làm vợ. Ngọc Hoa đau đớn đến tột cùng “Trách vua sao nỡ ép duyên Châu Trần ?”. Nàng đã kiên quyết cự tuyệt, rạch mặt cho mình xấu đi. Trang Vương sai người giết Phạm Tải để nàng lấy hắn nhưng Ngọc Hoa vẫn nhất quyết không chịu “Kẻo vua rồi lại ép duyên, Thôi tôi tự vẫn cho yên cửa nhà”. Ngọc Hoa đã để tang cho chồng ba năm và sau khi mãn tang, Ngọc Hoa đã tự tử xuống âm phủ cùng chồng kiện tên Trang Vương để:“Vợ chồng lại hợp nhân duyên, Lên dương gian, lại phỉ nguyền như xưa”. Có thể nói nhân vật nữ trong Truyện thơ Nôm rất mạnh mẽ, họ quyết tâm vượt qua tất cả thử thách để bảo vệ tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa. Dù cha mẹ của Cảnh Yên và Phương Hoa là bạn bè thân tình “chúng tôi xưa kết bạn hiền” nên đã cùng nhau hứa hẹn kết duyên cho Cảnh Yên và Phương Hoa “Rày cho con cháu kết duyên đá vàng”. Phương Hoa đã vì lời hứa hẹn, đính ước của cha mẹ hai bên mà vượt qua tất cả những gian nan thử thách để bảo vệ tình yêu của mình. Tên trung úy họ Tào vì không cưới được Phương Hoa làm vợ nên đã tìm cách hãm hại gia đình Cảnh Yên bằng cách vu khống gia đình Cảnh Yên tội bán nước. Cha của Cảnh Yên bị chém, gia đình tan nát phải trốn đi lánh nạn. Phương Hoa đã hết lòng giúp đỡ gia đình người chồng chưa cưới rồi còn
cải trang, đổi tên Cảnh Yên đi thi để minh oan cho Cảnh Yên và tố cáo tội ác của tên Tào trung úy. Tất cả việc làm, vượt qua thử thách của nàng Phương Hoa để duyên kiếp của nàng và Cảnh Yên được toàn vẹn như ước nguyện ban đầu của mẹ cha. Kết thúc có hậu của truyện “Phương Hoa” là một minh chứng cho duyên số của nàng và Cảnh Yên: “Mẹ cha mừng, người bằng lòng, Bởi chưng Nguyệt lão tơ hồng se dây …………………… Nàng rằng: Phận gái chữ trinh, Cho nên chẳng quản công trình đợi nhau”. (Phương Hoa) Tống Trân mồ côi cha, gặp cảnh khốn khó phải dắt mẹ đi ăn xin. Nàng Cúc Hoa thương Tống Trân hiếu thảo nên đã kết duyên với Tống Trân. Khi Tống Trân đi sứ, cha của Cúc Hoa bắt nàng gả cho người khác. Nàng đã nhất định không chịu, dù bị nhốt lại, bị đánh đòn, Cúc Hoa có lúc định tự tử nhưng nghĩ đến mẹ chồng “thác đi sợ để mẹ chồng ai nuôi” nên nàng quyết định không tự tử. Và hạnh phúc đã được bù đắp cho Cúc Hoa. Cúc Hoa đoàn viên với Tống Trân và được chọn làm chính thê, chung sống hạnh phúc cùng công chúa Bạch Hoa của nước Tần: “Đều thời hưởng phúc nhà chung, Mỗi duyên cũng vẹn, chữ đồng cũng yên”. (Tống Trân – Cúc Hoa) Duyên kiếp mỗi người mỗi khác, đặc biệt là trong Truyện thơ Nôm có sự khác biệt nhau về hoàn cảnh, xuất thân của hai nhân vật nam nữ. Nhưng họ không phân biệt giàu – nghèo, “môn đăng hộ đối” mà họ đến với nhau bằng tấm lòng, bằng tất cả tình cảm chân thành. Thạch Sanh – một chàng trai mồ côi sống bằng nghề đốn củi nhưng với tấm lòng chân thật, sẵn sàng bất chấp nguy hiểm để cứu người. Dù bị Lý Thông hãm hại, cướp công nhưng Thạch Sanh vẫn không hề oán trách, cuối cùng Thạch Sanh cũng được đền bù xứng đáng: “Ban cho hai chức quận công, Trừ yêu hai chức, thần thông hai quyền. Gả nàng công chúa hợp duyên, Phong làm quốc tế cầm quyền quốc gia”. (Thạch Sanh) Trong truyện “Nhị Độ Mai”, cảnh biệt ly giữa Mai Lương Ngọc và Hạnh Nguyên làm ta xúc động khi nàng Hạnh Nguyên phải từ giã đi cống Hồ. Mối tình tan vỡ mà vẫn đằm thắm gắn bó thủy chung tiết nghĩa trong lời tình tự của hai người. Mai Lương Ngọc và Hạnh Nguyên vẫn mong kiếp sau họ sẽ được nên duyên: “Duyên này đã hẳn ba sinh
Gặp nhau đành để chung tình kiếp sau Tấm thân chẳng đánh mà đau Lan sương biếng kẻ mai câu biếng giồi Tấc riêng riêng những ngậm ngùi Bữa thường miệng đắng đêm dài bóng chung”. (Nhị Độ Mai) Trước âm mưu giết Thôi Anh, cướp Vương thị xinh đẹp cho người con trai mình, A Tú là hiện thân của thế lực trong xã hội phong kiến đã thản nhiên chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc của người lương thiện. Sau vụ án giết người cướp của từ bọn bất nhân, Vương thị có một ý chí mạnh mẽ, không chịu để cho bọn lòng lang dạ sói khuất phục. Hàng tháng trời phải sống bên cạnh chúng, lúc nhớ chồng, lúc nhớ quê, nhớ cha mẹ, song chẳng lúc nào nàng không nung nấu chí căm thù (Phù Dung tân truyện). Vương thị đã đi tu nhưng duyên nợ, số kiếp của nàng chưa hết với Thôi Anh nên lòng Vương thị lúc nào cũng tưởng nhớ đến chồng: “Chạnh lòng nhớ nỗi trần duyên, Tinh linh phảng phất ở bên trai phòng”. Nỗi nhớ ấy lại có lúc biến thành niềm ước hẹn của kiếp sau: “Trăm năm để một chữ đồng, Kiếp lai sinh họa tương phùng là may!”. Nhưng có lẽ nợ duyên, số mệnh của hai người còn ở bên nhau nên cuối cùng Thôi Anh và Vương thị đã sum vầy “Hay đâu muôn sự tại trời, Vì tranh mách lối cho người gặp nhau”. Mối tình giữa Tôn Khác và Viên thị phải chia lìa vì Viên thị là tiên nên phải về trời. Nhưng trước tấm lòng chung thủy, yêu thương nhau của Tôn Khác và Viên thị, trời đã cho họ nối lại duyên tình và hạnh phúc bên nhau (Lâm Tuyền Kỳ Ngộ). Duyên kiếp, số phận của Hoàng Trừu và công chúa Nam Việt càng làm chúng ta khâm phục về sự quyết tâm của hai nhân vật từ hai đất nước khác nhau. Hoàng Trừu đã từng đi khắp mười tám nước chư hầu để kén vợ nhưng không thành nhưng chàng lại có duyên kiếp, số phận với công chúa Nam Việt. Vì thế, Hoàng Trừu đã giả làm lái buôn, tìm cách vào cung của công chúa Nam Việt, cải trang xin làm nữ hầu để cuối cùng cưới được công chúa. Công chúa Nam Việt cũng đã trải qua bao thử thách, đắng cay sang Trung Quốc để tìm chồng. Tai nạn trên đường đi làm cho cả đoàn “Tàu bè, cơ đội, binh uy” đều tan tác.
Công chúa Nam Việt may mắn sống sót trong khi “Binh quyền
hầu hạ chẳng còn một ai” và trước cảnh “Non cao, rừng vắng, hãi hùng lo toan” công chúa bắt đầu đối mặt với bao cảnh khổ cực, xót xa, tủi nhục. Công chúa đã phải “Ăn mày nhờ khắp người ta, Quản chi xấu hổ miễn qua cơ hàn”. Rồi công chúa được may mắn vào nhà chúa Huy làm người hầu. Với lòng dạ thẳng ngay, chăm chỉ công chúa được chúa Huy cho “làm vú để mà trông con”.
Đến một ngày chúa Huy sai công chúa đem bà Quận (con của chúa Huy) ra tắm ở hồ sen. Trước lúc cho bà Quận xuống hồ sen tắm, công chúa Nam Việt đã mở chuỗi hạt và hoa tai của bà Quận để ở gốc mai trên bờ. Chẳng may, đàn ngỗng đi ngang qua hồ sen đã nuốt chuỗi hạt trai nên công chúa phải chịu cảnh “oan khiên” và bị chúa Huy phạt đánh: “Vội vàng giục giã tùy nhi, Roi song đem lại, tức thì đánh tươi. Vậy thì đánh đủ năm mươi, Cắn răng mà chịu kêu giời rằng oan!”. (Hoàng Trừu) Sau đó, chúa Huy đã phạt công chúa Nam Việt ban đêm phải đội đèn để răn dạy tôi tớ trong nhà và mỗi lần nhà có khách đến chơi thì công chúa cũng phải đội đèn để hầu với bao nỗi xót xa: “Ban đêm phải đội đèn này, Để răn lòng chúng kẻ hay gian tà. Phòng khi khách đến chơi nhà, Chúa truyền cây thịt kia ra đội đèn. …………………… Tùy nhi cơm nước xong rồi, Bấy giờ mới được ra ngoài ăn sau. Ăn rồi lại đội đèn chầu Chúa nằm, mới được ra hầu nằm canh”. (Hoàng Trừu) Công chúa Nam Việt cắn răng chịu bao tủi nhục nhưng rồi duyên số cũng cho nàng gặp lại hoàng tử Hoàng Trừu và nàng đã được đưa về gặp Thánh hoàng: “Hoàng đem công chúa về đền, Tâu vua cha biết sự duyên trình bày. Thánh hoàng trông thấy thương thay, Khen dâu đức hạnh, lòng ngay thảo hiền. Tơ hồng Nguyệt lão se duyên, Éo le nam bắc đôi bên con hoàng. Xem bằng lá ngọc cành vàng, Bỗng sao mà phải cơ hàn bấy lâu!”. (Hoàng Trừu)
Cuối cùng, công chúa được sống hạnh phúc bên Hoàng Trừu, khi Hoàng Trừu lên ngôi thì công chúa trở thành hoàng hậu, an hưởng cảnh đất nước thái bình, thịnh trị. Quan niệm về số kiếp có sự “luân hồi” nên duyên kiếp con người cũng được xem là có sự luân hồi của duyên số (duyên nợ truyền kiếp). Cũng chính vì điều này, dù không biết đúng hay sai nhưng trong tâm linh, tín ngưỡng người Việt đã từng nghĩ như vậy. Từ cơ sở đó, nhân vật Ngọc Khanh (Hoa Tiên) quyết tâm tìm đến cái chết khi bị ép gả cho người khác, Ngọc Khanh tin rằng khi chết đi sẽ gặp được Lương Sinh để nối lại duyên tình. Nên trước khi trầm mình tự tử, Ngọc Khanh vẫn mang trong lòng niềm hy vọng về duyên số với Lương Sinh ở kiếp sau: “Kiếp này đã lỏng giải đồng, Mảnh duyên gắn bó còn hòng kiếp sau”. Duyên kiếp – ngẫm lại cũng khá kỳ lạ bởi dân gian đã từng nói “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” (có duyên thì tuy xa ngàn dặm cũng có thể gặp nhau). Chính vì vậy, dù cha mẹ đính ước duyên tình cho Lương Sinh và Ngọc Khanh nhưng Lương Sinh và Dao Tiên lại tha thiết yêu nhau (Hoa Tiên). Cũng như trường hợp của Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, dù cha mẹ của Võ Thể Loan và cha mẹ của Vân Tiên đã đính hôn cho hai người nhưng duyên số của Vân Tiên và Nguyệt Nga lại gặp nhau giữa đường... Dù phải trải qua nghịch cảnh, Kiều Nguyệt Nga bị triều đình ra lệnh phải cống Phiên sang Ô – Qua nhưng Nguyệt Nga đã tìm đến cái chết trên đường cống Phiên. Chính tấm chân tình, tiết hạnh này mà Nguyệt Nga đã được Quan Âm cứu vớt để được hợp nhân duyên cùng Lục Vân Tiên sau này: “Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên, Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu”. (Lục Vân Tiên) Trong chuyện tình của Kim Trọng – Thúy Kiều cũng vậy, dù Thúy Kiều và Kim Trọng thề nguyền, nguyện ước với nhau nhưng Thúy Kiều đành phải trao duyên lại cho Thúy Vân để bán mình chuộc cha. Trong quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Mã Giám Sinh và Sở Khanh cũng thề thốt với Kiều nhưng thề thốt để lừa Kiều. Thúc Sinh thề với nàng bằng tấm lòng và tình yêu nhưng cũng không che chở, bảo vệ được Kiều lâu dài. Bất kỳ người phụ nữ nào và Thúy Kiều cũng vậy, không bao giờ muốn cảnh nhơ nhuốc làm vợ của nhiều người nhưng Thúy Kiều phải trượt dài trong con đường nhuốc nhơ ấy! Tủi nhục, đắng cay khi kết thúc duyên tình với Thúc Sinh, Thúy Kiều và cả người đọc luôn hy vọng Thúy Kiều sẽ mãi tròn duyên kiếp với Từ Hải... Nhưng bể dâu của cuộc đời không dừng lại ở đó và Thúy Kiều vô tình tiếp tay với Hồ Tôn Hiến để cắt đứt duyên số này với Từ Hải – người duy nhất trong cuộc đời đã giúp Kiều có cơ hội “báo oán báo ân”. Và sông Tiền Đường mới giúp được nàng gột rửa được niềm đau và uất hận này sau cái chết đau thương của Từ
Hải. Duyên kiếp của Thúy Kiều từ mối tình thật đẹp với Kim Trọng do kẻ tiểu nhân hãm hại, do gia đình gặp tai ương nên phải tan vỡ; tình nghĩa vợ chồng với Từ Hải đang thắm đượm, keo sơn lại gặp kẻ bất lương Hồ Tôn Hiến chia xa... Cả hai lần quan trọng ấy, dường như tác giả đều để cho Thúy Kiều tự quyết định hoặc có dự phần cho sự kết thúc ấy... như để mọi người thuận tình hơn là do duyên số an bài! Đó cũng là ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo rất lớn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Như vậy, duyên kiếp của con người là do đâu? Do tình yêu chân thật xuất phát từ hai phía hay ngoài ra còn có tác nhân nào khác từ những đấng siêu nhiên, linh thiêng, thần bí?! Đó sẽ mãi là câu hỏi mà chưa có câu trả lời trọn vẹn trong cuộc đời. Nhưng Truyện thơ Nôm đã thể hiện con người luôn có một niềm tin, một suy nghĩ đó là tình yêu, tình cảm lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng sẽ ngày một keo sơn, bền vững nếu con người có quyết tâm trân trọng, giữ gìn, bảo vệ và sẵn sàng vượt qua tất cả chông gai, thử thách của cuộc đời. Những người thủy chung, trọn vẹn, biết quí trọng tình yêu, tình cảm vợ chồng sẽ được bù đắp bằng hạnh phúc thật sự. Truyện thơ Nôm cũng để lại trong người đọc một nghĩ suy tích cực. Về quan niệm tình yêu dù tình yêu có tan vỡ nhưng với tình yêu chân chính sẽ luôn để lại những kỷ niệm đẹp cho cuộc đời. Đó cũng là giá trị nhân văn của Truyện thơ Nôm! Số mệnh hay còn gọi là số phận. Theo duy tâm, mỗi con người sinh ra đều có phần, có số định sẵn. Chúng ta thấy có người cả đời phú quý giàu sang, có người cả đời sống trong nghèo khó, bần hàn; có người luôn gặp vận may nhưng cũng có người luôn gặp bất trắc trong cuộc đời… Số mệnh này cũng là sự liên hệ từ việc tạo phúc của kiếp trước theo luật nhân quả. Với 581/1894 lần xuất hiện về duyên kiếp, duyên nợ, duyên phận, nhân duyên, Truyện thơ Nôm hầu như thể hiện quan niệm những đôi nam nữ yêu nhau, những cặp vợ chồng đều có nợ duyên từ kiếp trước. Chính vì vậy, họ luôn sắt son chung thủy với nhau dù phải trải qua bao sóng gió, bể dâu của cuộc đời. Cũng từ quyển tự điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, chúng ta có hai khái niệm về “số mệnh”, “số phận”. Số mệnh đó là “những điều may rủi, họa phúc được tạo hóa định sẵn cho cuộc đời của mỗi người theo quan niệm duy tâm” [79, tr. 1072]. Số phận cũng tương đồng với số mệnh, số phận là “phần họa phúc, sướng khổ dành riêng cho cuộc đời của mỗi người đã được tạo hóa định sẵn từ trước theo quan niệm duy tâm” [79, tr. 1072]. Với yếu tố tâm linh số mệnh, Truyện thơ Nôm cho thấy con người không hoàn toàn thụ động, an bài theo số mệnh, số phận đã được định trước theo duy tâm. Ở đây con người luôn đấu
tranh, vươn lên để thay đổi số phận, tìm lấy tình yêu hạnh phúc (Phạm Công, Ngọc Hoa, Thoại Khanh, công chúa Nam Việt, Thạch Sanh, Kiều Nguyệt Nga, Vân Tiên, Vương thị...). Người Việt chúng ta có ảnh hưởng khá sâu sắc tư tưởng Nho giáo và học thuyết của Khổng Tử cho rằng “tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên” (sống chết là do số mệnh, giàu sang tại trời) đã để lại dấu ấn khá đậm trong tư tưởng của nhân dân nhất là trong tư tưởng của tầng lớp các nhà nho. Tư tưởng đó đã được Nguyễn Du chiêm nghiệm và để trả lời những câu hỏi lớn cho cuộc đời đầy sóng gió của mình. Với nỗi đau của một người bất đắc chí, một tài năng không được xã hội dung nạp, Nguyễn Du đã đồng cảm với những số phận tương tự để rồi nghiệm ra rằng “phải chăng tất cả vì số mệnh?”. Nên ngay đầu tác phẩm “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã gởi gắm tâm sự: “Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. ... Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Cũng chính ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo mà đa phần Truyện thơ Nôm đã dùng tư tưởng này để lý giải cho các tình huống, các kết thúc của Truyện thơ Nôm ở từng con người, cuộc đời và hoàn cảnh cụ thể. Trong chúng ta chắc chắn ai cũng thấy nhẹ lòng khi Trần Minh nguyện chung thủy với con gái Vệ quan, Thôi Anh sum vầy với Vương thị, Trời cho Viên thị trở lại trần gian nối lại duyên tình với Tôn Khác... Đó phải chăng là cái hậu rất hợp lẽ đời! Và để trọn tình, đạt lý nên Tống Trân không thể từ bỏ công chúa Bạch Hoa mà chàng phải thử tài thi may áo, làm bánh... để chọn chính thê. Từ đó, Tống Trân – Cúc Hoa và công chúa Bạch Hoa sống hạnh phúc, hòa thuận bên nhau trong đạo nghĩa vợ chồng “mỗi duyên cũng vẹn, chữ đồng cũng yên” và ngôi chính thê phải thuộc về nàng Cúc Hoa dù nàng tự cho mình “gai vải tầm thường”. Hoàn cảnh này cũng như cách sắp xếp trọn tình của Lý Công đối với công chúa và Thị Hương để từ đó họ mãi sống trong cảnh “tưng bừng trăm họ âu ca”. Với kết thúc đoàn viên, Châu Tuấn sum họp với Thoại Khanh, Phương Hoa và Cảnh Yên vượt qua sóng gió. Đó là sự công bằng của công lý ở đời cho những người thẳng ngay, hiếu thảo, thủy chung. Hạnh phúc phải đến với người hiền, công bằng phải dành cho lẽ phải, kẻ độc ác, gian ngoa như tên Tào trung úy (Phương Hoa), Tào Thị (Phạm Công – Cúc Hoa), mẹ con Lý Thông (Thạch Sanh) phải bị trừng phạt. Thạch Sanh sánh duyên cùng công chúa cũng là số phận đã được định sẵn, dù Lý Thông có ích kỷ, cướp công vẫn không có kết quả như mong muốn. Câu chuyện tình yêu giữa Phan Sinh và Kiều Liên được sự che chở bởi lòng từ bi của đức Phật vì phận số của hai người không thể rời xa (Phan Trần). Hoàng Trừu đã kén vợ từ mười tám nước chư hầu nhưng
khi đến Nam Việt hoàng tử mới tìm được duyên phận của mình. Trước đó, dù vua cha “rắp kén con dòng tướng khanh” cho chàng nhưng Hoàng Trừu vẫn không vội vàng vì chàng cho rằng số phận do trời định: “Vợ chồng là nghĩa thiên duyên, Bao giờ tìm được người hiền sẽ hay”. (Hoàng Trừu) Chính vì vậy, khi gặp công chúa Nam Việt dù kẻ bắc người nam cách trở muôn phần nhưng Hoàng Trừu vẫn quyết tâm kết duyên với công chúa Nam Việt. Vua đất Nam Việt có duy nhất một nàng công chúa nhưng vẫn chấp nhận lương duyên con gái mình với chàng hoàng tử Trung Quốc vì vua tin tưởng rằng đó là số phận. Bởi ông muộn màng con cái, trời đã cho vua và hoàng hậu một vì sao sa để sinh được công chúa. Sự ra đời của công chúa khá lạ kỳ thì duyên nợ, phận số của nàng gặp hoàng tử Trung Quốc xa xôi, cách trở ấy cũng không có gì là lạ. Vua dễ dàng chấp thuận theo ý công chúa dù rằng các quan trong triều: “văn võ ồn ào, văn thì rằng gả, võ nào có nghe”. Nhưng khi công chúa giãi bày “Trước là ngư thủy duyên hài; Sau là hai nước muôn đời giao thông” thì vua thuận lòng theo ý của con: “Vua nghe con nói bằng lòng, Một chiều là một thuận dòng êm tai”. (Hoàng Trừu) Theo triết lý âm – dương qua biểu tượng vuông – tròn, dân gian từng có những quan niệm “Trong rủi có may – trong dở có hay, trong họa có phúc...”. Chúng ta thấy Lục Vân Tiên mù lòa vì khóc nhiều khi hay tin mẹ qua đời. Và tiếp tục lại bị Võ Thể Loan bội hôn và Võ Công hãm hại. Có thể từ trong họa đó Lục Vân Tiên có được phúc, từ trong những cái rủi ấy, Vân Tiên lại có cái may. Cái may mắn lớn nhất là Vân Tiên có dịp hiểu được lòng người đen bạc, bất nhân của gia đình Võ Thể Loan; hiểu được tấm lòng của người bạn tri kỷ Hớn Minh; hiểu được lòng trung thành của Tiểu đồng đối với chủ... và hiểu được tấm lòng, tình cảm rất đáng quí của Nguyệt Nga. Cái phúc rất lớn của Vân Tiên đó là chàng đã tách được đời mình ra khỏi những người bạc ác, hám danh, vô nghĩa; cái phúc đáng quí nữa là chàng có được tấm chân tình trong sáng, cao đẹp của Nguyệt Nga... Tất cả âu cũng là số mệnh, Vân Tiên đính ước với Võ Thể Loan, nhưng lại tròn nợ duyên với Kiều Nguyệt Nga. Trong “Sơ Kính Tân Trang”, Phạm Kim và Quỳnh Thư đã có mối tình rất đẹp, họ đã nguyện thề, ước nguyện mãi bên nhau. Thế nhưng sự xuất hiện của tên đô đốc cậy thế, cậy quyền dồn ép, bức bách cha con Quỳnh Thư đã làm tình yêu của họ dở dang... Có lẽ Phạm Thái không cam tâm cho Quỳnh Thư phải chết trong oan ức và Phạm Kim rơi vào cảnh lở dở duyên tình nên câu chuyện
đã có thêm đoạn “tái thế tương phùng”, “tái thế hoàn hôn”. Nhân vật Thụy Châu như sự tiếp nối của Quỳnh Thư, để thể hiện ước mơ, khát vọng tình yêu và mong mỏi vượt qua số phận của giới trẻ nói chung và của chính tác giả - Phạm Thái nói riêng về tình yêu đôi lứa. Dù kết thúc của “Truyện Kiều” không có hậu như truyện “Lục Vân Tiên” nhưng Nguyễn Du có một sự giãi bày, một lô–gíc khá hợp lý, hợp tình cho hoàn cảnh của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã đi từ tư tưởng của Nho giáo đến tư tưởng Phật giáo, một sự ảnh hưởng, tác động rất lớn của tôn giáo và xã hội vào quan niệm của nhà thơ. Nguyễn Du cho rằng cuộc đời của con người do Trời chi phối, vì thế ai cũng có mệnh do Trời đã định. Sự chi phối của trời và mệnh đã tạo cái gọi là “phận”. Phận chính là tất cả những gì diễn ra trong cuộc đời, trong cuộc sống đã được Trời định sẵn cho mỗi người. Điều đó chính là nguyên cớ Nguyễn Du cho người đọc không quá ngỡ ngàng về cuộc đời của Thúy Kiều. Bởi từ một tiểu thư đài các, trâm anh, giỏi “cầm – kỳ – thi – họa” lại rất xinh đẹp “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, nhưng cuộc đời của Kiều lại rơi vào hoàn cảnh khá bất hạnh, truân chuyên với mười lăm năm lưu lạc... Chính Kiều đã nhiều lần xót xa cho số phận của mình: “Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi nhỡ nhàng”. (Truyện Kiều) Nguyễn Du đã sắp xếp cho Thúy Kiều viếng mộ và thắp hương cho Đạm Tiên cũng là một nguyên cớ từ sự đồng cảm của hai kiếp tương đồng về tài hoa sẽ tương thích với nhau về số mệnh. Và rõ ràng, dù Đạm Tiên không hại gì Thúy Kiều nhưng chính những lần báo mộng của Đạm Tiên về cuộc đời của Thúy Kiều đã làm cho Kiều bị ám ảnh... Và làm cho Thúy Kiều luôn nghĩ mình cũng sẽ khổ đau bạc mệnh như Đạm Tiên. Từ ảnh hưởng tiêu cực đó đã có lúc làm Kiều không còn hy vọng để sống... Dù có những lúc quá khổ đau, Kiều đã có ý thức kháng cự để đổi thay số mệnh như khi theo Sở Khanh bỏ trốn khỏi lầu xanh, bị Tú Bà làm nhục Kiều toan tự tử để kết thúc cuộc đời tủi nhục... Nhưng với một người phụ nữ liễu yếu, đào tơ Kiều không đủ sức cưỡng lại số phận nên dường như chỉ còn là tiếng oán than đau xót: “Đã cho lấy chữ hồng nhan Làm cho cho hại, cho tàn cho cân Đã đày vào kiếp phong trần Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”. (Truyện Kiều) Số phận của Thúy Kiều là vậy! Sau mười lăm năm lưu lạc vì bán mình chuộc cha và em trai. Kiều đã trải qua bao sóng gió phũ phàng, tủi nhục và khi sum họp với người thân Kiều vui mừng
khi gặp lại mẹ cha, hai em và Kim Trọng nhưng ai thấu được lòng Thúy Kiều vẫn mãi cô đơn, trống trải... “Dòng sông Tiền Đường khép lại một quãng đời, cũng mở ra một quãng đời khác. Kiều trở về với gia đình, với người thân nhưng ngọn sóng Tiền Đường cứ quanh quẩn, cứ ruổi theo ám ảnh như một mối nợ đời trả mãi không dứt. Kim Trọng vẫn còn đó, vẫn yêu thương nàng như ngày nào, và Thúy Vân vẫn còn kia, tay bồng tay dắt, con cái đề huề, đầm ấm không khí gia đình. Biết rằng ngày xưa trai năm thê bảy thiếp nhưng Thúy Kiều giống như người thừa khi hiện diện trong mái nhà này. Biết rằng khi chén rượu khi cuộc cờ nhưng những đêm dài giữa phòng thu khi cánh cửa tình yêu đã khép nàng còn lại gì với gối chiếc chăn đơn? Không còn gì cả, không chồng không con, không tương lai, không hy vọng, không chút lòng ham sống, không cả tiếng đàn đứt ruột... Biết rằng... Biết rằng ... Biết rằng... Biết rằng...” [124, tr. 3] Sau mỗi cụm từ “Biết rằng” là một điệp khúc của tiếng lòng như lời tâm sự, cảm thông, thấu rõ hoàn cảnh, số mệnh của Kiều... Số mệnh, số phận con người không ai giống ai, nó thật sự đa dạng, phong phú. Trong cuộc đời, tất sẽ có người trường thọ nhưng cũng có người ngắn ngủi ra đi... có người luôn được hạnh phúc nhưng cũng có người vô cùng bất hạnh... có người luôn sống trong sự sung sướng cũng có người mãi trong kiếp bần hàn... Trong vô vàn những điểm khác nhau, trái ngược nhau của cuộc đời thì Truyện thơ Nôm có một điểm chung là khuyên con người: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, cuộc đời có luật nhân quả... nên trong cuộc sống mọi người cần phải quan tâm, chia sẻ với nhau, phải sống với mọi người theo đạo nghĩa ở đời. Trong đó, các nội dung “trung – hiếu – tiết – nghĩa” từ Truyện thơ Nôm như những phương tiện cho chúng ta làm cơ sở thay đổi vận mệnh của mình. Nội dung “Duyên kiếp, số mệnh” thể hiện thật phong phú trong Truyện thơ Nôm ở 564 lần xuất hiện trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát.“Duyên kiếp, số mệnh” đã thể hiện tư duy, nếp nghĩ của nhân dân trong quá trình đấu tranh và bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa đôi và tình cảm, hạnh phúc gia đình. Chính yếu tố “Duyên kiếp, số mệnh” đã góp phần làm phong phú thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm và có tác dụng giáo dục rất lớn với nhân dân sống sao cho tròn đạo nghĩa, hợp lẽ đời để duyên kiếp, số mệnh của mọi người luôn luôn được thuận lợi, nhẹ nhàng và tốt đẹp. 2.2.2. Bói toán Trong Truyện thơ Nôm có nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng Đạo giáo nên yếu tố bói toán cũng được thể hiện khá rõ. Với 17 lần xuất hiện yếu tố bói toán, yếu tố tâm linh bói toán góp phần tăng thêm sự phong phú của các yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm. Theo tự điển Tiếng Việt, bói là “đoán việc đã qua hay sắp tới gắn với số mệnh của từng người, theo mê tín” [79, tr. 96]. Còn bói toán là “bói vận số” [79, tr. 96].
Người ta cho rằng con người khi thất bại hoặc bất lực trước những vấn đề nan giải trong cuộc sống thường có nhu cầu tìm đến bói toán như tìm những người đồng cảm và cho một ý kiến tham khảo nhằm giải tỏa bế tắc, hơn là chấp nhận nó. Điều này cũng thể hiện khá rõ trong Truyện thơ Nôm. Trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa”, sau khi Cúc Hoa thấy Phạm Công – một thiện sĩ tài cao nhưng vì hoàn cảnh cơ hàn phải dắt mẹ đi ăn mày. Chàng lại là người con hiếu thảo “Cơm thời để kính mẹ già, Mình ăn dưa muối cùng là rau bông” nên Cúc Hoa đã đem lòng yêu mến Phạm Công và sinh bệnh tương tư. Cha mẹ của Cúc Hoa rất đau lòng khi nhìn thấy con “Võ vàng mặt trẻ chua cay lòng già”. Sau khi mời đến bốn mươi thầy phù thủy mọi nơi, rồi “Lễ dâng khấn Phật, cầu trời” và “Thầy sai chiếu kính bảy ngày, Bệnh thời chẳng đã người gầy hơn xưa”. Cuối cùng, cha mẹ của Cúc Hoa đã quyết định đi xem bói “Âu ta đi bói xem tình làm sao!”. Và cha mẹ Cúc Hoa đã ra chợ tìm thầy xem bói: “Thưa: tôi xem quẻ lành yên, Năm quan tiền đặt nâng lên rõ ràng, Bói xem gia sự mọi đàng, Bói xem bản mệnh an khang thế nào?” (Phạm Công – Cúc Hoa) Sau khi thầy gieo quẻ và bảo rằng “Cứ trong bản mệnh quẻ này bình yên”. Nhưng cha mẹ Cúc Hoa thở than với thầy “Từ ngày du học trường trung, Bỗng dưng đeo bệnh hình dung âu sầu!”. Nghe cha mẹ Cúc Hoa nói thế, thầy lại gieo quẻ tiếp theo và thầy khẳng định: “Nội tà ma, ngoại không vong, Quẻ này là quẻ phải lòng ai đây! Cho nên ngọa bệnh làm vầy, Chả tin, ông hỏi nàng này mà coi”. Sau khi xem bói về, cha mẹ Cúc Hoa đã dò hỏi thì mới biết sự thật đúng như thầy bói đã nói là do Cúc Hoa phải lòng, tương tư Phạm Công. Cha mẹ tác hợp nhân duyên cho Phạm Công – Cúc Hoa vậy là Cúc Hoa đã thoát bệnh. Phạm Kim và Quỳnh Thư (Sơ Kính Tân Trang) đã phải lòng nhau và đã thề non hẹn biển nguyện bên nhau. Quỳnh Thư là tiểu thư xinh đẹp “Khổ mê thược dược, thức say hải đường”, tưởng rằng với một thiếu nữ tuyệt đẹp và một tình yêu nồng thắm như vậy thì Quỳnh Thư sẽ có một cuộc đời thật hạnh phúc nhưng thầy xem tướng cho rằng nơi giữa trán, phía trên sống mũi nhọn và thấp, ý nói tướng chết yểu, chỉ Quỳnh Thư hồng nhan bạc mệnh: “Chỉn e tướng số chưa an,
Hay là vì chữ hồng nhan quải gàn, Hai cung nhật nguyệt thần quang, Tài thông minh với văn chương rất kỳ, Song hiềm phúc ấn tiêm đê, E đường thọ khảo kém bề phu quân”. (Sơ Kính Tân Trang) Và quẻ nói rất đúng, sau này do tên đô đốc kênh kiệu, bạo tàn, cậy quyền thế và do mẹ Quỳnh Thư mà nàng đã tự tử để bảo vệ tình yêu với Phạm Kim. Như vậy, bói toán như một lời tiên tri báo trước điềm xảy ra. Điều này, chúng ta thấy rõ trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều ngay từ nhỏ đã được thầy tướng số dự báo về một tương lai rất xấu của nàng “tài hoa bạc mệnh”: “Nhớ từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một lời. Anh hoa phát tiết ra ngoài Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”. Chúng ta thấy không những Nguyễn Du chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo như đã trình bày ở các biểu hiện của thế giới tâm linh từ các nội dung phía trước. Chúng ta lại bắt gặp tư tưởng của Đạo giáo được pha trộn vào trong tín ngưỡng tôn giáo của Nguyễn Du. Dù biểu hiện của yếu tố tâm linh do ảnh hưởng của Đạo giáo không nhiều như biểu hiện của Nho giáo, Phật giáo trong tác phẩm nhưng cũng đủ nói lên vị trí của Đạo giáo lúc bấy giờ trong tín ngưỡng của nhân dân. Thúc Sinh là một nhân vật có hiểu biết nhưng khi Thúy Kiều bị bắt cóc, Thúc Sinh cũng đã nhờ đến thầy phù thủy lập đàn cầu đảo và được báo trước rằng: “Người ấy nặng kiếp oan gia Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho Mệnh cung đang mắc nạn to Một năm nữa mới thăm dò được tin Hai bên giáp mặt chiền chiền, Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay”. (Truyện Kiều) Rõ ràng, sau này Thúc Sinh và Thúy Kiều đã lâm vào hoàn cảnh đúng như thế. Trước mặt Hoạn Thư, Thúc Sinh dù rất xót xa cho cảnh Thúy Kiều phải đánh đàn, hầu rượu cho Hoạn Thư và Thúc Sinh nhưng chàng không dám mở lời nhìn nhận Thúy Kiều.
Trong “Truyện Kiều”, Tam Hợp đạo cô cũng đã tiên đoán trước những gì sẽ xảy ra cho Kiều như lời một thầy tướng số. Và Vãi Giác Duyên là nhân vật đại diện cho Phật giáo nhưng lại tin vào lời tiên đoán của một đạo cô. Nên khi gặp Thúy Kiều trong lần báo ân báo oán, Giác Duyên đã khẳng định với Kiều ngày tái ngộ thông qua lời tiên đoán của Tam Hợp: “Sư rằng: cũng chẳng bao lâu Trong năm năm lại gặp nhau đó mà Nhớ ngày hành cước phương xa Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri Bảo cho hội ngộ chi kỳ Năm nay là một, nữa thì năm năm Mới hay tiền định chẳng lầm Đã tin điều trước, ắt nhằm việc sau” (Truyện Kiều) Lời tiên đoán của Tam Hợp rất đúng. Và chính nhờ lời tiên đoán này mà Thúy Kiều được cứu sống vì Giác Duyên có sự chuẩn bị trước để vớt Kiều khi nàng trầm mình xuống sông Tiền Đường, sau khi Từ Hải mất do Hồ Tôn Hiến hãm hại: “Ngư ông kéo lưới vớt người Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa”. (Truyện Kiều) Ảnh hưởng của Đạo giáo, của hình thức bói toán còn thể hiện ở nhân vật Tiểu đồng (Lục Vân Tiên). Khi Lục Vân Tiên bỏ khoa thi để về chịu tang mẹ, trên đường đi Vân Tiên đã khóc thương mẹ quá nhiều nên bị mù lòa. Tiểu đồng hết lòng tìm cách chạy chữa cho chủ. Tiểu đồng nghe lời chỉ dẫn đã tìm đến thầy bói để xem bệnh tình của Vân Tiên “Tiểu đồng nghe nói đi liền, Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi”. Và thầy bói đã nói rằng: “Trang thành là quẻ lục xung, Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn. Hóa ra làm quẻ du hồn, Lại thêm thế động khắc dồn hào quan Cứ trong quẻ ấy mà bàn Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình Xui nên phát bịnh thình lình, Vì chung ma quỷ lộ trình rất thiêng”. (Lục Vân Tiên)
Ở chi tiết này cho chúng ta thấy bói toán không chỉ là lời tiên tri mà có khi xác định đúng những điều đã xảy ra và còn mách bảo cho con người cách khắc phục. Điều này rất phù hợp với tâm lý của người đi xem bói bởi người đi xem bói đa số là thường rơi vào những hoàn cảnh, những trường hợp nan giải nên tìm đến bói toán để được chỉ dẫn hướng giải tỏa những bế tắc. Tiểu đồng cũng vậy, vì nóng lòng chữa bệnh cho cậu chủ nên khi thầy bói bảo tìm thầy pháp để chữa trị là Tiểu đồng đã đi ngay: “Tiểu đồng mới chạy bôn ba, Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào”. Nhìn chung, bói toán cũng là một nhu cầu trong tinh thần của con người. Bói toán sẽ giúp cho con người biết về vận hạn, số mệnh của mình để tìm cách khắc phục những điều không tốt và có thể biết trước để khắc phục hậu quả của việc sắp xảy ra. Duyên kiếp, số mệnh, bói toán là các nội dung, yếu tố tâm linh liên quan mật thiết với nhau. Bói toán giúp con người biết được số mệnh của mình để không quá ngỡ ngàng khi sự việc đến, không quá đau buồn vì mọi người tin tất cả mọi người đều có số mệnh. Yếu tố tâm linh duyên kiếp, số mệnh, bói toán xuất hiện khá nhiều 581/1894 lần trong 30 tác phẩm nhưng những yếu tố này thể hiện khía cạnh tích cực của Truyện thơ Nôm. Nhân vật trong truyện không tin mù quáng vào bói toán, không tiêu cực trước số mệnh mà họ luôn chủ động vượt lên số mệnh để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời. 2.3. Hồn ma Với 133/1894 lần xuất hiện của tổng các hiện tượng trong 30 tác phẩm (tương đương 7,02%) yếu tố “hồn ma” và khá nhiều chi tiết về không gian âm phủ đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú của con người. Yếu tố hồn ma tạo nên sức hấp dẫn của Truyện thơ Nôm với các yếu tố kỳ ảo, thần bí. “Hồn ma” là sự kết hợp của hai từ “hồn” và “ma”. Vậy hồn là gì? Và ma có nghĩa ra sao? Theo từ điển Tiếng Việt, hồn là “thực thể tinh thần mà tôn giáo và triết học duy tâm cho là độc lập với thể xác, khi nhập vào thể xác thì tạo ra sự sống và tâm lý của con người” [79, tr. 573]. Còn ma dùng để chỉ “người đã chết, đã thuộc về cõi âm” [79, tr. 746]. Như vậy, con người là sự tồn tại của hai phần hồn và xác. Khi con người mất thì hồn sẽ lìa khỏi xác, hồn biến thành ma. Ma cũng có sức mạnh siêu nhiên như thần thánh có thể đem họa hoặc phúc đến cho con người. Ma có thể tiên tri mệnh số, vận hạn cho người sống. Vì thế, ma cũng là biểu tượng, hình ảnh linh thiêng. Yếu tố hồn ma thể hiện nhiều nhất trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa” 35/133 lần (26,31%), trong “Mã Phụng – Xuân Hương” 12/133 lần (9,02%) và yếu tố hồn ma có mặt trong 26/30 tác phẩm được khảo sát tạo nên sự huyền bí của thế giới tự nhiên và xã hội.
Với tấm lòng yêu thương chồng con, nên dù mất rồi Cúc Hoa vẫn thường hiện lên giúp đỡ cho chồng con lúc họ gặp gian nan. Hồn mẹ Cúc Hoa đã hiện về ru ngủ, an ủi con trong những ngày hai con lưu lạc, đói khát... “Cúc Hoa trong mả, thương ôi, Nước mắt ngùi ngùi thảm thiết xót xa! Bấy giờ mới mở cửa ra, Thấy hai con dại xót xa tấm lòng!” (Phạm Công – Cúc Hoa) Với tấm lòng nhớ vợ, thương con và xót xa cho cảnh hai con mồ côi mẹ phải chịu cảnh nhọc nhằn, Phạm Công đã quyết định đánh đồng thiếp để xống âm cung tìm vợ: “Tạ từ trở lại triều trung, Lập đàn chiếu kính âm cung đi tìm Ba sinh khôn phỉ mười nguyền Cho nên xuống chốn hoàng tuyền xem tin” Cảm kích trước tấm lòng thủy chung của Phạm Công đối với vợ, công chúa Xuân Dung giúp đỡ và Diêm Vương đã cho cả Phạm Công, Cúc Hoa được tái hồi trở lại dương trần sum hợp. Hồn ma thể hiện rất phong phú trong các Truyện thơ Nôm như cảnh qua đời của mẹ Thạch Sanh “Nói thôi hồn lạc, phách rời, Thạch Sanh ôm mẹ một hồi khóc vang”. Cả Xà tinh và Trăn tinh khi bị Thạch Sanh tiêu diệt, hồn cũng về hãm hại Thạch Sanh bằng cách tổ chức trộm bạc, vàng của triều đình rồi gieo họa cho Thạch Sanh: “Hai hồn khi ấy vào kho, Cùng nhau lấy hết cả đồ kim ngân”. Trong “Phạm Tải – Ngọc Hoa”, nàng Ngọc Hoa đã tự tử để hồn xuống âm cung tìm gặp chồng là Phạm Tải. Và Xuân Hương khóc khi cha mất “Cha già sớm cách hồn rời cõi tây”, hồn của tướng Phiên lìa khỏi xác khi Xuân Hương hóa phép “Tướng Phiên trên ngựa đang ngồi, Bỗng thời thất lạc vậy thời hồn hoa” (Mã Phụng – Xuân Hương). Cũng như cảnh hồn lìa khỏi xác trong oan ức, tức tưởi của Trương công dưới sự bạo tàn của tên trung úy họ Tào “Hãi hùng phách tán hồn kinh” (Truyện Phương Hoa). Và trong bước đường lưu lạc gia đình Cảnh Tĩnh, Cảnh Yên lánh nạn đến nương náu chốn già lam, nơi tu hành của những người theo đạo Phật. Chẳng bao lâu, Thị Trinh vợ Cảnh Tĩnh đến ngày sinh nở và “sinh ra một gái phương phi muôn phần” nhưng rồi Thị Trinh “phải bệnh bất kỳ” để rồi: “Thở than chưa kịp hết nhời Hồn hoa trót đã tếch vời tiên phương” (Truyện Phương Hoa)
Hồn dẫu rằng đã lìa khỏi xác nhưng hồn vẫn có sức mạnh và khá linh thiêng. Trước cảnh Nghi Xuân, Tiến Lực đi ăn mày, Cúc Hoa đã hiện hồn lên ôm con than khóc, rồi viết thư giắt vào áo con để gửi cho chồng. Phạm Công hết kỳ hạn làm quan trở về, giữa đường gặp con đang dắt díu nhau đi ăn xin và Phạm Công mới biết rõ sự tình... Trong truyện “Lý Công”, nàng công chúa đã trải qua biết bao gian nan, thử thách để mãi chung thủy sắt son với Lý Công. Đến khi vua Hung Nô ép nàng phải lấy hắn nhưng nàng luôn tìm cách thối thác và khi vua Hung Nô tức giận “... Trẫm không chờ, Ta đây đã quyết, nàng đà phải nghe” thì công chúa nghĩ rằng mình thà chết để hồn sẽ được gặp Lý Công. “Thác thì thiếp thác cho xong, Trọn đạo vợ chồng, vẹn nghĩa mẹ cha. Dù vua chẳng nghĩ gần xa, Giết tôi hồn được theo hòa Lý Công”. (Lý Công) Đặc biệt trong truyện “Bà Chúa Ba”, hồn Chúa Ba rời khỏi xác xuống địa phủ: “Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa Thấy Thanh y sứ đến mà hỏi han .................. Trình: Có Diêm Vương lệnh truyền, Dạy mời đức Chúa về đền Phong đô”. (Bà Chúa Ba) Khi ở âm phủ, hồn của Chúa Ba đã đi qua các cửa ngục và chứng kiến cảnh con người ở thế gian đã gây ra bao tội lỗi giờ phải bị hành hạ, trừng phạt. Nếu ở thế gian con người bất hiếu với mẹ cha, vô nghĩa với anh em, chồng vợ, nói dối hại người, tàn sát súc sanh... thì đều có tội và phải trừng trị ở âm cung... Sau đó, Chúa Ba được trở về dương thế và được Phật Tổ đưa vào chùa Hương: “Chúa Ba hồn phách tỉnh ngay, Vẫn còn ngọc thể như ngày giáng sinh”. (Bà Chúa Ba) Một người có đức nhân như Chúa Ba và một lòng mộ Phật “Lòng đạo kiên thay!” nên hồn của Chúa Ba đi xuống âm phủ, rồi về lại dương thế và cuối cùng hồn Chúa Ba được lên trời thành Phật: “Phật Bà từ ấy tin thông, Thoát cho xác cũ dẫn hồn phách lên Thiện Tài theo Phật về đền...”. (Bà Chúa Ba)
Khi Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên sang nước Ô – Qua, Nguyệt Nga đã quyết lòng tìm đến cái chết trên đường đi để giữ trọn tình cảm của mình đối với chàng trai họ Lục. Nên trước lúc từ biệt cha già nàng đã thầm ẩn ý nhắc đến cái chết của mình và nếu có lìa trần Nguyệt Nga vẫn thương nhớ và sẽ về thăm cha. Lời tâm sự ấy nghe sao thật xót xa: “Thân con về nước Ô – Qua, Đã đành một nỗi làm ma đất người Hai phương Nam Bắc cách vời, Chút xin gởi lại một lời làm khuây. Hiu hiu gió thổi ngọn cây, Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha”. (Lục Vân Tiên) Và trên đường cống Phiên, Nguyệt Nga đã thực hiện theo nguyện ước của mình. Nàng đã nhảy xuống sông tự tử: “Bóng trăng vừa khuất ngọn cây, Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung”. (Lục Vân Tiên) Nguyễn Du đã thổi vào “Truyện Kiều” một thế giới tâm linh rất phong phú nhưng đặc sắc nhất, ám ảnh nhất là bóng ma của Đạm Tiên. Hồn của Đạm Tiên đã linh ứng báo mộng ba lần cho Thúy Kiều biết về cuộc đời của mình. Qua “Truyện Kiều”, người đọc có thể cảm nhận Đạm Tiên không chỉ là linh hồn hiểu được tấm lòng của kẻ hậu thế mà đó là một bóng ma đầy ám ảnh. Dù Đạm Tiên đã mất nhưng trong “Truyện Kiều” chúng ta dường như cảm nhận được lúc nào Đạm Tiên cũng là cái bóng bên cạnh Kiều, tồn tại song song với Kiều. Bóng ma ấy không làm hại Kiều, không giúp đỡ được Kiều nhưng luôn làm Kiều ám ảnh về cuộc đời, về số phận của mình. Từ sau khi nằm mộng, đối diện với hồn ma Đạm Tiên thì Thúy Kiều thường nghĩ đến cái chết nhiều hơn. Trước lúc ra đi, sau khi trao duyên tình lại cho Thúy Vân cũng là lúc Kiều nghĩ đến cái chết: “Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về, Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. (Truyện Kiều) Và bóng ma Đạm Tiên như dõi theo Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Nên khi Kiều đã kết thúc cuộc đời mình dưới dòng sông Tiền Đường và may mắn được Ngư ông cứu vớt, trong tâm trạng của người từ cõi chết trở về, Thúy Kiều lại gặp hồn ma Đạm Tiên: “Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng: Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây...”. (Truyện Kiều) Rõ ràng, Đạm Tiên là một hình ảnh đặc biệt trong cảm quan về tôn giáo của Nguyễn Du, một sự thừa nhận tồn tại của linh hồn, thừa nhận sự tồn tại của số mệnh, của luật nhân quả. Lê Thu Yến, khi nghiên cứu về “Truyện Kiều” cũng đã viết: “Dân gian xưa quan niệm người chết chỉ chết phần xác còn lại phần hồn. Phần hồn này luôn quanh quẩn bên cạnh người sống. Người sống có thể hỏi ý kiến, xin phép, khấn nguyện... điều gì đó đối với người đã chết. Tục thờ cúng của ông bà ta ngày xưa, thậm chí cho đến bây giờ vẫn thế. Nguyễn Du cũng quan niệm như vậy Thác là thể phách, còn là tinh anh. Vì thế con người tài hoa là Đạm Tiên ấy tuy chết rồi nhưng vẫn có thể tương thông được với Thúy Kiều, vẫn có thể nghe được lời lầm rầm khấn nguyện của Thúy Kiều để rồi hiển linh báo ứng qua hình thức trận cuồng phong, qua hình thức giấc mộng...”. [124, tr. 1]. Bên cạnh hồn ma, không gian âm phủ hiện ra hết sức thần bí vì đây là thế giới trú ngụ của hồn ma. Âm phủ là “cõi âm, thế giới của linh hồn người chết, theo tín ngưỡng dân gian” [79, tr. 21]. Vậy thế giới âm phủ là thế giới khác với thế giới thực tại mà chúng ta đang sống. Là thế giới bên kia khi con người khuất núi, trở về… Niềm tin tâm linh, khi chết, con người chưa mất đi tất cả “mất phần thể xác tinh anh vẫn còn”. Nếu theo quan điểm của một số truờng phái triết học “duy tâm” thì: con người là do “khí” tạo ra tức gồm: kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ (ngũ hành) mà thành “khí” ở đây là các dạng năng lượng-vật chất trong vũ trụ. Người sống tồn tại, tức là có “hình”, khi chết đi chỉ có xác là sẽ tan thành “tro bụi” theo thời gian, cái còn tồn tại là “hồn”: tạm cho là một dạng năng lượng -vật chất “không nhìn thấy được”. Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Thế giới âm phủ còn thể hiện ở những hình ảnh ma quỷ, nơi thực hiện sự trừng phạt đối với những người khi sống ở cõi dương gian gây nhiều tội lỗi. Theo sự hình dung chung của mọi người, thế giới âm phủ là tầng dưới của cõi dương, đối lập với cõi dương. Và ở trên cõi dương là miền cực lạc của thượng giới, của Niết bàn, thế giới của Trời, Phật và những người khi sống không có tội lỗi thì khi chết sẽ được lên trời…
Âm phủ và dương gian cách nhau bao xa, không ai có thể trả lời được. Trong tâm linh, suy nghĩ của mọi người thì dương gian và âm phủ là hai không gian phân định giữa người sống và người đã mất. Không gian đó bao xa, cách trở như thế nào nhưng với lòng quyết tâm tìm vợ, Phạm Công đã sẵn sàng vượt qua nguy hiểm trên đường xuống âm cung: “Trạng nguyên đến đó bàn hoàn, Tứ bề tù ngục kêu ran thảm lòng! Đầu trâu ngục tối ròng ròng, Chàng thời cưỡi ngựa đến cùng một khi”. (Phạm Công – Cúc Hoa). Khi xuống âm phủ, Phạm Công đã qua năm cửa ngục, mắt thấy tai nghe bao cảnh nhục hình khủng khiếp khi bọn quỷ sứ tra tấn những kẻ gian ác, tham lam nơi dương thế. Sau đó, Phạm Công đã được gặp Cúc Hoa ở một nơi tiên cảnh có cỏ lạ, hoa thơm vì Cúc Hoa là người nhân hậu, nghĩa tình không có tội. Trước tấm lòng chung thủy và quyết tâm của Phạm Công, Diêm Vương cho Cúc Hoa trở lại trần gian sum họp với chồng con. Trong suy nghĩ của nhân dân, âm phủ là thế giới có sự tồn tại, gần giống dương gian con người. Chính vì vậy, Ngọc Hoa sau khi tự tử đã gặp được Phạm Tải ở âm cung. Điều này cũng giống như suy nghĩ của nàng Cúc Hoa (Tống Trân – Cúc Hoa). Nàng muốn chết xuống âm cung để nuôi Tống Trân ăn học và tròn nợ duyên nơi chín suối: “Để thiếp thác xuống tuyền đài, Nuôi chàng đi học thi tài âm cung. Thuở sống, duyên nợ chưa xong, Một mai thác xuống vợ chồng có đôi”. (Tống Trân – Cúc Hoa) Không gian âm phủ được thể hiện khá sinh động và giàu hình ảnh khi Chúa Ba được Phật Tổ thử lòng mộ phật của nàng. Chúa Ba đã được Phật Tổ cho hồn xuống âm cung. Ở nơi âm phủ, nàng đã được đón tiếp và được đi qua mười tám cửa ngục. Ở mỗi cửa ngục là nơi trừng phạt những người khi ở dương thế làm nên tội lỗi khác nhau. Âm phủ cũng như dương thế, người hiền sẽ được hưởng cảnh sung sướng còn người bạc ác, gian tham sẽ bị trừng phạt và Chúa Ba cũng đã tai nghe, mắt thấy như vậy ở chốn âm ty. “Chúa nghe tiếng nhạc xôn xao, Lại nghe tù khóc lào xào nơi xa. Thanh y dẫn lại trình qua
Có phúc đàn sáo sênh ca đãi đồng Vô phúc dẫn vào ngục trung, Phủ Việt, chùy đồng khảo đánh giam tra”. (Bà Chúa Ba) Với lòng từ bi, nhân hậu, Chúa Ba thấy xót xa cho những linh hồn nơi các ngục tối đang bị khảo tra. Chúa Ba đã thành tâm khấn nguyện Ngọc Hoàng xá tội cho những linh hồn đáng thương đã trót lỗi lầm. Với lòng từ bi độ hộ cho mọi số kiếp của Chúa Ba, Ngọc Hoàng đã cảm động nên cho những ngục tù được giải thoát khỏi cảnh gông cùm, khảo tra: “Chúa nghe lời nói xót xa! Cảm thương trong bụng kêu ca thiên đình. Khấn cầu chuyên chú niệm kinh, Ngọc Hoàng cảm động chí thành tự nhiên. Bảo hoa bay khắp bốn bên, Hào quang sáng suốt dưới trên ngục thành. Gông cùm rơi rụng tan tành, Bao nhiêu tù rạc nhẹ mình tỉnh ra”. (Bà Chúa Ba) Tấm lòng từ bi của Chúa Ba cũng làm vua Diêm Vương khâm phục và trân trọng. Bởi vì, Chúa Ba đã đem đến cho mười tám cửa ngục cảnh Thiên đường, những linh hồn tù tội đã được giải thoát: “Vua rằng: Nghe đức từ bi, Mở lòng thương xót độ trì chúng sinh. Khắp mười tám cửa ngục hình, Một giờ đại xá siêu sinh tù rày Thực là đắc đạo linh thay, Chuyển trong địa ngục ra thay Thiên đường”. (Bà Chúa Ba) Thật không sai, dương thế và âm cung chỉ cách nhau trong hơi thở của con người. Nguyệt Nga quyết lòng giữ tiết hạnh với Vân Tiên. Trên đường cống Phiên sang Ô – Qua, nàng đã mang theo bức họa Vân Tiên trầm mình xuống nước để kết thúc cuộc đời mình: “Bóng trăng vừa khuất ngọn cây, Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung”. (Lục Vân Tiên)
Cảm động trước tấm lòng thảo ngay của Nguyệt Nga, Quan Âm đã cứu vớt và cho nàng sống lại, trở về trần gian. Đó cũng là cơ hội cho Nguyệt Nga và Vân Tiên hội ngộ sum vầy sau này. Chúng ta có thể cảm nhận một thế giới hoàn toàn khác với thế giới trần gian khi mỗi lần Đạm Tiên về báo mộng cho Thúy Kiều. Thúy Kiều như lạc vào một cõi hư vô, ở đó tâm hồn nàng hoàn toàn bị động, nàng không có cách gì làm đổi thay số phận mà chỉ biết để mọi sự an bài. Đó là thế giới, không gian của hồn ma ám ảnh. Thế giới tồn tại linh hồn của Đạm Tiên và những người đã khuất, một không gian lạnh lẽo của âm cung... Như vậy, hồn ma là yếu tố tâm linh được thể hiện khá cụ thể trong Truyện thơ Nôm. Hồn ma gắn liền với thế giới huyền hoặc, kỳ ảo nhưng đồng thời cũng gắn với những suy nghĩ, niềm tin thật sự trong tín ngưỡng, tư duy của con người qua nhiều thời đại. Hồn ma của Truyện thơ Nôm không phải hướng con người vào mê tín, dị đoan. Nhưng các yếu tố tâm linh về hồn ma như nhắc nhở con người về cách sống ở đời, sống nhân hậu và biết vị tha, sống sao mà khi lìa trần, khi qua kiếp sống khác con người không hề hối hận, bận lòng vì những điều con người đã làm ở kiếp sống này. Và cuộc đời có “luật nhân quả” nên cần phải tạo nhân lành cho quả tốt. Điều đó không những có ý nghĩa, tác dụng ngay trong hiện tại mà mọi người tin rằng tâm hồn sẽ thanh thản, không lo buồn nếu thật sự có kiếp luân hồi tiếp theo. 2.4. Lời thề Với 30 Truyện thơ Nôm khảo sát, lời thề xuất hiện 79/1894 lần của tổng các hiện tượng trong 30 tác phẩm (tương đương 4,17%) lời thề được thể hiện ở nhiều dạng: lời thề trong tình yêu, tình cảm vợ chồng, trong tình bạn, lời thề đối với những việc hệ trọng. Bên cạnh những con người son sắt thủy chung, gìn giữ lời thề thì cũng có kẻ phản bội lời thề hoặc sử dụng lời thề với sự giả dối. Theo tự điển Tiếng Việt, thề là “nói hoặc hứa một cách chắc chắn bằng cách lấy cái thiêng liêng, quý báu như danh dự, tính mạng, quỷ thần v.v... để làm chứng, làm điều đảm bảo cho lời nói này” [73, tr. 1158]. Thề nguyền là “để tỏ những điều nguyện ước với nhau” (lời thề nguyền, thề nguyền chung thủy) [73, tr. 1158]. Còn thề ước là “thề nguyền và ước hẹn với nhau” (thề ước sẽ trọn đời chung thủy) [73, tr. 1158]. Thề non hẹn biển là “thề có núi cao và biển sâu chứng giám; chỉ có lời thề nguyền trước sau như một, quyết không bao giờ thay đổi” [73, tr. 1158]. Một trong những nội dung lớn của Truyện thơ Nôm là đề cập đến tình cảm gia đình. Với lòng chung thủy sắt son, các nhân vật trong Truyện thơ Nôm, đã đấu tranh quyết liệt để bảo vệ tình yêu, tình cảm vợ chồng. Dù phải trải qua biết bao thử thách, đắng cay, cơ cực lẫn tủi nhục họ vẫn một lòng chung thủy để bảo vệ tình cảm vợ chồng (Phạm Công – Cúc Hoa, Truyện Chàng Chuối, Trinh Thử tân truyện, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Quan Âm Thị Kính, Lâm Tuyền Kỳ Ngộ...). Trong 79 lần xuất hiện lời thề trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát, lời thề trong tình cảm vợ chồng chiếm số lượng lớn nhất 42/79 (53,16%), Cúc Hoa không yên lòng trước cảnh chồng góa,
con côi nên đã báo mộng khuyên Phạm Công “Sớm tìm nơi khác kết nghì” nhưng Phạm Công luôn yêu quí vợ hiền và muốn trọn đạo thủy chung nên đã thề: “Anh thề có bóng trăng trong Quyết niềm ở vậy cho xong một đời!”. Có thể nói trong tình yêu, lời thề là chứng nhân vô cùng thiêng liêng, vì tin vào lời thề người ta có thể sống trọn một cuộc đời với lòng chung thủy, sắt son và con người tin rằng nếu phản bội lời thề sẽ bị thần linh trừng phạt, sẽ bị quả báo. Xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, con người thường nhờ thiên nhiên chứng giám cho lời nguyện thề của đôi lứa yêu nhau hay của riêng cá nhân vì mọi người tin rằng “vạn vật hữu linh”. Chúng ta đau xót cho hoàn cảnh của Phạm Công, vợ mới mất, hai con còn thơ dại nhưng lệnh vua truyền Phạm Công phải đi diệt giặc ngoại xâm. Với ảnh hưởng Nho giáo khá sâu sắc nên vua đã phán rằng: “... Những kẻ công hầu, chữ trung phải giữ làm đầu mới nên”. Phạm Công “nghe nói sự tình xót xa!” nên đành phải ra trận mà mang theo hai con thơ và cả hài cốt của vợ hiền. Bởi Phạm Công là người thủy chung, luôn nhớ đến lời nguyện cùng ở bên nhau với Cúc Hoa: “Chồng đâu vợ đó cho liền, Trước sau cho trọn lời nguyền cùng nhau!”. (Phạm Công – Cúc Hoa) Lời thề, nguyện ước sẽ rất quan trọng và thiêng liêng với những người luôn giữ chữ “tín”, luôn chung thủy, sắt son. Chỉ vì giữ lời nguyện ước của hai bên về tình duyên của hai con, Trương Công bị vu khống tội bán nước và phải chết, tài sản gia đình bị cướp sạch. Cảnh Yên – người chồng sắp cưới của Phương Hoa phải dắt mẹ và cháu đi ăn xin lánh nạn... Một thử thách đối với tình yêu của Phương Hoa và đối với lời thề ước của cha mẹ hai bên, nàng không những không đoạn tuyệt với Cảnh Yên mà còn tìm hết cách để giúp đỡ chàng và gia đình chàng. Sau đó, nàng giả trai, đội tên Cảnh Yên đi thi đậu trạng nguyên, minh oan cho Cảnh Yên và tố cáo tội ác của tên Tào trung úy. Tất cả những khổ đau, hoạn nạn của gia đình Cảnh Yên và tất cả tấm lòng, những việc làm của Phương Hoa cũng vì bảo vệ lời thề của cha mẹ hai bên cho tình duyên của nàng và Cảnh Yên “Trót đà gả bán họp hoan giao thề” (Truyện Phương Hoa). Trong tác phẩm “Quan Âm Thị Kính”, khi Thiện Sĩ hiểu ra vợ mình bị hàm oan đó là lúc Thị Kính không còn nữa trên thế gian, lời thề của người chồng hối lỗi dù đã muộn nhưng cũng thể hiện tình cảm của Thiện Sĩ dành cho Thị Kính rất sâu sắc: “Chàng thề: Xin được chết đi, Họa may có dịp cận kề nhau ngay”. (Quan Âm Thị Kính)
Đó cũng là lời thề sắt son trong “Mã Phụng – Xuân Hương”, một lời thề rất hình tượng thể hiện sự quyết tâm không dời đổi trong tình cảm vợ chồng: “Lời thề tại chốn loan phòng, Non mòn núi lở mà lòng không sai” (Mã Phụng – Xuân Hương) Nhìn chung lời thề trong tình nghĩa vợ chồng đã khắc ghi đạo lý trong cuộc đời. Đó là tình nghĩa trong đạo vợ chồng luôn chung thủy, sắt son. Bên cạnh lời thề, nguyện ước trong tình cảm vợ chồng là lời thề trong tình yêu đôi lứa, với sự xuất hiện 20/79 (25,31%), lời thề trong tình yêu đã thể hiện những mối tình rất chân thật, rất tự nhiên và rất đẹp. Dù tình yêu có gặp những ngang trái, éo le, có tan vỡ nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc những hình tượng đẹp trong tình yêu (Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ Kính Tân Trang, Nhị Độ Mai, Trần Minh khố chuối, Phù Dung tân truyện...). Đó là tình yêu của những đôi tài tử giai nhân, họ đến với tình yêu hết sức tự nhiên bằng tất cả tấm lòng. Ở truyện “Sơ Kính Tân Trang”, với câu chuyện tình yêu của tuổi trẻ đầy thơ mộng, lãng mạn, Phạm Kim đã thề ước với Quỳnh Thư dù chưa được gặp mặt nhau mà chỉ qua những bài thơ bày tỏ, đối đáp tấm lòng. Chính “Nàng Thơ” đã kết tóc se tơ cho Phạm Kim và Quỳnh Thư. Chỉ đến bài thơ thứ ba, thứ tư thì Phạm Kim đã cảm nhận tình cảm “bổi hổi bồi hồi” và chàng đã thề non hẹn biển với Quỳnh Thư: “Trong tình thú hồng nhan mấy kẻ, Chốn phòng hương lắm vẻ phong quang. ....................... Nguyện lòng này với lửa hương...”. (Sơ Kính Tân Trang) Và Quỳnh Thư qua nhiều lần trăn trở “Thôi nghĩ ngợi, lại toan lường” nàng đã giao hẹn với Phạm Kim: “Miễn là vàng đá lòng như một, Chớ thói trăng hoa nữa bẽ người”. (Sơ Kính Tân Trang) Lời giao hẹn của Quỳnh Thư cũng như lời nhắc nhở Phạm Kim phải nhớ lời hẹn thề để tình yêu của hai người luôn được vững bền. Đặc biệt, trong “Truyện Kiều” lời thề khá đa dạng, có nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau. Nhưng trong nhiều cảnh thề, nguyền, nguyện ước xảy ra trong “Truyện Kiều” thì có một lần duy nhất được Nguyễn Du mô tả một cách long trọng và có sự tham gia của cả hai bên. Đó là cảnh thề bồi giữa Thúy Kiều – Kim Trọng:
“Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món, dao vàng chia đôi. Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng, một lời song song Tóc tơ căn dặn tấc lòng Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” (Truyện Kiều) Kim Trọng – Thúy Kiều đã nhờ vầng trăng minh chứng cho mối tình của họ và cắt tóc làm tin, lời thề vì thế càng trở nên thiêng liêng. Trong buổi thề nguyền giữa Kim Trọng và Thúy Kiều còn có cả kỷ vật tình yêu. Dù kỷ vật đó chỉ là “chiếc thoa với bức tờ mây” rất đơn sơ, giản dị nhưng là nhân chứng cụ thể cho tình cảm của Kim – Kiều. Vì thế được hai người hết sức trân trọng khi gởi trao: “Được lời như cởi tấm lòng Giở kim thoa với khăn hồng trao tay Rằng: Trăm năm cũng từ đây Của tin gọi một chút này làm ghi Sẵn sàng khăn gấm quạt quỳ Với cành hoa ấy tức thì đổi trao”. (Truyện Kiều) Và chính kỷ vật trong lúc thề nguyền dù đơn sơ nhưng cũng có một tầm quan trọng rất lớn đối với Kiều. Vì đó là tình yêu, là hạnh phúc khi Kiều có kỷ vật tình yêu ấy bên mình. Do đó, khi chấp nhận bán mình chuộc cha và em trai, Thúy Kiều quyết định lỗi hẹn với Kim Trọng. Nàng đành trao duyên lại cho Thúy Vân nhưng vẫn còn muốn có kỷ vật thiêng liêng trong lần thề ước như giữ gìn kỷ niệm cho cuộc tình dang dở. Trao kỷ vật cho em, Kiều như khẩn thiết tỏ bày mong ước cuối cùng trước lúc ra đi: “Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung” Kim – Kiều cũng từng thề với nhau lần thứ hai, khi Kim Trọng phải chia tay Kiều về Liêu Dương chịu tang chú, dù lần này chỉ là lời thề của Thúy Kiều để Kim Trọng an lòng trước lúc lên đường: “Đã nguyền hai chữ đồng tâm Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai”.
Lời thề có một giá trị rất thiêng liêng, với những người có trách nhiệm, có tâm linh họ đều mong muốn giữ trọn lời thề. Và Thúy Kiều cũng vậy nhưng vì nàng rơi vào hoàn cảnh quá ngặt nghèo giữa bên tình và bên hiếu. Cùng với sự ảnh hưởng của Nho giáo khá mạnh mẽ nên Kiều đã tự khuyên mình “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Kiều đành chấp nhận bội ước với Kim Trọng và điều này làm nàng đau đớn đến thắt lòng. Nàng đã thổn thức, xót xa trong đêm cuối ở gia đình trước ngày xuất giá: “Thề hoa chưa ráo chén vàng Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa” Và hình ảnh của buổi thề nguyền luôn làm lòng Kiều khắc khoải, Kiều nghĩ rằng đến lúc chết nàng cũng mang theo lời thề và lời thề đó đã trở thành nỗi ám ảnh khi nàng vì chữ hiếu phải cam lòng phụ tình Kim Trọng: “Hồn còn mang nặng lời thề Xót thân bồ liễu đền nghì trúc mai”. Nhưng có thể nói lần mà Kiều đau đớn nhất, xót xa nhất khi Kiều tỉnh dậy giữa canh khuya, khi Kiều ý thức mình đã nhuốc nhơ, không còn xứng đáng với mối tình của Kim Trọng thì trước tâm trạng cô đơn, tủi nhục tột cùng ấy lời thề xưa càng làm nàng bị dày vò, đau khổ hơn nhiều: “Nhớ lời nguyện ước ba sinh, Xa xôi ai có thấu tình chăng ai”. Trong cuộc đời của Thúy Kiều, nàng chỉ thề với Kim Trọng nhưng không giữ được lời thề. Nên những lần sau, đối với những người đàn ông thề thốt với nàng thì dường như đó là lời thề đơn phương. Với Thúc Sinh: “Đã gần chi có điều xa Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều ...................... Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời”. Trong “Lục Vân Tiên”, không ai ràng buộc Nguyệt Nga, nhưng cảm phục trước tấm lòng và nghĩa khí giải nguy của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga đã thầm nguyện gắn bó đời mình với chàng. Chính tình cảm đó, dù Nguyệt Nga chỉ một lần gặp mặt Vân Tiên nhưng hình ảnh của Vân Tiên luôn ghi khắc trong lòng và nàng đã họa chân dung Vân Tiên như thật. Và cũng chính tình cảm đó, khi nàng bị cống Phiên sang nước Ô – Qua, giữa đường nàng đã trầm mình tự tử để nguyện giữ mãi tấm lòng sắt son yêu kính Vân Tiên: “Vân Tiên anh hỡi có hay? Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng
Than rồi lấy tượng vai mang, Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay”. (Lục Vân Tiên) Song song với lời thề trong tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa, lời thề đối với bạn bè cũng thể hiện một khía cạnh trong mối quan hệ giữa con người với con người. Với số lượng lời thề về bè bạn 3/79 (3,79%), chi tiết lời thề của tình bạn trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát, đây là lời thề của những người bạn tri kỷ, tâm giao. Họ nguyện sướng khổ có nhau, cùng chia hoạn nạn, cùng chung vui buồn... (Lục Vân Tiên, Thạch Sanh...). Trong truyện “Lục Vân Tiên” đó là lời thề nguyền giữa những người bạn, những người cùng chung nghĩa khí đã kết nghĩa anh em, bằng hữu thề hoạn nạn bên nhau sướng khổ cùng chia. Cũng từ tình bằng hữu, nên khi ẩn dật ở chùa và gặp lại Vân Tiên ra người tàn phế, mù lòa, Hớn Minh đã xúc động khi gặp cố tri: “Minh nghe Tiên nói động tình, Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng” (Lục Vân Tiên) Đó là những giọt nước mắt chân tình, tri kỷ của những người quân tử. Rồi Hớn Minh lo thuốc thang, chữa bệnh cho Vân Tiên đến ngày Vân Tiên hồi phục. Ân nghĩa, tình bằng hữu đó, Vân Tiên đã ghi lòng, tạc dạ. Đến khi Vân Tiên được đỗ đạt, vua lệnh cho trạng nguyên cầm quân ra quan ải dẹp giặc. Trạng nguyên nhớ đến người bạn tri kỷ, nguyện sống chết có nhau nên Vân Tiên đã tâu với vua cho Hớn Minh được “đề binh” và hai người bạn tri kỷ được cùng bên nhau lập công, cứu nước: “Trạng nguyên tâu trước bệ rồng: Xin dâng một tướng anh hùng đề binh. Có người họ Hớn tên Minh, Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi Ngày xưa mắc án trốn đi, Phải về nương náu từ bi ẩn mình Sở vương phán trước triều đình, Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về. Sắc phong phó tướng bình di Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui”. (Lục Vân Tiên)
Như vậy, lời thề được sử dụng trong mọi trường hợp chứ không nhất thiết trong tình yêu. Tình bằng hữu giữa Hớn Minh và Vân Tiên sâu nặng nghĩa tình cũng giống như tình nghĩa lúc đầu Lý Thông kết nghĩa anh em với Thạch Sanh và thề sinh tử chẳng hề phụ nhau: “Lý Thông tỏ hết gần xa: Có chàng họ Thạch còn chờ ngoài kia. Cùng con kết nghĩa trọn bề, Anh em sinh tử chẳng hề phụ nhau”. (Thạch Sanh) Nhưng tình nghĩa giữa Lý Thông và Thạch Sanh không được trọn vẹn do lòng ích kỷ, tham lam của mẹ con Lý Thông. Trong Truyện thơ Nôm, không chỉ có lời thề trong tình cảm vợ chồng, tình yêu, tình bạn mà lời thề còn diễn ra trong nhiều trường hợp khác nhau... Với số lượng những lời thề khác xuất hiện 14/79 (17,72%), những chi tiết này đem đến sự đa dạng, phong phú cho lời thề (Thoại Khanh – Châu Tuấn, Hoa Tiên, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều, Trần Minh khố chuối...). Chúng ta xúc động về tấm lòng thủy chung, tiết nghĩa của nàng dâu Thoại Khanh. Khi tên dâm thần bắt Thoại Khanh “ép uổng giao hòa” nhưng nàng kiên quyết giữ trọn đạo tào khang, tiết hạnh với Châu Tuấn. Thoại Khanh đã nguyện chấp nhận đớn đau để bảo toàn mạng sống cho mẹ chồng: “Lời nguyền thấu đến Ngọc Hoàng Cầm dao khoét mắt để bàn dưng lên” (Thoại Khanh – Châu Tuấn) Ở “Hoa Tiên”, khi nghe tin Lương Sinh chết trận, Ngọc Khanh dù chỉ mới đính ước nhưng có thể nói truyện “Hoa Tiên” có ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo rất lớn, nàng đã quyết lòng chung thủy với người chồng mới qua đính ước và chọn cách tự tử khi bị ép buộc lấy chồng khác. Đối với Ngọc Khanh, lời đính ước hai bên của cha mẹ như lời thề chung thủy của nàng đối với Lương Sinh. Đây cũng là tư tưởng “tiết, nghĩa” của nho giáo. Xem chuyện đính ước như một lời thề nên Ngọc Khanh chấp nhận đến với cái chết. Từ suy nghĩ và hành động của Ngọc Khanh đã để lại khá nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về truyện “Hoa Tiên”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng đã tổng hợp, trong đó có ý kiến của Hoài Thanh, ông cho rằng xung đột chủ yếu trong tác phẩm là xung đột giữa tình yêu tự do và lễ giáo phong kiến – một thứ xung đột nằm ngoài con người, chi phối con người bằng những nguyên tắc của nó. Và cuối cùng thì lễ giáo phong kiến đã thắng. Ông viết: “Cái điều chắc chắn là qua
những nhân vật gương mẫu, tác giả có dụng ý nêu cao một số quan điểm phong kiến về đạo đức”. Hay: “Rõ ràng truyện Hoa Tiên là tác phẩm đề cao chế độ phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến, kể cả những điều rất ngang trái trong nền đạo đức” [45, tr. 508]. Trong truyện “Nhị Độ Mai”, tất cả các nhân vật trong truyện, trừ bọn quyền gian, thì đều là những người đã nêu gương danh tiết đáng khâm phục. Từ Mai Bá Cao, Trần Đông Sơn, Phùng Lạc Thiên đến Mai Lương Ngọc, Xuân Sinh, Hỉ Đồng... đều là những nhân vật tiêu biểu. Chúng ta thật khâm phục với khí tiết của Xuân Sinh: “Sinh nghe mấy tiếng dỗ dành Đùng đùng nổi giận bất bình khêu gan Mắng rằng: Một lũ quyền gian, Nhơ mình chưa chán lại toan hại người”. (Nhị Độ Mai) Và Xuân Sinh kiên quyết vì dân diệt trừ bọn hung ác, cậy quyền thế, quyết tâm của Xuân Sinh như một lời thề: “Ta đây một tấm lòng trung, Quyết đem giải trước mặt rồng có phen Thề không dung kẻ lộng quyền, Vì dân trừ hại mới nên anh tài”. (Nhị Độ Mai) Như vậy, lời thề còn là sự quyết tâm thực hiện chân lý của cuộc đời. Trong Truyện Kiều, ngoài lời thề tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng thì cũng có những kẻ không hề yêu Thúy Kiều mà chỉ lợi dụng nàng, lừa dối nàng, họ cũng buông lời thề thốt thật nặng lời để Kiều tin tưởng. Trong số đó có Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh: “Mai sau ở chẳng như lời Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỷ thần”. Như ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng: “Còn trong suốt một cuộc đời mười lăm năm chìm nổi, bao lần Kiều yêu cầu phải thề, nhưng không hề tham dự vào những cuộc thề ấy. Đó phải chăng là dụng ý của tác giả muốn biến những kẻ thề thốt đơn phương kia thành những vai hề, từ Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Thúc Sinh – cả Thúc Sinh nữa, thật tội nghiệp...”. [45, tr. 533]. Đặc biệt là cảnh thề thốt của Bạc Hạnh thật giả dối qua quang cảnh và hình ảnh: “Một nhà dọn dẹp linh đình, Quét sân, đặt tráp, rửa bình, thắp nhang.
Bạc Sinh quì xuống vội vàng, Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công”. Cảnh thề thốt này được nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng nhận xét: “Đằng sau cái cảnh thề thốt tưởng là long trọng, linh đình được diễn ra ở giữa sân với đủ hương khói, thánh thần, và tất cả những gì cũ kỹ, bụi bặm, mốc meo được lôi ra cọ rửa, lau chùi cho bóng loáng bên ấy, là cả một sự giả dối đến trống rỗng. Nó được thể hiện một cách tinh tế qua cái dáng dấp vội vàng, hấp tấp, cốt cho xong chuyện của gã họ Bạc và cả ở lời khấn nguyện Thành hoàng, Thổ công có vẻ to tát nhưng kỳ thực chỉ là những lời đầu lưỡi, thần thánh nào cũng “vơ” vào cho xong chuyện, kiểu nói dối “quá lời” mà không giấu được một ai”. [45, tr. 534] Vì thề thốt quá dễ dàng nên tất cả bọn họ không ai thực hiện được lời thề. Cũng bởi họ không ý thức được giá trị của lời thề thì làm sao họ xem trọng lời thề thốt ấy. Họ cốt để lợi dụng Kiều và sau đó nhẫn tâm vùi dập đời nàng, có người trực tiếp và cũng có người gián tiếp thực hiện điều đó. Chính vì vậy, sau này khi báo ân, báo oán, Kiều đã lấy lời thề năm xưa để trừng phạt kẻ thâm độc, gian ác, tiểu nhân “Thề sao thì lại cứ sao gia hình”. Và Kiều đã nhân danh công lý để trừng phạt những kẻ phản bội lời thề. Đó không những là sự thể hiện niềm tin vào sự công bằng của lời thề mà còn là niềm tin vào quy luật nhân quả trong cuộc đời theo tư tưởng của Phật giáo. Lời thề rất thiêng liêng nên những người tôn trọng lời thề luôn giữ gìn, bảo vệ. Và dù có gặp trở lực khó khăn họ cũng quyết tâm vượt qua nhưng cũng có người thề cho có, cho xong. Đó là những lời thề mang tính chất giả dối nên họ cũng nhanh chóng quên lời thề hoặc phản bội lời thề. Điều này, chúng ta cũng gặp ở gia đình của Võ Thể Loan đối với Lục Vân Tiên. Khi Vân Tiên phải bỏ thi về chịu tang mẹ, bị mù lòa vì đau khổ khóc thương, lẽ ra gia đình Võ Thể Loan phải đùm bọc, giúp đỡ Vân Tiên – vượt qua nguy khốn – nhưng họ đã không làm thế. Ngược lại, Võ Thể Loan và gia đình đã bội ước và hãm hại Vân Tiên. Những người ích kỷ, gian ngoa phản bội lời thề, nguyện ước sẽ có kết quả không tốt như mẹ con Võ Thể Loan cuối cùng cũng bị cọp đem bỏ vào hang tối để trừng phạt hai kẻ bạc ác, bội thề. Còn mẹ con Lý Thông bất nghĩa nên: “Mẹ con về đến giữa đường Thiên lôi ngũ hộ đánh liền cả hai”. (Thạch Sanh) Như vậy, lời thề là một trong những nội dung, yếu tố trong tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân. Lời thề cũng là “con dao hai lưỡi”, nó sẽ gieo niềm tin để con người sống chung thủy, sắt son, xử sự trọn tình, trọn nghĩa với nhau nhưng lời thề đôi lúc con người cũng dùng lời thề để lợi dụng, lừa lọc nhau trong cuộc sống. Hiểu được giá trị của lời thề đúng nghĩa sẽ giúp chúng ta trân trọng
lời thề và giữ gìn một phong tục tốt đẹp trong tín ngưỡng dân gian nói chung và trong chính cuộc sống của chúng ta nói riêng. “Lời thề” thật sự là yếu tố tâm linh đặc biệt trong văn học trung đại nói chung và trong Truyện thơ Nôm nói riêng. 2.5. Phép lạ Với 61/1894 lần xuất hiện của phép lạ trong 30 Truyện thơ Nôm, phép lạ được xem là yếu tố “kỹ thuật” để Truyện thơ Nôm đi đến kết thúc có hậu. Chính vì thế, yếu tố tâm linh phép lạ thể hiện ước mơ lớn của nhân dân trong cuộc đời. Là khả năng của các đấng linh thiêng, của các nhà sư, đạo sĩ có thể trừ ma, diệt tà bằng phép lạ huyền bí mà con người bình thường không có được. Phép lạ có thể làm biến hình, biến dạng, biến người chết sống lại, biến người thành vật, vật thành người… Đó là những yếu tố thần kỳ mà người phàm không có khả năng thực hiện được, chỉ có những đấng linh thiêng huyền bí. Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, Phép lạ nói theo cách khái quát là “phép có thể sai khiến được những lực lượng siêu nhiên, quỷ thần, theo mê tín”. [79, tr.961]. Với ảnh hưởng của tư tưởng Đạo giáo cùng với môi trường tự nhiên có nhiều khó khăn, khắc nghiệt bởi khí hậu, thời tiết, địa hình đã hình thành trong nếp nghĩ của nhân dân tín ngưỡng dân gian. Đặc biệt với ảnh hưởng của Đạo giáo con người luôn có niềm tin ở các lực lượng thần bí, siêu nhiên... Lực lượng này có khả năng mà người trần không thể thực hiện được. Đó là những phép thuật biến hóa, những yếu tố thần kỳ có khả năng phù trợ nhanh chóng, kịp thời cho người hiền gặp nạn hoặc trừng phạt kịp thời để kẻ bất lương, bạc ác không kịp trở tay. Trong Truyện thơ Nôm, yếu tố phép lạ, yếu tố thần kỳ khá phổ biến. Yếu tố phép lạ đã tạo nên những hình tượng sinh động và ý nghĩa trong Truyện thơ Nôm. Hồn Cúc Hoa từ âm cung hiện về để thăm con trong đêm khuya rồi biến đi khi trời sắp sáng để lại cho Nghi Xuân và Tiến Lực, cả người đọc một cảm giác vừa thực vừa ảo: “Cúc Hoa trong mả, thương ôi, Nước mắt ngùi ngùi thảm thiết xót xa! Bấy giờ mới mở cửa ra, Thấy hai con lại xót xa tấm lòng!”. (Phạm Công – Cúc Hoa) Điều lạ kỳ là Cúc Hoa hiện hồn về nhưng vẫn có thể bồng con, có thể nghe con tâm sự và người mẹ càng thấy thương xót cho cảnh mồ côi của con: “Bồng con hỏi đến một giây, Cúc Hoa nước mắt rỏ ngay ra rà...”. Nàng đã thác nên nàng hiện về thăm con cũng có hai người âm phủ đi theo để giữ hồn của nàng “Bấy giờ canh đã sang ba, Đi kèm theo với Cúc Hoa hai người”. Triết lý âm – dương ở đây thể hiện rất rõ, ban ngày là dương, ban đêm là âm; ban ngày là thời gian chủ yếu
dành cho người dương thế, ban đêm là thời gian cho người đã khuất. Trong suy nghĩ của mọi người, thời gian và không gian ban ngày thuộc về người sống; thời gian, không gian ban đêm thuộc về người đã mất. Vì thế, dân gian thường nói với nhau “đi đêm có ngày gặp ma”. Chính vì vậy, khi tiếng gà gáy rộ lên báo hiệu trời sắp sáng đó cũng là lúc Cúc Hoa phải xa hai con trở lại âm cung: “Còn đang than thở cùng con, Bỗng đâu gà đã ồn ồn gáy lên: Hai con ở lại cho yên: Mẹ về âm phủ cõi tiên vậy mà!”. (Phạm Công – Cúc Hoa) Yếu tố tâm linh, chi tiết hồn hiện về dương thế của Cúc Hoa như tạo được sự yên tâm cho hai con vì có mẹ che chở trong cuộc đời côi cút của mình. Nghi Xuân, Tiến Lực như được vỗ về, an ủi trong bước đường lưu lạc, lang thang. Cũng nhờ có phép lạ, vua Diêm Vương đã tái sinh cho Phạm Công và Cúc Hoa về dương trần sum họp với hai con. Phép thuật, phép lạ là công cụ, là phương tiện cứu nhân độ thế của thần linh, huyền bí; phép lạ, phép thuật cũng sử dụng cho việc trừ gian, diệt ác như Thiên Lôi đã đánh chết Tào Thị - vợ kế của Phạm Công đã hắt hủi, bạc đãi Nghi Xuân, Tiến Lực và phụ bạc Phạm Công. Yếu tố thần kỳ, phép lạ này cũng giống sự trừng phạt của Trời đối với hai mẹ con Lý Thông ích kỷ, độc ác. Với những thế lực yêu tinh hung bạo không có phép lạ, phép thuật thần linh thì con người làm sao chống trả được. Cũng như những kẻ nhiều mưu mô, xảo quyệt thì người lương thiện, người tốt cũng khó đối đầu. Phép lạ, phép thuật của thần linh chính là mơ ước của nhân dân trong việc đấu tranh vì công lý. Người tài đức như Thạch Sanh nên luôn có phép tiên phù trợ. Nồi cơm thần, ăn rồi lại đầy là yếu tố kỳ lạ: “Nồi cơm có phép chi chăng Ăn hoài ăn hủy ba lưng lại đầy!” Và quân mười tám nước chư hầu vẫn không ăn hết nồi cơm nên cuối cùng chúng vừa khâm phục vừa đầu hàng: “Sanh rằng: Bay hãy bước vào, Ăn mà hết được thì tao thưởng tài Quân liền bước xuống ăn ngay, Lao xao một lũ ăn rày thực no. Niêu cơm cũng chẳng hết cho Bấy giờ ai cũng nhỏ to đầu hàng”.
(Thạch Sanh) Yếu tố thần kỳ, phép lạ, phép thuật thể hiện rất rõ trong truyện “Lý Công”. Nếu Lý Công và Bạch Hoa không có các thần linh giúp đỡ thì không thể nào vượt được những thử thách, gian nan. Công chúa Bạch Hoa và Lý Công được cá chép, vua Thủy Tề cùng các thần linh giúp cho việc ăn uống khi hai người bị đóng gông và trói bỏ lên bè chuối thả trôi sông. Khi bè trôi dạt sang đất Hung Nô, chàng lại bị chúa Hung Nô hãm hại nhưng chàng cũng được Ngọc Hoàng cứu thoát. Khi đỗ trạng nguyên, Lý Công đi đánh Hung Nô cũng nhờ có phép trời mà chiến thắng. Có thể nói thật lạ kỳ với một con người như Bạch Hoa, khi bị chúa Hung Nô ra lệnh cắt mũi, xẻo tai, lại chặt hết cả chân tay, rồi đuổi nàng ra chợ Thanh Dương ăn mày, vậy mà nàng vẫn sống và nếu như không có phép tiên làm sao nàng lại được lành lặn và xinh đẹp hơn xưa. Chi tiết ngôi mộ mở ra trong cảnh “sấm vang chớp giật” và Phạm Tải, Ngọc Hoa được tái sinh trở về dương thế. Chi tiết ngôi mộ mở ra là chi tiết vừa thần kỳ vừa tuyệt đẹp thể hiện mơ ước của con người về công lý. Vua Trang Vương độc ác phải bị trừng trị và Phạm Tải – Ngọc Hoa phải được hạnh phúc bên nhau. Các chi tiết phép lạ còn thể hiện khi nàng dâu Thoại Khanh lóc thịt cánh tay mình để nướng cho mẹ chồng ăn nhưng cánh tay nàng không hề chảy máu. Bởi Phật Tổ cảm kích tấm lòng hiếu thảo của nàng nên đã độ hộ cho nàng (Thoại Khanh – Châu Tuấn). Và cũng nhờ phép thiêng của Trời mà đôi mắt của Thoại Khanh được trở lại như xưa. Đặc biệt chi tiết thú vị nhất trong “Thoại Khanh – Châu Tuấn” là việc Phật tổ giao cho nàng cây đàn thần. Cây đàn thần trong tay nàng Thoại Khanh mù lòa chính là vật để nàng có điều kiện gặp lại Châu Tuấn và kết thúc chặng đường đầy khổ ải của mình. Hay trong các lần thi may áo, làm bánh của Cúc Hoa và công chúa Bạch Hoa đều có tiên xuất hiện để phù hộ cho cả hai người. Chúng ta lại thấy phép lạ, phép thuật, thần kỳ xuất hiện đến 20 lần trong truyện “Mã Phụng – Xuân Hương”. Mã Điểu con của Mã Phụng – Xuân Hương đã được tiên ông rước về Trời luyện dạy phép thuật để sau này “khôi phục quốc gia Nam trào”. Mã Điểu được tiên ông luyện phép thuật tinh thông và còn cho kính chiếu ra lửa để hộ thân: “... Chiếu lên trăm họ muôn dân phục hầu... ... Chiếu lên thời giặc khấu đầu bó tay... ... Chiếu lên lửa dậy khói bay những là... Chiếu kính phép ấy trợ nhiều, Dù xa ngàn dặm thời chiêu cũng gần. Phép này giá vũ đằng vân, Biến nhiều thành ít biến gần thành xa”.
(Mã Phụng – Xuân Hương) Và nhờ có phép thuật thần thông, sau này Mã Điểu đã giúp khôi phục đất nước: “Khai phục nước nhà Mã Điểu công cao, Danh thơm tiếng nổi như phao”. Bà Chúa Ba không có nợ duyên nơi trần thế nên dù vua cha bắt ép Chúa Ba phải lấy chồng nhưng Chúa Ba vẫn một lòng mộ đạo đi tu. Và nhờ “Tu hành đã được chín niên, Bao nhiêu phép thuật, phép Tiên vào lòng”. Nhờ có phép Phật, phép Tiên, Chúa Ba đã cứu vua cha và hai chị sau này: “Đức vua mừng vội khấn liền, Phật Bà lại hóa tự nhiên tức thời, Hai tay hai mắt vẹn người, Hai thân, hai chị, đều vui vẻ lòng”. (Bà Chúa Ba) Yếu tố tâm linh phép lạ, phép thuật rất sinh động trong “Truyện Chàng Chuối”. Lấy từ cốt truyện truyền thuyết “Sơn Tinh – Thủy Tinh”, Thủy Tinh mang lễ vật đến sau không cưới được Mị Nương nên đùng đùng nổi giận dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhờ có phép thuật nên Sơn Tinh đã làm cho nước rút cạn và chiến thắng Thủy Tinh. “Mở con sách ước thần thông Tự nhiên nước bỗng cạn không bốn bề Mã la ba tiếng chỉnh ghê! Thủy Tinh phút đã rút về nơi đâu” (Truyện Chàng Chuối) “Truyện Chàng Chuối” khá hấp dẫn vì yếu tố thần kỳ, phép lạ không chỉ dừng lại ở việc Sơn Tinh và Thủy Tinh đánh nhau mà câu chuyện còn tiếp nối với hàng loạt yếu tố phép lạ thần kỳ. Sau khi Thủy Tinh thua cuộc, trên đường về, tình cờ Thủy Tinh gặp một cô gái đẹp tuyệt trần, Thủy Tinh liền lấy nàng làm vợ. Sau đó, chàng xuống Thủy cung, còn cô gái ở trên dương thế sinh ra một con cá Chuối. Điều kỳ lạ là cá Chuối thường biến thành người để chuyện trò với mẹ. Đến khi, ba cô con gái của viên quan họ Lý đến xem Chuối, kể từ đó Chuối đâm ra “đêm ngày mơ tưởng hồn ma”. Và Chuối bảo mẹ đến hỏi con gái viên quan họ Lý cho chàng. Vì thương con, mẹ Chuối cũng đành phải liều theo ý chàng. Các cô chị cả, chị hai đều tỏ ý dè bỉu Chuối chỉ có cô út là bằng lòng. Nhưng để có sính lễ cưới con gái viên quan họ Lý, chàng Chuối đã xuống âm cung tìm cha để giải bày nguyện ước, chàng Chuối được cha giúp đỡ và thật là lạ kỳ: “Thần thông phép Chuối ghê thay! Mang cầm quả bí một tay xách về. Mở xem thấy các đồ lề,
Chứa chan tiền bạc khê lê ngọc ngà Trâu bò đến cả vịt gà, Chật sân võng giá đầy nhà quan quân”. (Truyện Chàng Chuối) Phép lạ ở đây chỉ trong một quả bí chàng Chuối xách trên tay mà trong đó chứa đầy đủ cả lễ vật, tiền bạc kể cả trâu bò. Đây là mơ ước của nhân dân về hạnh phúc lứa đôi. Nếu không có phép lạ thì làm sao chàng Chuối có sính lễ để cưới nàng Lý Dung làm vợ. Cảnh quả bí thần kỳ của chàng Chuối tự nhiên phá ra đã làm kinh ngạc mọi người. Đây là cảnh vui vẻ tưng bừng của ngày hội, ngày vui của chàng Chuối cưới vợ: “Tự nhiên quả bí phá ra, Người thì vô số của đà vô man Cơ nào ngũ ấy quân quan, Trân Châu, bảo ngọc ngổn ngang chật đường. Trước thì của cải hai hàng, Sau thì chàng Chuối mấy nàng từ thân. Kế sau các họ xa gần, Cái giai đua sắc áo quần như hoa”. (Truyện Chàng Chuối) Hạnh phúc đã đến với chàng Chuối và nàng Lý Dung. Từ đó, chàng Chuối trút bỏ lốt cá, hiện nguyên hình là một chàng trai tuấn tú... Chẳng bao lâu, tin đồn đến tai vua. Khi đã rõ chuyện, nhà vua liền phong cho chàng chức Đại tướng. Thế rồi, chàng vâng lệnh triều đình đi trấn giữ ải Bắc. Trên đường trở lại nhà, chàng Chuối gặp vợ ở miếu đường nên mới biết hết mọi chuyện. Vì do ghen ghét, hai người chị Lý Dung đã đẩy nàng xuống sông. Nhưng biết nàng là vợ chàng Chuối, nên vua Thủy Tề đã cho nàng cải từ hoàn sinh: “Bây giờ cải tử hoàn sinh, Nàng liền bái tạ điện đình quỳ tâu”. Nghe xong chuyện, chàng Chuối liền cho Lý Dung vào hòm kín, rồi mang đến nhà bố vợ để làm quà tặng hai chị. Hai chị thấy chàng Chuối, giả bộ thương xót cô em gái đã lìa đời nhưng đến khi Chuối mở hòm ra thì hai chị bị vạch mặt. Cuối cùng, vua Thủy Tề cho gọi chàng Chuối về phong làm Thái Tử, vợ chàng làm cung phi. Còn hai người chị độc ác của Lý Dung đã bị Thượng đế sai Thiên Lôi trừng trị: “Lại thêm Thượng đế ra hình, Sai Thiên Lôi đả tan tành thịt xương”.
Yếu tố phép lạ đã xuyên suốt từ đầu truyện cho đến lúc kết thúc, thể hiện ước mơ của con người về hạnh phúc lứa đôi và luật nhân quả trừng trị những người bạc ác. Phép lạ còn mang tính chất dẫn truyện, tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo của Truyện thơ Nôm. Yếu tố thần kỳ, phép lạ còn thể hiện khá cụ thể trong “Chuyện cái Tấm – cái Cám”. Tấm đã được Phật giúp đỡ và hóa thân rất nhiều lần. Đặc biệt là lần hóa thân cuối cùng từ quả thị trở thành cô gái xinh đẹp: “Bà vừa ra khỏi một giây, Tấm liền trút lốt ra ngay cửa buồng Dung nhan chẳng khác ngày thường Phong tư nết cũ đoan trang dâu nhà”. Và cuối cùng Tấm đã được gặp lại nhà vua và được hưởng cuộc đời hạnh phúc. Yếu tố thần kỳ, phép lạ không chỉ phổ biến trong Truyện thơ Nôm bình dân mà còn có trong Truyện thơ Nôm bác học. Phép lạ trong Truyện thơ Nôm bác học là phép lạ của trời phật thần tiên cứu nhân độ thế... Trong “Lục Vân Tiên”, khi Vân Tiên bị hoạn nạn mù lòa, Tiểu Đồng luôn trung thành, yêu kính chủ bất chấp mọi khó khăn tìm Thầy chạy chữa cho cậu chủ Vân Tiên: “Đồng đi một buổi tới nhà... Đồng rằng: Nghe tiếng thầy đây, Trừ ma yếm quỷ phép thần rất hay Phép rằng: Ấn đã cao tay, Lại thêm phù chú xưa nay ai bì”. Đây là cách trị bệnh theo kiểu yếm quỷ, trừ ma, phù chú. Nhưng trong truyện “Lục Vân Tiên” trong tín ngưỡng của nhân dân còn có loại thuốc thần tiên để trị bệnh như trong giấc mơ của Vân Tiên: “Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra”. Yếu tố thần kỳ trong “Truyện Kiều” được thể hiện qua sự linh ứng của Đạm Tiên sau khi Thúy Kiều thắp hương cho nàng thì “Ào ào đổ lộc rung cây, ở trong dường có hương bay ít nhiều”. Và qua ba lần Đạm Tiên về báo mộng là những lần đều có yếu tố thần kỳ linh ứng làm cho Kiều càng bị ám ảnh nhiều hơn. Với yếu tố phép lạ, thần kỳ dù thật sự bay bổng lạ kỳ nhưng thể hiện được tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân và niềm mơ ước về đấng thần linh có quyền năng, phép thuật để giúp con người bảo vệ công lý, trừ kẻ gian ác để bảo vệ người hiền hậu, thẳng ngay, yếu thế... phép lạ là một khía cạnh của tâm linh rất phổ biến ở nông thôn và cư dân miền rừng núi của Việt Nam.
Như vậy, phép lạ cũng là yếu tố tâm linh góp phần tạo thêm sự phong phú của thế giới tâm linh. Trong Truyện thơ Nôm, phép lạ có thể xem là yếu tố thần kỳ, bí ẩn mà chúng ta chưa giải thích được. Nhưng yếu tố tâm linh phép lạ vẫn tồn tại trong suy nghĩ và niềm tin của một bộ phận người trong xã hội. Phép lạ là yếu tố tâm linh thể hiện trí tưởng tượng phong phú của nhân dân về những ước mơ có những đấng thần linh phù trợ để con người có thể thực hiện công lý, bảo vệ sự công bằng và đem đến những điều tốt đẹp hơn cho cuộc sống... 2.6. Chiêm bao, mộng mị Chiêm bao, mộng mị là một khía cạnh trong tâm linh tín ngưỡng con người. Với 46/1894 lần xuất hiện trong tổng các yếu tố tâm linh của 30 Truyện thơ Nôm khảo sát. Chiêm bao, mộng mị là hình thức liên thông của con người với thế giới linh thiêng. Qua 5 yếu tố tâm linh đã khảo sát trong các Truyện thơ Nôm ở các phần trên thì “chiêm bao, mộng mị” cũng là nội dung rất đặc biệt của tâm linh. Bởi “chiêm bao, mộng mị” là hình thức khá phổ biến để người sống giao tiếp, gặp gỡ với người đã khuất, là hình thức liên thông giữa con người với thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên, là hình thức thể hiện sự đặc biệt quan tâm, chú ý của con người đến một con người, một sự việc nào đó mà khi thức người ta hay nghĩ đến. Theo tài liệu của Diêu Vi Quân mộng là “hiện tượng thấy người hay sự việc hiện ra như thật trong giấc ngủ” [80, tr. 642]. Theo từ điển Tiếng Việt, Chiêm bao là “thấy những chuyện thường ngày vẫn nghĩ tới, hoặc sự việc không có thực xảy ra trong giấc ngủ” [79, tr. 204]. Còn mộng mị là “nói một cách khái quát là chiêm bao” [79, tr. 793]. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhàn, “Dưới góc nhìn hẹp, quy chiếu câu chuyện chiêm mộng như một mô – tip trong sáng tác văn chương, như thao tác “kỹ thuật” của người cầm bút và phần nào cắt nghĩa từ phía văn hóa, chúng tôi thấy đó là bộ phận gắn liền với đời sống tâm linh của con người xưa nay” (theo yếu tố chiêm mộng trong Truyện thơ Nôm). Yếu tố chiêm bao, mộng mị đã đưa người đọc vào thế giới huyền hoặc, thần bí của con người. Yếu tố chiêm bao, mộng mị giúp con người liên thông với thế giới thần linh và thế giới ngoài thế giới thực mà con người đang sống. Cũng có nhiều quan điểm về chiêm bao, mộng mị, theo thuyết duy linh “mộng là một dự giác, một bí quyết răn dạy của thần linh” như vậy qua giấc mộng có thể thần linh sẽ linh ứng báo trước một điều gì đó sắp xảy ra. Những điều tốt đẹp qua dự báo sẽ giúp cho con người có thêm hy vọng, niềm vui gọi là mộng lành; những điều xấu, những điều nguy khốn sẽ gây cho con người sự lo lắng, bất an và có khi ám ảnh gọi là hung mộng. Trong truyện “Hoàng Trừu”, đức vua Nam Việt cai trị đất nước đem lại “trường trị thái hòa”, nhân dân được no ấm, yên vui. Nhưng “Đức vua cây ngọc quả châu muộn mằn” nên vua và
hoàng hậu rất buồn. Sau đó, hoàng hậu nằm mơ thấy sao sa rồi sau đó mang thai. Thánh hoàng vui mừng khi có được một cô công chúa: “Đền Nghiên rủ áo thong dong, Một bà Hoàng hậu mơ màng giấc hoa. Chiêm bao thấy vị sao sa, Hai tay hứng được thật là chẳng sai Chúa đương mê mệt giấc mai, Đêm nghe văng vẳng bên tai canh chầy. Những là phách tỉnh hồn mai, Tắt chừng thủy nguyệt, mới hay nhâm thần Thánh hoàng mừng rỡ muôn phần, Bấm tay đã thấy đến tuần ngày sinh”. (Hoàng Trừu) Như vậy, giấc mộng thấy vì sao sa và hoàng hậu hứng được vì sao đó là điềm lành, mộng lành. Cô công chúa mà hoàng hậu sinh muộn như một sự ban thưởng của trời cao cho Thánh hoàng – người đã có công “trường trị thái hòa” cho đất nước, một vị vua đức độ, nhân từ. Và cô công chúa ra đời đã mang dáng vẻ xinh đẹp, thần tiên: “Động đào vườn hé cửa thành Thần tiên trước đã hiện hình ra mau. Nhìn xem ngọc báu vàng châu, Mười phân tươi tốt quản đâu công trình (Hoàng Trừu) Có hai dạng giấc mộng, một là dạng mộng ước, mộng tưởng. Giấc mộng này thường xuất hiện khi người ta thường nghĩ về một điều gì đó, một người nào đó quá nhiều thì ban đêm dễ nằm mộng. Điều này, chúng ta có thể thấy ở nàng Ngọc Hoa (Phạm Tải – Ngọc Hoa), nàng thương cảm cho hoàn cảnh của Phạm Tải – một hàn sĩ nhỡ thời phải ăn xin để đi học, không những Ngọc Hoa giúp đỡ cho Phạm Tải mà lúc nào cũng nghĩ đến chàng nên Ngọc Hoa đã từng gặp chàng trong giấc ngủ: “Thương vì quân tử bơ vơ, Nhớ vì quân tử sơ cơ nhỡ thời! Có đêm giấc quế hồn mai Thấy chàng quân tử xa chơi động đào Càng trông càng lắm chiêm bao, Rõ ràng quân tử đã vào phòng hương”.
(Phạm Tải – Ngọc Hoa) Giấc mộng của nàng Ngọc Hoa nhớ thương Phạm Tải cũng như giấc chiêm bao, mơ tưởng của công chúa Bạch Hoa nước Tần khi Tống Trân đã về đất Nam thành, cả hai giấc mộng này đều thể hiện tình nghĩa vợ chồng xa cách. Từ đó, chúng ta cũng thấy rõ tình cảm của Bạch Hoa dành cho Tống Trân: “Đoạn này kể chuyện nước Tần, Bạch Hoa công chúa muôn phần nhớ mong. Trạng về vừa được nửa đông, Chiêm bao mơ tưởng ở trong giường nằm Đêm ngày mơ tưởng âm thầm, Mặt phai nét ngọc, da dầm màu sương”. (Tống Trân – Cúc Hoa) Còn mộng thứ hai là giấc mộng tâm linh và người nằm mộng không hề có sự chuẩn bị, những giấc mộng như thế luôn mang một ý nghĩa nhất định nào đó. Như khi Cúc Hoa mất, Phạm Công vừa đau khổ vừa luôn thương nhớ đến Cúc Hoa, Phạm Công chưa hề nghĩ đến một bóng hình người phụ nữ nào khác ngoài người vợ yêu quí của mình thì Phạm Công lại nằm mộng: “Nỗi nàng nghĩ đến, thương ôi! Đêm khuya nàng hiện đến nơi bảo chàng: Tơ duyên đã trót nhỡ nhàng, Trăm năm ai dám phụ phàng với ai! Chẳng qua thiên số an bài Xin chàng đừng nghĩ đến hồi phân ly, Sớm tìm nơi khác kết nghì Cửa nhà an ổn, thiếp đi thỏa lòng Trước là thờ tổ nuôi con, Sau duyên loan phượng lại tròn như xưa... ... Trạng nguyên nằm mộng rõ ràng, Càng nghe nàng nói lại càng thêm đau”. (Phạm Công – Cúc Hoa) Phạm Công rất đau buồn trước lời dặn dò, báo mộng của Cúc Hoa “Nhời em dặn thế, lòng anh não nùng Anh thề có bóng trăng trong Quyết niềm ở vậy cho xong một đời!”.
Nhưng rồi Cúc Hoa lại tiếp tục hiện về báo mộng cho Phạm Công và tiếp tục khuyên chàng phải kết duyên với Tào Thị thì nàng mới an tâm “cửa nhà an ổn, thiếp đi thỏa lòng”. Rồi Cúc Hoa còn tha thiết: “Nếu anh chẳng có nghe nhời, Hóa ra phụ bạc với người cửu nguyên”. Trước tình thế đó, Phạm Công “Muốn cho chung thủy vẹn tuyền, Âm dương xin hãy thử xem thế nào? Trạng Nguyên gieo xuống ba hào, Ba lần đều được dồi dào cả ba”. Rồi đêm khuya, Cúc Hoa tiếp tục về báo mộng cho Phạm Công và hướng dẫn chàng việc chọn người kết nghĩa: “Đêm khuya nàng lại hiện ra, Bảo cho trạng biết kẻo mà còn nghi: Có người dòng dõi lễ thi Tên là Tào Thị, dong nghi dịu dàng, ........................ Hái rau ngoài nội lầm than Xin chàng ra đón kết duyên Châu Trần Trạng nguyên đo đắn xa gần Nhời nàng đã vậy, mộng thần dám sai!”. Như vậy, những lần báo mộng của Cúc Hoa rõ ràng có ý định hẳn hoi. Nàng muốn Phạm Công có người chăm sóc khi nàng không còn, nàng mong hai con Nghi Xuân, Tiến Lực khỏi cảnh cút côi, nàng ước nguyện cửa nhà có người chăm nom... Trong tín ngưỡng truyền thống, hầu như mọi người đều tin tưởng vào giấc mộng, chiêm bao kể cả các bậc vua, quan cũng vậy. Nhờ giấc mộng với các thần linh báo trước mà họ tránh nguy cho đất nước, có cách ứng phó kịp thời. Ở đây, Phạm Công dù rất thương Cúc Hoa nhưng đã tin tưởng vào giấc mộng “Nhời nàng đã vậy, mộng thần dám sai!” nên đã kết duyên với Tào Thị... Giấc mơ ở dạng thứ hai này chúng ta còn thấy rất rõ ở Thúy Kiều (Truyện Kiều) qua việc Thúy Kiều gặp Đạm Tiên trong mộng đến ba lần. Lần đầu tiên, cảm tấm lòng của Thúy Kiều trước sự bạc mệnh của mình, Đạm Tiên đã đáp lại tấm lòng của Kiều qua việc hiển linh và báo mộng cho Kiều: “Ào ào đổ lộc rung cây Ở trong dường có hương bay ít nhiều Dè chừng ngọn gió lần theo Dấu giày từng bước in rêu rành rành Mặt nhìn ai nấy đều kinh
Nàng rằng - nàng thực tinh thành chẳng xa Hữu tình ta lại gặp ta Chớ nề u hiển mới là chị em... .............. Thềm hoa khách đã trở hài Nàng còn cầm lại một hai tự tình Gió đâu sịch bức mành mành Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao”. (Truyện Kiều) Sau này, Đạm Tiên còn báo mộng cho Kiều hai lần nữa. Lần thứ hai khi Thúy Kiều rơi vào lầu xanh và toan tự tử, Đạm Tiên đã báo mộng khuyên nàng tiếp tục sống: “Số còn nặng nghiệp má đào Người dù muốn quyết, trời nào có cho Hãy xin hết kiếp liễu bồ Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”. (Truyện Kiều) Và đến lần thứ ba khi Kiều đã hoàn toàn tuyệt vọng và quyết định tìm đến cái chết sau khi Từ Hải đã mất để kết thúc quãng đời mười lăm năm lưu lạc nhưng may mắn được cứu sống, Đạm Tiên lại báo mộng cho Kiều biết “đoạn trường sổ rút tên ra”: “Mơ màng phách quế hồn mai Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa Rằng: Tôi đã có lòng chờ Mất công mười mấy năm thừa ở đây Chị sao phận mỏng đức dày Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai..., ... Còn nhiều hưởng thụ về sau Duyên xưa đầy đặn phúc xưa dồi dào”. (Truyện Kiều) Theo quan niệm của người Việt, giấc mộng là một kiểu tương thông, tâm linh báo trước những điều sắp xảy ra và không phải là không đáng tin. Dân gian tin vào giấc mộng và Kiều cũng tin, nên dù đã được khuyên rằng: “mộng ảo cứ đâu – Bỗng không mua oán chuốc sầu nghĩ sao” thì Kiều vẫn cứ: “Hiên tà gác bóng tây nghiêng Nỗi riêng, riêng chạm tấc riêng một mình”.
Và rõ ràng, cuộc đời của Thúy Kiều đã được Đạm Tiên báo mộng trước và mười lăm năm đoạn trường của Thúy Kiều là một minh chứng rất sống động. Cũng chính vì thế mà dân gian có tục giải mộng, khi nằm mộng thấy một điều gì đó người ta tin rằng mình đang được thần linh mách bảo và tìm đến những người có khả năng giải mộng để tìm câu trả lời. Giấc mơ của Lý Công như có thần linh mách bảo cho chàng biết về sự khổ đau mà vợ chàng đang gánh chịu. Và cũng nhờ giấc mơ ấy mà Lý Công đã tìm đến chợ Thanh Dương để tìm gặp vợ trong hoàn cảnh đúng như trong chiêm bao mách bảo: “Tâng bầng vừa mới sáng ngày, Trạng nguyên ra trước tỏ bày sự duyên. Nói cùng văn võ trong thuyền Đêm nay nằm thấy một điềm chiêm bao Thấy thần tướng cả hình cao, Mũ vàng, thé bạc, hồng hào tốt xinh, Bảo ta sau trước phân minh, Rằng: Vợ ta ở trú đình chốn đây. Một mình vò võ bấy nay, Mũi tay không có, khác rầy nhân gian. Tay chân cụt hết tật tàn, Mặt trăm hàng chữ xem nàng khó khăn!” (Lý Công) Và theo lời thần trong giấc mộng, Lý Công đã cùng bách quan văn võ đến chợ Thanh Dương và rước công chúa về: “Trạng nguyên xem thấy hình dong, Nói cùng hiền sĩ: Thực rằng vợ ta, Nhời thần mách bảo chẳng ngoa, Truyền quân mau chóng đem ra thuyền rồng”. (Lý Công) Trong truyện “Bà Chúa Ba”, Thổ Thần đã báo mộng cho hai người chị của Chúa Ba biết rằng nàng Chúa Ba vẫn còn sống và sẽ trở lại dương gian để độ cho hai người chị. Cũng nhờ vậy mà hai người chị của Chúa Ba đã thành tâm khấn nguyện tu hành: “Thổ thần mộng báo cho hay Rằng: Em còn sống ở rày Hương Sơn Nay mai trở lại dương gian, Trước độ Thánh hoàng, sau độ hai ngươi Chiêm bao rõ biết mọi lời, Hai người từ ấy ăn chay tu hành.
Đốt hương niệm Phật lòng thành, Khấn nguyền xin được siêu sinh âm thầm”. (Bà Chúa Ba) Mộng lành còn mang đến cho người ngay, người hiếu thảo mà gặp hoạn nạn, tai ương. Lục Vân Tiên mù lòa đã nương náu ở chùa và được Hớn Minh tận tình chăm sóc thuốc thang. Vân Tiên đã nằm mơ thấy có ông tiên giúp đỡ, đó cũng là điềm lành báo cho Vân Tiên biết hoạn nạn rồi sẽ qua thôi: “Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra”. (Lục Vân Tiên) Và chúng ta lại thấy trường hợp Nguyệt Nga quyết trầm mình tự tử để giữ trọn tấm lòng với Vân Tiên khi bị cống Phiên sang Ô – Qua. Với tấm lòng thảo ngay của nàng đã động đến Quan Âm, Quan Âm đã cứu nàng và còn cho nàng niềm hy vọng sẽ được sum họp với Vân Tiên sau này qua giấc chiêm bao: “Quan Âm thương đấng thảo ngay, Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa. Dặn rằng: Nàng hỡi Nguyệt Nga Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày. Đôi ba năm nữa gần đây, Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi. Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi, Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao”. (Lục Vân Tiên) Chiêm bao, mộng mị là một thế giới tâm linh huyền ảo nhưng tồn tại thực sự trong dân gian, trong đời sống tinh thần của con người và thể hiện khá sinh động trong Truyện thơ Nôm. Chiêm bao, mộng mị góp phần giúp cho con người giao tiếp, liên thông với thế giới linh thiêng. Đồng thời những niềm tin hy vọng từ chiêm bao, giấc mộng lành, những ám ảnh từ hung mộng sẽ như những điều nhắc nhở, khuyên răn con người trong việc điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mình trong cuộc sống... Tiểu kết: Từ 6 nội dung tâm linh được khảo sát trong đề tài, Truyện thơ Nôm thể hiện thế giới tâm linh thật sự sinh động và phong phú. Chúng ta có thể nhận thấy bên cạnh đời sống thật mà con người đang sống còn song hành, ẩn chứa đời sống tâm linh khá phổ biến và cũng khá độc đáo gắn liền với tín ngưỡng của con người. Chính đời sống tâm linh này đã giúp con người có niềm tin vào thế giới
siêu nhiên, thần bí – một thế giới có nhiều ảnh hưởng, chi phối đến đời sống tinh thần của mọi người. 1. Với 994/1894 lần xuất hiện trong tổng các hiện tượng tâm linh (52,48%), yếu tố tâm linh về tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên là hiện tượng tâm linh nổi bật nhất. Đây là yếu tố tâm linh hướng con người nhớ về cội nguồn, tổ tiên, ghi ân thế hệ ông cha đi trước và có niềm tin vào thế giới linh thiêng Trời, Phật, Thần, Tiên. Tín ngưỡng thờ cúng là cầu nối, là mối liên thông giữa con người với thế giới ngoài thế giới con người đang sống. Con người nghĩ rằng qua hình thức thờ cúng, khấn vái không những con người thể hiện niềm tin của mình vào các đấng siêu nhiên mà cũng tin rằng những đấng siêu nhiên Trời, Phật, Thần, Tiên sẽ thấu hiểu và sẽ phù hộ cho những lời khấn nguyện của họ. Những nén hương thắp lên trong mỗi nhà vào buổi tối làm cho ngôi nhà như được ấm cúng hơn. Những nén hương thắp cho người đã khuất như sự bày tỏ tình cảm của người còn sống đối với người đã rời khỏi cõi đời. Những nén hương thắp lên trong ngày giỗ chạp, thờ cúng ông bà, tổ tiên làm cho các thành viên trong gia đình luôn có sự gắn bó với nhau và nhắc nhở nhau nhớ về nguồn cội. Từ những tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong phạm vi nhỏ của gia đình, con người mở rộng ra tín ngưỡng Trời, Phật, Thần, Tiên qua các lễ hội của từng địa phương, từng vùng. Từ niềm tin có thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên con người sẽ sống tốt hơn để tích đức, để được Trời, Phật, Thần, Tiên phù trợ theo quan niệm “ở hiền gặp lành”. Chính vì vậy, tâm linh góp phần rất lớn trong việc nhắc nhở con người tu rèn đạo đức, sống có nghĩa nhân. 2. Từ 581/1894 lần xuất hiện (30,67%), yếu tố duyên kiếp, số mệnh, bói toán giúp con người điều chỉnh tâm thế của mình trước những biến cố của cuộc đời. Con người sẽ lạc quan để vượt qua những trở lực, khó khăn của cuộc sống với niềm tin vào duyên kiếp, số mệnh. Bói toán sẽ giúp con người chủ động đón nhận những sự việc tốt, xấu xảy ra trong cuộc đời. Cùng với yếu tố lời thề, con người sẽ dung hòa giữa duyên kiếp, số mệnh, bói toán với lời thề nguyền, nguyện ước để sống thủy chung, giữ gìn đạo lý trong tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa. Khi lời thề sắc son không được thực hiện thì chính yếu tố duyên kiếp, số mệnh sẽ giúp cho con người tự an ủi, giữ được sự bình tâm để suy xét, để thứ tha giúp cho cuộc đời giảm đi sự oán hận, tư thù. Yếu tố số mệnh giúp con người nhẹ bớt lòng khi lâm vào cảnh khốn đốn hay cảnh chia lìa tang tóc... Trong Truyện thơ Nôm, Thúy Kiều và Kim Trọng đã thề nguyền nhưng số mệnh đã định cho cuộc đời Kiều phải lưu lạc, tủi nhục, đắng cay nên Kiều phải đành trao duyên tình lại cho Thúy Vân và lỗi hẹn với Kim Trọng. Dù duyên kiếp, số mệnh đã vậy nhưng Kim Trọng vẫn yêu quý và trân trọng Thúy Kiều. Công chúa Nam Việt phải trải qua muôn vàn gian khó vẫn giữ niềm tin nối lại duyên nợ với Hoàng Trừu nơi xa xứ. Số mệnh của Vân Tiên sẽ được vinh qui bái tổ thì dù có bị hãm hại, bị tai nạn thì Vân Tiên cũng vượt qua tất cả. Duyên kiếp của Lý Dung và chàng Chuối, của Thôi Anh và Vương thị, của Trần Minh và con gái của Vệ - quan giúp cho con người tin tưởng vào lẽ phải của cuộc đời. Ngay cả trời cao còn động lòng để cho Viên thị trở lại trần gian chung sống với Tôn Khác. Con người có số mệnh nên dù Tấm có bị hãm hại đến đâu đi nữa thì vẫn được hạnh
phúc bên nhà vua. Mẹ con Cám và Lý Thông có tranh giành hãm hại Tấm và Thạch Sanh rồi cũng bị trừng phạt thích đáng... Nhờ có bói toán mà Cúc Hoa hết bệnh, Thúy Kiều được cứu sống khi trầm mình dưới sông Tiền Đường... 3. Yếu tố hồn ma và chiêm bao, mộng mị khá gần gũi với nhau. Với 133/1894 lần xuất hiện yếu tố hồn ma (7,02%), và 46/1894 lần xuất hiện yếu tố chiêm bao, mộng mị (2,42%), hai yếu tố tâm linh này không những thể hiện phong phú trí tưởng tượng của con người mà còn là mối liên thông của con người với thế giới vô hình, thần bí, với thần linh và linh hồn con người đã khuất. Từ chiêm bao, giấc mộng, hồn ma có thể linh ứng báo cho con người về số phận, về cuộc đời của con người sắp tới (hồn Đạm Tiên). Hồn ma có thể chia sẻ, an ủi người sống trong lúc đau buồn (hồn Cúc Hoa). Thông qua giấc mộng, hồn Cúc Hoa đã giải bày và khuyên nhủ Phạm Công gá nghĩa với Tào Thị. Hồn ma có thể làm ám ảnh con người (Đạm Tiên), nhưng cũng có linh hồn cứu rỗi chúng sinh, tù ngục và làm được điều thiện giúp đời (Bà Chúa Ba). Có thể nói, hồn ma trong Truyện thơ Nôm đa phần là linh hồn của người thân về báo mộng hoặc hồn ma tìm được sự đồng cảm sẻ chia với con người... Hồn ma trong Truyện thơ Nôm khác với hồn ma trong văn xuôi Trung đại, bởi các ma nữ trong các tác phẩm văn xuôi Trung đại thường làm cho các thư sinh bại hoại công danh sự nghiệp, lơ là chuyện học hành, thân thể xanh xao, tinh thần sút kém và có khi dẫn đến cái chết. Chiêm bao, giấc mộng trong Truyện thơ Nôm cũng phần lớn là mộng lành, là những dự báo, điềm báo tốt đẹp. Như giấc mộng nhìn thấy vì sao sa của hoàng hậu để Thánh hoàng nước Nam Việt có được cô công chúa xinh đẹp (Hoàng Trừu). Giấc mộng của Ngọc Hoa được ở bên cạnh Phạm Tải (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Chiêm bao, mộng mị của nàng Bạch Hoa vì thương nhớ Tống Trân (Tống Trân – Cúc Hoa). Chiêm bao mách bảo cho Lý Công về hoàn cảnh đáng thương của người vợ chàng (Lý Công). Chiêm bao cho hai người chị của Chúa Ba biết rằng nàng vẫn còn sống (Bà Chúa Ba). Giấc mộng của Vân Tiên về chén thuốc quý của tiên ông để được sáng mắt (Lục Vân Tiên). Còn giấc mộng trong văn xuôi Trung đại thường dự báo những điềm xấu về chết chóc, chia lìa, tang thương... với những hình ảnh về hồn ma về quấy phá, gây hại cho con người. 4. Phép lạ là một yếu tố tâm linh đặc biệt thể hiện ước mơ của con người về cuộc đời, về khát khao cuộc sống hạnh phúc và công bằng xã hội. Với 61/1894 lần xuất hiện (3,22%), yếu tố phép lạ của các đấng linh thiêng mới có khả năng cứu giúp con người vượt qua hoạn nạn, bế tắc và giúp con người trừng trị những thế lực gian ác, bạo tàn. Yếu tố phép lạ là phương tiện, là công cụ thể hiện niềm lạc quan của con người trong cuộc sống. Yếu tố tâm linh phép lạ hướng đến xây dựng hình ảnh của các nhân vật anh hùng có sức mạnh và khả năng phi thường (Thạch Sanh, Mã Điểu). Những biến hóa kỳ lạ từ các yếu tố kỳ ảo để Bạch Hoa, Thoại Khanh lành lặn như xưa, để Lý Công vượt qua nhiều thử thách, để Viên thị được trở lại trần gian... là ước mơ rất đời thường về hạnh phúc gia đình được thực hiện qua các yếu tố kỳ ảo của phép lạ. Hình ảnh mở ra của ngôi mộ (Phạm Tải – Ngọc Hoa) như mở ra một cuộc đời mới mà công lý luôn thuộc về lẽ phải. Sách ước thần thông đã giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh, quả bí phá ra với đầy đủ sính lễ (Truyện Chàng Chuối), niêu
cơm thần của Thạch Sanh đã làm cho quân giặc khâm phục, khiếp sợ (Thạch Sanh). Chính những yếu tố tâm linh về phép lạ này thể hiện những ước mơ bay bổng, lớn lao mà con người không thể thực hiện được nếu không có phép lạ thần kỳ của các đấng siêu nhiên giúp sức cho con người. Những hành xử trái đạo lý của vua Trang Vương (Phạm Tải – Ngọc Hoa), mẹ con Lý Thông, mẹ con Tấm Cám, gia đình Võ Thể Loan, hai người chị của Lý Dung... đã dẫn đến sự trừng phạt của đấng linh thiêng. Chính yếu tố này cũng minh chứng cho niềm tin và ước mơ của con người về luật nhân quả ở đời. Những yếu tố kỳ ảo, chi tiết thần kỳ của phép lạ đã góp phần tạo nên sự sinh động của Truyện thơ Nôm và cũng là những bài học giáo dục con người về đạo đức, nhân cách. Tóm lại, với những biểu hiện của thế giới tâm linh như đã trình bày, Truyện thơ Nôm đã góp phần rất lớn trong việc thể hiện đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của người Việt Nam thời Trung đại. Đó là đời sống tinh thần, tâm linh phong phú được ảnh hưởng, kế thừa từ tín ngưỡng dân gian, văn hóa dân gian. Chính đời sống tâm linh đa dạng, phong phú này đã góp phần hình thành những phong tục, truyền thống tốt đẹp trong nhân dân, đồng thời thể hiện trí tưởng tượng phong phú của nhân dân về cuộc đời cùng những quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội. Với ảnh hưởng khá lớn từ nền văn hóa dân gian của dân tộc, từ các tư tưởng của văn hóa ngoại sinh, Truyện thơ Nôm đã kế thừa, chọn lọc và phát huy những giá trị văn hóa đáng trân trọng của người Việt Nam. Bên cạnh đó, Truyện thơ Nôm không những tạo được sức hấp dẫn độc đáo của riêng mình trong nền văn học dân tộc mà còn góp phần không nhỏ trong việc thể hiện vị trí, giá trị của văn học Trung đại trong nền văn học dân tộc nói chung.
Chương 3
YẾU TỐ TÂM LINH VÀ SỨC HẤP DẪN CỦA TRUYỆN THƠ NÔM Trong quá trình khảo sát thế giới tâm linh ở 30 Truyện thơ Nôm, yếu tố tâm linh xuất hiện với số lượng 1894 hiện tượng từ 6 nội dung biểu hiện thế giới tâm linh mà đề tài chọn khảo sát. Sự xuất hiện của yếu tố tâm linh chiếm tần số khá cao trong Truyện thơ Nôm đã góp phần tạo nên ý nghĩa và hiệu quả thẩm mỹ rất đáng kể cho thể loại truyện này. Đồng thời, Truyện thơ Nôm đã thể hiện đời sống tâm linh rất phong phú của con người. Chính điều này đã góp phần đáng kể tạo nên sức hấp dẫn của Truyện thơ Nôm. 3.1. Yếu tố tâm linh phản ánh hiện thực và trí tưởng tượng phong phú của con người Người Việt của chúng ta có tín ngưỡng vô cùng phong phú. Ảnh hưởng từ triết lý âm – dương, từ điều kiện môi trường tự nhiên, xã hội bên cạnh tiếp nhận những tư tưởng tôn giáo ngoại sinh (Nho – Phật – Đạo), tất cả đã tạo nên sự phong phú, sinh động trong đời sống tinh thần của nhân dân. Bộ phận Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại cũng từ cơ sở trên đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú của con người. Trong sự phong phú và đa dạng của trí tượng tượng được thể hiện trong Truyện thơ Nôm, chúng tôi sắp xếp trí tưởng tượng của con người hướng về ba khu vực: thế giới thiên đình, thế giới âm phủ, thế giới dương gian và đặc biệt con người đã chọn linh hồn là yếu tố đặc biệt để liên thông, chi phối 3 thế giới trên. Đó cũng chính là hiện thực đời sống và hiện thực tâm linh của nhân dân lúc đương thời. 3.1.1. Thế giới thiên đình Trong trí tưởng tượng của con người, Thiên đình là thế giới của Trời, Phật, Thần, Tiên – nơi tồn tại, hiện diện của Thượng đế và các vị thần tiên. Thiên đình được xem là nơi hạnh phúc nhất. Bởi đó là nơi không có tội lỗi, không có kẻ bạc ác, gian tham... Đó là nơi thật sự bình yên của những tấm lòng từ bi, nhân ái. Đó là nơi hiện diện của những bậc thần linh luôn cứu độ chúng sinh. Đó cũng là nơi mà con người mơ ước được về khi kết thúc cuộc đời nơi trần thế. Thiên đình là nơi có Trời, Phật, Thần, Tiên ngự trị và thấu suốt mọi việc của nhân gian để có thể chi phối, điều chỉnh cuộc sống và sinh hoạt của con người. Chính vì vậy, mọi người luôn tin “Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho” và trong truyện “Mã Phụng – Xuân Hương” cũng đã đúc kết triết lý “Ở hiền rồi lại gặp lành, Người trung mắc nạn có tiên xuống phò”. Để thực hiện chức năng cứu độ chúng sinh từ lòng từ bi bác ái, nhân dân ta tưởng tượng và tin rằng Trời, Phật, Thần, Tiên có những quyền năng, những phép thuật nhiệm màu để trừ gian, diệt
ác, phù trợ những người hiền gặp nạn. Cho dù Trời, Phật, Thần, Tiên ở rất cao, rất xa nhưng thấu suốt mọi điều. Chính vì vậy, Trời Phật cứu Nguyệt Nga, Thúy Kiều khi tự tử, Trời Phật cách ngăn Viên thị và Tôn Khác rồi chính Trời Phật cảm tấm lòng chung thủy của hai người nên đã cho Viên thị trở lại trần gian hợp duyên cùng Tôn Khác (Lâm Tuyền Kỳ Ngộ)... Hay trường hợp của Thôi Anh và Vương thị, họ đã trải qua sóng gió của cuộc đời để cuối cùng được đoàn viên, hạnh phúc (Phù Dung tân truyện). Trong dân gian, con người tin tưởng Phật Trời có thể cứu vớt, giải nguy mọi trường hợp khốn đốn, trầm luân bế tắc của con người. Phật từ bi cũng đã che chở cho tình yêu của Phan Sinh và Kiều Liên không tan vỡ (Phan Trần). Nơi thiên đình không phải ai mơ ước được sống trong cảnh ấy đều được, nơi những người có lòng từ bi, luôn nghĩ đến chúng sinh, có thể đem đến những điều tốt đẹp cho con người mới được Trời Phật, Thần Tiên tin tưởng giao cho sứ mệnh cứu độ chúng sinh. Chúa Ba (Bà Chúa Ba) với lòng từ bi, mộ Phật kiên trì, vượt qua bao khổ ải, thử thách nên đã được Ngọc Hoàng phong lên ngôi Phật. Trong truyện “Mã Phụng – Xuân Hương”, Xuân Hương vốn là con Trời đầu thai xuống dân gian và đã chịu nhiều gian khổ. Sau đó, Xuân Hương được tiên ông dạy cho phép thuật để giúp đời. Khi Mã Điểu con của Mã Phụng – Xuân Hương ra đời và được lên hai tuổi thì Trời rước lên thiên đình để cho luyện phép tiên đến lúc chín tuổi thì cho trở lại dương gian giúp nước. Cũng như Thạch Sanh thường nghĩ đến người khác nhiều hơn mình, chàng là người sống có nghĩa, có nhân nên Ngọc Hoàng đã sai Lý Tĩnh xuống trần gian luyện phép tinh thông cho Thạch Sanh để sau này hy vọng Thạch Sanh làm được chuyện đại sự. Thế giới của Thiên đình có thể thấu suốt mọi sự việc của nhân gian nên Trời Phật, thần linh mới có thể kịp thời che chở cho người hiền và trừng phạt kẻ độc ác, vô luân. Nếu Trời Phật, Thần linh cứu nạn, giúp đỡ cho Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Lý Công – Công chúa, Thoại Khanh, Nguyệt Nga, Thúy Kiều... thì cũng thẳng tay trừng trị Tào Thị, mẹ con Võ Thể Loan, Trịnh Hâm, mẹ con Lý Thông cũng như những tên vua độc ác. Như vậy, thiên đình là nơi cao nhất trong suy nghĩ, trong trí tưởng tượng của nhân dân. Nơi có thể đem đến sự công bằng, công lý cho tất cả mọi nơi, mọi người. Từ suy nghĩ và trí tưởng tượng đó, con người tin “trời cao có mắt”, thiên đình sẽ bảo vệ công lý cho cuộc đời. Nếu con người có bị khổ đau, oan ức thì Trời Phật, Thần linh ở thiên đình đều biết, nếu con người độc ác, tham lam cũng có bề trên ghi tội. Và chính thiên đình có đèn trời soi xét sẽ trừng phạt kẻ có tội và đem đến hạnh phúc, bình yên cho người lương thiện. Con người tin rằng thiên đình cũng là nơi người trần gian không có tội, sống tốt sau khi chết cũng được lên để chung hưởng sự an lạc. 3.1.2. Thế giới âm phủ Trong tâm linh con người, âm phủ là nơi đối lập với thiên đình cả về không gian cũng như bản chất. Nếu con người luôn tưởng tượng trời ở rất cao và rất xa thì âm phủ rất sâu và rất tối. Âm
phủ là nơi tồn tại của những linh hồn thường mang tội lỗi, là nơi những người có tội đang bị trừng phạt. Thế giới âm phủ cũng có vua, có quan, có các thần và kể cả ma quỷ... Con người thường tưởng tượng đường lên trời, lên tiên cảnh sẽ có mây bay, gió thổi nhẹ nhàng, có hoa thơm cỏ lạ và đó là không gian thần tiên, thoát tục... Còn đường xuống âm cung thăm thẳm, tối tăm với những hình ảnh ghê rợn (Phạm Công – Cúc Hoa). Trong “Bà Chúa Ba” cảnh tù ngục, âm cung mà Chúa Ba đi qua cũng hết sức tối tăm, u ám, một không gian của cõi chết chứa nhiều tội lỗi bao trùm: “Tối tăm ngày cũng mịt mùng, Quân tù eo óc đứa trong đứa ngoài” (Bà Chúa Ba). Không những thế, thế giới âm phủ hiện ra với vô vàn hình thức trừng phạt đối với con người khi ở trần gian gây nên nhiều tội lỗi: người hiểm độc sâu cay sẽ bị đem ném vào vạc dầu sôi sùng sục; những người gian dâm bị nhấn xuống “hồ sâu những máu tanh hôi”; với những người bất nghì, bất nhân thì “... nằm trên bàn chông, chông là chông sắt, lưng hông tồi tàn”; những kẻ “... lấp giếng, ngăn sông, phá việc vợ chồng, hoại kẻ công danh” đều bị đền tội. Tất cả tội lỗi như mắng chị, chửi anh, chửi chồng, bất hiếu, bất trung, giả dối... đều bị quỷ sứ, hổ lang, rắn hổ, rắn giun trừng phạt. Truyện thơ Nôm cũng cho biết âm phủ là nơi giam cầm đối với người có tội còn những người không tội sẽ sớm được đầu thai sang kiếp khác. Ngọc Hoa (Phạm Tải – Ngọc Hoa) đã tự tử để xuống âm phủ kêu oan cho chồng và nhờ Diêm Vương trả lại công bằng cho Phạm Tải để cả hai vợ chồng đều được tái sinh (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Như vậy, âm phủ có công bằng và lẽ phải. Đối với những người sống tốt như Cúc Hoa thì khi chết đi sẽ được thư thả, an nhàn nơi chín suối. Âm phủ và thiên đình cách nhau khá xa có dương gian là giới hạn phân ranh. Nhưng thiên đình và âm phủ cũng có liên thông với nhau như việc trời lệnh cho Diêm Vương cải tử hoàn sinh cho Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa và Phật Tổ cũng lệnh cho Diêm Vương để Chúa Ba được tận tường mắt thấy, tai nghe những tù ngục bị khảo tra khi Chúa Ba đi qua mười tám cửa ngục. Trong suy nghĩ của con người nơi trần thế, phần đông con người sau khi chết thường sẽ xuống âm phủ. Nên đa phần người ta nghĩ “âm phủ là lối đi về sau cái chết, là sự kết thúc của một kiếp người”. Khi có điều buồn phiền bế tắc... nếu suy nghĩ theo hướng tiêu cực, bi quan con người cũng dễ dàng tìm đến cái chết. Nhất là những người yêu nhau tha thiết mà do hoàn cảnh phải chia ly thì người ta có khi lại chọn cách chia ly bằng cái chết và mong gặp nhau ở âm phủ để tiếp nối nợ duyên như trường hợp của Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên), Ngọc Khanh (Dao Tiên), Quỳnh Thư (Sơ Kính Tân Trang) còn Thúy Kiều thì muốn kết thúc quãng đường lưu lạc tủi nhục của mình bằng cách trốn chạy xuống âm ty... 3.1.3. Thế giới dương gian
Khi con người lìa khỏi cõi dương gian thì lúc đó linh hồn sẽ bay bổng trong không trung, linh hồn lên tận trời cao, xuống dưới âm phủ, có thể về lại dương gian thăm người thân... Linh hồn có thể phù trợ cho con người nhưng linh hồn cũng có thể hãm hại con người. Chính vì vậy, linh hồn là yêu tố tâm linh đặc biệt có thể linh ứng, liên thông ở nhiều cõi: thế giới âm phủ, thế giới trần gian và cả thế giới thiên đình... Trí tưởng tượng của con người rất phong phú, linh hồn Cúc Hoa từ thế giới âm phủ trở về dương thế để thăm con rồi lại xót xa lìa con khi trời sắp sáng. Linh hồn nàng còn về báo mộng và mong muốn Phạm Công tìm người vợ kế để trông nom hai trẻ, coi sóc cửa nhà để Phạm Công không phải duyên tình dở dang... (Phạm Công – Cúc Hoa). Đặc biệt hồn của Chúa Ba (Bà Chúa Ba) có thể đã qua tu luyện thành phật, thành tiên hay có Phật Tổ độ trì mà hồn nàng thoát ra khỏi xác ở dương trần đi qua hết mười tám tầng địa ngục, tận mắt thấy, tai nghe những cảnh tượng, tiếng kêu than của ngục tù. Chúa Ba xót xa, thành tâm cầu nguyện giải thoát cảnh tù ngục tối tăm đem lại cảnh thiên đường nơi âm phủ. Rồi hồn Chúa Ba trở lại nhập vào xác ở dương gian. Sau này, đắc đạo hồn Chúa Ba lại được lên Thiên đình. Linh hồn có sức mạnh riêng của nó, chính linh hồn đã giúp Ngọc Hoa xuống âm phủ đòi được sự công bằng cho Phạm Tải ở chốn âm ty (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Như vậy, lúc sống ở dương gian, Phạm Tải và Ngọc Hoa phải chịu uất ức trước thế lực của tên Biện Điền và Vua Trang Vương, Ngọc Hoa không đòi được sự công bằng nhưng khi chết xuống âm phủ thì linh hồn lại linh ứng và có sức mạnh đòi được sự công bằng của công lý qua việc vua Diêm Vương đã trị tội tên vua Trang Vương độc ác. Bên cạnh linh hồn về phù trợ, thăm viếng, giúp đỡ cho người thân như linh hồn của Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Bà Chúa Ba hay linh hồn về báo mộng cho biết trước cuộc đời của Thúy Kiều qua Đạm Tiên thì còn có linh hồn của Xà tinh, Trăn tinh hiện về tìm cách hãm hại Thạch Sanh qua việc tổ chức trộm vàng, bạc của triều đình rồi gieo họa cho Thạch Sanh. Như vậy, linh hồn là một yếu tố tâm linh đặc biệt trong thế giới tâm linh của Truyện thơ Nôm. Bởi linh hồn có thể tồn tại và đi qua cả ba thế giới thiên đình, dương gian và âm phủ mà con người dù có sức mạnh đến đâu vẫn không thực hiện được. Linh hồn là yếu tố tâm linh vừa là niềm tin trong tín ngưỡng của nhân dân. Như vậy, cuộc sống ở dương gian luôn bị chi phối bởi thế giới thiên đình và thế giới âm phủ. Con người tin tưởng rằng sống tốt đẹp sẽ được lên trời, sống giả dối, tàn ác sẽ bị trừng phạt. Các yếu tố tâm linh khá phong phú đã góp phần tạo nên tư tưởng rất bay bổng của con người về thế giới thiên đình, dương gian, âm phủ. Niềm tin tưởng vào sự tồn tại, hiện diện của linh hồn như gieo vào suy nghĩ, tư duy của con người một niềm tin chết vẫn chưa hết, hồn sẽ còn tồn tại trên
dương thế. Có lúc hồn phải xuống âm phủ nhưng có lúc hồn sẽ trở lại dương gian và có những linh hồn còn lên tới thiên đình, thượng giới. Niềm tin này sẽ góp phần củng cố thêm nét đẹp trong truyền thống tín ngưỡng của nhân dân đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà. Vì vậy, mỗi lần thắp hương con người không chỉ tìm cho mình một sự an tâm mà còn đem đến cho linh hồn những người thân, những người đã chết một sự ấm cúng, bớt quạnh hiu... Trí tưởng tượng phong phú của con người cũng thể hiện đời sống tâm linh phong phú của nhân dân về cuộc sống và thế giới xung quanh. Trong suy nghĩ của chúng ta cũng như theo tư duy, tín ngưỡng của mọi người. Dương gian là nơi mà con người đang tồn tại cả phần xác lẫn phần hồn. Nơi mà cuộc sống thực tại với tất cả những buồn vui, sướng khổ, những lo toan... Nơi hình thành nên những cá tính, nhân cách của con người, nơi tạo nên nhiều mối quan hệ gia đình và xã hội...
3.2. Yếu tố tâm linh và chức năng hóa giải những vấn đề xã hội Thế giới tâm linh thật phong phú và đa dạng ở 1.894 hiện tượng xuất hiện trong 30 Truyện thơ Nôm khảo sát từ 6 nội dung. Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm đã góp phần phản ánh hiện thực đời sống tâm linh, hiện thực đời sống xã hội. Đồng thời thế giới tâm linh cũng góp phần hóa giải những vấn đề xã hội liên quan đến cuộc sống con người. 3.2.1. Luật nhân quả Luật nhân quả chỉ những kẻ luôn làm điều gian ác, bạo tàn, dối trá thì không có hậu tốt đẹp còn những người sống nhân hậu, thật thà, hay làm điều tốt thì dù có gặp sóng gió, khổ đau, bất trắc xảy ra nhưng cuối cùng sẽ được đền bù, sẽ được hạnh phúc. Dân gian thường có cách nói nôm na về luật nhân quả “Gieo gì gặt nấy” hay tục ngữ Pháp có câu “Ai gieo gió thì gặt bão”. Yếu tố tâm linh thể hiện sinh động, ấn tượng về luật nhân quả và có tác dụng sâu sắc đối với con người trong cuộc đời. Trang Vương bị vua Diêm Vương cho vào vạc dầu; Tào Thị, hai người chị của nàng Lý Dung và mẹ con Lý Thông bị Ngọc Hoàng cho Thiên lôi đánh chết; mẹ con Võ Thể Loan bị cọp bắt mang đi bỏ vào hang tối; Trịnh Hâm gian ác được Lục Vân Tiên tha mạng nhưng về tới Hàn Giang thì thuyền bị chìm và “Trịnh Hâm bị cá nuốt rày”. Trong cuộc đời còn có nhiều người phải chịu oan ức, khổ đau trước những tên cường quyền độc ác. Phạm Tải phải lìa trần vì sự ác độc của Trang Vương, Ngọc Hoa, Quỳnh Thư chỉ còn cách tìm đến cái chết để chống lại sự dâm ô, cưỡng bức của Trang Vương và tên đô đốc. Trời đã thấu rõ người hiền bị bức bách nên việc Ngọc Hoàng lệnh cho Diêm Vương cải tử hoàn sinh cho Phạm Tải – Ngọc Hoa và trừng trị vua Trang Vương là theo luật nhân quả của cuộc đời. Trang Vương gian ác, dâm ô phải bị trừng trị, hạnh phúc phải được đền bù cho Phạm Tải – Ngọc Hoa. Nếu Tào Thị và mẹ
con Lý Thông vẫn còn tồn tại trên đời thì những người bị hà hiếp, oan ức sẽ còn tiếp tục khổ đau, bất công vẫn còn tồn tại và công bằng trong xã hội ở đâu?! Bởi thế, Thiên lôi đã thay trời thực hiện đạo lý ở đời. Ở truyện “Lục Vân Tiên”, gia đình của Võ Thể Loan đã không còn tình người, không những bội hôn lúc Vân Tiên lâm vào cảnh khốn cùng mà còn nhẫn tâm hãm hại cho Vân Tiên không còn đường sống. Sự trừng phạt của trời đối với mẹ con Võ Thể Loan – kẻ tham sang, bội bạc và tên Trịnh Hâm – tiếp tay cho bọn người tham lam, gian ác thật sự là bài học có giá trị đối với con người trong cuộc đời. Tất cả các hiện tượng mà các nhân vật bạc ác, gian tham, bất ngờ bị trừng phạt đã lý giải cuộc đời có luật nhân quả! Dù bản chất bạc ác, gian tham con người có thể che đậy đối với người ở thế gian nhưng với đấng Trời cao, các thế lực thần linh, huyền bí thì tất cả những tội lỗi của con người đều được ghi nhận. Trời Phật, Thần Tiên và các thế lực siêu nhiên sẽ thực hiện luật nhân quả, sẽ trừng phạt những kẻ gian ác để giá trị nhân bản, nhân văn về người tốt mãi mãi được giữ gìn. Ý chí quyết tâm bảo vệ tình nghĩa vợ chồng của Phạm Công, của Ngọc Hoa, tấm lòng thành xả thân chịu cực hình của công chúa (Lý Công), lòng nhiệt thành của Cúc Hoa đối với Tống Trân và mẹ chồng (Tống Trân – Cúc Hoa), lòng hiếu thảo của Thoại Khanh hết lòng vì mẹ chồng và chung thủy với Châu Tuấn... đã có kết quả tốt đẹp. Không phải trong cổ tích mà như trong cổ tích! Chấp nhận dấn thân trên hành trình tìm chồng nơi xa xứ, trải qua bao gian nguy, tủi nhục, đau buồn để rồi công chúa Nam Việt có được hạnh phúc trọn vẹn bên Hoàng Trừu, đó là kết quả được bù đắp cho ý chí và lòng quyết tâm. Công chúa Nam Việt phải được minh oan, phải được đón nhận tình yêu thương của hoàng tử Hoàng Trừu và Thánh hoàng phương Bắc sau tất cả những đắng cay! Cô Tấm trải qua bao gian nan vì sự ích kỷ của mẹ con Cám để cuối cùng được sống hạnh phúc với nhà vua còn mẹ con Cám phải nhận lấy kết cục bi thảm. Trần Minh (Trần Minh khố chuối) phải trải qua cảnh nghèo đói ăn mày, phải chịu khổ nhục trước cảnh khinh khi của đám học trò giàu có. Cuối cùng, Trần Minh thi đỗ trạng nguyên và được vua nhường ngôi báu. Có được điều đó, con người gởi gắm niềm tin vào trời phật, thần linh và quan niệm của nhân gian về triết lý “nhân quả” của đạo Phật. Con người có thể tự thực hiện được công lý và đòi lại sự công bằng như trường hợp của Phương Hoa đòi lại sự công bằng, minh oan cho gia đình của Cảnh Yên và tố cáo tội ác của tên Tào trung úy là do Phương Hoa có niềm tin vào luật nhân quả. Niềm tin đó đã giúp Phương Hoa có sức mạnh, có nghị lực làm được điều hết sức to tát là cải trang, đội tên Cảnh Yên để đi thi và đậu tiến sĩ để cứu gia đình chồng thoát khỏi cảnh hàn vi trong khi lánh nạn. Nếu Trời đã trừng phạt mẹ con Võ Thể Loan và Trịnh Hâm mà không tái hợp duyên tình cho Nguyệt Nga và Vân Tiên thì cũng sẽ chưa hợp với đạo nghĩa ở đời. Nên không những Nguyệt Nga sum họp với Vân Tiên mà anh chàng đốn
củi Thạch Sanh cũng sánh duyên với công chúa. Đó là kết quả tốt đẹp cho người lương thiện, thẳng ngay, sống có nghĩa tình. Dân gian thường nói trước khi đắc đạo thì con người phải vượt qua tất cả những thử thách như trường hợp của Phật Thích Ca. Và trường hợp của Chúa Ba (Bà Chúa Ba) cũng vậy. Trước khi được phong ngôi Phật, Chúa Ba đã trải qua biết bao cay đắng vì làm trái ý vua cha. Chúa Ba phải trải qua thử thách về lòng từ bi, bác ái của Phật tổ, bà Thị Kính phải ngậm ngùi chịu oan khiên từ việc có ý hại chồng, việc tà dâm rồi nhẫn nhục nuôi con Thị Mầu để sau cùng Thị Kính được đắc đạo và được tôn ngôi Phật... Triết lý về luật nhân quả không chỉ bay bổng với Truyện thơ Nôm bình dân và còn khá hiện thực trong Truyện thơ Nôm bác học. Dao Tiên và Lương Sinh đã thực hiện được lời nguyện ước sau khi trải qua bao nghịch cảnh, sóng gió của cuộc đời (Hoa Tiên). Phải chăng Nguyễn Huy Tự đã chấp cho Lương Sinh và Dao Tiên đôi cánh để vượt qua lễ giáo phong kiến nhưng đôi cánh ấy được xây dựng từ cơ sở luật nhân quả của tình yêu nồng nàn, son sắt ở hai người! Đó có phải chăng cũng là dấu hiệu của triết lý nhân quả! Triết lý này minh chứng cho trường hợp của Vân Tiên – Nguyệt Nga được sum họp. Luật nhân quả cũng được Thúy Kiều thực hiện trong lúc “báo oán, báo ân”, người tốt được Thúy Kiều ban thưởng, trả ơn còn bọn tiểu nhân độc ác thì Kiều trừng phạt theo kiểu “Thề sao thì lại cứ sao gia hình”. Cũng vì tin vào luật nhân quả, tin vào tình yêu chung thủy, sắt son nên hậu của truyện “Sơ Kính Tân Trang” là sự “tái thế tương phùng”, “tái thế hoàn hôn” giữa Thụy Châu (hậu thân của Quỳnh Thư) và Phạm Kim mà Phạm Thái đã thể hiện trong cuối tác phẩm. Như vậy, với các yếu tố thần kỳ, phép lạ, thế giới Trời, Phật, Thần, Tiên và duyên kiếp, số mệnh... đã giúp cho luật nhân quả được thể hiện một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà giàu tính giáo dục đối với con người. Trong cuộc sống, con người cũng đa dạng, đối lập nhau về tính cách, phẩm chất. Có người hiền bên cạnh kẻ ác, có người tốt đối lập với kẻ xấu, có người chính trực tương phản với kẻ gian tà nhưng người hiền, người tốt, người chính trực cuối cùng cũng được hưởng hạnh phúc, cũng được chiến thắng theo luật nhân quả. 3.2.2. Ước mơ của con người Xã hội phong kiến là xã hội với nhiều lễ giáo ràng buộc khá khắt khe với các nội dung “trung, hiếu, tiết, nghĩa”. Bên cạnh đó, bọn vua quan, các thế lực phong kiến với nhiều thủ đoạn độc ác, với những tâm địa hẹp hòi, ích kỷ nên đã tạo ra trong xã hội biết bao những bất công, oan ức. Từ hiện thực của cuộc sống đó, nhân dân đã thể hiện những ước mơ về thực hiện công lý trong cuộc đời, những mơ ước vươn tới cuộc sống hạnh phúc, tự do với những mối quan hệ nghĩa tình trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Để thực hiện công lý và những ước mơ trong cuộc sống, con người đã đặt niềm tin vào thế giới tâm linh, những tưởng tượng phong phú về thế giới tự nhiên, con
người và xã hội. Con người mơ ước một xã hội mà hạnh phúc đời thường phải được bảo vệ. Các yếu tố hồn ma, không gian âm phủ và phép thuật trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa”, “Phạm Tải – Ngọc Hoa” thể hiện một khát khao mãnh liệt về đạo nghĩa vợ chồng luôn được tồn tại. Âm dương dù có cách trở nhưng không ngăn được quyết tâm tìm vợ của Phạm Công, thế lực của tên Biện Điền, của vua Trang Vương vẫn không chia cắt nổi tình chồng vợ của Phạm Tải và Ngọc Hoa. Và dù chỉ còn có linh hồn nhưng Cúc Hoa vẫn luôn quyến luyến, xót xa cảnh hai con côi cút. Thông điệp của hình ảnh Cúc Hoa hiện hồn về là mơ ước của con người về cuộc đời sẽ không còn những cảnh cút côi, bơ vơ như hoàn cảnh của Nghi Xuân, Tiến Lực. Ý chí của Ngọc Hoa chết xuống âm cung là để cùng chồng kiện vua Trang Vương cậy quyền thế ức hiếp nhân dân thể hiện khát khao có công lý trong cuộc đời. Việc cải tử hoàn sinh cho Phạm Tải – Ngọc Hoa, Phạm Công – Cúc Hoa về lại dương gian sum họp hoặc nhờ thuốc linh đơn mà nàng Thoại Khanh sáng mắt như xưa là thể hiện mơ ước của con người mong muốn vượt qua số mệnh, vượt qua những thế lực tàn bạo của cuộc đời. Để lý giải cho đạo nghĩa vợ chồng luôn tồn tại với thời gian, Truyện thơ Nôm đã lý giải qua Cúc Hoa (Tống Trân – Cúc Hoa), nàng công chúa (Lý Công) dù họ phải chịu bao cực hình, khổ đau, tủi nhục nhưng với lòng kiên trì và sự hỗ trợ của các đấng linh thiêng cuối cùng Cúc Hoa cũng được hạnh phúc bên Tống Trân, công chúa cũng sum họp với Lý Công. Hình ảnh công chúa Nam Việt và hoàng tử Hoàng Trừu là mơ ước cho tình cảm vợ chồng sắt son, chung thủy thì dù có cách ngăn ngàn trùng cũng sẽ được tái hợp, sum vầy. Những thử thách, khó khăn càng làm cho tình cảm của họ thêm sâu sắc, vững bền. Hồn Chúa Ba đi qua địa phủ rồi về lại dương gian, lên được thiên đình là ước mơ của con người về lòng nhân ái. Người tốt, người có lòng nhân ái bao la có thể hóa giải mọi nạn kiếp ở cả dương gian lẫn âm phủ và có thể trở thành đấng linh thiêng cứu độ cho mọi người (Bà Chúa Ba). Thị Kính được tôn ngôi Phật là mơ ước của con người về những oan ức, khổ đau sẽ được giải thoát bởi lòng nhân và sự kiên trì. Tấm được hạnh phúc bên nhà vua cũng là mơ ước của những người bất hạnh mong muốn có được công bằng mà không phân biệt giàu – nghèo, hèn sang. Đặc biệt hình ảnh ngôi mộ mở ra trong cảnh sấm vang chớp giật (Phạm Tải – Ngọc Hoa), hình ảnh quả bí tự nhiên phá ra với bao nhiêu trân châu, bảo ngọc (Truyện Chàng Chuối) là ước mơ về cuộc sống hạnh phúc lứa đôi, vợ chồng Mã Điểu (Mã Phụng – Xuân Hương) và Thạch Sanh được Ngọc Hoàng cho luyện phép và sau đó Mã Điểu đã có công to trong việc khôi phục nước nhà, Thạch Sanh đánh thắng được Xà tinh, Hồ tinh cứu được công chúa. Dù cho Lý Thông có hãm hại và cướp công nhưng nhờ tiếng đàn mà Thạch Sanh đã được minh oan và được cùng công chúa nên duyên. Như vậy công lý luôn giành thắng lợi cho lẽ phải, điều tốt luôn đến với người lương thiện. Một ước mơ cháy bỏng thiết tha về tình yêu đôi lứa cũng được thể hiện khá sinh động, ấn tượng trong Truyện thơ Nôm. Phạm Kim và Quỳnh Thư (Sơ Kính Tân Trang), Kim Trọng và Thúy Kiều (Truyện Kiều) đã tự do bày tỏ tình cảm của mình và mạnh dạn thề ước với nhau thể hiện tư tưởng tự do trong tình yêu, mơ ước vượt qua quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” và họ tin
tưởng việc thề ước sẽ giúp họ mãi mãi gắn bó với nhau... Dù cả Phạm Kim và Quỳnh Thư cũng như Kim Trọng và Thúy Kiều đều không tròn nguyện ước nhưng tình yêu của họ có sức tố cáo các thế lực của xã hội phong kiến và thể hiện mơ ước về tình yêu chân chính của con người và sự gởi gắm vào niềm tin của thế giới tâm linh. Câu chuyện tình yêu của Lương Sinh và Dao Tiên thật éo le, nghịch cảnh, trải qua bao thử thách cuối cùng đã được đến với nhau. Nguyệt Nga dù không được đính ước như Võ Thể Loan nhưng với tình yêu sắt son, chung thủy của nàng đã là cơ sở tạo nên nợ duyên vợ chồng với Lục Vân Tiên. Truyện “Hoa Tiên” và “Lục Vân Tiên” là dấu hiệu cho ước mơ về tình yêu đôi lứa đã bắt đầu có kết quả. Điểm lại một số trường hợp nổi bật về tình yêu đôi lứa trong Truyện thơ Nôm, ta có thể thấy nàng công chúa Bạch Hoa con vua Bảo Vương, chẳng những chủ động yêu anh chàng Lý Công đang “ăn mày đèn sách gian truân”, mà còn táo bạo hằng ngày đưa chàng vào cung với mình đến tối mới đưa ra ngoài (Lý Công). Cúc Hoa – con gái một trưởng giả, thấy chàng Tống Trân dắt mẹ đến ăn xin thì cũng tỏ ra quyến luyến và yêu thương chàng, trước sự nổi giận của cha thì Cúc Hoa lại rất vui sướng, thỏa mãn về sự lựa chọn của mình (Tống Trân – Cúc Hoa). Và nàng Ngọc Hoa – con gái vị tướng công – nhan sắc tuyệt vời, nàng không ưng thuận những nơi quyền quý đến dạm hỏi nhưng lại thương chàng ăn mày Phạm Tải khi được biết về gia cảnh của chàng “Ngọc Hoa nghe chửa dứt lời, Tự nhiên chuyển động bời bời lòng hoa” (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Như vậy, với các nhân vật nữ trẻ, đẹp, giàu sang, tự nguyện thương những anh chàng ăn mày, nghèo khó đây chính là tư tưởng, hành vi có ý nghĩa chống lại nguyên tắc “môn đăng hộ đối” hết sức nặng nề của lễ giáo phong kiến. Đó cũng là mơ ước, sự vùng lên mạnh mẽ của người phụ nữ nhằm thoát khỏi những tư tưởng khắt khe của xã hội phong kiến đương thời. Như vậy, tình yêu tự do đã thắng lễ giáo khắc nghiệt và nếp sống tình cảm cá nhân phóng túng đã vượt ra ngoài những quy phạm chặt chẽ của đạo lý thánh hiền trong xã hội phong kiến. Đặc biệt, điều này lại xảy ra ngay trong những gia đình đại quý tộc, đại phong kiến. Điều đó chứng tỏ những giá trị đạo đức, luân lý của xã hội phong kiến đã bắt đầu rạn nứt và lung lay. Đó cũng chính là mơ ước, khát khao của nhân dân trong việc vượt qua những ràng buộc khắt khe, vô lý của xã hội phong kiến đã từng bóp nghẹt những mơ ước rất đẹp, rất đời thường của con người. Bên cạnh việc thể hiện mơ ước, khát khao giành hạnh phúc lứa đôi, đấu tranh bảo vệ tình yêu chung thủy, Truyện thơ Nôm còn thể hiện mơ ước của nhân dân về một vấn đề xã hội lớn lao hơn. Đó là ước mơ xóa bỏ bất công, bài trừ những tội ác man rợ đã chà đạp lên nguồn sống của con người, đặc biệt là chà đạp lên phẩm giá của người phụ nữ. Có thể nói, vấn đề hôn nhân tự do cùng với những đòi hỏi dân chủ trong tình yêu lứa đôi đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội phong kiến và trở thành một khát vọng có tính chất thời đại lúc bấy giờ. Bởi trong thực tế với hiện thực cuộc sống quá nhiều đau khổ do chiến tranh, ly tán, chia xa nên con người luôn có ước mơ lớn: đạt được hạnh phúc bình yên. Và chính kết cấu: hội ngộ – lưu lạc – đoàn viên là mô hình, kết cấu
thể hiện ước mơ của con người về cuộc sống. Có thể nói, yếu tố tâm linh đã tạo điều kiện để thực hiện kết cấu có hậu này. Bên cạnh những ước mơ về công lý, về việc bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của tình cảm lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, Truyện thơ Nôm còn thể hiện ước mơ về một xã hội mà ở đó con người biết quan tâm, chia sẻ, yêu thương nhau trong tình cảm của gia đình nói riêng và tinh thần nhân đạo giữa con người với con người trong xã hội nói chung. 3.3. Yếu tố tâm linh – kế thừa và tiếp nối Trong chương 1 của Luận văn, chúng tôi đã xác định yếu tố tâm linh của Truyện thơ Nôm kế thừa từ tín ngưỡng dân gian. Chương 2 của đề tài tiếp tục thể hiện yếu tố tâm linh khá phong phú trong Truyện thơ Nôm. Sự kế thừa, tồn tại, tiếp nối của các yếu tố tâm linh trong tác phẩm văn học như sự tường tồn một hình thức nghệ thuật, một “kỹ thuật” tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm văn học qua các thời kỳ. Với thế giới tâm linh phong phú trong Truyện thơ Nôm, chúng ta thấy yếu tố tâm linh đã trở thành một phương diện nghệ thuật tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn, dấu ấn riêng cho Truyện thơ Nôm. Nếu xét theo tiến trình văn học thì các yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm là sự kế thừa, phát huy của yếu tố tâm linh từ văn học dân gian. Những yếu tố kỳ ảo, thần kỳ về Trời, Phật, Thần, Tiên đã từng có trong truyện thần thoại, truyền thuyết để lý giải sự hình thành các hiện tượng của thế giới tự nhiên, trời đất và con người (Thần Trụ Trời, Nữ Oa, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Trọng Thủy – Mỵ Châu, Thánh Gióng...). Chi tiết mang thai muộn màng từ ngôi sao sa qua lời cầu nguyện để sinh ra công chúa Nam Việt (Hoàng Trừu) cũng có nét gần gũi, ly kỳ với sự mang thai kỳ lạ để sinh ra Thánh Gióng (từ việc ướm thử bàn chân lên vết chân lạ của mẹ Thánh Gióng). Các yếu tố thần kỳ ở phần đầu của “Truyện Chàng Chuối” có cơ sở từ cuộc chiến đấu giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh (Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh). Tất các các yếu tố kỳ ảo, phép thuật, yếu tố thần kỳ hóa thân của Tấm trong Truyện thơ Nôm “Chuyện cái Tấm – cái Cám” đều là những chi tiết, yếu tố có trong truyện cổ tích “Tấm Cám”... Nếu như văn học dân gian đặc biệt là truyện cổ tích luôn có hai phe đối lập giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác thì người tốt, phe thiện dù có trải qua biết bao gian nan, thử thách nhưng cuối cùng cũng được trả lại sự công bằng, được hưởng hạnh phúc đó cũng là kết thúc có hậu của truyện cổ dân gian. Chúng ta cũng bắt gặp kết thúc có hậu ở Truyện thơ Nôm theo luật nhân quả: thiện phải thắng ác, chính phải thắng tà đó là triết lý ngàn đời của dân tộc. Truyện “Phạm Công – Cúc Hoa” mà dừng lại ở trường đoạn nàng Cúc Hoa chết yểu để lại hai đứa con thì thật tội nghiệp. Còn chàng Phạm Công đã chịu cực hình chặt tay, khoét mắt, đục răng, vì tình yêu chung thủy, thế mà lại không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn với nàng Cúc Hoa thì cũng thật trái đạo lý. Vì thế, nàng Cúc Hoa phải được tái sinh để hưởng hạnh phúc lâu dài với Phạm Công, một người chồng đã vượt qua bao cực hình vì mối tình chung thủy son sắt với nàng. Điều đó không chỉ thể hiện ước nguyện của nhân
dân, mà còn thể hiện ý chí chiến đấu mãnh liệt của họ trước mọi thế lực bạo tàn của xã hội. Điều đó cũng chính là cơ sở tư tưởng của mô hình kết thúc có hậu. Kết thúc có hậu là quy luật có tính tất yếu và là đặc trưng của thể loại Truyện thơ Nôm nói chung. Ngay cả những Truyện thơ Nôm “Sơ Kính Tân Trang”, truyện “Hoa Tiên”, truyện “Lục Vân Tiên”… cũng đều tuân thủ quy luật này, nghĩa là truyện đều phải có kết thúc có hậu như kết thúc có hậu của Truyện cổ tích. Bên cạnh đó, để thực hiện mô hình kết thúc có hậu Truyện thơ Nôm bình dân thường sử dụng các yếu tố thần kỳ như trong văn học dân gian. Lý Công đi đánh Hung Nô cũng do có phép trời mà thắng giặc, cánh tay bị lóc thịt của Thoại Khanh sau đó cũng được Ngọc Hoàng cho thuốc linh đơn đắp vào, nhờ thế thịt da lại đầy đặn như xưa,… Thạch Sanh nhờ có phép lạ đã chiến thắng xà tinh giải thoát cho công chúa… Các hiểu hiện của các yếu tố thần kỳ đó ta cũng dễ thấy trong một số truyền thuyết “Thánh Gióng”, “Sơn Tinh – Thủy Tinh”. Nếu như văn học dân gian gởi gắm sự mơ ước của con người thì thế giới tâm linh về Trời, Phật, Thần, Tiên và phép thuật trong Truyện thơ Nôm thể hiện tính kế thừa văn học dân gian đậm nét và sinh động nhất. Phật đã nhiều lần giúp đỡ cho cô Tấm hiền lành vượt qua buồn khổ, ấm ức trước sự ích kỷ của mẹ con Cám. Phật đã giúp cho Tấm hóa thân nhiều lần vào chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị để cuối cùng được gặp lại nhà vua. Thị Kính trải qua nhiều oan trái nhưng vẫn làm được ba điều to lớn đó là đền đáp công ơn cha mẹ, đồng thời lại giúp đời, cứu người. Tinh thần Phật giáo đã là một ngọn hải đăng chói sáng hướng dẫn cho bà Thị Kính trong hành trình vượt qua con sông mê để vươn tới bến bờ giác ngộ để bà Thị Kính trở thành Tiểu Kính Tâm và sau đó Tiểu Kính Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm. Trời đã cho Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa được cải tử hoàn sinh và trời cũng trừng trị Tào Thị, vua Trang Vương, Trịnh Hâm, mẹ con Lý Thông để thực hiện chân lý về luật nhân quả... Phép lạ trong Truyện thơ Nôm trở thành một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc góp phần tạo nên sự thành công của nội dung, tư tưởng Truyện thơ Nôm (Thạch Sanh, Mã Phụng – Xuân Hương, Bà Chúa Ba, Truyện Chàng Chuối, Chuyện Cái Tấm – Cái Cám, Phạm Công – Cúc Hoa, Truyện Kiều,...). Phép thuật, phép lạ là những yếu tố nghệ thuật đặc trưng của thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích của văn học dân gian. Đặc biệt thế giới Trời Phật – Thần Tiên và tín ngưỡng thờ cúng biểu hiện khá nhiều trong Truyện thơ Nôm, xuất phát từ tín ngưỡng dân gian Việt Nam, các hiện tượng tâm linh như giấc mộng, điềm báo, biến hóa... Các hiện tượng về phép lạ, phép thuật, các yếu tố kỳ ảo của Truyện thơ Nôm ảnh hưởng từ Phật giáo, Đạo giáo rất gần gũi với các truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương, Tiên Dung – Mị Nương. Các mô típ đầu thai, hóa kiếp, hoàn sinh ở Truyện thơ Nôm Phạm Tải – Ngọc Hoa, Chuyện cái Tấm – cái Cám... rất gần gũi với Truyện cổ tích Dã Tràng, Trương Chi... của văn học dân gian.
Hiện tượng tâm linh về giấc mộng, điềm báo, sự biến hóa... ở Truyện thơ Nôm Phạm Công – Cúc Hoa, Truyện Kiều, Mã Phụng – Xuân Hương, Truyện Chàng Chuối, Thạch Sanh... thường gặp trong truyền thuyết Trọng Thủy – Mỵ Châu, Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh... Mắt của nàng Thoại Khanh được sáng lại (Thoại Khanh – Châu Tuấn), Bạch Hoa bị Vua Hung Nô ra lệnh cắt mũi, xẻo tai, chặt hết chân tay nhưng nhờ có phép tiên nàng được lành lặn và xinh đẹp (Lý Công). Những chi tiết này rất gần gũi với truyện cổ tích dân tộc Tày (Hai ông Trạng nhỏ). Anh chàng què đã hết tàn tật khi sợi dây rừng bật mạnh trúng khớp xương tàn tật của anh. Anh chàng què cầm dây xem thử và lấy dây xoa thử vào mắt anh mù. Anh mù ngứa mắt dụi mấy cái thì mắt đã nhìn thấy mọi vật. Hai em học trò thông minh cũng nhờ sợi dây thừng ấy mà được hoàn sinh, thoát chết. Anh mù và anh què đã biết sợi dây rừng là thuốc quý, hai người đã lấy nhựa cây xoa khắp xác hai em học trò và hai em đã sống lại. Linh hồn, chiêm bao, sự hóa kiếp, đầu thai và luật nhân quả của Truyện thơ Nôm đã có trong truyện cổ tích dân tộc Việt (Kéo cày giả nợ). Truyện cổ tích “Kéo cày giả nợ” có khá nhiều yếu tố tâm linh về linh hồn, chiêm bao, hóa kiếp, luật nhân quả và cả việc ảnh hưởng của triết lý âm – dương trong tín ngưỡng dân gian. Tất cả các yếu tố này được thể hiện sinh động trong Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại. Hàng loạt Truyện thơ Nôm chứa yếu tố tâm linh tương đồng với truyện cổ dân gian. “Truyện Chàng Chuối” với chi tiết đội lốt cá chuối, chi tiết thần kỳ có đầy đủ sính lễ để cưới nàng Lý Dung. Sau đó, chàng Chuối trút lốt cá chuối trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú để sống hạnh phúc với Lý Dung. Lý Dung bị hai người chị hãm hại nhưng sau cùng cũng được đoàn tụ với chàng Chuối. Tất cả chi tiết này trong Truyện thơ Nôm “Truyện Chàng Chuối” đã kế thừa, tương đồng với các chi tiết đội lốt dê, nhờ yếu tố thần kỳ chàng Dê có đủ sính lễ cưới cô con gái thứ ba của phú ông. Rồi chàng Dê cũng trút lốt dê thành người, vợ chàng cũng bị hai người chị hãm hại (truyện cổ tích Lấy chồng Dê), cũng như truyện cổ tích “Lấy vợ Cóc”, các chi tiết đội lốt cóc, trút lốt cóc biến thành người tuyệt đẹp của nàng Cóc. Linh hồn chàng Trương Chi ẩn trong cây bạch đàn, trong khối ngọc, trong bộ chén nhỏ để tiếp tục hát cho Mị Nương nghe và mong Mị Nương hiểu được chàng (truyện cổ tích Ngày xưa có anh Trương Chi). Những chi tiết này gần với các chi tiết hóa thân của Tấm trong Truyện thơ Nôm “Chuyện cái Tấm – cái Cám”. Các chi tiết thần kỳ, phép tiên giúp đỡ Tấm trong Truyện thơ Nôm “Chuyện cái Tấm – cái Cám” cũng xuất phát từ truyện cổ tích “Lấy vợ Cóc”. Nàng Cóc nhờ có phép tiên mà có những món ăn ngon, có quần áo đẹp để chồng dâng lên cho thầy và làm đám học trò phải sững sờ, ngạc nhiên quá đỗi... Những câu chuyện chứa yếu tố linh hồn trong Truyện thơ Nôm cũng có từ truyện cổ dân gian “Sinh con rồi mới sinh ra”. Các yếu tố tâm linh về thần tiên trong Truyện thơ Nôm cũng có từ truyện cổ tích “Tiên thử lòng người”, “Lấy
vợ Cóc”, “Truyện Từ Thức lên cõi tiên”, “Vương Chất gặp tiên”... Các yếu tố tâm linh về số mệnh của Truyện thơ Nôm đã có từ truyện cổ tích “Truyện Tô Hiến Thành và thần linh”... Nhìn chung, Truyện thơ Nôm mang dấu ấn rất đậm của văn học và tín ngưỡng dân gian. Điều này minh chứng cho sự ảnh hưởng rất lớn của văn học dân gian đối với văn học viết. Tìm hiểu thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm là tìm hiểu sự kế thừa, tiếp nối đáng trân trọng của những sáng tác văn học viết từ văn học dân gian. Bên cạnh đó, cùng với Truyện thơ Nôm, văn xuôi Trung đại cũng là một thể loại thể hiện yếu tố tâm linh khá đa dạng. Chiêm bao, mộng mị được thể hiện qua sự linh ứng của rất nhiều vị thần trong “Việt điện u linh” và “Lĩnh Nam chích quái”, lời hẹn của ông già trong mộng với Tú Uyên do chàng quá nhớ thương nàng tiên đã gặp (Bích Câu Kỳ Ngộ - Truyền kỳ tân phả). Giấc mộng của Tử Văn thấy thần đòi lại đền đã bị đốt (Tản Viên từ phán sự lục – Truyền kỳ mạn lục). Yếu tố hồn ma được ẩn hiện trong chiêm bao, mộng ảo. Những mối tình vừa thực vừa mộng đan xen đã tạo nên một thế giới tình yêu đầy mộng ảo, ly kỳ. Mối tình giữa Từ Thức và Giáng Hương (Từ Thức tiên hôn lục) giữa Tú Uyên và Giáng Kiều (Bích Câu Kỳ Ngộ)... Các yếu tố về phép thuật, phép lạ tạo cho truyện thêm hấp dẫn trong truyện “Đế Thích Ký”, “Truyện Trương Ba” hay những phép biến ảo muôn hình (Hồ tinh, Mộng tinh, Ngư tinh, Kim qui truyện...). Yếu tố bói toán trong truyện “Nguyễn Công Hãn” (Tang thương ngẫu lục), vị thầy tu phán số (Đào Thị Nghiệp oan ký) hay tướng giặc Hoàng Phúc đoán mả nhà Nguyễn Trãi có vận tru di (Lê Công Trãi)... Trong “Bài ký một giấc mộng” và “Tinh chuột” của Lê Thánh Tông chứa nhiều yếu tố hồn ma và phép thuật biến hóa. Cây chổi đã thành yêu hàng đêm chung sống với anh học trò (Bài ký một giấc mộng). Con chuột thành tinh biến thành anh học trò để ân ái với người vợ trẻ mỗi đêm trong khi người chồng trọ học ở nơi xa. Chuột thành tinh phải hóa thân trở lại chuột khi có kiếm khí trừ ma. Chuyện Hà Nhân kết bạn, thân thiết với hồn hoa. Những cây đào, cây liễu, Kim tiền, Thạch lựu ở ngôi nhà hoang đã biến thành người để mỗi đêm đến kết thân, âu yếm với Hà Nhân trong “Truyện Kỳ Ngộ ở trại Tây” (Nguyễn Dữ). Chuyện hồn ma của Nhị Khanh và Trung Ngộ nương tựa vào cây gạo và làm yêu làm quái, quấy phá dân lành. Nhờ có công đức lớn lao, vị đạo nhân đã trừ được hồn ma, đem lại yên bình cho cuộc sống của người dân trong “Truyện cây gạo” (Nguyễn Dữ). Với truyện “Chuột đậy mặt biết điềm lành dữ” (Vũ Phương Đề) cho rằng con người sống, chết đều có số do trời và thần linh định sẵn. Như bác nông phu và một người khác bị vị thần xã lệnh làng biên tên vào sổ nộp lính thì ít lâu sau đều qua đời trong truyện “Người nông phu ở An Mô” (Phạm Đình Hổ). Với tác giả Vũ Trinh, hàng loạt yếu tố tâm linh thể hiện trong sáng tác. Trong “Đẻ lạ”, hồn người đàn bà cứ hiện về mua bánh để mớm cho con vì thiếu sữa. Với “Quan thượng họ Đỗ”, hồn ma ở cây đa đã tiết lộ cho Mỗ biết: “Ông ba mươi tư tuổi thì đỗ, thi Đình đỗ thứ hai, làm quan đến bậc cao nhất” [72, tr.
78]. Sau này, cuộc đời của ông đúng như vậy. Câu chuyện ngoài yếu tố hồn ma còn thể hiện con người đều có số mệnh. Truyện “Tháp báo ân”, cậu Cử đi thi dù bài văn có nhiều sai sót nhưng lại được đậu là do Quan Chủ Khảo đã hứa với hồn người chết xin cho chồng được đậu. Với tác giả Phạm Đình Dục, những điều nằm mộng là những điều sẽ xảy ra thật. Ất nằm mộng thấy lính lệnh đến làng bắt phu và trong tờ trát có tên Ất ở cuối danh sách cùng bảy người khác. Quả nhiên, tất cả những người có tên trong tờ trát mà Ất nhìn thấy đều lần lượt qua đời và cuối cùng Ất cũng vậy. Do đó, con người cũng tin vào mệnh số đã được định sẵn. Biết được mình sắp chết mà gia cảnh lại quá khó khăn, Ất đã nghĩ ra cách nói là anh nhà giàu có tên trong tờ trát và không nói cho mọi người biết là có tên mình. Để Ất nhận chết thay anh nhà giàu và yêu cầu anh nhà giàu làm “khoán ước chết thuê”. Vậy là Ất phần nào yên tâm nhắm mắt vì sau khi Ất mất, “khoán ước chết thuê” sẽ được anh nhà giàu thực hiện. Gia đình Ất có một số của cải để làm ăn sinh sống. Chúng ta lại gặp hiện tượng cá trắm hóa thân thành người đàn bà có thai mặc áo đen báo mộng với cụ Vược (Cá trắm giàn dưa – Phạm Đình Dục). Thế giới tâm linh không dừng lại ở văn học Trung đại mà tiếp tục được kế thừa trong văn học ở những giai đoạn tiếp theo của văn học hiện đại. Đó là nền văn học có nhiều cách tân đổi mới do ảnh hưởng của văn học phương Tây lại vừa có yếu tố bay bổng, gần gũi với văn học truyền thống, dân gian và Trung đại qua những yếu tố kỳ ảo, tâm linh. Văn học giai đoạn 1930 – 1945, với những sáng tác của Nhất Linh, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Thanh Tịnh, Tchya – Đái Đức Tuấn, Bùi Hiển, Đỗ Huy Nhiệm... những sáng tác văn học giai đoạn này đã sử dụng những yếu tố tâm linh, những yếu tố kỳ ảo hướng đến sự diễn đạt mới, cách tư duy văn học đầy sáng tạo để tạo nên sức hấp dẫn cho văn học trong thời kỳ đổi mới. Với sáng tác của Thế Lữ, hình ảnh linh hồn bao trùm không gian đầy mộng ảo trong truyện “Ma xuống thang gác”. Ở “Lan rừng” và “Bóng người trong sương mù” của Nhất Linh, chất kỳ ảo đã đưa người đọc đến một thế giới hư hư, thực thực rất lạ kỳ. Truyện “Lan rừng” đưa nhân vật đến những nơi hoàn toàn xa lạ, đến với những tình huống thật ly kỳ, đầy ám ảnh: “Chàng cúi xuống giơ hai tay múc nước để rửa mặt cho tỉnh. Nước suối lạnh làm chàng rùng cả mình mẩy. Bỗng chàng thấy – rõ ràng chàng thấy – bên cạnh bóng chàng in xuống đáy nước có một bóng người khác nữa, mặt một người con gái Thổ chàng trong phảng phất giống như Sao. Chàng rợn người, đứng thẳng lên, nhìn quay lại thì không có ai cả. Chỉ có con ngựa của chàng đứng sau đang rứt cỏ ăn. Lúc ngửng lên, chàng thấy ở trên đầu có một bông lan, hoa trắng nuột, cành điểm hai chấm đen... bông lan rừng” [72, tr.209]. Không gian ma quái, mơ màng được hiện lên trong “Bóng người trong sương mù”. Người vợ anh lái tàu đã hiện hồn qua con bướm để giúp anh lái tàu và mọi người thoát nạn: “Tôi không tin
nhảm, tôi chắc đó là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy” [72, tr. 200]. Người đọc luôn khắc khoải và ám ảnh về người cu – ly xe mù lòa, đau khổ trong “Am cu – ly xe” (Thanh Tịnh). Sau khi chết, hình ảnh người cu – ly xe hàng đêm cứ hiện về làm lòng người thổn thức trước nỗi đau về cuộc đời đầy đau khổ của người tật nguyền, nghèo khó: “Về sau đêm nào cũng như đêm nào, vào khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc...” [72, tr. 215]. Càng ám ảnh hơn khi “Làng” (Thanh Tịnh) đã đưa nhân vật vào giấc mơ thuyền làng... Dù “Trận bão dữ dội ngày mồng hai tháng tám năm Thìn, thuyền và dân làng đã chìm và chết hết” [72, tr. 219]. Nhân vật tôi vẫn nhìn thấy: “Lẩn trong sương mù mấy chiếc thuyền Làng đều lên đèn lần lượt. Ngọn đèn xao động trong hơi mờ và xanh nhạt. Thuyền Làng trôi từ từ nên ánh đèn cứ thay đổi chỗ mãi...” [72, tr. 218]. Nhưng sáng dậy, “Sương đã tan và mặt nước tươi xanh như mới nhuộm. Tôi giụi mắt nhìn lại mặt phá thì không thấy thuyền Làng đâu cả. Chưa biết duyên cớ gì tôi đã sợ lạnh cả người” [72, tr. 219]. Không gian hồn ma, bí ẩn với nhiều yếu tố kỳ quái hiện ra rất đậm đặc trong “Ma đưa” (Nam Cao), không gian đầy ghê sợ trong đêm tối mịt mù, trong chốn hang sâu ở “Một truyện không nên đọc vào lúc giao thừa” (Nguyễn Tuân), “Chiều sương” (Bùi Hiển). Với “Ai hát giữa rừng khuya” (Tchya – Đái Đức Tuấn), hình ảnh ma không đầu, ma hiện hồn hát giữa đêm khuya như thở than cho số phận... Và càng kỳ quái hơn với hình ảnh “Lại có lần vừa buổi chiều, mới trèo lên cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một cẳng chân, chỗ khác lại cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác nữa thì cái thây người. Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở rõ to, há mồm cười nhe răng trắng nhơn nhởn” [72, tr. 354]. Hình ảnh ma Mường trong “Tết trên Mường” (Đỗ Huy Nhiệm), ma đánh tổ tôm “Chú Khì – người đánh tổ tôm vô hình” (Nam Cao). Nhưng có thể nói hình ảnh ma hổ báo oán là ghê sợ nhất trong “Thần Hổ” (Tchya – Đái Đức Tuấn). Đèo Lầm Khẳng, không may là kẻ thù của Thần hổ xám. Chàng phải bỏ quê hương trốn nạn ở phương xa nhưng Thần hổ xám không buông tha đã truy đuổi Lầm Khẳng mọi nơi qua nhiều thời gian. Và thật bí hiểm, số chàng phải chết vì Thần hổ quả không sai!. Trong “Thần Hổ” có rất nhiều chi tiết về giấc mộng, Lầm Khẳng đã từng ân ái với hồn ma: “hồn chàng như càng bay bổng lên mây. Lầm Khẳng không thể cầm được nỗi kinh hoàng đến cực điểm, chàng bịt mắt kêu to lên một tiếng. Thì ra vật chàng đụng phải là một cái quan tài...” [72, tr. 257].
Thế Lữ lại đưa người đọc đến với không khí đậm chất mộng tưởng, mơ hồ trong “Trại Bồ Tùng Linh”. Câu chuyện phảng phất yếu tố ly kỳ về câu chuyện tình giữa một văn nhân với hồn ma hiện hình thành cô gái yêu kiều, tuyệt mỹ và ẩn hiện một cách ly kỳ: “Thốt nhiên một cảm tưởng là lạ ám đến, anh trờn trợn như mình có người chú ý; ngửng đầu lên: Trong khung cửa sổ một người rất đẹp đang nhìn anh, lẳng lặng và miệng mỉm cười...” [72, tr. 130 – 131]. Đặc biệt với “Xác ngọc lan” (Nguyễn Tuân), cô Dó ẩn mình trong cây rừng, trong tảng đá và thường cất tiếng hát đem đến niềm vui cho mọi người, cho Cậu Năm. Cô Dó tận tụy hết mực với chồng, hết lòng với nhiều đời của nhà chồng để làm ra loại giấy nổi tiếng của nhà họ Chu. Nàng Dó có lúc hiện hình ra khỏi cây rừng, tảng đá với những lời hát mang tâm sự khác nhau với những lúc vui, buồn... Khi hòn đá bị chẻ ra thì thật lạ kỳ: “Hồn đá chẻ ra làm hai theo chiều ngang và phần trên khi đã bật ra thì quỷ thần ơi! Có một người đàn bà rất xinh bé đang nằm ngủ. Nàng mặc một cái áo lam, xiêm cũng màu lam” [72, tr. 503]. Và cuối cùng cô Dó đã biến thành viên ngọc thạch. Văn học giai đoạn 1930 – 1945 chứa đựng khá đậm nét yếu tố tâm linh, kỳ lạ. Tiếp nối văn học giai đoạn này, văn học giai đoạn 1945 – 1975 cũng sử dụng những yếu tố kỳ lạ, yếu tố tâm linh như một thủ pháp nghệ thuật thể hiện nội dung yêu nước, ý thức căm thù giặc của những nhà văn yêu nước. Đồng thời với những yếu tố tâm linh, các nhà văn đã dùng nó che đậy, vượt qua sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền Sài Gòn. Các tác phẩm “Bút máu”, “Chất ngọc”, “Lửa rừng” (Vũ Hạnh); “Cõi âm nơi quán cây dương” (Bình Nguyên Lộc); “Bóng ma nhà Mệ Hoát”, “Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu”, “Cây đèn lồng” của Vũ Bằng thể hiện sinh động yếu tố tâm linh, kỳ ảo. Yếu tố kỳ lạ và yếu tố tâm linh đã tạo nên dấu ấn huyền thoại khá rõ trong truyện “Bút máu” và “Chất ngọc”. Với tác phẩm “Chất ngọc”, nhân vật Sầm Hiệu đã trở thành một hình tượng đẹp, trở thành người hùng trong lòng của nhân dân. Vì Sầm Hiệu bị quan Tổng trấn bắt vào đội phòng vệ để đi đàn áp nhân dân. Sầm Hiệu chống đối lại quan Tổng trấn nên đã bị chặt đầu. Nhưng thật kỳ lạ vì bị chém mười nhát mà đầu Sầm Hiệu vẫn trơ trơ còn đao phủ tất thảy đều khiếp sợ xanh xám mặt mày. Tức giận, quan rút thanh bảo kiếm, chém liền ba nhát nhưng hễ mỗi lần lưỡi gươm chém vào da cổ thì hình như bị một sức mạnh lạ lùng bật tung ra làm quan cũng thất sắc... Chỉ đến khi quan dùng lưỡi gươm dính máu của dân chạm vào da cổ thì chiếc đầu của Sầm Hiệu mới rớt xuống đất. Hình ảnh gươm dính máu của nhân dân có ý nghĩa tâm linh thật sự. Sầm Hiệu chỉ chết vì dân, còn với kẻ thù Sầm Hiệu không bao giờ khuất phục. Cái chết ấy rất đẹp và rất thiêng liêng. Và chi tiết về sự biến hóa của Sầm Hiệu lại càng kỳ lạ: “Xương cốt Sầm đã rã rời từ bao giờ, hòa tan dưới đất thấm vào cây cỏ, duy còn khối ngọc hồng ấy khi quan Tổng trấn nhìn vào thì bỗng thấy khuôn mặt Sầm hiện lên, phừng phừng lửa giận, mặt trợn tròn xoe...”. Nhưng khối ngọc khi có nước mắt người dân dội xuống thì lại càng sáng tỏ lạ lùng, nước mắt dội càng nhiều, ngọc càng sáng chói. Viên ngọc
trước bao nhiêu sức búa vẫn không lay chuyển: búa càng nện, ngọc càng lì, người ta tưởng chừng qua những lần búa nện xuống vang vang như giọng nói căm hờn của người lính trẻ. Chỉ đến khi lưỡi gươm còn đọng máu của dân vừa chém thẳng xuống, ngọc vỡ tan thành mảnh nhỏ trăm muôn. Nhưng điều đặc biệt là trong mỗi mảnh hồng ngọc lưu ly lại có bóng hình Sầm Hiệu đây là sự phân thân kỳ diệu của sự biến hóa với yếu tố kỳ ảo. Bên cạnh “Chất ngọc”, “Bút máu” sử dụng chi tiết kỳ ảo, sự biến hóa để đề cao vai trò người cầm bút. Người cầm bút có thể mang tới nhiều ảnh hưởng cho con người và xã hội. “Bút máu” là một lời cảnh báo đối với người cầm bút. Người cầm bút chỉ cần đi lạc đường, sai lối có thể đem đến tác hại rất lớn cho mọi người. Chi tiết kỳ ảo, biến hóa mà tác giả sử dụng để đề cập đến tội ác. Vũ Hạnh đã sử dụng yếu tố huyền thoại, với chi tiết nghệ thuật gây ấn tượng khá mạnh trong “Bút máu” nhằm cực tả những oan khiên, tội ác mà người cầm bút có thể gây ra: “Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt thắm hồng như đang chảy từ con tim. Khiếp đảm, Sinh sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ trên giấy, nét chữ quánh lại lợn cợn, như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết tưởng chừng như bàn tay cũng bị thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi mùi tanh khủng khiếp” (Bút máu – Vũ Hạnh). Và sự hối hận của Lương Sinh cũng đầy ắp yếu tố tâm linh: “Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm trở về, rung động bờ lau, bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành” (Bút máu – Vũ Hạnh). Kết thúc truyện “Hương máu” (Nguyễn Văn Xuân) cũng chứa đựng khá nhiều yếu tố tâm linh qua lời kể một viên chức nhỏ dưới quyền điều khiển của Phan Bá Phiến sau khi chứng kiến cảnh Nguyễn Hiệu rơi đầu tại pháp trường Huế: “Đêm ấy, tôi ngủ và chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ ruổi rong khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lĩnh đã chết. Nhưng đột nhiên những kỵ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất, nhường chỗ cho những người gầy gò xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sửng sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt rất quen mà tôi đã gặp trong suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tin mà chỉ thấy một chữ “Tiệp” rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng nhau chạy về phía sương mù...”. Với “Cõi âm nơi quán cây Dương” (Bình Nguyên Lộc) lại cho người đọc đi vào không gian ma quái với cảnh hồn ma hiện về ân ái hàng đêm với anh bồi quán. Trường Lệ là biệt hiệu của hồn ma biến thành người trong bộ bà ba sa tanh đen với mùi hương nguyệt quý... Trường Lệ xuất hiện sau khi phi lao reo khẽ hoặc thở dài rồi lại lẫn khuất đi rất mau chóng, lạ kỳ: “Phi lao thở dài đã ba hiệp rồi, và đúng y như tôi tiên liệu, hương của bông nguyệt quý thoang thoảng liền sau đó. Tôi vụt ngồi dậy, toan rời giường bố, để chạy ra sân thật lẹ thì Trường
Lệ đã đứng ngay trước mặt tôi, bóng dáng của nàng đen thui, nổi bật lên, bóng đêm tương đối sáng hơn nhờ trời đầy sao” [72, tr. 604]. Đặc biệt là hồn ma của Trường Lệ có khả năng báo trước cho anh bồi bàn sự việc xảy ra. Và chính điều này đôi lúc đã làm anh thấy rợn người, nghi ngại. Với “Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu”, Vũ Bằng đã thể hiện một thế giới tâm linh khá ấn tượng. Quan niệm về lời thề, duyên kiếp thể hiện: “Thảm thương thay cho những người lúc sống mến yêu nhau mà bị chia rẽ, những ngày đương chung sống với nhau mà bị tình thế làm cho lìa tan, những người nguyện ước được ở bên nhau mà bị sóng gió cuộc đời làm tan rã đi muôn ngã...” [72, tr. 687]. Cũng bởi duyên kiếp dở dang, lời thề không trọn vẹn nên hồn Mai Chi đã vất vưởng tìm hồn người yêu suốt hai mươi mốt năm trời. Và hồn Mai Chi tin rằng Trời, Phật có thể thương xót và giúp Mai Chi tìm được người yêu. Cõi dương và cõi âm được tác phẩm thể hiện sinh động trong cuộc tìm kiếm người yêu của Mai Chi. Cảm cảnh trước linh hồn của Mai Chi, “Sư Phổ Giác không biết làm thế nào hơn là lập một đàn tràng ở gần Vàm Cả, cúi lạy các đấng tối cao che chở, xót thương những người bị bom đạn ở nơi đây và nếu có thể, thì run rủi cho u hồn của Thạch về phối hưởng chén nước lạnh, nén nhang thơm” [72, tr. 683]. Từ tín ngưỡng thờ cúng rất thành tâm, “nước mắt nhà Sư chảy ròng ròng” và sau đó linh hồn của Thạch tìm đã đến Chùa Dâu. Ở đây, Sư Phổ Giác đã làm lễ cưới cho hai linh hồn Thạch và Mai Chi trước bàn thờ Phật... Với niềm tin, hai linh hồn sẽ không còn quạnh hiu, bơ vơ nữa. Vũ Bằng thể hiện yếu tố tâm linh “tín ngưỡng thờ cúng”, “mộng mị”, “bói toán” và “hồn ma” khá rõ trong truyện “Cái đèn lồng”. Hồn của Giáng Tuyết hiện về, hẹn hò và tình tự với Đại Thông Thái Lang: “Đại Thông Thái Lang bắt đầu sống bằng một cuộc đời kì lạ, suốt ngày chỉ ngủ, ngủ những giấc ngủ nặng nề có toàn những ác mộng đến thăm. Chàng yếu sút trông thấy” [72, tr. 707]. Trước tình hình sức khỏe của Đại Thông Thái Lang ngày một giảm sút, Kim Tứ rất lưu tâm và đã bói cho Đại Thông Thái Lang: “Tiên sinh sẽ chết trong vài ngày hay cùng lắm là một tháng nữa thôi” [72, tr. 708]. Thế giới “hồn ma” cũng thể hiện khá đậm nét trong “Cái đèn lồng”: “Nhưng theo lời những người đã được thấy ma hiện thì không phải là chỉ có một người hay hai người nhưng là nhiều người khác nhau, khi thì là một người đàn bà đẹp đi guốc kêu lóc cóc, khi thì là một bà có thị nữ theo hầu như mệnh phụ phu nhân, nhưng cũng có khi là đàn ông không đầu đi cà kheo, hay một lũ rạc rài rách rưới lê những cái thân hình tàn phế, đầy thương tích đi nối đuôi nhau than khóc” [72, tr. 719]. Hình ảnh hồn ma, linh hồn của người chết cũng chất chứa nhiều tâm sự, u buồn, uất hận như người còn sống... Mệ Hoát và O Phương Thảo sau khi chết rất oan ức, hồn luôn hiện về thăm ngôi
nhà cũ và cố công tìm kiếm những cổ vật lúc còn sống đã dày công gom góp, sưu tầm. Sự điên cuồng của Tôkubê trong việc chiếm đoạt hãm hiếp O Phương Thảo đã làm nàng đi đến trầm mình tự tử. Cơn điên rùng rợn nổi lên khi Tôkubê hay tin O Phương Thảo tự tử và y uất ức hơn khi nghĩ rằng mình không khuất phục được O Phương Thảo và Mệ Hoát. Thế là, Tôkubê vung kiếm, điên cuồng phá nát những cổ vật quý báu mà Mệ Hoát và O Phương Thảo đã một đời tìm kiếm, giữ gìn, nâng niu như báu vật... Như có luật nhân quả ở đây, Vũ Bằng đã để cho Tôkubê phải chết với làng roi vô hình của Mệ Hoát và O Phương Thảo. Sau khi chết, hồn của Tôkubê đã về trong giấc mộng của vợ ở nước Nhật để báo tin mình đã mất. Có thể nói những sáng tác của Vũ Bằng khá đậm nét về yếu tố tâm linh với những chi tiết kỳ ảo, biến hóa và thần bí. Sang giai đoạn sau 1975 mà đặc biệt là văn học từ sau đổi mới (1986), yếu tố tâm linh, huyền thoại, tính chất kỳ ảo, thần kỳ lại được nhiều tác giả đưa vào tác phẩm của mình. Các yếu tố kỳ ảo qua những giấc mơ, sự báo ứng hiện hồn, không gian huyền thoại, các hình thức giễu nhại... đã mở ra cho người đọc những liên tưởng thú vị, kích thích trí tưởng tượng phong phú của con người từ hiện thực cuộc sống... Tác giả Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề tha hóa của con người (Phiên chợ Giát). Hình tượng giấc mơ đã khắc họa vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng tình yêu đôi lứa và hạnh phúc đặc biệt của người phụ nữ đi qua chiến tranh (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành). Lưu Sơn Minh đề cập đến khả năng liên thông với người đã khuất qua yếu tố tâm linh (Bến trần gian). Truyện ngắn kỳ ảo của Thái Bá Tân với nhiều hình ảnh ma nữ. Có thể là do phụ nữ bị chà đạp nhiều nên khi họ mất đi hồn của họ còn vương vít, ngậm ngùi. Hiện thực xã hội và hiện thực tâm linh đan xen trong các tác phẩm của giai đoạn văn học sau 1975. Giấc mơ làm thức dậy phần bản năng vô thức, phần người của Lão Khúng làm cho người đọc phải suy ngẫm... Trong “Bức tranh” (Nguyễn Minh Châu), người họa sĩ tự nhận thức là mình có lỗi. Đây là chất nhân văn của tác phẩm cũng là sự biến đổi trong cảm hứng nghệ thuật và nội dung của khá nhiều tác phẩm văn học giai đoạn sau 1975. Trong truyện ngắn của Tạ Duy Anh, chi tiết kỳ lạ vừa mang những nét chung của cái kỳ ảo Phương Đông, vừa mang nét riêng phản ánh bầu không khí thời đại. Yếu tố kỳ lạ giai đoạn này đã có sự phát triển một bậc so với hình thức kỳ ảo truyền thống. Nó không đơn thuần là hình thức chuyển tải các vấn đề đạo đức theo quan niệm “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” mà nó còn là sự sợ hãi, trăn trở của con người nhân tính, khát vọng tự do, dân chủ thấm đẫm tinh thần thời đại (Con vẹt, Dịch quỷ sứ, Ánh sáng nàng...). Trong truyện ngắn của Tạ Duy Anh, yếu tố tâm linh về giấc mơ, mộng mị được xuất hiện như một thủ pháp nghệ thuật quan trọng để khắc họa nhân vật. Những yếu tố giấc mơ, mộng mị đưa người đọc vào thế giới nửa hư, nửa thực tràn đầy niềm lo âu và khao khát. Môtip giấc mơ, mộng mị đã giúp tác giả thâm nhập vào những vùng bí ẩn của đời sống nội tâm con người và làm cho truyện thêm độc đáo, hấp dẫn (Bí mật của vĩnh cửu, Luân hồi, Ngôi nhà của cha tôi...).
Với tác giả Nguyễn Huy Thiệp hàng loạt tác phẩm phảng phất dấu ấn huyền thoại, mỗi nhân vật được kể như một truyền thuyết, có cái gì như rất kỳ bí, huyền ảo vây lấy họ... Nhân vật được Nguyễn Huy Thiệp giới thiệu rất ấn tượng. Nàng Pùa: “sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai bì kịp, da trắng như trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi như son đỏ” (Trái tim hổ). Anh chàng Khó thì xuất hiện không bình thường: “Chàng mồ côi cha mẹ, sống như con giun, con dún. Con giun, con dún sống thui thủi, đi con đường riêng, ăn uống thế nào, không ai biết được...”. Ông già Pành thì thật ấn tượng vì đã ngoài 80 tuổi mà vẫn tráng kiện, còn có thể làm việc bằng ba, uống bằng mười người khác. Rồi nàng Sinh – một cô bé mồ côi, nhờ có một sự việc lạ lùng mà trở thành một cô gái tuyệt đẹp, lấy được hoàng tử làm chồng. Nhân vật lại còn là một chiếc tù và rất cũ bị lãng quên mà lại có khả năng đặc biệt, khác thường. Để tô đậm cuộc đời vào số phận họ, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo lồng vào đấy những sự kiện lạ lùng có ảnh hưởng quan trọng đến số phận nhân vật. Đó là sự xuất hiện ở bìa rừng một con hổ khủng khiếp làm cả vùng kinh hãi (Trái tim hổ); cuộc tấn công của một bầy côn trùng màu đen lạ lùng vào rừng làm trụi sạch lá cây (Chiếc tù và bị bỏ quên); nhân vật bất ngờ tìm được trong rừng một chiếc vò đựng đầy tiền vàng, tiền bạc hay nhân vật tự nhiên lại có thể nhấc được một hòn đá linh thiêng mà từ trước đến nay chưa ai nhấc nổi... Xoay quanh họ còn có những hiện tượng lạ lùng khác của thiên nhiên, con hổ hung hãn xuất hiện ở bản vào một mùa đông khắc nghiệt chưa từng có, khi “cây cỏ chết vì sương giá, nước đóng băng lại”. Bua tìm được kho báu khi “năm ấy, không hiểu sao rừng Hua Tát nhiều củ mài vô kể”. Cơn dịch tả ập xuống Hua Tát khi thiên nhiên xảy ra một điều lạ lùng: “Trời mưa to giữa lúc mặt trời đang chói chang”. Tất cả những yếu tố kỳ ảo, huyền thoại đã góp phần tạo nên sự huyền bí cho câu chuyện, nhân vật vì thế cũng trở nên lung linh, huyền ảo hơn, gây hứng thú cho người đọc. Nguyễn Huy Thiệp đã tỏ ra khá am hiểu những thi pháp của truyền thuyết cho nên đã khá thành công khi xây dựng những truyền thuyết văn học. Không chỉ trong 10 truyền thuyết về bản Hua Tát, huyền thoại còn rải rác ở một số truyện khác. Những câu chuyện rất đời thường nhưng được nhà văn điểm thêm một vài chi tiết nửa thật nửa ảo gây hứng thú cho người đọc. Đồng thời qua chi tiết ấy, ta thấy rõ bản chất tâm hồn con người, ai còn tin ở cái huyền bí là tâm hồn còn hướng thiện, những ai phủ nhận sạch trơn quá khứ, những truyền thuyết của ông cha là tâm hồn họ đã chai sạn, vì thế dễ gây tội ác. Nhân vật “tôi” trong “Chảy đi sông ơi” suốt đời mong muốn nhìn thấy hình ảnh con trâu đen trong truyền thuyết. Con trâu “thường xuất hiện lúc nửa đêm. Nó ở dưới đáy sông lao vút lên mặt nước. Toàn thân bóng nhẫy, đôi sừng vút cao, mõm thở phì phò, con trâu phi trên mặt nước như phi trên cạn”. Tuổi thơ nào mà chẳng bị lôi cuốn bởi những câu chuyện như vậy. Trong tác phẩm, chi tiết kỳ ảo này chính là sợi dây liên kết các sự kiện trong truyện. Chùm ba truyện “Con gái thủy thần” là hiện thực cuộc sống nhưng có gì đó như là ảo mộng. Bởi nhân vật Chương lúc nào cũng sống như một giấc mơ –
“giấc mơ ban ngày”. Anh ta mang trong lòng hình ảnh một cô gái con gái của thủy thần được dân làng đặt tên là Mẹ Cả, cả thời thanh xuân của anh ta là một cuộc đời tìm kiếm, anh đi ra hướng biển để mong được gặp cô con gái thủy thần ấy. Anh tin vào những điều huyền hoặc. Mẹ Cả, dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp như là một huyền thoại. Nhìn chung, thế giới tâm linh cùng với yếu tố kỳ ảo là những yếu tố có ý nghĩa và mang lại giá trị thẩm mỹ đích thực cho tác phẩm văn học. Thế giới tâm linh, những yếu tố kỳ ảo đã đem đến cho Truyện thơ Nôm những giá trị độc đáo, những dấu ấn riêng. Và những yếu tố nghệ thuật này sẽ tiếp tục tồn tại, được thể hiện trong tác phẩm văn học qua mọi thời gian. Yếu tố kỳ ảo, yếu tố tâm linh có giá trị tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm văn học và được minh chứng qua nhiều thời kỳ của tiến trình văn học Việt Nam. Khi điểm qua yếu tố tâm linh, kỳ ảo của tác phẩm văn học qua các thời kỳ, tôi càng cảm nhận được sự thú vị, độc đáo của các yếu tố tâm linh, kỳ ảo. Dù chưa có điều kiện và thời gian để nghiên cứu chuyên sâu về thế giới tâm linh trong xuyên suốt tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nhưng thế giới tâm linh – một phương tiện, một kỹ thuật góp phần thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm văn học vẫn có sức hấp dẫn với tôi rất lớn. Tôi vẫn mong mỏi có được thời gian, điều kiện để tìm hiểu chuyên sâu hơn về thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm nói riêng và trong văn học Việt Nam nói chung.
KẾT LUẬN Truyện thơ Nôm là một bộ phận của văn học Trung đại, nằm trong dòng chảy liên tục của văn học Việt Nam. Trong dòng chảy trôi đi liên tục ấy, điều mà văn học luôn mang theo trong nội dung, tư tưởng của mình chính là hiện thực của cuộc sống được phản ánh bằng sự hỗ trợ đặc biệt của các phương tiện nghệ thuật. Truyện thơ Nôm cũng theo dòng chảy chung của văn học, của thời đại nhưng nhờ có phương tiện nghệ thuật riêng, phương tiện nghệ thuật đặc thù của mình để tạo nên một bộ phận văn học có dấu ấn riêng, độc đáo riêng. Phương tiện nghệ thuật khá độc đáo, phù hợp với nội dung, tư tưởng của Truyện thơ Nôm chính là thế giới tâm linh của con người. Chính cái thế giới tâm linh vô cùng phong phú, qua các yếu tố kỳ ảo, thần kỳ và niềm tin của con người đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú của nhân dân về cuộc đời, về xã hội và cả những không gian mà con người chưa từng tới được như thiên đình xa xôi, âm phủ mịt mù... Trong dòng chảy chung của văn học ấy, với đặc trưng riêng của mình, Truyện thơ Nôm mang theo tất cả hiện thực của xã hội Việt Nam ở các thế kỷ 16, 17, 18 trong hành trang, hành trình tồn tại và phát triển của mình. Truyện thơ Nôm đã thể hiện cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến đang trên đường suy thoái với những luân thường đạo lý cùng những tín điều nghiệt ngã của hệ tư tưởng phong kiến đang bị lung lay đến tận gốc... Với 30 Truyện thơ Nôm được khảo sát, với 1.894 lần xuất hiện của yếu tố tâm linh, những yếu tố này đã mở ra cho chúng ta một thế giới tinh thần phong phú, một đời sống tâm linh thiêng liêng đáng trân trọng của con người. Nếu Truyện thơ Nôm bình dân mang tính dân dã của người lao động và nghệ thuật mộc mạc, giản dị của các nho sĩ bình dân thì Truyện thơ Nôm bác học tương ứng với nội dung phức tạp, tình tiết, tâm lý nhân vật, nghệ thuật điêu luyện hơn ở các nhà nho thuộc tầng lớp trên của xã hội. Và cả hai bộ phận Truyện thơ Nôm bình dân cũng như Truyện thơ Nôm bác học đã cùng góp phần thể hiện sự phong phú trong trí tưởng tượng và tinh thần của nhân dân. Điều đặc biệt là chính thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm đã góp phần giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn, thấu đáo hơn những giá trị văn hóa tinh thần thiêng liêng của dân tộc. Với thế giới tâm linh phong phú trong Truyện thơ Nôm nói riêng cùng với văn học Trung đại nói chung đã tạo nên chiếc cầu nối cho văn học dân gian trước đó và văn học viết sau này. Với hình thái cấu trúc của Truyện thơ Nôm cũng giống như hình thái cấu trúc của thể loại truyện cổ tích, tức là cấu trúc theo mô hình “kết thúc có hậu” với ba trường đoạn gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ... đã tạo cho Truyện thơ Nôm thật sự gần với truyện cổ tích của văn học dân gian. Chính vì vậy, dù tính cách của nhân vật có phong phú đến đâu, các tình tiết dù có phát triển và diễn biến éo le, ly kỳ, phức tạp đến mức nào đi nữa thì các yếu tố tâm linh cũng tiếp sức để đưa câu chuyện đi vào kết thúc theo mô hình có hậu của văn học dân gian. Và với tình tiết, tâm lý nhân vật ngày một phức tạp hơn, nghệ
thuật điêu luyện hơn của Truyện thơ Nôm đã tạo cho Truyện thơ Nôm có thêm điều kiện gần gũi và phát huy thế mạnh của mình khi nối kết với bộ phận văn học viết cận và hiện đại. Điều đặc biệt mà Truyện thơ Nôm đã giữ gìn, truyền tải và phát huy những giá trị đạo đức nhân bản, nhân văn của con người thông qua cuộc đấu tranh quyết liệt của con người để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc gia đình, chống lại sự bất công, tàn bạo của xã hội. Và niềm tin vào triết lý nhân quả “ở hiền gặp lành”, “ở ác gặp ác”... sẽ nhắc nhở con người trong ăn ở, đối xử với nhau sao cho tròn đạo nghĩa. Với thế giới tâm linh mang nhiều sắc thái kỳ lạ, thần bí với trí tưởng tượng phong phú của con người đã tạo được giá trị thẩm mỹ cho Truyện thơ Nôm cả trên hai phương diện nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật. Mô hình cấu trúc khá ổn định của Truyện thơ Nôm bình dân, dẫn đến kết thúc có hậu, các tình tiết, các diễn biến theo cốt truyện và đề tài theo một phương thức đặc biệt là không phản ánh hiện thực một cách trực tiếp rất phù hợp với tâm lý của người bình dân. Sự tiếp thu, sáng tạo của Truyện thơ Nôm bác học về tính thanh nhã uyên bác từ ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng và tính chất bình dân được hình thành từ ngôn ngữ hiện thực tự nhiên từ ca dao, tục ngữ được kết hợp hài hòa. Bên cạnh việc khắc họa và cá thể hóa tính cách và đời sống nội tâm của nhân vật đã tạo cho nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học vừa cổ điển, cao sang, vừa bình dị, thân thuộc, giàu tính triết lý, trí tuệ, đồng thời lại trữ tình, đằm thắm, mượt mà vừa có giá trị khái quát cao, vừa mang tính biểu hiện cụ thể. Nhưng giá trị nghệ thuật dù có những điểm riêng nhưng nội dung tư tưởng của cả Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học lại gặp gỡ nhau khá rõ. Đó là cả hai bộ phận Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học đều phản ánh khát vọng tự do, dân chủ và tinh thần đấu tranh vì công lý và công bằng xã hội của nhân dân thời phong kiến. Truyện thơ Nôm cũng đã đặc biệt quan tâm đề cao phẩm giá của người phụ nữ, đồng thời đề cao cái đẹp, cái thiện trong sự đối lập với cái xấu, cái ác. Bên cạnh đó, Truyện thơ Nôm như một thứ vũ khí sắc bén của nhân dân trước những hệ thống lễ giáo, kỷ cương hà khắc của chế độ phong kiến, là phương tiện đối đầu với những bọn gian ác, cường quyền của xã hội. Chính vì vậy, Truyện thơ Nôm còn là món ăn tinh thần không những của nhân dân thời phong kiến mà còn có những giá trị tinh thần quý báu vượt thời gian trong mọi thế hệ, mọi cuộc đời. Bởi Truyện thơ Nôm không dừng lại ở cuộc đấu tranh giữa thiện thắng ác, giữa chính thắng tà; không dừng lại ở việc ca ngợi phẩm giá người phụ nữ mà Truyện thơ Nôm còn hướng con người vào đạo lý ở đời với những mơ ước thật cao đẹp, thiêng liêng. Những ước mơ thật đời thường, thật giản dị như mối quan hệ nghĩa tình trong gia đình của anh – chị – em, của cha mẹ – con cái, của chồng – vợ, của đôi lứa yêu nhau và xa hơn là mối quan hệ giữa con người với con người với những giá trị cao đẹp của đạo đức, của nhân bản, nhân văn... sẽ là những giá trị cơ bản, vĩnh hằng trong đời sống con người.
Trong thời đại ngày nay với sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật, con người đang cuốn theo trục quay phát triển của con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong cuộc sống với bao bộn bề, hối hả, với hàng vạn cái mới mà chúng ta tiếp thu, hội nhập, chúng ta sẽ cảm thấy thật sự quý báu và trân trọng khi có những thời gian chiêm nghiệm, suy nghĩ về những giá trị văn hóa, giá trị tinh thần thiêng liêng, cao quý từ thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm. Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm thể hiện những điều tốt đẹp trong cuộc sống sẽ còn tồn tại, đạo lý nhân nghĩa cuộc đời không thể mất đi, công lý sẽ không quên người lương thiện, những tấm lòng và cái tâm trong sáng dù trải qua bao áp lực của cuộc đời thì nó vẫn tồn tại trong nhân gian... Truyện thơ Nôm cho con người niềm tin về thế giới tâm linh, một thế giới tinh thần có giá trị vô giá mà khi con người biết trân trọng, biết giữ gìn, biết tin tưởng thì nó sẽ mang đến cho con người những điều kỳ diệu trong cuộc đời này... Và nhờ đó mà con người có thể điều chỉnh được tâm lý, tình cảm, hành vi của mình sao cho chính cuộc đời và cuộc sống của mỗi người có ý nghĩa hơn. Tin vào thế giới tâm linh hoàn toàn khác với mê tín dị đoan như nhà nghiên cứu Trương Thìn đã nói. Thế giới tâm linh sẽ nhắc nhở con người phải giữ đạo lý ở đời vì có luật nhân quả, nhờ thế giới tâm linh làm cho con người đối với con người nhân ái hơn, thật lòng hơn để “tích đức”, “tạo phúc”... Thế giới tâm linh sẽ giúp người đời có thêm niềm tin, sức mạnh tinh thần và có thêm nghị lực vượt qua những áp lực, những biến cố, những khó khăn trong cuộc đời... Người xưa tin rằng con người sẽ không đơn độc trong hành trình khó khăn, vất vả của cuộc đời bởi lẩn khuất xung quanh con người luôn tiềm ẩn những vị cứu tinh thật thiêng liêng, huyền bí. Đó là những vị cứu tinh sẽ đem cho mọi người sức mạnh, niềm tin để vượt qua tất cả những vất vả, gian nan... Và những vị cứu tinh sẽ cho con người những ước mơ đẹp về cuộc đời như những giá trị tư tưởng được gởi gắm trong Truyện thơ Nôm...
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Đào Duy Anh (2005), Nghiên cứu văn hóa và ngữ văn, Nxb Giáo dục
2.
Đào Duy Anh (1998, tái bản) Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.
3.
S. Frend, C. Jung, E. Fromm và R. Assagioli, Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa thông tin, 2004.
4.
Toan Ánh (1991), Con người Việt Nam: phong tục cổ truyền, Nxb TP.HCM.
5.
Toan Ánh (2002), Văn hóa Việt Nam – Những nét đại cương, Nxb Văn học.
6.
Nguyễn Trần Bạt (2005), Văn hóa và con người, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7.
Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia
8.
Hoa Bằng, Quan Âm tân truyện tức Quan Âm Thị Kính – Xuất hiện từ bao giờ và tác giả là ai?, Tạp chí Văn học số 6/1970.
9.
Vũ Văn Bằng (2004), Con người và môi trường sống (theo quan niệm cổ truyền và hiện đại), Nxb Văn hóa thông tin.
10.
Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu (1978), Mã Phụng – Xuân Hương, Nxb Văn hóa.
11.
Nguyễn Đình Chiểu (2001), Truyện Lục Vân Tiên, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
12.
Nguyễn Thị Chiến (1993), Hình tượng nhân vật trong Truyện Nôm Tài Tử Giai Nhân, Luận án PTS.KH Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
13.
Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Nxb Văn hóa Thông tin.
14.
Đỗ Kiên Cường (2002), Tâm linh dưới góc nhìn khoa học, Nxb Thanh Niên, 2002.
15.
Kho tàng Truyện Nôm khuyết danh 2000, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
16.
Kho tàng Truyện Nôm khuyết danh (2000), tập 2, Nxb văn học, Hà Nội.
17.
Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn hóa dân tộc Việt Nam, Nxb Văn nghệ.
18.
Nguyễn Du (1986), Truyện Kiều, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
19.
Nguyễn Du (1999), Truyện Thúy Kiều, Nxb VHTT, Hà Nội.
20.
Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia.
21.
Đinh Xuân Dũng (2004), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb Chính trị Quốc gia.
22.
Nguyễn Đăng Duy (1997), Văn hóa tâm linh Nam bộ – Nxb Hà Nội.
23.
Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội
24.
Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội
25.
Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội
26.
Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
27.
Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa Tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
28.
GS. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29.
Nguyễn Kim Đính (1960), Sơ kính tân trang (Phạm Thái), Nxb Văn hóa Viện Văn hóa.
30.
Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Công – Cúc Hoa, Nxb Văn hóa Viện Văn hóa.
31.
Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Công tân truyện, Nxb Văn hóa Viện Văn hóa.
32.
Nguyễn Kim Đính (1960), Thoại Khanh – Châu Tuấn, Nxb Văn hóa Viện Văn hóa.
33.
Thái Kim Đỉnh (1988), Giai đoạn và dữ liệu về Nguyễn Du Truyện Kiều, Nxb Nghệ Tĩnh.
34.
E.B.Tylor (2000), Văn hoá nguyên thuỷ, Tạp chí văn hoá nghệ thuật.
35.
Nguyễn Thạch Giang (1979), Truyện Mã Phụng, Xuân Hương, Nxb Thuận Hoá.
36.
Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
37.
Vũ Tô Hảo, Mối quan hệ giữa Truyện Nôm bình dân và Văn học dân gian, Tạp chí Văn học số 4/1980.
38.
Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb KHXH, Hà Nội.
39.
Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu văn hóa Tâm linh Nam Bộ, Nxb Trẻ.
40.
Kiều Thu Hoạch (1996), Truyện Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn. Trường ĐHKHXH và Nhân văn, Hà Nội.
41.
Kiều Thu Hoạch, Sức sống trường tồn – Truyện Nôm bình dân, Tạp chí Văn học số 2/1997.
42.
GS.TS Kiều Thu Hoạch (2005), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 12, Truyện Nôm bình dân, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43.
Truyện Nôm khuyết danh Phạm Công Cúc Hoa (2001), Nxb Thế giới.
44.
Truyện Nôm khuyết danh Tống Trân Cúc Hoa (1998), Nxb Văn nghệ TP.HCM và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP.HCM.
45.
Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình Văn học Trung đại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
46.
Trần Đình Hượu (1988), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa.
47.
Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa thông tin.
48.
Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
49.
Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục.
50.
Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (3).
51.
Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á, Nxb KHXH, Hà Nội.
52.
Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53.
Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
54.
Đinh Gia Khánh (2001), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục.
55.
Đinh Gia Khánh (2002), Văn học Việt Nam từ nửa đầu thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục.
56.
Vũ Ngọc Khánh (1987), Văn hoá dân gian và việc tìm hiểu lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian (4).
57.
Bình giải Truyện Kiều (2000), Nxb Văn học Hà Nội.
58.
Đặng Văn Kim, Truyền thống Văn hóa Việt trong Truyện Kiều, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐHSP TP.HCM.
59.
Lê Đình Kỵ (1998), Truyện Kiều và văn hóa nghĩa tình Việt Nam, Tạp chí Văn hóa số 12.
60.
Đặng Thanh Lê (1968), Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm, Tạp chí Văn hóa số 213.
61.
Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb KHXH.
62.
Nguyễn Lộc, Những vấn đề xã hội trong Truyện Nôm bình dân, Tạp chí Văn học số 4 / 1969.
63.
Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX (tập 1), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
64.
Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX (tập 2), Nxb Đại học và Trung học, Hà Nội.
65.
Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng.
66.
Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục.
67.
Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục.
68.
Truyện Nhị Độ Mai (1988), Nxb ĐH và THCN.
69.
Truyện Nôm Nhị Độ Mai (1999), Nxb Văn học.
70.
Lê Minh (chủ biên) (1994), Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
71.
Lê Thị Hồng Minh, Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học, luận án Tiến sĩ trường ĐHSP, TP.HCM.
72.
Lưu Sơn Minh tuyển chọn (2003), Truyện Không nên đọc vào lúc giao thừa, Nxb Văn học.
73.
Lê Hoài Nam (2002), Phạm Tải NgọcHoa – một Truyện Nôm khuyết danh có giá trị, Tạp chí văn hóa số 8.
74.
Sơn Nam (2001), “Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hóa Việt Nam”, Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục.
75.
Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
76.
Truyện Bích Câu Kỳ Ngộ (1964), Nxb Tân Việt, Hà Nội.
77.
Bùi Văn Nguyên (1960), Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam, Tạp chí văn hóa số 7.
78.
Trần Ngọc Minh Nguyệt, Tín ngưỡng dân gian và quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.
79.
Hoàng Phê (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học.
80.
Diêu Vi Quân (chủ biên), (1996), Bí ẩn của chiêm mộng, Nxb VHTT, H.
81.
Vũ Tiến Quỳnh (1999), Phê bình – bình luận văn học Nguyễn Du (tập 2), Nxb Văn nghệ TP.HCM.
82.
Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
83.
Lê Văn Siêu, Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, Nxb Mũi Cà Mau, Công ty văn hoá tổng hợp Quận 11, TP.HCM
84.
Phạm Côn Sơn (2002), Văn hóa phong tục Việt Nam ABC, Nxb Văn hóa dân tộc.
85.
Nguyễn Hữu Sơn (1995), Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại. Tạp chí văn hóa dân gian số 2.
86.
Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội.
87.
Truyện Nữ Tú Tài, thuvien.net
88.
Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác giả – tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.
89.
Bùi Duy Tân (2000), Theo dòng khảo luận Văn học Trung đại Việt Nam – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
90.
Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà văn.
91.
Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân gian của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
92.
Nguyễn Đức Tồn (2002) Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt trong sự so sánh với những dân tộc khác, Nxb ĐHQG Hà Nội.
93.
Lê Ngọc Trà (2006), Văn hóa Việt Nam – Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục.
94.
Nguyễn Huy Tự, Hoa Tiên truyện (chú giải), Nxb Lửa Thiêng.
95.
Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1978), Truyện Hoa Tiên, Nxb Văn học.
96.
Tô Ngọc Thanh (1992), Vai trò của miền tin trong đời sống văn hóa dân gian cổ truyền, Tạp chí văn học (3).
97.
Nguyễn Tài Thư (1999), Tam giáo đồng nguyên – Hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Nam Á, Tạp chí Hán Nôm (3).
98.
Phạm Thái (1994), Sơ Kính Tân Trang, Nxb Giáo dục
99.
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
100. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP.HCM. 101. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục. 102. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng – Bài trừ mê tín dị đoan, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 103. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin 104. Đỗ Lai Thuý giới thiệu, Huyền Giang dịch từ nguyên bản tiếng Pháp, Cái thiêng và cái phàm, Văn học và khoa học nhân văn. 105. Đỗ Thị Minh Thúy (1996), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Trường ĐHKHXH và Nhân văn, Hà Nội. 106. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Hội thảo khoa học: Văn hoá – mối quan hệ văn hoá và văn học, Tạp chí văn học (6). 107. Lạc Thiện (1992), Lục Vân Tiên – Chữ Nôm và Quốc ngữ đối chiếu, Nxb TP.HCM. 108. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 109. Ngô Đức Thịnh (1992), Tục thờ mẫu Liễu Hạnh – một sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá cộng đồng, Tạp chí văn học (3). 110. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 111. Đinh Gia Thuyết (đính chính và chú thích) (1956), Bích Câu kỳ ngộ, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 112. Mai Trân (1960), Nhị Độ Mai, Tạp chí văn hóa số 8. 113. Truyện Nôm khuyết danh Phan Trần (1998), Nxb Văn nghệ TP.HCM và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP.HCM.
114. Nguyễn Quảng Tuân (1990), Chữ nghĩa Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 115. Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (Tập 2, Quyển 2 - 2001), Nxb Giáo Dục 116. Mộng Tuyết (1978), Nhớ lại quá trình phát hiện và công bố Truyện Nôm Song Tinh Bất Dạ, Tạp chí văn hóa số 1. 117. Phạm Khoa Văn, Nếp sống tình cảm người Việt, Nxb Lao Động, Hà Nội. 118. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và Hội nhập (2008), Nxb Chính trị Quốc gia. 119. Nguyễn Quang Vinh (1972), Truyện Thơ Lục Vân Tiên với văn hóa dân tộc, Tap chí Văn hóa số 4. 120. Lê Trí Viễn (2001), Từ Văn học Việt Nam thử nghĩ về văn hoá Việt Nam, Văn hóa Việt Nam – Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục. 121. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại, Nxb Văn nghệ TP.HCM 122. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 123. Trần Quốc Vượng chủ biên (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 124. Lê Thu Yến (2004), “Ám ảnh Tiền Đường”, Tài liệu phục vụ cho giảng dạy và học tập về Truyền thống Văn hóa Việt trong sáng tác của Nguyễn Du.
PHỤ LỤC 6: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “TRỜI” HOA TIÊN (Nhà xuất bản Văn học – 1978)
Câu 1 – 2:
Trăm năm một sợi chỉ hồng
Câu 923 – 924:Người xa đành nhẽ chưa tường,
Đặt người tài sắc vào trong khuôn trời. Câu 135 – 136: Đào trên mây hạnh trên trời,
Cửa thu văng vắng tin sương góc trời. Câu 991 – 992:Kìa đâu viễn phố đìu hiu,
Nghĩ chi cho nát dạ người như tươm. Câu 163 – 164: Thợ trời dù hẳn vô tình,
Lưng trời rút thẳng con lèo ra khơi. Câu 993 – 994:Kìa đâu sông rộng sóng dồi,
Làm chi đem giống khuynh thành trêu ai. Câu 177 – 178: Bầu trời chia chiếm phong quang,
Ngư thôn mấy nóc mặt trời tà dương. Câu 997 – 998:Kìa đâu nước lạnh trời thu,
Cảnh vừa mến lạ khách nhường quên xa. Câu 357 – 358: Trời mai dợn ráng tuôn vàng,
Động – đình phẳng lặng một hồ trăng in. Câu 1023 – 1024: Sinh từ nẩn náu phần hương,
Gió đâu sớm đã quyến hương trước đình. Câu 535 – 536: Hãy coi vào số phong lưu,
Trời thu ba cữ duềnh Tương một ngày. Câu 1101 – 1102: Gió bằng chín vạn bay khơi,
Ấy nhân duyên biết là đâu chẳng trời. Câu 553 – 554: Gọi Hương nàng sẽ rỉ lời:
Bất bình dẫu việc tày trời cũng xong. Câu 1157 – 1158: Phấn vua lộc nước hương trời,
Bốn mùa bốn cảnh chiều trời xỉnh thay. Câu 591 – 592: Sầu đâu dở dói biếng rằng,
Muôn nghìn danh giá năm mười nhân duyên. Câu 1269 – 1270: Sinh nghe lòng thắm như bào,
Nhủ hoàn khép cửa đẩy trăng giả trời. Câu 757 – 758: Mẹo duyên trộm nghĩ thiêng đời
Nhẽ trời đã quyết dạ nào đinh ninh. Câu 1335 – 1336: Tiếng oan dậy đất lở trời,
Dủi dun báu nước gương trời đợi nhau. Câu 881 – 882: Dắt tơ nay mới vâng lời,
Tin đưa Lưu cũng xa xôi mà chừng. Câu 1431 – 1432: Mênh mang bể khổ sóng dồi,
Đành hay người định thì trời phải theo. Câu 889 – 890: Rằng: Nay nam bắc phân kỳ,
Biết rằng phúc thiện có trời nữa không. Câu 1557 – 1558: Gương trời soi rõ mảnh tình,
Đã đành trời nọ trăng kia với lòng. Câu 915 – 916: Nỗi mình lại ngán cho mình, Trời cao sấm dậy đất bình sầu xây.
Vẽ lòng lá sắc tạc danh biển vàng. Câu 1579 – 1580: Duyên kia đã nặng thề bồi, Thân kia trong mấy thu trời quản đâu.
Câu 1735 – 1736: Phong quang cả bốn mùa trời,
Gió đưa hương rước trăng mời tuyết khuyên.
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Nhà xuất bản Giáo dục – 1994) Câu 3 – 6:
Nước non, trời vẽ nên tranh, Ngư tiều cảnh lạ, mục canh thú màu. Câu 19 – 20: Vườn đào chén cúc dang tay, Câu 39 – 40:
Thể lòng ấy với cao dày, dưới trên. Chèo hoa, buồm quế thẳng làn,
Câu 217 – 218: Có miền gọi Thúy Hoa Dương, Trời thêu thức ngọc, xuân trang màu hồng. Câu 350 – 352: Cho hay tình phận bởi trời, Đường nhân duyên ấy dễ người định nên? Câu 473 – 474: Dầy hoa dun lá bởi tay trời,
Trời in biếc nhuộm, nước rờn chàm pha. Câu 89 – 90: Khôn toan thay đổi cuộc đời,
Nghỉ đến duyên do cũng nực cười. Câu 535 : Dắt mối đưa duyên cũng bởi trời.
Lòng trời đã thế, dễ người cho xong? Câu 211 - 212: Một vùng cảnh phật, bầu trời,
Câu 939 – 940: Nghe kim sơn rất phong tình, Nghĩ rằng cảnh Phật, trời dành đãi tiên.
Nước vờn sắc biếc, non vùi vẻ xanh.
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 5 – 6:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Câu 29 – 30: Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Câu 149 – 150: Nền phú hậu bậc tài danh, Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Câu 203 – 204:
Này mười bài mới mới ra,
Câu 1085 – 1086: Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ trời. Câu 449 – 450: Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi. Câu 1131 – 1132: Một đoàn đổ đến trước sau,
Đinh ninh hai mặt một lời song song. Câu 659 – 660: Trời làm chi cực bấy trời!
Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời. Câu 1179 – 1180: Nàng rằng: Trời nhé có hay!
Này ai vu thác cho người hợp tan. Câu 703 – 704: Trời Liêu non nước bao xa,
Quyến anh rủ yếu sự này tại ai? Câu 1267 – 1268: Song sa vò võ phương trời,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi! Câu 715 – 716: Cơ trời đâu bể đa đoan,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng. Câu 1637 – 1638: Đêm thu gió lọt song đào,
Một nhà để chị riêng oan một mình. Câu 783 – 784: Trời hôm mây kéo tối rầm,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. Câu 1817 – 1818: Bây giờ đất thấp trời cao,
Dàu dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương. Câu 831 – 832: Miếng ngon kề đến tận nơi,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? Câu 1877 – 1878: Bây giờ một vực một trời,
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. Câu 891 – 892: Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi! Câu 2171 – 2172: Đội trời đạp đất ở đời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên. Câu 909 – 910: Trông vời gạt lệ chia tay,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt – đông. Câu 2391 – 2392: Cho hay muôn sự tại trời,
Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm. Câu 913 – 914: Vi lô san sát hơi may,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta! Câu 2441 – 2442: Triều đình riêng một góc trời,
Một trời thu để riêng ai một người. Câu 979 – 980: Nàng rằng: Trời thẳm đất dày,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Câu 2607 – 2608: Chân trời một bể lênh đênh,
Thân này đã bỏ những ngày ra đi! Câu 1017 – 1018: Vả trong thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào? Câu 2655 – 2656: Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Câu 2689 – 2690: Khi nên trời cũng chiều người.
Câu 2861 – 2862: Cửa trời rộng mở đường mây,
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Câu 2763 – 2764: Điều đâu sét đánh lưng trời,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Câu 3121 – 3122: Trời còn để có hôm nay,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 27 – 28:
Mây trời chẳng dám nói ra, Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh! Câu 563 – 564: Tiểu đồng thở ngắn than dài,
Câu 59 – 60: Nhơ cơ tàng sự dặn rằng: Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Trời sao nỡ phụ người tài người ngay! Câu 587 – 588: Quán rằng: Trời đất thình lình,
Câu 235 – 236:
Gió mưa đâu phút gẫy nhành thiên hương. Câu 800 – 801: Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên,
Ai ai cũng ở trong trời, Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Câu 251 – 252: Vái trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây. Câu 947 – 948: Vừa may trời đã sáng ngày,
Câu 555 – 556: Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa, Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ. Câu 1213 – 1214: Trời sao nỡ phụ tài lành,
Câu 557 – 558:
Anh em ai nấy đều thương,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
Câu 1327 – 1328: Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời.
Kẻ còn người mất trời ôi là trời. Câu 1357 – 1358: Thân con còn đứng giữa trời,
Câu 1727 – 1728: Thấy chàng dạ lại thêm đau, Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi. Câu 1489 – 1490: Trên trời lặng lẽ như tờ,
Câu 1991 – 1992: Trịnh Hâm bị cá nuốt rày, Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn. Câu 1551 – 1552: Trong nhà không gái hậu sinh,
Câu 2069 – 2070: Trời kia quả báo mấy hồi, Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 11 đến trang 48) Câu 508 – 509:
Trời cao đất rộng có hay, Sát phu hiếp phụ, sự này thấu chưa?
Bởi đâu hay bởi đa đoan việc trời? Câu 594 - 595: Chồng tôi thác đã thiệt thân,
Câu 526 – 327: Dù tham vua có binh quyền, Vong bần bội nghĩa, bạc đen mặc trời!
Ắt là thiên địa xoay vần mới hay. Câu 606 – 607: Chẳng tham gác phượng, lầu vàng,
Câu 534 – 535: Phạm chàng trách mắng chua cay, Tử sinh hữu mệnh sự nay có trời.
Vái trời, cắt tóc, để tang cho chồng. Câu 623 – 624: Âu là duyên số bởi trời,
Câu 554 – 555: Sự này thấu đến hoàng thiên, Vì tôi nhan sắc mới nên thế này!
Lòng vàng quyết hẳn đẹp đôi duyên vàng. Câu 654 – 655: Than rằng: Trời lắm sắc mây,
Câu 583 – 584: Trách thiên địa bằng gương chẳng xét Anh đi đâu để thiếp bơ vơ? Câu 588 – 589: Nỡ nào cắt chỉ cho đang,
Bề rộng đất dày có thấu tình không? Câu 658 – 661: Thương con, tiếc rể, ngậm ngùi Vái đất kêu trời, than thở cùng ai?
Khắp mọi nơi thương chàng Phạm Tải Bảo nhau rằng trời ở không công. Câu 730 – 731: Lá vàng còn ở trên cây,
Lên trị vì thánh đế cho yên. Chàng đây thoát khỏi truân chuyên, Ơn trời lại được cưỡi lên mình rồng.
Lá xanh rụng xuống, trời hay chăng trời? Câu 868 – 869: Diêm Vương vâng lệnh sắc trời,
Câu 900 – 901: Lại ra đến cửa phủ đường, Trời sai một đám mây vàng, lạ thay!
Cải hiệu Chu Quốc nối đời Trang Vương. Câu 894 – 897: Vâng sắc trời, tôi về dương thế,
Câu 907 – 908: Phạm Tải mở sắc cho xem, Lưỡng ban vâng lệnh Hoàng thiên, đọc rằng
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 3 – 4: Câu 27 – 28:
Chữ rằng phú quý tại thiên, Công danh tại số về quyền tay ai? Chẳng qua trời đất định toan, Thấy chú lính mới lòng càng đã ưa.
Khi mưa khi nắng biết nhờ cậy ai? Câu 476 – 477: Để tôi trời đất chứng tri, Hai bên chú bác vậy thì đều hay. Câu 550 – 551: Chữ rằng phú quy tại thiên,
Câu 49 – 50:
Đi ra binh cách xa cơ, Cơm trời lộc nước bây giờ cũng qua. Câu 75 – 76: Mụ Đội khi ấy mở lời: Đi ra mặt biển chân trời khổ thân.
Tử sinh tại mệnh tự nhiên tại trời. Câu 592 – 593: Nhờ trời chú hãy đi ra, Một mai về nhà công lại đền công. Câu 602 – 603:Chú đi tôi vái với trời: đi đến nơi về đến chốn
Câu 113 – 114:
Đồng tiền phần bạc hao tổn quản chi. Câu 793 – 794: Đi xa xông đạn mũi tên, Nhờ trời về đặng bình yên cũng mừng. Câu 852 – 853: Tôi không bạc bẽo chi đâu,
Đi ra mặt biển chân trời, Bạc kia hai nén đưa người làm tin. Câu 175 – 176: Phò vua mặt biển chân trời, Làm người há dễ cãi lời sao nên. Câu 217 – 218: Hay đâu những việc thiên cơ,
Lòng tôi cũng muốn trước sau nhờ trời.
Câu 1081 – 1082: Từ ngày khôn lớn trưởng thành,
Câu 1698 – 1699: Năm trăng kiêng tuyết giá trời,
Song thân sớm cách thiên đình đã lâu. Câu 1091 – 1092: Nghe lời bán tử lâm ly lụy phiền.
Chớ đi đường tắt những nơi đò đầy. Câu 1844 – 1845: Cam trần là tại thời tiên,
Sự này là tại hoàng thiên. Câu 1142 – 1143: Lương duyên của số tại trời
Giàu sang tại số hư nên tại trời. Câu 1854 – 1855: Nhơn tâm mạc trắc khó dò,
Con ghẻ như con ruột cũng thời là con. Câu 1184 – 1185: Chị em ở chốn quê mùa,
Sự này là lẽ căn do tại trời. Câu 1866 – 1867: Cha con no ít đói nhiều,
Xin ông yên phận cơm vua ngày trời. Câu 1198 – 1199: Chẳng qua phúc phận nhà ta,
Chẳng hay hồn đã tiêu diêu về trời. Câu 1868 – 1869: Ngưỡng kêu ba tiếng hỡi trời,
Trung thành nghĩa khí cũng là trời se. Câu 1206 – 1207: Chẳng qua trời đất định xuôi,
Lấy chi tống táng cha tôi bây giờ. Câu 1888 – 1889: Cậu Hai khi ấy than rằng:
Ai về Tây Thục về nơi Đông Thành. Câu 1222 – 1223: Chân trời mặt biển chơi vơi,
Trọng chưng nghĩa khí của chăng của trời. Câu 1896 – 1897: Cậu Hai khi ấy về nhà,
Lạy bà thương mẹ con tôi với cùng. Câu 1228 – 1229: Lương duyên là số tại trời,
Chuông lầu nhặt khúc trời đà rạng đông. Câu 1948 – 1949: Ta nay vốn thiệt thiên thần,
Cô đừng năn nỉ nhiều lời không nên. Câu 1429 – 1430: Lương duyên là số tại trời,
Ngọc hoàng sai xuống phàm trần dạy ngươi. Câu 1950 – 1951: Ngươi nay vốn thực con trời,
Tuy con ông Phó cũng là cháu tôi. Câu 1445 – 1446: Kêu la than khóc van trời,
Bào thai đổi số cho người dương gian. Câu 1974 – 1975: Cúi đầu trăm lạy thiên thần,
Nào hay mẹ bỏ cho ai nửa chừng. Câu 1661 – 1662: Nên hư là số tại trời,
Tội cam chịu tội thứ dung ngu phàm. Câu 1992 – 1995: Rằng nay các phép thuộc thành,
Không trai có rể đông mười con trai. Câu 1682 – 1683: Mẹ thác đã ba năm trời, Xem trong khí sắc biến dời khác xa.
Cõi trần ở lại thiên đình ta lui. Xuân Hương hồn phách rụng rời, Xem lên trên trời thiên ám địa hôn.
Câu 1998 – 1999: Tiên ông trở lại thiên cung,
Câu 2452 – 2453: Vui thời nói vậy có đâu,
Xuân Hương nước mắt ròng ròng như mưa. Câu 2069 – 2070: Cho nên thấu đến thiên thần,
Ai cầm gàu tát biển ai cắm câu câu trời. Câu 2493 – 2494: Quỷ thần nào chẳng giúp ngầm,
Cho nên trả nghĩa đền ân cháu rày. Câu 2093 – 2096: Bốn bề trời đất thanh không,
Mở lời bao tiếng cao thâm hỡi trời. Câu 2501 – 2502: Cùng nhau nguyện ước sắt cầm,
Tai nghe đùng đùng sấm dậy mây đen. Đoái xem leo lét ngọn đèn,
Trước có trời đất sau cùng xứ sang. Câu 2541 – 2542: Trời xui vàng đã gặp vàng,
Bà cỡi rồng bạch bay lên lưng trời. Câu 2103 – 2104: Trời cao đất rộng thênh thênh,
Thám hoa cũng đấng khôn ngoan ai tầy. Câu 2545 – 2546: Trời xui lan huệ một bồn,
Cung thân vọng bái vong linh bà rày. Câu 2281 – 2282: Chẳng qua trời định đất đưa,
Trời xui đào lý nhất môn sum vầy. Câu 2547 – 2548: Tướng quan tỏ dạ bằng nay:
Xem trong dạ ngọc cũng vừa lòng châu. Câu 2304 – 2305: Thân tôi như muối ép dưa,
Thiệt như lời mụ phước rày trời cho. Câu 2579 – 2580: Xưa kia ở cội cây đa,
Trời ôi có thấu hay chưa hỡi trời! Câu 2123 – 2125: Vái cùng thượng giới Hoàng Thiên,
Trời xui hiệp lại nay mà dâu tôi. Câu 2629 – 2632: Trời xui mai trúc một cành,
Kích cố triều tiền làm lễ triều nghi. Câu 2310 – 2311: Lời thề tại chốn lều gianh,
Trời xui lan huệ yến anh kết nguyền. Sự này là tại hoàng thiên,
Nguyện cùng trời đất chư linh ông bà. Câu 2314 – 2315: Trời xui xanh đã lọc lừa,
Đốt rồi hương khói ngọn đèn hoa đăng. Câu 2641 – 2642: Hai tuần rót chén rượu lê,
Sự này là tại thiên cơ tại trời. Câu 2377 – 2378: Chọn nơi chính bóng soi gương,
Chén này là chén trời đề cho ta. Câu 2669 – 2670: Trời xui trúc hiệp cùng mai,
Thiên cơ đã định cũng bường dạ khanh. Câu 2419 – 2420: Trời cao có thấu hay không, Thấy người tiết nghĩa hiếu trung trong đời.
Loan hiệp cùng phụng đặng ngoài ba đông. Câu 2676 – 2677: Có một chủ tướng Hùng Sư, Tên là Võ Cống mạnh như tướng trời.
Câu 2737 – 2738: Đến ngày phát pháo khai binh,
Câu 3224 – 3225: Ơn trong phúc đức trời dành,
Thám hoa khởi lệnh âm thanh ầm trời. Câu 2766 – 2767: Thám hoa thất thế sa cơ,
Vợ chồng thế ấy con sanh thế này. Câu 3226 – 3227: Sinh con hai tuổi bằng rày,
Phúc đà dọa mã: Ôi! Trời hại ta! Câu 2780 – 2781: Chữ rằng thiên địa vô tư,
Trời hóa phong vũ rước ngay lên trời. Câu 3228 – 3229: Mã Điểu khi ấy đương chơi,
Trời đâu có khiến tau hư phen này. Câu 2792 – 2793: Trời kia mà có hại tau,
Dưới đất sấm dậy trên trời mây bay. Câu 3236 – 3239: Vợ chồng rồi mới la kêu,
Hồn về chín suối hồn sau báo thù. Câu 2862 – 2863: Quỷ thần nào chẳng kim lâm,
Cớ chi có cánh bay theo lên trời. Vợ chồng ngó vọi chơi vơi,
Mở lời ba tiếng cao thâm hỡi trời. Câu 2906 – 2907: Nguyện cùng trời đất ông bà,
Thiên hôn địa ám đất trời mênh mông. Câu 3242 – 3245: Tiên ông đứng giữa lưng trời,
Hồ lô khi ấy hóa ra trong trời. Câu 2960 – 2961: Nước mày bạo địa nghịch thiên,
Bèn kêu: Ôi hỡi vợ chồng nhà ngươi! Con ngươi ta đem về trời,
Không sợ phép nước không kiêng oai trời. Câu 2962 – 2963: Tài tai mi đặng bao hơi,
Ngươi đừng khóc lóc lụy rơi mà phiền! Câu 3254 – 3259: Thám hoa đứng giữa thanh không,
Mày qua mày phá đất trời dân vua? Câu 3028 – 3029: Trời xui may lại quá may,
Cúc cung vọng bái tiên ông giữa trời. Vợ chồng ngó vọi chơi vơi,
Bởi vì con thảo đặng thay dâu hiền. Câu 3116 – 3117: Xuân Hương quỳ dưới thềm lê,
Thấy con tiên rước về thời thượng thiên. Mã Điểu đi học phép tiên,
Sự này là tại trời đề đất đưa. Câu 3150 – 3151: Họ mã kết với nàng Xuân,
Đến nay tính đặng bảy niên trời thời. Câu 3270 – 3271: Trời sanh quý vật nan tầm,
Ơn trong trời đất quỷ thần khiến xui. Câu 3152 – 3153: Ơn trong thần Phật đất trời, Nước nhà an trị gặp ngươi tài tình.
Trời sinh hổ khiếu long ngâm ít đời. Câu 3330 – 3331: Làm trai chí khí anh hào, Trung thành thấu đến trời cao đất dày.
Câu 3354 – 3355: Trên trời đã có hoàng thiên,
Chẳng qua một buổi cho mày nghênh ngang.
Dưới có tam giới đôi bên quỷ thần. Câu 3418 – 3419: Phiên chúa nghe nói liền can:
Mở lời kêu với thiên hoàng, Nguyện xin ra sức dẹp đoàn bất trung.
Con đừng bẻ nạng mà toan chống trời. Câu 3518 – 3519: Nguyện cùng trời đất cao sâu,
Bốn bề trời lặng thanh không, Hóa ra một cái đèn lung giữa trời.
Có khi cay đắng có màu thơm tho. Câu 3526 – 3527: Đoạn này Nam chúa bằng nay,
Câu 3771 – 3772: Trời đà dấy vận họ Hồ, Tâu cùng tân chúa chớ lo nhọc lòng.
Trời sai rồng rước hồn rày chầu thiên. Câu 3585 – 3586: Trời kia sao chẳng có hay,
Câu 3795 – 3796: Thánh hoàng cưỡi hạc chầu trời, Hồ Rô tiếm vị trị ngôi cầm quyền.
Nước kia một gốc lửa rày trăm xe. Câu 3593 – 3594: Mình ăn cơm trời phải trả nợ đời,
Câu 3809 – 3810: Sau thời vái với thiên hoàng, Cờ đề phục quốc mổ gan nịnh thần.
Làm tôi hết sức làm tôi mới đành. Câu 3625 – 3626: Chú đà loạn phép vi nghi,
Câu 3819 – 3820: Nay nghe thánh đế cơ trần, Người đà cưỡi hạc đằng vân chầu trời.
Đến đây làm gì thiên ám địa hôn? Câu 3671 – 3672: Gian nan có lúc gian nan
Câu 3999 – 4000: Nhờ ơn phúc đức ông bà, Trời còn phù hộ Mã gia ta rày.
Trời đâu có để những đoàn Hồ gia. Câu 3719 – 3720: Nguyện cùng thiên địa quỷ thần,
Câu 4128 – 4129: Nam triều xã tắc hãy còn, Ơn trời xui khiến gặp con buổi rày.
Xin anh phò lấy chánh cung với cùng. Câu 3733 – 3734: Mày mà tu dạ hiểm sâu,
Câu 4194 – 4195: Tuy là bé mọn mà thôi, Thiên văn địa lý đất trời tri thông.
Đem lòng tàn bạo trời đâu để mày? Câu 3735 – 3740: Trời nào có phụ người ngay,
Câu 4216 – 4217: Ơn trời tứ hưởng dài lâu, Hùm phò kim bảng, rồng chầu ngọc hoa.
PHƯƠNG HOA
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 15 – 16: Trường môn hơn chúng rõ mười,
Rày xin tìm tõi về miền hương quê.
Bỗng nghe có chiếu chỉ trời khai khoa. Câu 21 – 22: Hà Trung, Thuần Lộc họ Trương,
Câu 645 – 646: Nàng hay lòng vẫn đợi chờ, Thiên duyên xui đến bây giờ gặp ta.
Chiếu trời là huyện Lôi Dương họ Trần. Câu 75 – 76: Kẻo ta già cả tuổi cao,
Câu 675 – 676: Hay đâu hoạn nạn cơ trời, Khiến nên thay đổi cho người biệt ly.
Cơ trời dễ biết khi nào vần xoay. Câu 119 – 120: Sông Ngân đã bắc cầu Ô,
Câu 763 – 764: Trời cao, đất rộng thẳm xa, Đêm trường thanh vắng ai là kẻ hay!
Giàu ăn, khó chịu, phận do thiên tào. Câu 241 – 242: Trường môn sợ hãi rụng rời,
Câu 771 – 772: Xăm xăm đến trước vườn hoa, Canh đà năm khắc, trời đà lặn trăng.
Cảnh Yên, Cảnh Tĩnh kêu trời đã vang. Câu 267 – 268: Thất cơ thay lẽ thiên cơ,
Câu 787 – 788: Than rằng: Trọng nghĩa tôi ngươi, Có công có của, sao trời chẳng dung!
Phu nhân, Cảnh Tĩnh bơ vơ lạc loài. Câu 321 – 322: Đã cho bẻ ngọn, lìa tơ,
Câu 899 – 900: Khóc than, vật vã thương thay, Than rằng: Bể rộng, đất dày, trời cao!
Lênh đênh góc biển, bơ vơ chân trời. Câu 333 – 334: Mẹ già gần đất xa trời, Nỡ nào nàng lại tếch vời âm cung!
Câu 999 – 1000: Xưng rằng: Thiên sứ trên trời, Ban sai sắc mệnh vâng nhời xuống đây.
Câu 339 – 340: Một văn quốc ngữ mấy câu tế nàng: ... Trời thường hai khí, xoay vần chẳng khỏi hơi âm. Câu 349 – 350: Những nương tựa chốn thuyền lâm, Sự tình lần lữa bảy năm trời tròn.
Câu 1009 – 1010: Ngọc hoàng thiên sứ xuống đây, Cảnh Yên dùng lấy khoa này tài cao. Câu 1105 – 1106: Khấu đầu kêu hết mọi nhời, Cá kia khôn thoát lưới trời, lọ ai.
Câu 367 – 368: Đã nhờ chư phật, hoàng thiên,
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 25 – 26: Tống Trân số phận long đong,
Câu 991 - 992:
Lên ba bỗng bị nhà thông chầu giời. Câu 151 – 152: Nuôi mẹ hiếu thảo một lòng,
Chồng nam vợ bắc bồi hồi xiết lo. Câu 1163 – 1164: Trời sai đàn chuột xuống ngay,
Lạy giời phù hộ vợ chồng tôi nay. Câu 193 – 194: Khấn trời lạy phật đòi phen:
Vàng kia tám lạng chuột nay tha liền. Câu 1287 – 1288: Làng nước bỏ chạy tứ vi,
Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi. Câu 349 – 350: Phú ông nghe nói ngỏ lời:
Cũng may trời bụt độ trì làng ta. Câu 1363 – 1364: Trạng nguyên giả cách nặng nhời:
Lấy chồng thế vậy ơn trời nên danh. Câu 475 – 476: Sứ Ngô lại trở về đền,
Gái kia ở bạc đạo giời chẳng ngay. Câu 1551 – 1552: Lòng trời họa phúc khôn lường,
Tâu vua khi ấy: Trạng Nguyên người giời. Câu 523 – 524: Nhẽ đâu tôi nói chẳng ngay,
Cứu riêng công chúa Tần vương vẹn tròn. Câu 1557 – 1558: Lòng giời chưa dứt tiên nga,
Có trời có đất chứng rày cho tôi. Câu 537 – 538: Thế là gian ác chẳng hiền,
Đàn hươu kiếm quả đem ra nuôi người. Câu 1625 – 1626: Bầng bầng giời mới rạng ngày,
Xin làm tội nặng thấu lên đến giời. Câu 673 – 674: Chịu sầu ngậm đắng cho nguôi, Đối phúc cùng giời chẳng biết làm sao.
Ai hay cơ sự tại giời,
Bánh nào thức ấy tài tầy như nhau.
PHAN TRẦN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 625 đến 672) Câu 17 – 18:
Ngay xin trời có phụ nào, Tốt cung quan lộc, vượng hào thê nhi.
Kẻo sư tuổi tác ra vào băn khoăn. Câu 629 – 630: Vì ai giời nhẽ có hay,
Câu 218 – 219: Than rằng: Đội đức cù lao, Bể sâu mấy trượng, giời cao mấy trùng.
Độ trì cho họa là may đinh nào. Câu 633 – 634: Chiều lòng nàng phải lựa nhời,
Câu 239 – 240:
Đã đành góc bể bên giời, Lân la ngày bạc qua vời xuân xanh.
Rằng: Người thành kính thì giời chứng tri. Câu 721 – 722: Họa khi run rủi ơn trời,
Câu 265 – 266:
Đã no cầu khẩn phật giời, Nào khoa cứu khổ, nào bài độ sinh.
Đền công sinh nặng, giải nhời nguyền sâu. Câu 765 – 766: Lân la cửa bụt ngày giời,
Câu 317 – 318: Cửa chùa phơi phới gần nơi, Nhác trông cửa Bụt bầu giời lạ sao.
Hạ qua thu tới đông rồi lại xuân. Câu 863 – 864: Ngửa trông giời bể bao dong,
Câu 349 – 350: Ngựa hồng đai bạc áo lam, Giời cho vả có chí làm thì nên.
Thứ cho dưới gối tấm lòng tiểu nhi. Câu 871 – 872: Người từ lỡ bước long đong,
Câu 469 – 470: Bụt giời xin chứng lòng ngay, Duyên ai dù rủi dù may tại già.
Trời xui ngàn dặm đem lòng tới đây. Câu 907 – 908: Bệ rồng gang tấc mặt giời,
Câu 541 – 542: Đoạn rồi Nam, Bắc đôi nơi, Nỗi niềm phó mặc bụt giời chứng minh.
Tâu nhời trung nghĩa, dâng bài tu nhương. Câu 911 – 912: Mệnh giời vàng xuống năm mây,
Câu 619 – 620:
Lạy giời cho mát mẻ nào,
Ra tài Khấu, Đặng, thử tay Tiêu, Tào.
BÀ CHÚA BA
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 895 đến 956) Câu 83 – 84:
Nó thường quấy chốn hà san,
Câu 593 – 594: Tối tăm trời đất mịt mùng,
Binh trời đánh nó tồi tàn chẳng dung. Câu 89 – 90: Binh trời đã dẹp nó yên,
Hào quang sáng khắp cả trong trường hình. Câu 713 – 714: Dối người, dối được trời nào,
Mà ta dung lấy lỡ phiền lụy chăng? Câu 139 – 140: Trong cung nức những hương trời, Hào quang sáng khắp mọi nơi bảo đài.
Giời Thần, Vua Táo soi vào con tim. Câu 799 – 800: Hổ vừa nhảy tót đến nơi, Chúa mới đổi trời mà khấn nguyện ra.
Câu 147 – 148: Đào trên mây, hạnh trên trời, Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa! Câu 291 – 292: Cũng vì tư bẩm tính trời, Xin đừng ép uổng lòng tôi làm gì.
Câu 951 – 952: Hương Sơn là chốn thiên thay, Tiên nhân tu đó đã đầy chín niên. Câu 1095 – 1096: Bỗng không thấy ở trên đầu, Một tờ giấy kệ bốn câu giữa trời.
Câu 343 – 344: Bạn cùng gió mát trăng trong, Tự tại mặc lòng kẻo lạy trời. Câu 515 – 516: Lòng thành động đến trên trời, Ngọc Hoàng phán lời Thái Bạch Kim Tinh.
Câu 1317 – 1318: Nhờ trên đức Phật Như Lai, Sai Tám tướng trời, phá động rước ra. Câu 1325 – 1326: Tâu rằng: Lời ước khó thay, Nhưng người có bụng trời rày cùng tin.
Câu 541 – 542: Mười phương Phật, chín phương Trời. Hoàng thiên, hậu thổ chứng lời cho không? Câu 543 – 544: Cầm dao cắt máu ròng ròng, Lạy trời, đem máu rảy tung lên trời.
Câu 1337 – 1338: Kinh Lăng Nghiêm, Truyện Phật Bà, Thiên biến vạn hóa, thực là kinh thay. Câu 1353 – 1354:Trẫm nay ơn Bụt, ơn Trời, Trẫm ở chốn này, ai về mặc ai.
Câu 571 – 572: Đã hay đạo mẹ, đức cha, Trời cao biển rộng báo đà xứng chưa? Câu 587 – 588: Canh năm vừa mới rạng trời, Lực sĩ áp điệu ra nơi pháp trường.
Câu 1387 – 1388: Lại hay mộ đạo tu hành, Cho nên Trời chứng lòng thành phong cho. Câu 1403 – 1404: Một nhà vinh hiển thơm tho, Thiên trường địa cửu phụng thờ lửa hương.
Câu 1425 – 1426: Lên trời xuống đất xoay quanh,
Bao nhiêu khổ nạn, tầm thanh hộ trì.
HOÀNG TRỪU (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 959 đến 1023) Câu 67 – 70:
Cùng nhau đua sắc đua tài, Ngạt ngào hương xạ thơm bay khắp giời. Đầy sân san sát những người, Kéo về xe ngựa rợp trời đã đông.
Sơn xuyên cách trở, hiểm nghèo xa xôi. Câu 883 – 884: Mênh mông mặt nước, chân giời, Tàu bè phóng độ, đè vời theo sang. Câu 889 – 890: Chư quân kinh hãi kêu van,
Câu 133 – 134: Giời xanh nước biếc phẩm đề, Dạo sang Nam Việt tàu bè xôn xao.
Giời cao, bể rộng, khôn toan nhẽ nào! Câu 913 – 914: Chăn loan gối phượng nơi nào,
Câu 227 – 228: Min, con thượng vị nước người, Cha cầm quyền bính thay giời trị dân.
Thân sao phải chịu lao đao mấy giời! Câu 997 – 998: Cửa nhà thì cũng ơn giời,
Câu 401 – 402: Anh còn thượng vị nước người, Cha cầm quyền bính thay trời trị dân.
Mẹ cha định gả cho nơi chẳng vừa. Câu 1065 – 1066: Vậy mà đánh đủ năm mươi,
Câu 405 – 406: Khắp hòa thiên hạ dưới trời, Chưa ai đẹp ý, chưa ai bằng lòng.
Cắn răng mà chịu kêu giời rằng oan! Câu 1111 – 1112: Người giời lại có phúc giời,
Câu 805 – 806: Nhân duyên tượng bởi tại giời, Quăng ra phải nó chết ngoài đình vi.
Xui lòng Hoàng tử đến chơi, một ngày. Câu 1149 – 1150: Lạ gì hiền có ý hiền,
Câu 851 – 852:
Nhân duyên đã trái, thiên duyên lại vì. Câu 1321 – 1322: Còn tôi trôi giạt vào bờ, Bên trời góc biển bơ vơ một mình.
Trông ơn đại đức sinh ra, Công là bể rộng, nghĩa là giời cao. Câu 865 – 866: Nghe rằng bể rộng, giời cao,
Câu 1527 – 1528: Trẫm từ lên trị ngôi trời,
Câu 1547 – 1548: Lạ thay sự lạ trong đời!
Bắc, Nam hòa thuận, mọi nơi thái bình. Câu 1535 – 1536: Lòng vua cầu khấn phật trời,
Dẫu ai sinh tử có giời mới nên. Câu 1561 – 1562: Giời cho sinh được ba Hoàng,
Ngọc hoàng sai chiếu xuống nơi hải hà.
Xin tâu Thánh phụ rõ ràng trước sau.
LÝ CÔNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1027 đến 1087) Câu 7 – 8:
Có lòng thấu đến bụt trời, Cho bà Tể tướng bỗng người thụ thai.
Họ Lý có phải duyên kia ngãi này? Câu 191 – 192: Cuộc vui trong chúa chưa xong,
Câu 39 – 40: Đêm ngày dưỡng dục trên lầu, Khuya sớm vào chầu, tiện chốn thiên cung.
Lưới trời mắc phải động lòng cảm thương. Câu 217 – 218: Gương vàng cất lấy cầm tay,
Câu 59 – 60: Nguyên nàng số lý nghề nòi, Dưới đất trên giời thuộc hết mọi phương.
Đằng vân giá vũ phút bay lên trời. Câu 263 – 264: Người trời trời lại chở che,
Câu 77 – 78:
Kiếp tiên đày đọa ê chề mãi sao? Câu 273 – 274: Đêm thâu nguyệt tỏ sáng trời,
Thị Hương đặt gối phân trần: Kìa kìa tán phủ mười phân ngất trời.
Câu 155 – 156: Cha tôi sớm vắng chầu trời, Cho nên luống chịu mồ côi tháng ngày.
Thị Hương đã ngồi bãi cát tràng sa. Câu 407 – 408: Muôn dân thiên hạ ai ai,
Câu 161 – 162: Hai ta, con đức Ngọc Hoàng, Trên trời sai xuống bốn phương trị vì. Câu 163 – 164: Nguyện cùng trời đất chứng tri,
Đều sa nước mắt, tối trời một khi. Câu 421 – 422: Chúa rằng: Chàng Lý kia ơi, Chẳng lo chi thiếp mệnh trời đã yên.
Câu 479 – 480:
Cha tôi tuổi cả chầu trời,
Tâu vua chớ đánh lại người làm chi.
Trăm quan chọn người hiền sĩ, thay tôi. Câu 633 – 634: Thấy trời u ám tứ bề,
Câu 1053 – 1054: Nhời thần nào có linh chăng, Hay là trời khiến mệnh căn bảo toàn.
Thị Hương ngửa mặt một khi xem trời. Câu 649 – 650: Thiên văn coi đã làu thông,
Câu 1147 – 1148: Hai người lăn khóc một thôi, Trên trời bỗng thấy một đôi tiên rầy.
Trên trời dưới đất nói cùng ông hay. Câu 717 – 718: Đêm vào gươm gẫy tan không,
Câu 1181 – 1182: Bấy giờ hoàng hậu chín ngôi, Xem thư mà khóc: Trời ôi chăng trời!
Phật trời cứu lấy Lý Công phen này. Câu 719 – 720: Cho nên trời mới sáng ngày,
Câu 1183 – 1184: Thấy thư mà chẳng thấy người, Cơ khổ mấy trời! Xiết nỗi lầm than.
Hung Nô kíp gọi chàng mai đem vào. Câu 781 – 782: Con tôi thế mạng cho người,
Thư rằng 3 – 4: Tôi sinh là gái, tuổi mới mười ba, Trước duyên trời khiến, nên gặp Lý Công.
Lạy chín phương trời cứu lấy con tôi. Câu 961 – 962: Trạng nguyên rầy có binh trời,
LƯU NỮ TƯỚNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1091 đến 1214) Câu 33 – 34:
Mới hay vạn sự tại thiên, Thời vừa giữa tiết minh niên ngày lành.
Câu 61 – 62:
Những màng nghĩ ngợi xa gần, Thời vừa trời đã cuối xuân sang hè.
Phán rằng: Đố quốc quyết tình chẳng tha. Câu 93 – 94: Đã hay vương mệnh ở trời,
Câu 67 – 68:
Sửa sang gia sự chỉnh tề, Nào hay trời đã cuối hè sang thu. Rắp lòng chiếm đoạt ngôi trời,
Bất trung chẳng để những người tà gian. Câu 115 – 116: Trời còn thương kẻ oan vu, Xui lòng Lưu tướng lên chùa cầu yên.
Câu 83 – 84:
Thiên binh, vạn mã dành nơi quê nhà. Câu 87 – 88: Thiên uy nổi trận lôi đình,
Câu 137 – 138: Gan vàng chẳng luộc mà sôi,
Câu 953 – 954: Dặm hoa lừng lẫy hương trời,
Oan này còn một cậy trời rửa cho! Câu 143 – 144: Lòng ta hiếu nghĩa chí thành,
Phút giây, kiệu đã đến nơi cửa thiền. Câu 993 – 994: Tiểu thư khi ấy kế cùng,
Giơ tay núi lở, cất mình trời long. Câu 155 – 156: Đến Kinh Sơn chốn tuyệt vời,
Than rằng: Trời đất phụ lòng thảo ngay! Câu 1075 – 1076: Ví duyên chẳng có bởi trời,
Chiếu xem địa thế biết trời dành cho. Câu 175 – 176: Chúc rằng: Đất rộng trời cao,
Thời sao Lưu Nguyễn tới vời Thiên Thai? Câu 1091 – 1092: Lòng này thề có gương Hằng,
Hồn thiêng về dưới suối đào, biết chưa? Câu 179 – 180: Bên thùy riêng một triều đình,
Mở trời, phá đá há rằng đơn sai? Câu 1541 – 1542: Dẩy dun tượng bởi duyên trời,
Dọc ngang trời rộng, tung hoành bể khơi. Câu 571 – 572: Trạng nguyên quyết chẳng chiều lòng,
Em xin gỡ mối xích thằng cho xong. Câu 1649 – 1650: Gia nghiêm lạm dự đế đình,
Đã đành bọt nước khôn long cột trời. Câu 587 – 588: Thiên uy nổi trận lôi đình,
Cần lao đời biết, trung thành trời hay. Câu 1667 – 1668: Cao xa thay bấy chín lần,
Phán rằng: Thử thiết sao khinh lưới trời. Câu 619 620: Trời nhầm thương hảo tâm nhân,
Gương trời dường ấy chẳng phân chính tà. Câu 1679 – 1680: Dân dà lữ khách, tha hương,
Phen này, ta quyết trả ân thù nhà! Câu 624 – 625: Tới sau gặp hội khả vi,
Hai đông, trời mới mở đường thanh vân. Câu 1687 – 1688: Thù nhà đã trót nặng lời,
Lời này mà có chẳng y, đã trời! Câu 649 – 650: Đồn làm trên núi Thạch Lan,
Chẳng nên, thời cũng một trời chia hai! Câu 1711 – 1712: Thanh danh mấy kẻ nghiêng trời,
Ngày xem trận pháp, dậy ran góc trời. Câu 705 – 706: Nghĩ rằng thương nát dân trời,
Tâng vương giấc mộng tiếng cười nghìn xuân. Câu 1765 – 1766: Gió trăng bao sá lòng đời,
Vậy nên tuyệt vực, lánh lời sàm ngôn. Câu 905 – 906: Có phen viếng cảnh tham thiền, Lân la trải khắp non tiên, bầu trời.
Nhất sinh, mỗ đã cậy trời chủ trương. Câu 2013 – 2014: Lưu công nghe nói thưa bày; Lòng tôi dù có chẳng ngay, đã trời.
Câu 2071 – 2072: Truyền bày Tư Mã đô đài:
Câu 2141 – 2142: Nghĩa nàng Lưu, kể khôn cùng,
Trẫm có công chúa, người trời ban cho.
Khi nên, trời cũng chiều lòng ấy cho.
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 89 – 90:
Lối chèo lần vốn so le, Rêu in mặt đất, bóng che ngất giời.
Tiếng gieo mặt nước đã ran dậy giời. Câu 653 – 654: Kèn loa nhã nhạc lo loe,
Câu 175 – 176: Trộm nghe tiên tử coi giời, Sớm sinh thánh nữ khác vời trần gian!
Tiêu thiều trống mõ uy nghi dậy giời. Câu 741 – 742: Ngỡ con mến cảnh ham chơi,
Câu 201 – 202: Hai người vâng mệnh con giời, Cúi đầu lạy tạ, chân dời giở đi.
Một mình lăn khóc dậy giời gần xa! Câu 887 – 888: Lên đường bày đủ mọi nơi,
Câu 257 – 258: Chẳng ngờ giời đã rạng đông, Chuông chùa đã đánh, cửa rồng mở toang.
Ba nghìn thế giới, bầu giời đóng nêm. Câu 897 – 898: Chàng nghe mới bảo nàng rằng:
Câu 303 – 304: Nghìn năm hương lửa bén duyên, Đã thề non thẳm lại nguyền giời cao.
Theo đua cùng chị xem chưng bầu giời. Câu 941 – 942: Vui thay chậu cá nước bình,
Câu 339 – 340: Thủy Tinh quân kéo lên ngàn,
Giời sao khéo khiến hiện hình chúng bay.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 1281 đến 1310) Câu 153 – 154: Giời đâu phụ kẻ tiết nghì, Lân kinh mao giản tạc ghi còn truyền.
Câu 593 – 594:
Câu 229 – 230: Cho hay duyên kiếp bởi giời, Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.
Câu 665 – 666: Lạ đường chuột cái sa ao, Thực là báo ứng giời nào có xa.
Câu 459 – 460: Giăng hoa coi những làm thinh, Có giời hẳn biết cho mình mà thôi.
Câu 759 – 760: Ai hay đen bạc biến dời, Dẫu người chẳng biết, nhưng giời đã hay.
Bây giời tính nết đã quen, Chắc rằng kiến lỗ khó lên trên giời.
CHUYỆN CÁI TẤM – CÁI CÁM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1313 đến 1333) Câu 5 – 6:
Ai ơi trong đạo làm người, Giữ điều nhân nghĩa thì giời chứng cho. Câu 9 – 10: Đạo trời báo phục rất công, Làm điều gian ác chớ hòng được lâu.
Nói xong Phật biến về nơi Thiên đàng. Câu 189 – 190: Ngán thay cái số long đong, Bông đào hé nhụy trời đông sương hàn. Câu 251 – 252: Nào quần nào áo nào dù,
Câu 11 – 12:
Vòng vàng hài phượng trời cho đó mà. Câu 391 – 392: Lá xanh rợp một phương trời, Nảy ra quả chín chơi vơi đầu cành. Câu 443 – 444: Một hôm nhân buổi trời tà,
Làm lành trời phật giúp sau, Chuyện này chép để khuyên nhau gọi là. Câu 89 – 90: Tấm ngồi than khóc thảm sầu, Thấu tình chăng hỡi trời cao đất dày. Câu 115 – 116:
Ân cần dạy dỗ mấy nhời,
Đức vua qua đó vào nhà nghỉ chân.
Câu 455 – 456: Đức vua nghe nói mừng vui,
Công tâm đã cảm chín lần trời cao.
Phán rằng ấy thực lòng trời xui nên. Câu 539 – 540: Thế là mẹ Cám xong đời,
Câu 555 – 556: Mệnh cung ở số Thiên tào, Gót tiên chút bỗng lại vào làng tiên.
Ác giả ác báo lẽ giời xưa nay. Câu 553 – 554: Khách tiên giáng xuống cõi trần,
Câu 557 – 558: Hồng vân một đóa kề bên, Là là đón bạn cung Tiên về trời.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508) Câu 5 – 6:
Ngẫm xem thiên đạo chí công, Dở hay cũng bởi trong lòng mà ra.
Khấn trời thấm thía nguyện cùng cho cha. Câu 185 – 186: Than ôi! Đất rộng trời dài,
Câu 43 – 44: Có ai hạ giới cúng đây, Chuông kêu thấu đến trên này thượng thiên.
Người đời ai có như tôi thế này? Câu 187 – 188: Đem cha táng ở gốc cây,
Câu 117 – 118: Vợ chồng nước mắt hai hàng, Khấn cúng ngọc hoàng thiên địa chứng tri.
Vái cùng thiên địa ngày rầy chứng minh. Câu 193 – 194: Cố làm lấy một tuần chay,
Câu 165 – 166: Dương thị chua xót trong lòng, Kêu giời vạch đất giọt hồng nhỏ sa.
Cho cha siêu độ lên mây chầu giời. Câu 203 – 204: Đeo mang đã chín tháng giời,
Câu 169 – 170:
Tưởng niệm cúc dục, ruột tôi càng đầy. Câu 251 – 252: Còn thì lão chẳng dám phiền,
Tử sinh cũng có một đời, Cha về chầu giời cách trở xót xa.
Câu 179 – 180: Phạm Công nước mắt ròng ròng,
Nói thôi liền biến thượng thiên ba tòa.
Câu 277 – 278: Nhân duyên âu bởi sự giời,
Câu 793 – 794: Phạm Công ruột xót như bào,
Nay đi lại gặp có nơi tơ hồng. Câu 367 – 368: Hoàng thiên bất phụ hảo tâm,
Ngày đêm than thở giời cao đất dày. Câu 825 – 826: Hay đâu cũng bởi duyên giời,
Người hiền, ai thấy chả nhằm kết duyên. Câu 401 – 402: Con ta như thể bông hoa,
Không đầy ba tháng nàng thời thụ thai. Câu 1047 – 1048: Đục cả hai hàm răng nhai,
Khi nào có dám mang ra mặt trời. Câu 407 – 408: Lễ dâng khấn Phật cầu trời,
Phạm Công lăn lóc kêu giời xót xa. Câu 1051 – 1052: Phạm Công đọc sớ thuộc lòng,
Chiếu kính ra rồi, thêm sự xót xa. Câu 471 – 472: Ông bà nghe nói thở dài,
Đêm nguồn cơn vái giời cùng chứng minh. Câu 1143 – 1144: Ai ngờ muôn sự tại thiên,
Ôm con mà khóc kêu giời xiết bao. Câu 529 – 530: Chàng theo nữ sứ thương thay,
Đi vừa hai tháng tới miền Đăng châu. Câu 1538 – 1539: Hai con thì cõng hai vai,
Hai tay dắt mẹ, trời hay chăng trời! Câu 615 – 616: Phút đây gà gáy giục liền,
Việc này thấu đến tận giời xót xa! Câu 1617 – 1618: Trạng nguyên tâu thực mọi nhời:
Lấy được đủ tiền, trời cũng sáng ra. Câu 647 – 648: Tơ hồng Nguyệt lão đã se,
Tài tôi thô thiển nhờ giời giúp công. Câu 1667 – 1668: Bốn bề rộn rịp linh đình,
Duyên giời đã định phu thê mới rồi. Câu 699 – 700: Gớm cho thiên số an bài,
Làm chay ba tháng lòng thành thấu thiên. Câu 1685 – 1686: Đường đi một bước một chầy,
Ngũ hành chẳng được, lộc tài thì không. Câu 727 – 728: Mới hay thiên số lạ dường,
Ước gì có cánh mà bay lên giời. Câu 1695 – 1696: Dạo quanh khắp bốn phương trời,
Mười ngày vừa chẳng, huyên đường về quê. Câu 731 – 732: Hiếu trung giữ trọn hòa hai,
Trần hoàn đâu lại thấy người cửu nguyên. Câu 1706 – 1707: Chẳng qua thiên số an bài,
Giàu ăn, khó chịu, dám sai đạo trời. Câu 755 – 756: Cúc Hoa sùi sụt thưa trình: “Đạo trời như thế, ai rình đền công”.
Xin chàng đừng nghĩ đến hồi phân ly. Câu 1781 – 1782: Trạng nguyên trong dạ tần ngần, Khấu đầu lạy tạ trước sân ra về.
Câu 1875 – 1876: Cha ngồi vương tướng cao thay,
Câu 2711 – 2712: Trạng nguyên than thở khi nay:
Con thời chăn ngỗng, giời hay chăng là? Câu 1939 – 1940: Tào thị nghe nói hỡi ôi,
Đạo giời quả báo rất hay nhiệm mầu. Câu 3107 – 3108: Tử sinh số mệnh tại thiên,
Vái lạy đất giời chứng giám cho ta. Câu 1955 – 1956: Giời ơi, có thấu cho không?
Trạng nguyên bái tạ vội liền ra đi. Câu 3155 – 3156: Ngỡ là thiên sứ trên giời,
Tháng ngày đói khát, xin rong phố phường. Câu 1977 – 1978: Kiệu tàn che phủ đồi nơi,
Bao nhiêu cửa ngục trong ngoài mở ra. Câu 3159 – 3160: Vợ tôi là Cúc Hoa rày,
Hai bên quân kéo rợp trời nghênh ngang. Câu 2005 – 2006: Đêm hôm trời đất tối tăm,
Mới ba mươi tuổi bỗng nay chầu giời! Câu 3209 – 3210: Giời sinh có nước có non,
Anh để em nằm ma bắt em đi. Câu 2051 – 2052: Thư thời mẹ đã buộc rồi,
Phải cho tắm rửa mới an việc này! Câu 3405 – 3406: Tứ bề đào mận nở hoa,
Bây giờ mẹ lại chầu giời đường nao! Câu 2252 – 2253: Mẹ con bất hạnh chầu giời,
Cõi này mới biết xem ra thấy trời. Câu 3413 – 3414: Trạng nguyên bước tới liền vô,
Cha đi viễn trấn ở nơi Cao Bằng. Câu 2302 – 2303: May mà trời chửa dứt lòng,
Động đình ngỡ sứ trên tòa thượng thiên. Câu 3457 – 3458: Các vị đứng dậy chào khuyên,
Giữa đường gặp mẹ thư phong tỏ bày. Câu 2481 – 2482: Giời gần chẳng có xa đâu,
Chào rằng quan sứ thượng thiên tạm ngồi. Câu 3516 – 3517:Đường trường cách trở gian nguy,
Nàng đi vừa đến nửa đầu ngã ba. Câu 2483 – 2484: Giời sai đánh đứa gian ngoa,
Chẳng ngờ quan trạng lạc đi lên trời. Câu 3545 – 3546: Trạng nguyên lăn lóc kêu trời,
Là con Tào thị gian tà, bất nhân. Câu 2487 – 2488: Thiên Lôi trở lại trên mây,
Đến đây chè rượu vui chơi một thì. Câu 3627 – 3628: Ngựa hồng nó thét vang trời,
Hổ lang bèn đến ngày rầy tha đi. Câu 2649 – 2650: Đánh chết đồng tử cho coi, Các vị nhà giời đều sợ Phạm Công.
Sao ông còn ngồi hỏi hiếc làm chi. Câu 3821 – 3822: Đầy đường gươm giáo can qua, Dùi đồng búa sắt bày ra ngất trời.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 2541) Câu 123 – 124: Còn trời, còn nước, còn mây,
Tựa hoa theo liễu, rắp tìm tới nơi.
Mà người tri kỷ vắng rầy biết sao? Câu 159 – 160: Một trời một biển mênh mông,
Câu 235 – 236: Cũng vì xui khiến lòng trời, Không dung ai dễ tìm tòi được tu.
Nước tuôn trắng xóa mây lồng biết om. Câu 185 – 186: Nào hay máy miệng khôn dò,
Câu 439 – 440: Một bầu sơn thủy cheo leo, Trời dành lập để treo theo cho chàng.
Vô tình trời bỗng vun cho hữu tình. Câu 203 – 204: Nắng soi độ nửa ban ngày,
Câu 465 – 466:
Mở quang trời rộng ra ngay đất bằng. Câu 213 – 214: Hương trời thoang thoảng đưa thơm,
Câu 521 – 522: Bên giời chàng mới trông ra Mây tuôn vẻ trắng, ráng pha thức hồng.
Ai hay những kẻ tài tình, Cơ duyên trời đã để dành về sau.
THOẠI KHANH – CHÂU TUẤN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1599 đến 1636) Câu 170 – 171:
Oan này trời đất có hay,
Mới vương nạn tám, mắc rày tai ba.
Câu 295 – 296: Truyền khắp phủ huyện chẳng chừa một nơi:
Bốn mươi tuổi chẳng chưa rời khỏi cung.
Thoại Khanh chẳng thuận mạng trời. Câu 356 - 357: Phật trời lòng cũng thương vì,
Câu 628 – 629: Trời dầu có giúp vận nghèo, Đi đâu tôi cũng phải chìu dám không?
Bèn cho Tuấn mẫu tức thì hoàn sinh. Câu 368 – 369: Thoại Khanh nghe nói bùi ngùi,
Câu 664 – 665: Mẹ con con mắt đều không, Phật trời xuống phước ở trong cây đờn.
Vái trời xin chứng lòng người thảo ngay. Câu 375 – 376: Lời nguyền thấu đến trên trời,
Câu 762 – 763: Trời đà xui khiến vậy mà, Chánh thê tiểu thiếp cũng đà xứng đôi.
Cầm dao nàng cắt chẳng rơi máu hồng. Câu 438 – 439: Than cùng đất thấp trời cao,
Câu 780 – 781: Chẳng dè cảm động lòng trời, Trời bèn xuống phước cho tôi cây đờn.
Miễn sống dắt mẹ, quản bao ăn mày. Câu 468 – 469: Phật trời xem thấy người ngay,
Câu 820 – 821: Thoại Khanh hiếu hạnh ai đang, Nguyền xin Trời Phật lắp an cho nàng.
Thích Ca xuống phước cho ngay cây đờn. Câu 498 – 499: Những mong tự vẫn chết đi,
Câu 822 – 823: Phật Trời độ kẻ có đoan, Song mâu chắp lại tỏ tàng như xưa.
Phật trời mách bảo chẳng chi mà phiền. Câu 502 – 503: Trời đà thêm phước cho rày,
Câu 840 – 841: Hai sứ trở lại tòa chương, Tâu rằng Quốc trạng đã an ngôi trời.
Vợ chồng thăng thọ hưởng đầy trăm năm. Câu 526 – 530: Tề vương chánh trị ngôi trời,
Câu 858 – 859: Thái hậu tuổi quá kỳ di, Ngọc Hoàng sai sứ rước về thượng thiên.
GƯƠNG SÁNG TRỜI NAM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1665 đến 1743) Câu 27 - 28:
Trời đưa phú quý tới tay,
Đưa cho Trần kéo tốn sinh linh.
Chẳng cầu hòa gặp, chẳng nài hòa nên. Câu 71 – 72: Tấm lòng đã cậy trời già, Sóng là tướng mạnh thác là thần ngay.
Câu 419 – 420: Trẻ lành trời ruổi biết lòng Thành tiên cõi nước, sánh rồng áng mây. Câu 443 – 444: Éo le học nói ba sinh
Câu 89 – 90: Thay họ Thục trời so đến Triệu Vận chẳng thường đời thiếu kẻ ngoan.
Câu trời bán bụt, thác danh thờ thầy. Câu 448 – 449: Dấy con ân ái nào lòng nam mô
Câu 105 – 106: Giày ngôi báu cõi bờ bằng vững Nài mệnh trời gái chẳng dám đương.
Vận đến Hồ thì trời còn đợi. Câu 475 – 476: Tương trời vận mở hanh thông
Câu 183 – 184: Hòa Tú, Cơ, Điền mấy ngươi Cắp non là chí chống trời là công.
Nước trong có thánh màn trong có hiền. Câu 477 – 478: Lê Hoàng cất ba ngàn hùm sói
Câu 201 – 202: Nghiệp Lê trọn đổi giềng tới Lý Dịp bút trời hằng ký ở cây.
Gói mác trời khua đuổi giặc Minh. Câu 508 – 509: Ghê phen rập đất dâng điều trái tai,
Câu 245 – 246: Thiếp trong tường ra tay mong sửa Nại mệnh trời chưa dự cho xong.
Cột chống trời mấy tài Nguyễn Xý. Câu 515 – 516: Có thù chẳng phụ cùng trời,
Câu 255 – 256: Oai trời tay cất mác trao, Khác nào Tần chúa vội treo kiếm màng.
Mới tìm rồng thực đứng nơi hào càn. Câu 523 – 524: Một phen rõ dạ nguyện trời
Câu 259 – 260: Cớ sao phụ ấm quên no Ghê nơi chiếc đũa dám đo đến trời.
Thần linh biết được nhủ người chân long. Câu 601 – 602: Nào còn thẹn chúa dạo trời,
Câu 297 – 298: Hay ý trời xui lòng nàng muốn,
Ai hiền thì rẻ, ai tài thì chê.
Câu 657 – 658:
Đất trời lọt khắp tơ hào,
Câu 855 – 856: Luống sinh không ở trong trời đất
Biết cung khá dự, biết hào khá nên. Câu 683 – 684: Vâng mệnh trời vì dân đánh tội,
Câu 881 – 882:
Bốn phương vầy một mối xa thư. Câu 695 – 696: Mở gai góc nhiều thu dọt tuyết,
Việc trong trễ nải việc ngoài lắng lo. Câu 887 – 888: Hãy vẹn vẹn thìn nghì chuyên một
Bày trận trời mới biết tay trai. Câu 753 – 754: Thánh Vương vâng nối nền Vương
Người chẳng hay trời ắt đã hay. Ống dòm khá khắp vẻ trời
Câu 897 – 898:
Nhẫn muôn đời cất mặt xem ai. Một thân dễ đợi mấy trời,
Giữ gìn báu cả sửa sang việc trời. Bán lòng lo những một thì
Tượng mình chưa đáng, luận người bao cam. Câu 925 – 926: Miễn là nước trị dân an
Nào kinh phép nước nào ghê đạo trời.
Tước người khéo chước, trời ban chước trời.
Câu 809 – 810:
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4051 – 4052: Nhời phàm thấu cửu trùng thiên,
Sự vui kia với sự phiền ghen nhau.
Hỏi qua Vương mẫu sự duyên thế nào? Câu 4093 – 4094: Tuổi già xế bóng cả đôi,
Câu 4157 – 4158: Thạch bà chẳng bệnh không đau, Tự nhiên giời gọi về chầu cảnh tiên.
Ông về tôi ở, trách Giời chẳng công. Câu 4151 – 4152: Còn giời, còn nước, còn non,
Câu 4195 – 4196: May ra gặp buổi tốt giời, Cơm lam cũng được đủ hai bữa liền.
Công phu đền báo tấc son có ngày. Câu 4155 – 4156: Hay đâu vạn sự do thiên,
Câu 4213 – 4214: Tiên ông nghe nói tỏ bày: Tà đây Lý Tĩnh chức rày Thiên vương.
Câu 4357 – 4358: Lý bà nghe nói, tạm vui,
Câu 6603 – 6604: Sanh rằng: Khéo thực là anh!
Song e ở thế, sợ giời không dung. Câu 5597 – 5598: May quần, may áo cho xinh,
Tội giời phụ nghĩa bạc tình chẳng oan. Câu 6623 – 6626: Mẹ con về đến giữa đường,
Giời cho ta có phúc lành thời nên. Câu 5733 – 5734: Hát đà tám, chín ngày giời,
Thiên lôi ngũ bộ đánh liền cả hai. Cho hay những kẻ phi loài,
Chẳng ai có nói một nhời chi đâu. Câu 6087 – 6088: Cội đa chốn ấy quê tôi,
Người mà không giết, thì giời chẳng tha. Câu 6701 – 6702: Đàn kêu hơn thiệt mọi nhời,
Mẹ cha sớm đã chầu giời một khi. Câu 6253 – 6254: Lằm rằm lạy chín phương giời,
Nhân duyên phu phụ số giời đã se. Câu 6733 – 6734: Sanh rằng: Sao chẳng đánh đi,
Lạy mười phương Phật độ tôi an hòa. Câu 6463 – 6464: Làm cho chua xót lòng cha,
Thuận trời đã thuận, ai thì tranh ai. Câu 6823 – 6824: Lại ban mười tám nước ngoài,
Cầu trời, khẩn Phật kể là hết hơi. Câu 6545 – 6546: Thấy chàng nói thảm bùi ngùi,
Phong làm vương tước thay giời trị dân. Câu 6833 – 6834: Mới hay người ở thực thà,
Nghĩ mình cũng ở đất giời, đất vua.
Giời kia chẳng phụ, ắt là thanh tao.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160)
Câu 17 – 18: Tiết vừa ngày trung thu vọng nguyệt, Câu 55 – 56:
Nức hương trời mùi ngát thơm xa. Than rằng đất rộng trời tròn,
Bao giờ cho lại thấy con chăng là. Câu 152 – 153: Tự thai nhi hữu sinh vô tử,
Lạy mẹ ở tôi về thượng thiên. Câu 178 – 179: Trời nào phụ kẻ có nhân, Mẹ già chàng hãy ân cần viếng thăm. Câu 200 – 201: Các ban tiên mừng chầu đón rước, Vào động đình tạ trước thiên nhan.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 3 – 4: Câu 11 – 12: Câu 21 - 22: Câu 25 – 26:
Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay, Xem cơ báo ứng biết tay trời già. Gian tà đắc chí mấy hơi, Mắt thần khôn giấu lưới trời khôn dung. Nền trung trực dạ trang đài, Trời cho văn tử đáng tài trạng nguyên. Nhân duyên vốn sẵn tự trời,
Hôn nhân đã định vào nơi họ Hầu. Câu 59 – 60: Mai công phụng chỉ thăng thuyên, Chiếu trời mây vỗ ân trên mưa nhuần. Câu 93 – 94: Sẻ đàn phượng một chắc đâu, Câu 97 – 98:
Cái lo này để về sau tại trời. Nhà huyên xin chớ lo xa, Hễ trời có mắt thì ta lệ gì?
Câu 237 – 238:
Ai ai khóa miệng bịt hơi,
Ngang vua phú quý nghiêng trời uy linh. Câu 257 – 258: Một vùng riêng đặt phủ trời, Hoàng thành chăm chắm kỳ đài cao cao. Câu 271 – 272: Tiếng trời đưa lại bệ rồng, Câu 319 – 320:
Đặt tòa giáng viện kén dùng kẻ trung. Rồi đây trời cũng có ta,
Làm bao giờ biết bấy giờ mới cao. Câu 335 – 336: Thoát thôi từ tạ mấy người, Câu 579 – 580:
Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai. Trọn ngày đến bến lên bờ,
Trời hôm vào đấy là chùa Thọ Am. Câu 581 – 582: Than rằng: Tội báo cho cam, Thế này trời hãy còn làm đến đâu.
Câu 589 – 590:
Trời còn cứu kẻ anh tài,
Câu 1937 – 1938: Ông nghe thấu hết sự lòng,
Câu 693 – 694:
Trong chùa bỗng có một người bước ra. Lại mang cái tiếng tôi đòi,
Cả cười mới dạy: Rằng rong đạo trời. Câu 2109 – 2110: Lòng người vốn sẵn lẽ trời,
Nhân duyên trời có chiều người cho chăng. Câu 723 – 724: Sáng mai trong lọt bốn tường,
Mới hay trong đạo ai ai cũng lòng. Câu 2157 – 2158: Buổi chiều xe ngựa ồn ồn,
Cành hoa dưới đất mùi hương trên trời. Câu 737 – 738: Rằng: Xin đợi lại mấy ngày,
Tiện đường đón lấy nghỉ khôn lên trời. Câu 2201 – 2202: Cao minh xin tỏ đèn trời,
Cầu trời khấn Phật, hoa này lại tươi. Câu 935 – 936: Chịu trời chăng một chữ thì,
Tra người vô phép hỏi người mưu gian. Câu 2319 – 2320: Thôi thì trời cũng chẳng xa,
Áo này dù đổi lòng kia không dời. Câu 963 – 964: Nặng vì chúc nghĩa họ Mai,
Xưa nay hãm hại người ta đã đầy. Câu 2363 – 2364: Trời đã chứng kẻ oan vu,
Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong. Câu 1011 – 1012: Cao cao thôi lại tầng tầng, Trời như khổ thấp đất bằng dường xa.
Trừ gian may lại phục thù có cơ. Câu 2381 – 2382: Phùng công tâu trước mấy lời: Chuyện nhi chân giả đèn trời xin soi.
Câu 1027 – 1028: Tấc lòng thề với trời cao, Quản chi trắng tóc nỡ nào nối dây. Câu 1031 – 1032: Riêng ai trách lẫn trời già, Xe tơ sao khéo hững hờ cợt ai.
Câu 2395 – 2398: Suy ra mới biết trời gần, Chính tà một bụng quỷ thần hai vai. Gian thần chưa chắc nẩy chồi, Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.
Câu 1187 – 1188: Hỏi tên là Lạc Nhạn đài, Trùm mây mờ mịt ngất trời chon von.
Câu 2419 – 2420: Khi nên mọi việc mọi nên, Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi.
Câu 1329 – 1330: Sinh rằng: Đâu dám to gan, Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người.
Câu 2533 – 2534: Oai trời một lưới tứ phương, Rung gan đẳng nịnh ghê xương lũ tà.
Câu 1427 – 1428: Bên lòng trăm mối bời bời, Trông ra một nước một trời mênh mông.
Câu 2551 – 2552: Chiếu trời đã tỏ năm mây, Xong tuần đại phú đến ngày nghênh thân.
Câu 1463 – 1464: Ngư bà nghe bấy nhiêu lời, Nhủ rằng: Thôi cũng có trời chẳng không.
Câu 2579 – 2580: Trời cho rày được tụ đầu, Nợ xưa nhẹ gánh phúc sau đền thần.
Câu 1581 – 1582: Kè thuyền cướp lấy vợ người, Chuyện này mong đợi đèn trời xét cho.
Câu 2639 – 2640: Tái sinh may có ơn xưa, Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.
Câu 2663 – 2664: Trời xuân minh mị thế nào,
Câu 2795 – 2796: Truyện này xem thấu thủy chung,
Lưỡi oanh ríu rít bông đào so le. Câu 2781 – 2782: Cho hay trời cũng ngồi rồi,
Suy ra mới biết trời không có lầm. Câu 2813 – 2814: Thế rồi trời cũng có mình,
Tuần hoàn đem lại vòng dài rốt chơi.
Lo gì phúc hậu công danh kém người.
NỮ TÚ TÀI (Lấy từ thuvien.net, từ trang 1 đến trang 27) Câu 37 – 38:
Soạn Chi nghe nói mỉm cười, Rằng: Âm dương vốn khí trời bẩm sinh.
Câu 67- 68:
Chẳng hay duyên phận bởi trời, Mượn cơ tạo hóa thay lời nhân gian. Câu 273 – 274: Kìa trời cao nọ đất dày, Xét soi kiếp giải oan này mới xong.
Câu 671 – 672: Mừng con đã đẹp duyên hài, Việc gì bởi phận, tại trời xui ra. Câu 713 – 714: Mới hay thành sự tại thiên, Một lời nói cợt mà nên vợ chồng. Câu 781 – 782: Bỗng nghe tiếng nhạc vang trời, Giục lòng thiếu nữ viễn hoài nhớ mong
QUAN ÂM THỊ KÍNH (Diệu Phương xuất bản từ trang 1 đến trang 60) Câu 115 – 116: Gia đình mình được ơn trời,
Cho nhiều phúc đức, nay mai dù già.
Câu 411 – 412: Bắc Nam đôi ngã phân ly,
Giả hình làm tiểu nương vào chùa đây.
Phương trời xa lạ dễ chi kiếm nào. Câu 421 – 422: Lo cho cha mẹ mãi thôi,
Câu 805 – 806: Tiểu nào chịu nhận tội đâu, Mặc cho đất thảm trời sầu bữa nay.
Công ơn dưỡng dục như trời mênh mông. Câu 433 – 434: Chập chờn giấc mộng bao ngày,
Câu 869 – 870: Cho nên Trời bắt đọa đày, Gánh vào nghiệp chướng kiếp này hai phen.
Tình quê đành gửi đám mây cuối trời. Câu 555 – 556: Trời sinh nhan sắc làm chi,
Câu 889 – 890: Thoắt đà thêm nửa năm trời, Thì Mầu đã đủ tới hồi sinh trai.
Khiến cho lắm kẻ kiếm bề dòm nom. Câu 655 – 656: Tất nhiên sẽ gánh lụy ngay,
Câu 919 – 920: Kính Tâm vốn sẵn tâm từ Rộng như mặt biển, lớn như bầu Trời.
Chứ nào tai vạ Trời đầy xuống đâu. Câu 689 – 690: Thật là vạ gió tai bay,
Câu 971 – 972: Mấy năm Trời đã qua nhanh, Sớm chiều trẻ chỉ quẩn quanh chùa nhà.
Bỗng dưng giáng tội to tầy trời cao! Câu 747 – 748: Thời con cảm tạ vô cùng,
Câu 1121 – 1122: Nhớ mong con mấy năm trời, Thư về lại hóa ra lời biệt ly.
Ơn như trời biển ghi lòng chẳng quên! Câu 793 – 794: Dễ gì dối được Trời cao,
Câu 1197 – 1198: Giữa trời chợt một phần mây, Năm mầu phô sắc nhẹ bay tới gần.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 1 – 2:
Mấy trăm năm một chữ tình, Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.
Câu 21 – 22:
Thông minh sẵn có tư trời, Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình.
Câu 37 – 38:
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Câu 267 – 268: Còn trời, còn nước, còn non
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương. Câu 45 – 46: Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa. Câu 285 – 286: Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Mai tàn trước gió liễu gầy sau sương! Câu 54 – 55: Cùng thông dù mặc có trời,
Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo. Câu 311 – 312: Êm trời vừa tiết trăng thu,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu. Câu 97 – 98: Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng. Câu 333 – 334: Bếp trời sẵn đó hay sao?
Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời. Câu 107 – 108: Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi! Câu 393 – 394: Tường quang sáng một góc trời,
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên. Câu 157 – 158: Xe loan gió cuốn lưng trời,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao! Câu 483 – 484: Cát vàng bụi bạc xa bay,
Tiên về động bích, tình rơi cõi trần. Câu 183 – 184: Vui xuân chung cảnh một trời,
Mây trên mặt đất, non xây chân trời. Câu 557 – 558: Dám đâu riêng phụ với tình,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. Câu 217 – 218: Lạ cho cái giống hương trời,
Dưới vàng có đất, trên xanh có trời. Câu 577 – 578: Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Biết năm, biết thuở, biết đời nào quên. Câu 243 – 244: Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Thung dung nàng lại giãi bày một hai. Câu 581 – 582: Trời thu mây hợp, lại tan,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa. Câu 263 – 264: Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm. Câu 615 – 616: Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Con chim bay mãi cũng không khuôn trời.
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964)
Câu 21 - 22: Tư trời nho nhã khiêm cung, Văn chương kinh sử làu thông khác thường.
Vì tranh mách lối cho người gặp nhau. Câu 507 – 508: Ngoài thành riêng áng cỏ cây,
Câu 123 – 124: Hơi men thơm nức trong ngoài, Nước trong như tuyết lưng trời mới sa.
Hoa in gấm đất, gió bay hương trời. Câu 749 – 750: Quản chi gan óc lầm than,
Câu 175 – 176: Nàng đà gan tức ruột đầy, Nghiến răng trời đất, chau mày non sông.
Đem thân trâu ngựa đền ơn bể trời. Câu 753 – 754: Chữ rằng: “Thiên đạo chí công”,
Câu 267 – 268: Ngả nghiêng thiêm thiếp giấc hòe, Giữa trời, một bóng trăng khuya với nàng.
Ngay gian nào có lọt trong lưới trời? Câu 763 – 764: Ông rằng: Sự đã tỏ mười,
Câu 271 – 272: Xa trông gót bãi, đầu ghềnh, Phau phau mặt nước, xanh xanh chân trời.
Ẩn vi thời cũng có trời ở trong. Câu 841 – 842: Chữ rằng: “Thiên võng khôi khôi”,
Câu 283 – 284: Hóa công chút chẳng chẳng chiều người, Mà cam đạp đất, đội trời hay sao?
Câu 897 – 898:
Câu 299 – 300: Than ôi! Trời thẳm, đất dày, Nước dời lắm nỗi chua cay lạ lùng!
Vầng son thoắt đã hé vời phù tang. Câu 1017 – 1018: Công lòng ái sĩ, thần dân,
Câu 313 – 314: May chân gặp chốn thiền già, Thời nương cửa Phật cho qua ngày trời.
Dốc đem đạo thánh mà chăn dân trời. Câu 1027 – 1028: Cầm đường nhân buổi thảnh thơi,
Câu 381 – 382: Cỏ hoa riêng một bầu trời, Mây che màn sớm, nguyệt soi gương chiều.
Tái sinh ơn rộng bể trời nhớ thay! Câu 1055 – 1056: Gọi là một tiệc giản mao,
Câu 415 – 416: Treo lên vách phấn thiền tai, Đố ai biết được thơ trời xoay quanh?
Họa là bể thẳm trời cao thấu tình. Câu 1113 – 1114: Nghĩ rằng trời chẳng biết đâu,
Câu 453 – 454: Hay đâu muôn sự tại trời,
Dối ai, hầu dễ dối trời được sao? Sao thưa lác đác da trời,
Đến khi hoạn nạn đáo đầu kêu ai?
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964) Câu 7 - 8:
Đời trị thú vui trời mọi chốn, Nước non mặc kẻ chi thanh nhàn
Câu 527 – 528: Mừng nay thuận gió dương buồm nhẹ, Giúp nước ra tay chống cột trời,
Câu 107 – 108: Thành quách trùng trùng muôn trượng núi, Lâu đài sát sát một bầu trời. Câu 187 – 188: Am rộng vườn quanh mươi dặm đất, Cảnh màu riêng nữa một bầu trời,
Câu 649 – 650: Trăm tiếc ngàn thương càng thảm thiết, Một trời muôn dặm luống âu phiền. Câu 891 – 892: Võng giá nghênh ngang ngàn dặm khách, Ngựa dù lừng lẫy một phương trời.
Câu 193 – 194: Giã nàng chưng thuở mặt trời tà, Giong vó long câu mấy dặm xa. Câu 341 – 342: Tỉnh say bên gối hồn hồ vẩn, Mong mỏi phương trời chiếc nhạn bay.
Câu 909 – 910: Ba thân phú quý nhờ ơn nước, Đôi chữ khanh tương dõi phúc trời. Câu 913 – 914: Ngửa thấy năm mây nhặt chiếu trời, Truyền dâng châu ngọc khắp hòa nơi.
Câu 407 – 408: Vui thay quê quán đoàn sum họp, Thương kẻ lênh đênh, một góc trời. Câu 503 – 504: Cống sĩ mây tuôn trời mọi chốn, Gặp thời ai chẳng chí công danh.
Câu 1007 – 1008: Tuổi già thỏa thửa lòng mong mỏi, Lần ước chi lan dõi phúc trời. Câu 1153 - 1154: Thân gian đã lạm dự tài bồi, Muôn đợi ơn trên lượng bể trời.
TRẦN MINH KHỐ CHUỐI (Người soạn Nguyễn Văn Khỏe, Nhà in Phạm Văn Thình, Sài Gòn - 1952)
Câu 75 – 76: Cuộc đời phong võ khó phòng, Câu 125 – 126:
Nào hay mãn số Trần Công chầu trời. Trời ơi đất hỡi có hay,
Câu 133 – 134:
Người lành bao nỡ đọa đày chẳng thương. Mẹ tua suy nghĩ điều này,
Cơ trời máy tạo vần xây lẽ hằng. Câu 205 – 206: Xem qua cung phủ rạng ngời, Một tòa đồ sộ giữa trời xuê xang Câu 255 – 256: Quân mau đuôi khỏi dinh lang, Ăn mày đã đáng chớ than số trời. Câu 261 – 262: Thảm thay khố chuối rách tan, Trần Minh đỡ mẹ khóc than kêu trời. Câu 327 – 328: Lại phân qua việc nhãn tiền, Trần Công rày đã qui thiên chầu trời. Câu 333 – 334:
Tối thời xó chợ gốc đình, Màn trời chiếu đất nằm ình sá chi. Câu 381 – 382: Vái trời xuôi gặp mặt chàng, Đặng em phân giãi thở than đôi lời. Câu 445 – 446: Chắc là giá mắc bằng trời, Nếu may một cái trọn đời mang theo. Câu 449 – 450:
Gấm này là gấm da trời, Ai mà bận nó sống đời hỡ anh?
Câu 597 – 598: Cho hay những kẻ gian nan, Trời thương phú tánh khôn ngoan ai tày. Câu 685 – 686:
Để mai tảng sáng mát trời, Chúng tao đều thảy đến nơi quán nàng.
Câu 697 – 698: Trời vừa tang tảng sáng ra, Học trò thức dậy kéo qua quán nàng. Câu 741 – 742:
Chờ cho đến lúc xế trời, Cũng là biệt dạng vắng thời Trần Minh.
Câu 937 – 938: Nhờ trời từ trẫm lên ngai, Quốc dân cõi Việt trong ngoài âu ca. Câu 1031 – 1032: Vái trời xuôi gặp mặt chàng, Kẻo mà lòng thiếp lo toan chẳng cùng. Câu 1103 – 1104: Còn như ân nghĩa của nàng, Minh minh như biển, mang mang như trời. Câu 1289 – 1290: Vệ quan vốn kẻ vô nghì, Cho nên trời phạt thây thi tan tành. Câu 1303 – 1304: Cho hay những đứng hiền nhơn, Lẽ nào trời hại đến cơn cuối cùng.
PHỤ LỤC 8: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “THẦN TIÊN”
HOA TIÊN (Nhà xuất bản Văn học – 1978) Câu 351 – 352: Người tiên trên đã đáng tiên, Gặp tiên bỗng diễn vân thiên mấy trùng.
Câu 761 – 762: Ấy trên tiên lọ dưới người, Pho tình biết mấy mươi nơi còn truyền.
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Nhà xuất bản Giáo dục – 1994) Câu 237 – 238: Trong khi màn trướng rủ then, Quan thư có án, nghênh tiên có đường. Câu 363 – 364: Cờ thần, rượu thánh, thơ tiên, Tiêu hay múa phượng, địch thiêng gáy hoàng. Câu 367 – 368:
Chẳng qua quốc sắc nga mi khuynh thành. Câu 493 – 494: Yến đồng lỉnh lấy hoa tiên, Gặp Hồng thị nữ đưa lên xuân đài. Câu 1171 – 1172: Kim, Châu mới lại tỏ ghê, Kính nơi cảnh Phật, sơ về động Tiên.
Tiên nương dù có thanh kỳ,
TRUYỆN KIỀU
(Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 1379 – 1380: Công tư hai lẽ đều xong, Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Câu 1453 – 1454: Nàng vâng cất bút tay đề, Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. Câu 3053 – 3054: Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Câu 1701 – 1702: Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001)
Câu 281 – 282: Trở vào bèn lấy bút nghiêng, Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh. Câu 591 – 592: Dầu cho chước quỷ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Quỷ thần người ở trên cao, E khi đường sá lẽ nào biết đâu? Câu 1667 – 1668: Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Câu 705 – 708: Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm, Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 11 đến trang 48)
Câu 552 – 553:
Câu 740 – 741: Con ta chỉ nẻo tiên cung,
Cho nên gan héo ruột rầu,
Khôn tìm phép quỷ, khôn cầu phép tiên! Câu 736 – 737: Tiên phi đã tếch cung mây, Đau lòng áy náy đêm ngày xót xa,
Họ hàng thân thích đều cùng xót xa. Câu 832 – 833: Có tiên thì hậu mới hay, Chẳng ngay lại gặp được ngay bao giờ?
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312)
Câu 1844 – 1845: Cam trần là tại thời tiên, Giàu sang tại số hư nên tại trời. Câu 1904 – 1905: Ở hiền rồi lại gặp hiền,
Tội cam chịu tội thứ dung ngu phàm. Tiên ông dạy phép tái tam, Hóa ra ngũ nhạc đặt là bát tiên.
Người trung mắc nạn có tiên xuống phò. Câu 1942 – 1943: Phút đâu xem thấy tỏ tường, Tiên ông hạ giáng qua ngang mộ tiền.
Câu 1986 – 1987: Dạy cho các phép đủ rồi, Tiên ông lại dạy một lời cẩn ghi. Câu 1990 – 1991: Tiên ông dạy tỏ mấy điều,
Câu 1948 – 1949: Ta nay vốn thiệt thiên thần, Ngọc hoàng sai xuống phàm trần dạy ngươi. Câu 1972 – 1973: Tưởng là thân phụ hiện hình, Rằng nay mới biết thiên đình tiên nhân.
Canh tư nhặt thúc gà đều sơ minh. Câu 1996 – 1999: Cúi đầu quỳ lạy chắp tay, Cung thân bốn lạy tạ rày tiên ông. Tiên ông trở lại thiên cung,
Câu 1974 – 1977: Cúi đầu trăm lạy thiên thần,
Xuân Hương nước mắt ròng ròng như mưa.
Câu 2064 – 2065: Miệng kêu một tiếng cháu ơi!
Đến nay tính đặng bảy niên trời thời.
Mệ là thượng giới vốn người cõi tiên. Câu 2069 – 2070: Cho nên thấu đến thiên thần,
Câu 3474 – 3475: Xem qua á trạng bằng nay, Dung nhan diện mạo ví tày như tiên.
Cho nên trả nghĩa đền ân cháu rày. Câu 2537 – 2538: Chữ rằng phú quý nan kỳ,
Câu 3813 – 3814: Mã Điểu còn ở tiên gia, Vào nơi tiên động trình qua sự tường.
Xuân Hương dung mạo vậy thì như tiên. Câu 2613 – 2614: Phố phường nhiều kẻ khen hay,
Câu 3823 – 3824: Cúi đầu trăm lạy tiên gia, Xin trả nợ nước về nhà cho yên.
Xuân Hương dung mạo tựa rày như tiên. Câu 2862 – 2863: Quỷ thần nào chẳng kim lâm,
Câu 3827 – 3828: Tiên ông nghe nói phân trần, Vội vàng chiếu kính phàm trần thử xem.
Mở lời ba tiếng cao thâm hỡi trời. Câu 3136 – 3137: Cảm lòng tiên ông xuống cho,
Câu 3925 – 3926: Từ cháu tếch dặm đường mây, Theo tiên học phép tài nghề thế nao?
Xích thằng một đoạn hồ lô một bầu. Câu 3256 – 3259: Vợ chồng ngó vọi chơi vơi,
Câu 4003 – 4004: Bấy lâu con học phép tiên, Binh cơ diệu pháp hẳn hiên cha mừng.
Thấy con tiên rước về thời thượng thiên. Mã Điểu đi học phép tiên,
Câu 4174 – 4175: Bấy lâu thụ giáo tiên gia, Nay đặng khôi phục nước nhà nhờ con.
PHƯƠNG HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 323 – 324:
Thở than chưa kịp hết nhời,
Hồn hoa trót đã tếch vời tiên phương.
Câu 957 – 958: Tiếng đồn khắp hết tây đông,
Có nàng tiên nữ giá trong quý quyền.
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 877 – 878: Trạng đi lên tám thiếu niên, Trạng về mười tám bằng tiên ai tầy.
Có tiên xuống giúp giao hòa đua may. Câu 1623 – 1624: Hai người lĩnh lấy gạo ban,
Câu 881 – 882: Công chúa bước xuống cung son, Chân đi hài phượng ngỡ tiên đan trì.
Cả hai cùng có người tiên làm thầy. Câu 1671 – 1672: Ngón đàn dìu dặt tay tiên,
Câu 1615 – 1616: Hai người lĩnh lấy xem qua,
Cung cầm tiếng sắt lẫn chen tiếng vàng.
PHAN TRẦN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 625 đến 672) Câu 45 – 46: Một nàng tiên nữ xinh sao, Mày ngang bán nguyệt, miệng cười trăm hoa. Câu 55 – 56:
Tạ triều một thủ thư tiên,
Đem nhau xe hạc, về miền hương quan. Câu 95 – 96: Hãy cho công nghiệp vẹn tuyền, Hóa rồng rồi sẽ rước tiên cũng vừa.
Câu 395 – 396:
Kể từ tới cảnh Bồng Lai,
Câu 759 – 760: Thông thông, trúc trúc, mai mai,
May thay đã trộm thấy người tiên cung. Câu 693 – 694: Tiên chi quê họ nơi nao,
Ngày người đất bụt, đêm người động tiên.
Vì đâu xui khiến cho vào tới đây.
BÀ CHÚA BA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 895 đến 956) Câu 179 – 182: Không trang điểm, chẳng chơi bời, Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi. Một mình nào có ai hay,
Câu 1029 – 1030: Tiên nhân giục bảo chớ chầy, Kíp lấy về rày, kẻo để vua trông. Câu 1057 – 1058: Vả! Tiên nhân cũng từ bi,
Thân này trần thế, lòng này Phật tiên. Câu 435 – 436: Phòng như lời có thực rằng,
Dẫu ta xin hết, người thì cùng trao. Câu 1063 – 1064: Trong lời chiếu chỉ ân cần:
Thế thì như nguyện cũng bằng lên tiên. Câu 641 – 642: Bạo nghịch thiên địa thánh thần,
Xin Tiên chữa cả mười phần cho yên. Câu 1067 – 1068: Chúa đà nghe biết chân tình,
Phật tiên, tổ khảo, quân thân với thầy. Câu 831 – 832: Chúa đà thành Phật thành Tiên,
Dạy Thiện Tài hóa làm hình Tiên nhân. Câu 1101 – 1102: Trẫm nhớ ơn Tiên nhân thay,
Còn một chút hiềm, đồ đệ chưa ai! Câu 941 – 942: Thuốc phàm dễ chữa được vay!
Tính sao trả nghĩa mới hay bằng lòng! Câu 1141 – 1142: Trăm quan thấy sự ngạc nhiên,
Có Tiên nhân rày tu ở Hương Sơn. Câu 955 – 956: Tiên nhân người chẳng quản chi,
Vua tâu lên hỏi người Tiên trên chùa. Câu 1249 – 1250: Nhà yên, nước trị đã xong,
Mong cho vua được yên vì trị dân.
Nhớ ơn Tiên nữ, tấm lòng cảm thay.
Câu 1273 – 1274: Đức vua đứng khấn ngoài màn:
Câu 1391 – 1392: Thoắt trần nhơ, được cõi tiên,
Giã ơn Tiên nữ muôn vàn tấm thương! Câu 1281 – 1282: Đường xa chẳng ngại đến đây,
Đại thiện Bồ Tát, được liền cả đôi. Câu 1437 – 1438: Dẫn cho lên Phật lên Tiên,
Tiên nhân lẳng lặng trẫm nay phiền lòng!
Xiết bao là phúc là duyên muôn đời.
HOÀNG TRỪU (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 959 đến 1023) Câu 19 – 20:
Động đào vừa hé cửa thành, Thần tiên trước đã hiện hình ra mau.
Câu 31 – 32:
Sửa sang áo tía quần hồng, Nhìn xem ngỡ khách non bồng tiên phi.
LÝ CÔNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1027 đến 1087) Câu 27 – 28:
Tuổi xuân vừa mới lên mười,
Hây hây ngọc túc tựa người thần tiên. Câu 29 – 30: Mặt nhìn trâm thức hoa sen, Nhác trông cứ tưởng là tiên non bồng. Câu 173 – 174: Cắt xong đặt xuống dưới cung, Tiên sa phượng múa vương công nửa giờ.
Câu 263 – 264: Người trời trời lại chở che, Kiếp tiên đày đọa ê chề mãi sao? Sự này chẳng sợ gươm đao, Tam thập lục kế dĩ đào vi tiên. Câu 411 – 412: Da như ngọc tuyết trắng ngần, Tóc mây chấm đất muôn phần vẻ tiên.
Câu 413 – 414: Mặt hoa, mày liễu thiếu niên,
Hàng bà bán mãi lấy tiền ai ăn?
Lý Công mới thấy mặt tiên phen này. Câu 429 – 430: Mười voi trông thấy tiên nga,
Câu 711 – 712: Thần tiên kiếp xuống là xong, Cửu Long xuống cứu Lý Công phen này.
Thấy người oan uổng, chống ngà thét vang. Câu 439 – 440: Nỡ nào vua giết chúa tiên,
Câu 889 – 890: Một mình cách trở đầu non, Mười năm chẳng thấy tiên còn hỡi tiên.
Giết thời ta chịu, ta liền can thôi. Câu 591 – 592: Ở đây là chốn phố phường,
Câu 989 – 990: Mũi tai hết sạch thảm thương, Chân tay chặt hết, tiên nương tật tàn.
Ai ai cũng ngỡ là tiên non bồng. Câu 593 – 594: Ngời thời hoa nở sắc hồng,
Câu 1053 – 1054: Nhời thần nào có linh chăng, Hay là trời khiến mệnh căn bảo toàn.
Tóc mây dài tựa trăm vòng thần tiên. Câu 601 – 602: Tiên đâu mà đến nước ta?
Câu 1137 – 1138: Con gái thừa tướng như tiên, Gả cho, chẳng chịu kết duyên, tìm nàng.
Truyền quân sửa kiệu, anh hào đỡ xe. Câu 603 – 604: Kiệu vàng tán tía ra đi,
Câu 1147 – 1148: Hai người lăn khóc một thôi, Trên trời bỗng thấy một đôi tiên rầy.
Thử xem tiên nữ một khi thế nào? Câu 653 – 654: Thị Hương ra lạy chúa tiên:
LƯU NỮ TƯỚNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1091 đến 1214) Câu 1725 – 1726: Chẳng xong một chữ “nghịch thần”,
Nữa trong tổ miếu, tiên phần làm sao?
Câu 1809 – 1810: Đương khi thuyền khách ngoài tào,
Câu 2157 – 2158: Huệ lan hai đứa đoàn viên,
Bỗng không lạc đến non đào gặp tiên.
Giấc Cao Đường, những mơ màng thành tiên.
BẦN NỮ THÁN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1217 đến 1229) Câu 115 – 1116: Lụa vần nghĩ cuộc giải phiền,
Cờ tiên nước bí, thơ tiên túng vần.
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 29 – 30: Câu 73 – 74:
Nào hay là đức Ngọc Hoàng, Sai thần tiên xuống điểm trang đợi chờ.
Tiên rằng: như ý sớ cầu, Thực thì hãy nói cho nhau biết cùng. Câu 103 – 104: Tiên rằng: Một áng Bồng Lai, Biết bao nhiêu kẻ đáng tài cung phi.
Câu 109 – 110: Tiên rằng: Muôn đội ơn trên, Được như nhời ấy thiếp tin theo hầu. Câu 121 – 122: Rước tiên về nơi cung tần, Đặt bày yến ẩm vang lừng mọi nơi. Câu 165 – 166: Bên tai nghe tiếng Ngọc Hòa, Rằng trong nhà nước có bà thần tiên.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1281 đến 1310) Câu 209 – 210: Nghe rằng: già pháp thần linh, Quyết lòng cầu tự đinh ninh đền chùa.
Câu 307 – 308: Thấu câu phu xướng phụ tòng, Ghi nhời tiên thánh nhủ lòng đinh ninh.
CHUYỆN CÁI TẤM – CÁI CÁM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1313 đến 1333) Câu 17 – 18:
Yêu kiều vóc ngọc da ngà, Dung nhan ví với tiên sa cõi phàm.
Câu 491 – 492: Thế là sạch hết tanh hôi, Thay hình đổi dạng như người tiên nga.
Câu 329 – 330: Thương ôi vóc ngọc mình tiên, Mưu kia ai khiến rẽ duyên trần phàm.
Câu 553 – 554: Khách tiên giáng xuống cõi trần, Công tâm đã cảm chín lần trời cao.
Câu 457 – 458: Cõi trần lại gặp bạn tiên, Truyền cho thục nữ ra bên ngoài hàng.
Câu 555 – 556: Mệnh cung ở số Thiên tào, Gót tiên chút bỗng lại vào làng tiên.
Câu 483 – 484: Phép tiên giúp chị hay sao, Em mong chị ngỏ thấp cao em tường.
Câu 557 – 558: Hồng vân một đóa kề bên, Là là đón bạn cung Tiên về trời.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508) Câu 263 – 264: Hóa ra mỹ nữ giai nhân, Khách tiên thử xuống cõi trần ướm chơi.
Tiên phi đặt gối tâu bày: Thực là chàng Phạm thảo ngay ai bì!
Câu 265 – 266: Yếm đào tha thướt lả lơi, Mắt phàm ai biết là người tiên cung.
Câu 295 – 296: Thế gian mấy kẻ tài cao, Cõi trần đã thấy ai nào chê tiên?
Câu 269 – 270: Tiên nga bèn đón lấy chàng, Chớ vội lên đường em hỏi chàng đây.
Câu 669 - 670:
Câu 283 – 288: Thoắt thôi hai vị tiên nga, Dỗ chàng chẳng được, vội hòa từ qui.
Câu 1649 – 1650: Quần tiên nghe thấy đến chơi, Đàn Hồ, đàn Hán vui thời nên vui!
Ngọc hoàng phán bảo vân vi: Phạm Công nó nói điều gì với bay?
Khấn cùng tiên tổ gần xa, Xin cho con cháu cửa nhà bình an.
Câu 1689 – 1690: Chập chờn cơn tỉnh cơn say, Thân này bao lại có ngày gặp tiên.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 1541)
Câu 115 - 116: Dặm mây, đường liễu chia hai,
Câu 175 – 176:
Người tiên còn chút tình rơi cõi trần Câu 197 – 198: Biết là động quỷ hang tiên,
Lựa sao được chốn tiên rày kết nhân. Câu 297 – 298: Chưa gần đã hóa ra xa,
Làm tươi tình gượng sẽ men móc lần. Câu 205 – 206: Long lâu, phượng các tầng tầng,
Trách chàng phụ chốn tiên nga cho đành. Câu 547 – 548: Mịt mù khói tỏa sương bay,
Từ lang lòng đã chắc rằng cõi tiên. Câu 219 – 220: Vội mừng theo sứ thanh đồng,
Nhác trông tiên động phút giây đã gần. Câu 563 – 564: Khéo léo thay khách trần ai
Làng tiên chốn ấy thiếu phong cảnh gì.
Tình cờ rủi lại hóa may,
Cất công tìm cõi đến vời non tiên.
THOẠI KHANH – CHÂU TUẤN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1599 đến 1636) Câu 436 – 437:
Mặt hoa thơ thớ nở đua, So tài tiên nữ chẳng thua chút nào.
Đui hai con mắt mặt mày như tiên. Câu 768 – 773: Dắt nhau lạc đến miếu thần,
Câu 440 – 441: Người người xem thấy thương thay, Ngỡ là tiên nữ xuống rày phàm gian.
Thầy đòi ân ái, tôi không nghe lời. Thần bèn nổi trận phong lôi,
Câu 448 – 449: Miếu thần mắt tỏa sao băng, Ngó thấy Thoại nữ cầm bằng tiên sa.
Phút liền ngó thấy mẹ tôi mất hồn. Giây lâu thần lại truyền ngôn,
Câu 450 – 451: Dâm thần ép uổng giao hòa, Thoại Khanh không chịu thân mà làm ngang. Câu 460 – 461: Đặng hai con mắt nữ tiên, Thần cho Tuấn mẫu phút liền hồi dương. Câu 574 – 575: Gặp người bần nữ tốt thay,
Muốn cho mẹ sống chớ còn cãi chi. Câu 796 – 799: Sứ thần thôi mới rao qua, Ai có con mắt bán mà vua mua. Thần rằng: Tao có mắt dư, Phải giá tao bán cho vừa thì thôi.
Câu 806 – 807: Thần rằng: Tao chẳng có lo,
Rằng thần trị giá một xe bạc vàng.
Tao giao con mắt triều đô đem về. Câu 812 – 813: Vào trình công chúa người nghe,
Câu 816 – 817: Cho nên thần cũng yên vì, Khá đem vàng bạc mà đi cho thần.
GƯƠNG SÁNG TRỜI NAM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1665 đến 1743) Câu 419 - 420: Trẻ lành trời ruổi biết lòng
Thành tiên cõi nước, sánh rồng áng mây.
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4055 – 4056: Thần tiên đặt gối tâu lên, Trước sau số mệnh, phúc duyên mọi bề.
Câu 4205 – 4206: Bao nhiêu các phép tiên ban, Dạy cho họ Thạch chu toàn tinh thông.
Câu 4213 – 4214: Tiên ông nghe nói tỏ bày:
Câu 6279 – 6280: Trong ngoài tiên tổ những là,
Tà đây Lý Tĩnh chức rày Thiên vương. Câu 4219 – 4220: Tiên ông đem phép bí tàng,
Đất giời phù hộ nàng hòa nói ngay. Câu 6647 – 6648: Tạ từ diệu pháp tiên ông,
Dạy cho họ Thạch tỏ tường thần thông.
Lại cùng táng tế báo lòng mẹ cha.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160) Câu 21 – 22: Chẳng ngờ là thần tiên xuất thế, Mới gửi nhà Lê thị phu nhân. Câu 29 – 30: Mẹ cha mừng rỡ sớm khuya,
Câu 116 – 117: Ai nỡ sự nguyền xưa chưa mãn, Vậy lòng tiên ngào ngạt chẳng xong. Câu 200 – 201: Các ban tiên mừng chầu đón rước,
Tốt nội một ngày một tốt bằng tiên.
Vào động đình tạ trước thiên nhan.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 1135 – 1136: Oai linh vóc thánh dáng tiên, Lồng màn vẻ trắng ánh đèn sắc tươi. Câu 2705 – 2706: Trạng nguyên ngựa trước song song,
Khác nào như kẻ cưỡi rồng lên tiên. Câu 2727 – 2728: Rượu mừng mặt lễ bắt tay, Nơi vui bàn ngọc nơi vầy cuộc tiên.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 81 – 82:
Bên cầu đàn lũ năm ba, Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay! Câu 139 – 140: Chày sương đợi khách cầu Lam,
Câu 221 – 222: Chẳng thần nữ, cũng tiên phi, Duyên xưa còn có chút gì hay không. Câu 407 – 408: Phòng tiên dìu dặt chén đồng,
Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu. Câu 143 – 144: Người còn cợt gió, đợi mây,
Rèm tương rủ thấp, trướng hồng treo cao. Câu 425 – 426: Người tao nhã, khách thuyền quyên,
Gót tiên khách đã trở giày làm thinh. Câu 157 – 158: Xe loan gió cuốn lưng trời,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời. Câu 521 – 522: Dù tiên duyên đã mãn kỳ,
Tiên về động bích, tình rơi cõi trần. Câu 163 – 164: Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Chờ cho duyên hợp châu về mõn hơi!
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 25 - 26: Tăng phòng chi để lụy trần duyên, Lẩn quất am thanh náu gót tiên. Câu 281 – 282: Tiện thiếp từ tu ở cõi tiên,
Năm mây xin thiếp lại lên tiên. Câu 721 – 722: Ngự sắc từ vâng dưới bệ rồng, Tay tiên phơi phới thuận như dòng.
Chưa hề bén lụy thói trần duyên. Câu 605 – 606: Trăm lạy giã chàng còn ở thế,
Câu 745 – 746: Kia chốn Phi-lai dặm trước này, Xưa cùng tiên nữ thuở dang tay.
Câu 945 – 946: Từ ngày theo gót chốn vân tiên, Nguyện ước lòng xưa chửa chút quên. Câu 993 – 994: Dập đã đoàn loan mở tiệc vây, Cảnh tiên phút đã mấy tầng mây. Câu 1049 – 1050: Gót tiên từ vẳng chốn chiền già, Xiết kể lòng người nỗi xót xa. Câu 1169 – 1170: Dung nghi châm tiển ngự tòa sen, Cốt cách này tuy cốt cách tiên.
PHỤ LỤC 9: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “DUYÊN KIẾP – SỐ MỆNH”
HOA TIÊN (Nhà xuất bản Văn học – 1978) Câu 3 – 6:
Sự đời thử ngẫm mà chơi, Tình duyên hai chữ với người hay sao. Từng nghe trăng gió duyên nào,
Mà người khuê khổn những say về gì. Câu 535 – 536: Hãy coi vào số phong lưu, Ấy nhân duyên biết là đâu chẳng trời.
Bể sầu là nghĩa non cao là tình. Câu 201 – 202: Tỏ tình lại mở lời khuyên:
Câu 603 – 604: Giá nào nào dễ mấy đâu, Duyên nào nào biết về sau nhường nào.
Quyển vàng còn đủ là duyên má đào. Câu 221 – 222: Se duyên hẳn phải xích thằng
Câu 625 – 626: Định tình sinh mới sẽ bày, Duyên chi khéo lại phen này gặp nhau.
Thà xin xem số dưới trăng kẻo còn. Câu 325 – 325: Bạch tố sẵn mối duyên lành Mượn câu cảnh ngụ câu tình họa may.
Câu 659 – 660: Mấy hoa cũng ngại ngùng duyên, Thôi hờn lá thắm thì ghen nhị vàng. Câu 691 – 692: Lại khi đôi tuổi kén duyên,
Câu 349 – 350: Mở phông chẳng nỡ rời tay Người xa gọi chút báu này cũng duyên. Câu 371 – 372: Long mồm nguyệt mới mới kỳ, Bước lên chiềng: Ngẫm duyên gì chẳng sai.
Biết là đã hẳn như nguyền cho nhau. Câu 713 – 714: Sao bằng đôi lứa phỉ nguyền, Chữ tình thêm vẹn chữ duyên càng nồng. Câu 723 – 724: Trước lớn riêng nặng một người,
Câu 423 – 424: Bên bờ từ lạc bè sao, Trước trăm năm có duyên nào hay không? Câu 443 – 444: Duyên kia tơ đã trao tay,
Tơ duyên lần giở chén mồi để lưng. Câu 745 – 746: Vả vì một đỗi bấy nhiêu, Tình duyên gây phải đến điều lôi thôi.
Câu 757 – 758: Mẹo duyên trộm nghĩ thiêng đời,
Câu 1191 – 1192: Lỡ làng bèo nước lênh đênh,
Dủi dun báu nước gương trời đợi nhau. Câu 763 – 764: Trong duyên gặp gỡ là duyên,
Ấy duyên phụ khách hay mình phụ duyên. Câu 1213 – 1214: Biết đâu hương lửa ba sinh,
Trong tình vẹn vẽ đôi bên mới tình. Câu 771 – 772: Đào non sớm nghĩ thơ lành,
Còn trăng còn gió còn dành duyên ta. Câu 1219 – 1220: Tài lang nào phải như xưa,
Khuôn duyên một hội nức danh muôn đời. Câu 841 – 842: Một lời đã với nước non,
Mình sang duyên thắm thừa ưa mọi đường. Câu 1221 – 1222: Tiếc thay sương tuyết cũ càng,
Vâng se mối chỉ cho tròn duyên tơ. Câu 847 – 848: Dập dìu buồm nghĩa gió duyên,
Tơ duyên ai dở tự chàng mà thôi. Câu 1227 – 1228: Thôi duyên đâu nữa mà nhầm,
Lòng tên thuyền cũng như tên chiều lòng. Câu 877 – 878: Duyên ưa mai liễu một đoàn,
Nhện vương lại mấy tơ tằm nữa đây. Câu 1271 – 1272: Bùi Hồ một trận quét thanh,
Này ai đã vội giở màn đỉnh cao. Câu 921 – 922: Bẽ bàng trăng tối mưa mai,
Công nên may được duyên lành cũng nên. Câu 1361 – 1362: Ngày xuân lo những thiệt thòi,
Sao duyên ngang ngửa cho người dở dang. Câu 955 – 956: Đỡ lời Nguyệt mới thưa qua:
Phu nhân vội đã toan bài ép duyên. Câu 1399 – 1400: Dựng gây dám nghĩ sinh thành,
Tơ duyên cũng chửa hẳn là dứt xong. Câu 957 – 958: Duyên kia dù hẳn phụ lòng,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi. Câu 1409 – 1410: Duyên tơ đã kết dải đồng,
Mặc ai xin hãy thung dung nghĩ nào. Câu 1043 – 1044: Biết ai hầu hỏi sự duyên,
Bèo mây ước chữ tương phùng kiếp sau. Câu 1579 – 1580: Duyên kia đã nặng thề bồi,
Viên công vừa thấy trong miền ló ra. Câu 1095 – 1096: Sinh rằng: Duyên kiếp dở dang,
Thân kia trong mấy thu trời quản đâu. Câu 1581 – 1582: Nghĩ duyên càng khẩy tơ sầu,
Thà thôi chi nghĩ đến đường công danh. Câu 1157 – 1158: Phấn vua lộc nước hương trời, Muôn nghìn danh giá năm mười nhân duyên.
Nghĩ thêm càng lại thêm đau đớn mình. Câu 1613 – 1614: Đã người mới lại người quen, Kể sao cho xiết tình duyên bấy giờ.
Câu 1615 – 1616: Càng thêm quấn chỉ dây tơ,
Câu 1643 – 1644: Khen rằng: Này thật thiên duyên,
Đã đành cá nước duyên ưa một nhà. Câu 1625 – 1626: Rủi may chẳng kẻo lứa đam,
Ngọc Khanh nay đọ Ngọc Liên chỉ nhường. Câu 1673 – 1674: Ấy là máy tạo nhiệm màu,
Đã đành duyên ấy lại cam phận nào.
Duyên xưa tròn trặn ân sau đền bồi.
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Nhà xuất bản Giáo dục – 1994) Câu 51 – 52:
Chỉn hiềm một ước thông gia,
Gồm bên tiên, Thích, đủ đường lý, y.
Ngán thay con tạo khéo là trêu duyên. Câu 69 – 70 Tử vi xem mới lạ dường, Lộc, Quyền chiếu mệnh, Khúc, Xươn giáp trì. Câu 205 – 206: Phong quang mấy thú lâm tuyền,
Câu 419 – 420:
Kết duyên vốn cũ, đính nguyền ấy lâu. Câu 351 – 352: Cho hay tình phận bởi trời, Đường nhân duyên ấy dễ người định nên? Câu 365 – 366: Nghề thuật số vốn tinh tường,
Câu 467 – 468: Bây giờ mượn gió cung Đằng, Vì duyên đưa mối xích thằng lại đây. Câu 669 – 670: Bói thì quẻ thủy lôi truân, Lục thần vương hổ, lục thân không tài.
Câu 473 – 474: Dầy hoa dun lá bởi tay trời, Nghĩ đến duyên do cũng nực cười. Câu 491 – 492: Thư này gửi với giai nhân, Đem phong nguyệt góp cõi trần làm duyên.
Nhắc gánh nhân duyên, nhường chứa nặng. Câu 547 – 548: Như dì gió rằng duyên là thế, Chớ vì tài mà rẽ chữ nhân. Câu 553 – 554: Gọi là phục bút làm duyên,
Câu 538 – 539:
Gắn bó tin vàng đã có nơi?
Chỉn e tướng số chưa an, Hay là vì chữ hồng nhan quải gàn. Câu 431 – 432: Làm sao tướng số dở dang, Hay là người ngắm chưa tường thế ru?
Thô sơ xin có hay hèn dạy cho!
Câu 661 – 662: Long đong ngán nhẽ phận duyên,
Câu 799 – 780: Thiếp tâu đã trót trần duyên,
Nợ nần này phải dính nguyền kiếp sau. Câu 695 – 696: Thề rằng: Đã có trời già,
Lại xin xuống để vẹn nguyền trần gian. Câu 1173 – 1174: Cho hay hai chữ nhân duyên
Duyên sau chẳng gặp âu thà rằng không.
Còn non nước cũ vẫn nguyền ước xưa.
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 1 – 2:
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Câu 415 – 416: An hoa phát tiết ra ngoài,
Câu 33 – 34:
Khúc nhà tay lựa nên xoang, Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Câu 539 – 540: Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
Câu 73 – 76:
Khóc than khôn xiết sự tình, Khéo vô duyên bấy là mình với ta!
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ. Câu 601 – 602: Duyên hội ngộ đức cù lao,
Câu 83 – 84:
Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn? Câu 705 – 706: Biết bao duyên nợ thề rồi,
Câu 107 – 108: Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì? Câu 719 – 720: Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Câu 181 -182: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong. Câu 751 – 752: Trăm nghìn gởi lại tình quân,
Câu 219 – 220: Hoa trôi bèo giạt đã đành, Biết duyên mình biết phận mình thế thôi!
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Câu 735 – 736: Chiếc thoa với bức tờ mây,
Câu 257 – 258:
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Câu 767 – 768: Này cha làm lỗi duyên mày, Câu 797 – 798:
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em! Đã sinh ra số long đong,
Câu 1905 – 1906: Sinh rằng: Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! Câu 1927 – 1928: Nhân duyên đâu lại còn mong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? Câu 857 – 858: Giận duyên tủi phận bời bời,
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi. Câu 1963 – 1964: Xót vì cầm đã bén dây,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Câu 1145 – 1146: Nhưng tôi có sá chi tôi,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta. Câu 2019 – 2020: Phận bèo bao quản nước sa,
Phận tôi đành vậy vốn người để đâu? Câu 1427 – 1428: Phận đành chi dám kêu oan,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Câu 2093 – 2094: Mụ càng xui giục cho nên,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày. Câu 1531 – 1532: Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần. Câu 2133 – 2134: Trước sân lòng đã giãi lòng,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày. Câu 1633 – 1634: Sắn bìm chút phận cỏn con,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. Câu 2243 – 2244: Duyên em dù nối chỉ hồng,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? Câu 1675 – 1676: Hỡi ôi nói hết sự duyên,
May ra khi đã tay bồng tay mang. Câu 2689 – 2690: Khi nên trời cũng chiều người,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan! Câu 1761 – 1762: Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Nhẹ nhàng nợ trước đến bồi duyên sau. Câu 2723 – 2724: Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
Lầm than lại có thứ này bằng hai. Câu 1797 – 1798: Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào! Câu 2737 – 2738: Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương. Câu 1879 – 1882: Nhẹ như bấc, nặng như chì,
Duyên xưa chữa dễ biết đâu chốn này. Câu 2787 – 2792: Kiếp này duyên đã phụ duyên,
Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên? Lỡ làng chút phận thuyền quyên, Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh, Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
Câu 3065 – 3068:
Gặp cơn bình địa ba đào,
Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Câu 2895 – 2896: Phong trần chịu đã ê chề,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang. Câu 2973 - 2974: Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Câu 3073 – 3074: Còn duyên may lại còn người,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi. Câu 3035 – 3036: Nàng rằng: Chút phấn hoa rơi,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa. Câu 3225 – 3226: Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 83 – 84:
Bao giờ cá nước gặp duyên, Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần. Câu 629 – 630: Nào hay nước chảy hoa trôi,
Câu 213 – 214: Riêng than: Trâm hỡi là trâm! Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ?
Nào hay phận bạc như vôi thế này. Câu 703 – 704: Đồng rằng: Vào đó thầy coi,
Câu 345 – 346: Võ công lấy đọc bấy giờ, Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền. Câu 415 – 416: May duyên rủi nợ dễ phô,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm. Câu 725 – 728: Thầy bèn gieo đặng quẻ linh, Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi?
Ứng vào rùa với cỏ thi,
Câu 1617 – 1618: Tới đây duyên đã bén duyên,
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường. Câu 1061 – 1062: Nực cười con tạo trớ trinh,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai? Câu 1629 – 1630: Tôi xin dám gởi lời này,
Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao. Câu 1453 – 1454: Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Hãy tua châm chậm sẽ vầy nhơn duyên. Câu 1911 – 1912: Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 11 đến trang 48) Câu 89 – 90:
Bây giờ tôi chưa thấy đâu,
Cơ trời phận lửa duyên hương,
Nhân duyên ắt hẳn về sau hợp hòa? Câu 165 – 166: Khen rằng: Danh sĩ thiếu niên,
Bỗng đâu bốn bể thư hương một nhà. Câu 340 – 341: Ngọc Hoa thảm thiết lòng phiền,
Sự này ắt hẳn thiên duyên se vào. Câu 191 – 196: Con ta từ độ thấy người,
Trách vua sao nỡ ép duyên Châu Trần? Câu 406 – 407: Đôi ta đã hợp duyên hài,
Chàng hay là sự duyên trời hay sao. Chắc là duyên kiếp thế nào, Cho nên nó thấy người vào, nó thương.
Trăm năm tơ tóc muôn đời hiển vinh. Câu 412 – 413: Nhân duyên mới được nửa niên, Bỗng đâu có lệnh bề trên về đòi.
Câu 426 – 427: Ngọc Hoa duyên bén cùng ta
Duyên ta ai rẽ cho rầy cực nhau?
Thời ngươi cũng được vào ra đây liền. Câu 460 – 461: Chúng tôi duyên bén cùng nhau,
Câu 564 - 565: Ngỡ là phận ấm duyên ưa, Ai ngờ kẻ Việt người Hồ bắc nam!
Đức vua phán thế lấy đâu công bằng? Câu 466 – 467: Nay tôi duyên kiếp cùng chàng,
Câu 584 – 585: Năm canh rắp tưởng nằm mơ, Trách duyên tủi phận cay chua ngậm ngùi...
Nỡ nào phụ nghĩa tào khang cho đành? Câu 488 – 489: Đức vua muốn kết nhân duyên,
Câu 620 – 621: Nó dù thiệt phận thác đi, Ta cùng nàng muốn kết nghì làm đôi.
Giết chàng Phạm Tải cho yên mọi đường. Câu 506 – 509: Hay đâu một phút biến rời
Câu 622 – 623: Âu là duyên số bởi trời, Lòng vàng quyết hẳn đẹp đôi duyên vàng.
Xui nên chia rẽ duyên tôi làm vầy! Trời cao đất rộng có hay
Câu 709 – 710: Kẻo vua rồi lại ép duyên, Thôi tôi tự vẫn cho yên cửa nhà!
Sát phu hiếp phụ, sự này thấu chưa? Câu 518 – 519: Thay tôi cha mẹ khỏi phiền,
Câu 846 – 847: Nhân duyên trời đã xoay vần, Sao anh cứ ở bất nhân cho đành!
Gọi là hương lửa bén duyên với nàng. Câu 542 – 543: Ngọc Hoa nàng hỡi! Có hay,
Câu 876 – 879: Vợ chồng lại hợp nhân duyên, Lên dương gian, lại phỉ nguyền như xưa.
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 2010 – 2011: Cậu Hai vọng bái Thiên hoàng,
Câu 2322 – 2323: Nó đà duyên đẹp tình ưa,
Nguyện sau kết nghĩa giao duyên sắt cầm. Câu 2020 – 2021: Bao giờ chiếm đặng ngao đầu,
Vui vầy cá nước say sưa nhiều ngày. Câu 2338 – 2339: Nó đà duyên đẹp tình say,
Thưa cha cùng mẹ phối cầu lương duyên.
Thưa cha cùng mẹ cưới rày cho con.
Câu 2467 – 2470: Lương duyên trời sẽ định toan, Hai ta kết nghĩa đá vàng trăm năm. Hai ta kết nghĩa sắt cầm,
Nó đòi lễ cưới con rày vật chi? Câu 2563 – 2564: Ngày lành đem đến chòi lan, Phụng hồn thân phụ bên nàng kết duyên.
Nàng ôi nàng chớ lưỡng tâm thế nào. Câu 2501 – 2502: Cùng nhau nguyện ước sắt cầm,
Thơ rằng 29 - 30: Vàng tìm vàng làm bạn Ngọc tìm ngọc giao duyên.
Trước có trời đất sau cùng xứ sang. Câu 2557 – 2558: Con đà duyên đẹp tình say,
Câu 3502 – 3503: Nay tham nộn ngọc mà rời, Trước tội trời đất sau thời nhơn duyên.
PHƯƠNG HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 71 – 72:
Phận yên phu xướng phụ tùy,
Nguồn ân bể ái phút nên đôi đường.
Giàu ăn, khó chịu mặc thì nhân duyên. Câu 165 – 166: Chúng tôi xưa kết bạn hiền,
Câu 607 – 608: Mẹ tôi tên gọi Thị Trinh, Vô duyên phút đã bỏ mình xa xôi.
Rày cho con cháu kết duyên đá vàng. Câu 181 – 182: Nhân duyên nhiều nỗi lao đao, Xoay vần phút bỗng xôn xao nhỡ nhàng.
Câu 641 – 642: Trước đà chỉ núi thề non, Trao duyên cùng chú sắt son ân cần. Câu 645 – 646: Nàng hay lòng vẫn đợi chờ,
Câu 340 – 341: Một câu quốc ngữ mấy câu tế nàng: ... Duyên ta đỏ sớm đà gặp gỡ, ... Ấy ai làm phận hẩm duyên ôi! Mà ai khiến gương lòa đá lở!
Thiên duyên xui đến bây giờ gặp ta. Câu 867 – 868: Phu nhân mệnh tận số chung, Đã hay nhà khó, cửa không, nhỡ nhàng. Câu 942 – 943: Tôi xin ra ở kinh kỳ,
Câu 471 – 472: Trước là tủi phận trách duyên,
Bán hàng kén khách kịp thì kết duyên.
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 123 – 126: Nhân duyên thôi đã vẹn tròn, Tơ hồng sớm liệu nghênh hôn chọn ngày...
Câu 891 – 892: Thư đưa lòng luống tần ngần, Mối duyên ai biết đường gần hóa xa.
Câu 139 – 140: Từ nay con về nhà chồng, Duyên ưa phận đẹp thỏa lòng bấy nay.
Câu 1059 – 1060: Cha nó ra dạ bất nghì, Được bảy năm trọn, bắt về rẽ duyên.
Câu 303 – 304: Xem tình vua chẳng ép duyên, Ban yến nội diện cho liền xem hoa.
Câu 1125 – 1126: Thuở sống, duyên nợ chưa xong, Một mai thác xuống vợ chồng có đôi!
Câu 701 – 702: Hai chị lấy chồng hai nơi, Còn tôi là bé ép tôi duyên này.
Câu 1523 – 1524: Tống Trân sang sứ bên này, Ơn cha đã định duyên may vợ chồng.
Câu 719 – 720:
Câu 1527 – 1528: Phán rằng: “Nam Việt cách xa, Bên này cha kén duyên hòa nên chăng?”
Cha tôi ra dạ bất nghì Được bảy năm vẹn bắt về rẽ duyên.
Câu 887 – 888: Kiếp này chưa đẹp duyên hài, Nguyện xin kiếp khác xe đôi chữ đồng.
Câu 1663 – 1664: Đều thời hưởng phúc nhà chung, Mỗi duyên cũng vẹn, chữ đồng cũng yên.
PHAN TRẦN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 625 đến 672) Câu 49 – 50: Lửa hương đành đã bén duyên,
Lòng giời chiều cả hai bên ước cầu.
Câu 89 – 90: Nhân duyên đã chiếc trâm này,
Câu 499 – 500: Càng van càng một đinh ninh,
Của Trần công để cho mày định hôn. Câu 149 – 150; Chăn đơn gối chiếc lạnh lùng,
Rằng duyên rằng nợ rằng tình một hai. Câu 529 – 530: Vả chi hai chữ tình duyên,
Tưởng nhân duyên ấy như vòng tơ vương. Câu 205 – 206: Sớm cúng quả, tối dâng hoa,
Nhẹ danh tài tử, nặng nguyền giai nhân. Câu 577 – 578: Rằng: Chàng cửa tướng nhà khanh,
Duyên xưa nỡ phụ để già độ cho. Câu 241 – 242: Một mình những tủi duyên mình,
Lứa đôi há hiếm cầm lành đưa duyên. Câu 679 – 680: Kiếp này phụ, kiếp sau yêu,
Triện hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn. Câu 243 – 244: Phải khi sư phụ bước lên,
Lại như ả Bích, quyết liều cho xong. Câu 683 – 684: Ai cười thị Phật xéo cho,
Dè chừng mời hỏi rằng: Duyên cớ nào. Câu 301 – 302: Những mong nương náu qua thì,
Cho vào mà kể duyên do mới tường. Câu 701 – 702: Nằn nì mới giở sự duyên,
Biết đâu cơ tạo kết gì nhân duyên. Câu 351 – 352: Trước chi hương lửa hữu duyên,
Dẫu lòng vàng đá cũng nghìn xót xa. Câu 705 – 706: Bào thai đã hẹn nhân duyên,
Bõ tòng tuổi tác, rạng nền tổ tông. Câu 397 – 398: Mới hay hai chữ sắc không,
Quạt ngà, trâm ngọc kết nguyền họ Phan. Câu 717 – 718: Oan chi chút phận thuyền quyên,
Chẳng duyên mà dễ duyên lòng trần duyên. Câu 425 – 426: Một là số phận cầu duyên,
Chữ tình cám cảnh, chữ duyên bẽ bàng. Câu 793 – 794: Rồng mây gặp hội, bảng vàng bia đá nghìn thu,
Hai là thong thả sách đèn cũng vui. Câu 439 – 440: Nhưng thời duyên kiếp thế mà,
Loan phượng sánh duyên, trâm ngọc quạt ngà muôn kiếp. Câu 815 – 816: Sư rằng: Phận đẹp duyên ưa,
Dẫu làm sao cũng cậy già giúp nao! Câu 461 – 462: Vì duyên cho phải vật nài,
Mừng cho đôi lứa đã vừa đồng cân. Câu 861 – 862: Nhân duyên vâng lĩnh quạt thề,
Có thương thì xét, mà cười thì oan. Câu 469 – 470: Bụt giời xin chứng lòng ngay, Duyên ai dù rủi dù may tại già.
Nhở tay Nguyệt lão khéo se lạ lùng. Câu 875 – 876: Chữ duyên rày đã vuông tròn, Đem tin mừng lại tả buồn bấy lâu.
Câu 889 – 890: Duyên hương lửa, hội rồng mây, Bõ công ly biệt, bõ ngày tân toan. Câu 909 – 910: Hợp duyên ngư thủy nhất đường,
Ấn son chấm mặt, gươm vàng trao tay. Câu 927 – 928: Trăm năm duyên đẹp phượng loan, Tào khang hai chữ Trần, Phan chuyện đời.
BÀ CHÚA BA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 895 đến 956) Câu 63 – 64:
Miếu thần thấy sớ đốt lên, Bàn cùng bộ hạ sự duyên gót đầu.
Trách họ Thi ở nhân hiền để đâu?! Câu 1429 – 1430: Chỉn vì ngu tục chẳng tin,
Câu 95 – 96: Ngọc Hoàng phán hỏi sự duyên,
Tin mà thành ít thì duyên phúc nào.
HOÀNG TRỪU (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 959 đến 1023) Câu 39 – 40:
Tạo đoan nghĩa cả muôn đời,
Bác đừng ép uổng cậy giời đưa duyên. Câu 41 – 42: Mặc tôi cậy tạo hóa quyền, Hễ may gặp mặt non quyền duyên ưa.
Câu 93 – 94: Vợ chồng là nghĩa thiên duyên, Bao giờ tìm được người hiền sẽ hay. Câu 139 – 140: Có người mách bảo duyên do: Này lầu công chúa con vua kén chồng.
Câu 251 – 252: Thấy nhời Hoàng nói nhỏ to,
Câu 607 – 608: Trước là ngư thủy duyên hài,
Cầm lòng chẳng đậu, duyên do giãi bày. Câu 313 – 314: Con này sao có duyên thầm,
Sau là hai nước muôn đời giao thông. Câu 615 – 616: Quý hồ phận đẹp duyên hài,
Hình dung nhan sắc áo quần tinh trai. Câu 321 – 322: Trông con người cũng có duyên,
Hoàng nghe tin tức một hai bằng lòng. Câu 635 – 636: Tôi xin công chúa kết duyên,
Nỡ nào mà để sánh bên quê mùa. Câu 413 – 414: Ai ngờ phận đẹp, duyên may,
Một mai vẹn chữ bách niên mấy nàng. Câu 653 – 654: Hoàng Trừu mừng rỡ mặn mà,
Giả làm đạo tớ nghĩa thầy lân la. Câu 427 – 428: Trình rằng: Hổ phận thẹn duyên,
Hội nào bằng hội trăng già se duyên. Câu 663 – 664: Chúa rằng: Phu quý phụ huynh,
Bấy lâu thiếp những cậy duyên phô tài. Câu 437 – 438: Bây giờ kỳ ngộ cùng chàng,
Duyên may như thiếp sắt thanh vẻ gì. Câu 687 – 690: Dặn dò công chúa mọi nhời:
Đã đành phận ngọc, duyên vàng vậy vay. Câu 527 – 528: Lại nhờ ơn đức nhà vàng,
Đôi ta sự bởi duyên giời tạo đoan, Cho nên cầm sắt hợp hoan,
Xin thương yêu đến mở đường kết duyên. Câu 533 – 534: Song hiềm con trẫm thiếu niên,
Cùng nhau gối phượng chăn loan bấy chầy. Câu 738 – 739: Người nhìn lại, kẻ trông theo,
Biết rằng duyên đã bén duyên chăng là? Câu 539 – 540: Dầu con có thuận duyên giời,
Ngựa Hồ, chim Việt nhớ điều tình duyên. Câu 805 – 806: Nhân duyên tượng bởi tại giời,
Bây giờ trẫm sẽ gửi nhời xuống cho. Câu 551 – 552: Trước là công chúa kết duyên,
Quăng ra phải nó chết ngoài đình vi. Câu 853 – 854: Lại mai kết nối tơ đào,
Sau là hai nước đôi bên thuận hòa. Câu 587 – 588: Phán rằng: Hoàng tử sang đây,
Se duyên gặp kẻ anh hào phải đôi. Câu 885 – 886: Nhân duyên, sao nỡ giải gàn,
Đưa long điệp bản xin rầy kết duyên. Câu 603 – 604: Có duyên đâu phận Tấn, Tần Để cho thiên hạ nhọc nhằn lo âu.
Hắc vân một áng giăng ngang giữa giời. Câu 951 – 952: Nàng nghe nói hết duyên do, Tạ từ thôi lại hỏi dò đường sang.
Câu 999 – 1000: Cho nên duyên phận chẳng ưa,
Câu 1247 – 1248: Quê tôi ở quận Hà Tây,
Số mình đã lỗi ông tơ lại nhầm. Câu 1101 – 1102: Than rằng: Duyên phận lao đao,
Nhân duyên đã định từ ngày còn thơ. Câu 1269 – 1270: Nhưng tôi đã đẹp duyên hài,
Tưởng nơi trú ngụ ra vào cho qua. Câu 1129 – 1130: Nghĩ mà tưởng đến nguồn cơn,
Thiếu gì quốc sắc, thiên tài thuyền quyên. Câu 1279 – 1280: Bảo rằng: Nàng nói cho ngay,
Đã căn cái kiếp, lại hờn cái duyên. Câu 1149 – 1150: Lạ gì hiền có ý hiền,
Duyên do sau trước nàng rầy làm sao? Câu 1421 – 1422: Tơ hồng Nguyệt lão se duyên,
Nhân duyên đã trái, thiên duyên lại vì. Câu 1243 – 1244: Nhân duyên sao phải cơ hàn?
Éo le nam bắc đôi bên con hoàng. Câu 1519 – 1520: Vua quan nghe nó sự duyên,
Min từ trông thấy, muôn vàn cảm thương.
Lòng thương quân sĩ, cảm phiền bơ vơ.
LÝ CÔNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1027 đến 1087) Câu 69 – 70: Sự tình xin tỏ nguyên nhân, Duyên do thảm thiết gian truân nhường này.
Họ Lý có phải duyên kia ngãi này? Câu 657 – 658: Nói dù bà chẳng yên lòng,
Câu 111 – 112: Công chúa thấy nói ngùi ngùi, Sự bởi duyên trời thoắt động lòng thương.
Nhất nhật tương phùng vạn kiếp nhân duyên. Câu 1041 – 1042: Tâng bầng vừa mới sáng ngày,
Câu 143 – 144: Màn rồng một bức che ngang: Thiếp hỏi thăm chàng duyên cớ làm sao? Câu 163 – 164: Nguyện cùng trời đất chứng tri,
Trạng nguyên ra trước tỏ bày sự duyên. Câu 1137 – 1138: Con gái thừa tướng như tiên, Gả cho, chẳng chịu kết duyên, tìm nàng.
LƯU NỮ TƯỚNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1091 đến 1214) Câu 204 – 205: Những màng bàn bạc riêng chung, Duyên đâu tống các bỗng không tình cờ. Câu 243 – 244: Phó thanh y đệ trang đài,
Cải dung, ly tịch đứng lên vội vàng. Câu 1137 – 1138: Tình duyên mấy nỗi ân cần, Gót đầu, anh đã vân vân bày tường.
Nhủ rằng: Hai chữ duyên hài cậy ngươi. Câu 557 – 558: Có quan Xu mật đương triều, Rắp đem lệnh ái lộng điều ép duyên. Câu 567 – 568: Tiểu tâm nghe nực cười thay,
Câu 1185 – 1186: Vậy nên ủ liễu phai đào, Những lo chữ hiếu, quản nào chữ duyên. Câu 1373 – 1374: Bình sinh vốn có nhị giao, Vườn đào kết nghĩa gieo đào lỡ duyên.
Mối duyên chẳng vẹn oán xây nên thành. Câu 1069 – 1070: Lưu công nghe tỏ họ hoa, Mới hay Tư Mã nghi gia duyên lành. Câu 1075 – 1076: Ví duyên chẳng có bởi trời,
Câu 1381 – 1382: Chờ duyên nửa gối bên màn, Chẳng hay duyên thắm trạch càn những ai? Câu 1383 – 1384:Thơ trong ngọc phiến còn bài, Lương duyên luống để giận dài nương long.
Thời sao Lưu Nguyễn tới vời thiên thai. Câu 1077 – 1078: Ngự câu, lá thắm thơ bài, Gẫm trong cũng thấu đến ngoài trần duyên. Câu 1081 – 1082: Chẳng qua hai chữ tương kỳ,
Câu 1541 – 1542: Dẩy dun tượng bởi duyên trời, Em xin gỡ mối xích thằng cho xong. Câu 1547 – 1548: Lời ghi bể ước, non nguyền, Nghĩ rằng kim thạch, giận duyên thủy bình.
Lọ phiền trăng chị, gió dì đưa duyên. Câu 1089 – 1090: Hẳn duyên này đã an bài, Tấn Tần xin quyết một lời nên chăng. Câu 1129 – 1130: Lưu công nghe tỏ sự duyên,
Câu 1743 – 1744: Bóng Hằng giải tỏa hiên mai, Thong dong, Lưu tướng hỏi lời tiền duyên. Câu 1779 – 1780: Xiết bao khiếp gió, e sương, Mối duyên kỳ ngộ tưởng dường chiêm bao.
Câu 1799 – 1800: Gió Đằng tiện diệp đưa duyên, Đông sàng dù khứng, dám xin quyết lòng! Câu 2111 – 2112: Trạng nguyên vào chốn đình trung,
Lại dâng một lễ tơ hồng kết duyên. Câu 2121 – 2122: Bây giờ vẹn cả đôi đường, Mừng hai con, lại mừng chàng đẹp duyên.
BẦN NỮ THÁN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1217 đến 1229) Câu 1 – 2: Câu 3 – 4:
Kiếp phù thế nhân sinh thấm thoát, Vì chữ Bần nên ngắt chữ duyên. Ai làm số phận xui nên?
Chẳng ai phận nấy hóa nên nỗi buồn. Câu 175 – 176: Miễn có chí, ở cho bền, Chẳng lo phận khó, chẳng phiền muộn duyên.
Há thua sắc thắm, há hèn màu tươi? Câu 45 – 46: Tưởng không nổi giận duyên tủi phận!
Câu 183 – 184: Kìa sen tiết muộn càng xinh Có khi cũng gặp duyên lành như ai.
Tưởng không điều nhạt phấn phai son! Câu 75 – 76: Hay là số phận làm sao?
Câu 199 – 200: Nước non kia hẳn chưa già, Nhân duyên kia định, cũng là có nơi.
Xui ra duyên phận hẩm hiu thế mà! Câu 83 – 84: Hay là thua đẹp thua xinh?
Câu 203 – 204: Hễ là vận đến thì nên, Giàu sang cũng có nhân duyên cũng mầu.
Thua son, thua phấn thu tình thua duyên? Câu 151 – 152: Thương vì phận, xót vì duyên,
Câu 215 – 216: Giận duyên nói bấy nhiêu lời, Ai khen cũng mặc, ai cười mặc ai.
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 37 – 38:
Dịu dàng khoan bước đến nơi,
Đưa duyên may có tơ hồng tế thay!
Miệng cười làm dịp nói nhời làm duyên. Câu 55 – 56: Song le lòng vốn chí thành,
Câu 545 – 546: Có quan Đại tướng biên cương, Cùng tôi duyên kết lửa hương bấy chầy.
Kết duyên cõi tục nên danh trong đời. Câu 107 – 108: Phán rằng: Trong chốn quốc gia, Một là đẹp phận, hai là đẹp duyên.
Câu 567 – 568: Nhân duyên ý mặc xích thằng, Vườn xuân chưa có đã đằng tin ong. Câu 569 – 570: Thuyền quyên sánh với anh hùng
Câu 111 – 112: Vua rằng: Đã phi sở cầu, Tạm duyên một khắc dự trao nghìn vàng. Câu 179 – 180: Cả lòng tâu trước thiên nhan, Ngỏ may duyên bén một đoàn lửa hương.
Hợp duyên cùng Chuối đã song thế cười. Câu 619 – 620: Rằng duyên tơ thắm đã xong, Tướng công ngày cũng có lòng thương con. Câu 669 – 670: Chuối nghe phán hỏi niềm tây,
Câu 193 – 194: Nhân duyên chẳng lọ ép cầu, Mà cho một ả làm dâu hai nhà. Câu 289 – 290: Phán rằng: Duyên mới tình cờ, Mặc khi trận gió thổi đưa các đằng.
Khấu đầu lạy tạ mới bày sự duyên. Câu 783 – 784: Trình rằng: phải kiếp duyên lành, Tôi đà muôn đội ân tình lắm thay. Câu 1173 – 1174: Quân thần cá nước duyên ưa,
Câu 303 – 304: Nghìn năm hương lửa bén duyên,
Danh lừng bốn bể, công thừa bát man. Câu 1199 – 1202: Trễ chân một phút cho nên, Giờ về cửa hạt kết duyên cùng nàng. Ngày sau xe giá hồi loan,
Đã thề non thẳm lại nguyền giời cao. Câu 467 – 468: Mảng trông hoa liễu buồn cười, Hay đâu tơ đỏ bởi giời se duyên. Câu 517 – 518: Họa là Đẳng các nghênh phòng,
Thủy xa mới nói cùng nàng sự duyên.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1281 đến 1310) Câu 229 – 230: Cho hay duyên kiếp bởi giời, Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.
Lại là nghiệp chướng, lại là nợ duyên. Câu 541 – 542: Một làm phúc, hai làm duyên,
Câu 239 – 240: Đưa duyên nhờ gió các đằng, Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì. Câu 583 – 584: Ví không duyên nợ ba sinh,
Câu 473 – 474: Ơn dày giả nghĩa giăng hoa,
Nàng sao giở nỗi bất bình tới đây.
CHUYỆN CÁI TẤM – CÁI CÁM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1313 đến 1333) Câu 19 – 20:
Đặt tên cái Tấm gọi thường, Tuổi thơ mẹ bỗng rẽ đường trần duyên.
Câu 301 – 304: Mặt rồng vui vẻ phán truyền, Tái sinh âu hẳn có duyên thiên đình.
Câu 329 – 330: Thương ôi vóc ngọc mình tiên, Mưu kia ai khiến rẽ duyên trần phàm. Câu 345 – 346: Cợt rằng: Nếu phải vợ chồng, Tiền duyên âu hẳn đã cùng hoàng oanh.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508) Câu 277 – 278: Nhân duyên âu bởi sự giời,
Cùng quan tân Trạng ngỏ nhời nhân duyên.
Nay đi lại gặp có nơi tơ hồng. Câu 367 – 368: Hoàng thiên bất phụ hảo tâm,
Câu 939 – 940: Chúa rằng: Thiên tải lương duyên, Đôi ta kết hợp phỉ nguyền thừa long!
Người hiền, ai thấy chả nhằm kết duyên. Câu 569 – 570: Nay chàng muốn kết phượng loan,
Câu 1009 – 1010: Dung nhan cá lặn, nhạ rơi, Trẫm gả cho chàng muôn đời kết duyên.
Xuyến vàng ba cặp, mới hoàn nhân duyên. Câu 647 – 648: Tơ hồng Nguyệt lão đã se,
Câu 1181 – 1182: Da ngà, mắt phượng mĩ miều, Nhân duyên chưa định tơ đào nơi cao.
Duyên giời đã định phu thê mới rồi. Câu 657 – 658: Ông bà ôm lấy Cúc Hoa,
Câu 1253 – 1254: Hay là duyên phận no đôi, Sao không thương đến thiếp tôi ở nhà.
Tơ duyên trời định con ta chắc rồi! Câu 679 – 680: Kết duyên làm đạo phu thê,
Câu 1279 – 1280: Bây giờ anh đã về đây, Duyên đầm loan phượng, hương bay quế hòe!
Phượng hoàng được quẻ vu quy tuổi này. Câu 717 – 718: Tình duyên chớ để hửng hờ,
Câu 1423 – 1424: Than rằng: Duyên lứa đôi ta, Trời xanh tác hợp, giăng già se duyên.
Đuốc hoa chớ để đợi chờ phòng loan. Câu 721 – 722: Xin chàng hãy gác nguyệt hoa, Trăm năm kết tóc duyên ta vội gì?
Câu 1447 – 1448: Khéo trêu người hỡi giăng già! Tơ duyên ngắn ngủi ai mà nối cho? Câu 1657 – 1658: Nửa đường đứt mối tơ duyên,
Câu 725 – 726: Mười ba gió thổi duyên Đằng, Cung thiềm nay đã chị Hằng chủ trương. Câu 825 – 826: Hay đâu cũng bởi duyên giời, Không đầy ba tháng nàng thời thụ thai.
Nghĩa mai nợ trúc bao đền cho qua. Câu 1677 – 1678: Sao không kiếm bạn trúc mai, Trước nuôi con nhỏ, sau hài nhân duyên. Câu 1691 – 1692: Ngờ là chưa hết trần duyên,
Câu 931 – 932:
Vua đòi công chúa lên ngồi,
Nên nàng sống lại cho tuyền nghĩa xưa.
Câu 1705 – 1706: Tơ duyên đã trót nhỡ nhàng,
Có chăng thời giở về đền sẽ hay.
Trăm năm ai dám phụ phàng với ai! Câu 1711 – 1712: Trước là thờ tổ nuôi con,
Câu 3531 – 3532: Yêu tinh mới hỏi sự duyên, Biết tình quan trạng đi tìm Cúc Hoa.
Sau duyên loan phượng lại tròn như xưa. Câu 1921 – 1922: Duyên may vả lại gặp thì,
Câu 3555 – 3556: Vợ chồng chưa nói sự duyên, Sao vội bàn liền những chuyện nguyệt hoa?
Cho nên dì mới sánh kề cùng cha. Câu 2357 – 22358: Để cha phụng mệnh về đền,
Câu 3566 – 3567: Nàng yêu mới nói sự duyên, Lấy nhau từ thuở tháng giêng năm Dần.
Đoạn thôi thăm hỏi sự duyên cửa nhà. Câu 2607 – 2608: Thấy con khẳng khái một niềm,
Câu 3971 – 3972: Ba mươi năm vạn Trần Châu, Hết duyên nên lại về chầu phụ vương.
Hẳn là duyên nợ xui nên thế này. Câu 2927 – 2928: Trạng rằng: Nhất nhật tương phùng,
Câu 3999 – 4000: Trạng tâu: Xin để toan lo, Duyên sau nghĩa trước phải cho vuông tròn.
Ấy cũng vợ chồng muôn kiếp nhân duyên. Câu 3491 – 3492: Trạng nguyên kể hết sự duyên,
Câu 4005 – 4006: Tình cũ nọ, duyên mới kia, Càng lâu duyên thắm càng dài tình yêu.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 1549) Câu 119 - 120:
Biết ai mà hỏi sự duyên
Khi buồn thì lại trông miền cựu du. Câu 153 – 154: Cấp thu cảnh vật dồi dào, Động trăng ấy thú, nguồn đào ấy duyên.
Câu 245 – 246:
Bây giờ may lại gặp chàng
Cơ duyên cũng rắp vẹn đường thủy chung. Câu 255 – 256: Thứ tình muôn đội ơn trên, Dám chi kể lể tiền duyên cũ càng.
Câu 269 – 270:
Nghĩ âu người ấy hẳn là,
Câu 465 – 466:
Ai hay những kẻ tài tình
Một mai cầm sắt thực là bén duyên. Câu 273 – 274: Lọ là nguyệt sứ, băng môi
Cơ duyên trời đã để dành về sau. Câu 469 – 470: Chạnh niềm có trách vẻ thương
Phận này duyên ấy ắt thời trong tay. Câu 287 – 288: Đấy đây từ bén duyên lành,
Trách chàng phụ nghĩa, thương chàng lỡ duyên. Câu 479 – 480: Bấy lâu cách mặt xa tình,
Khát khao bỏ lúc phật đình thẳng qua. Câu 333 – 334: Nàng nghe như mướt mồ hôi
Duyên hương lửa, để nguội tanh, cũng rầu. Câu 483 – 484: Tủi chàng và tủi duyên mình
Trách duyên sao khéo những lời chông chênh. Câu 343 – 344: Trót từ gian díu đến nay,
Liệu lời nàng mới lên trình Kim Tiên. Câu 491 – 492: Khách thơ tình phụ má đào
Nghìn năm chẳng kiếp, một ngày cũng duyên. Câu 361 – 362: Nhân duyên nào phải một thì,
Ngẫm nhân duyên ấy lẽ nào còn nên. Câu 605 – 606: May mà kim cải bén duyên
Ví mà bao nả, chẳng về có đâu. Câu 387 – 388: Tiễn đưa của thiếp tạ lòng,
Lứa đôi đường ấy phụ nguyền cho dang! Câu 585 – 586: Hay đâu duyên sẩy phận sui
Biết bao giờ lại tính cùng duyên Ngâu. Câu 415 – 416: Thì rằng đừng gặp bạn tiên,.
Khi nên chẳng lọ rậm lời mới nên. Câu 591 – 592: Vời nàng lên mới phán rằng
Nhưng mà đã gặp kết duyên cho tròn. Câu 419 – 420: Bây giờ trót đã dở dang,
Đã đành hậu hội sao bằng tiền duyên. Câu 593 – 594: Tiếc vì đôi lứa thiếu niên
Duyên xưa nỡ để quải quàng cả hai. Câu 425 – 426: Kiếp nay lỗi hẹn thời thôi,
Tơ Tần chi Tấn vẹn nguyền duyên xưa. Câu 599 – 600: Ba sinh phận đẹp cỡi rồng
Lưu lang dễ tới Thiên Thai mấy lần. Câu 427 – 428: Giận duyên, nghĩ ngợi tần ngần
Thước Kiều sẵn dịp, loan phòng sẵn duyên. Câu 605 – 606: Thực là tài tử giai nhân
Xa xôi bao lại được gần cận nhau.
Thiên duyên đã định tiên trần mà chi
THOẠI KHANH – CHÂU TUẤN
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1599 đến 1636) Câu 180 – 181: Lương duyên vốn tự thiên thành, Ép dầu, ép mỡ ai đành ép duyên. Câu 200 – 203: Để chi ra sự long đong,
Trong ngoài chẳng thấy vãng lai tiếng gì. Câu 280 – 281: Trời đà định chữ nhơn duyên, Ta nay đã có vợ hiền tốt thay.
Dở dang phận thiếp, vợ chồng cách phân. Dở dang phận thiếp đã đành.
Câu 504 – 505: Tưởng thôi mộng ứng chẳng lầm, Chàng bèn thức dậy than thầm sự duyên.
Nào ơn dưỡng dục sanh thành chàng đâu? Câu 216 – 219: Cùng nhau phối hiệp mấy trăng,
Câu 692 – 693: Thoại Khanh lòng hãy chưa yên, Muốn hỏi gốc tích sự duyên cho tường.
Tưởng là loan phụng sắt cầm bén duyên. Câu 224 – 225: Gá duyên đã bảy năm trời,
Câu 844 – 845: Thôi đà lỗi một lầm hai, Bèn sai sứ tới thuyết hài nhơn duyên
GƯƠNG SÁNG TRỜI NAM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1665 đến 1743) Câu 29 – 30: Câu 47 – 48:
Mai cậy duyên có lòng kiêu sỉ Cửu trùng hờn đầy nghỉ cõi xa Tiên Dung thấy gió đưa duyên, Dụng khi gặp gỡ kết duyên vợ chồng.
Câu 53 – 54: Song duyên nợ dưới trăng đã định
Héo keo sơn gắn dính mới nên. Câu 337 – 338: Duyên khác thường ai bằng Cao, Mộng Câu 351 – 352:
Hôm lầm than sớm bỗng giàu sang. Gẫm điềm lương bật khác gì
Chẳng duyên cá nước duyên thì rồng mây.
Câu 425 – 426: Nên một nước vẻ cao danh gái
Câu 781 – 782: Đẹp duyên chúa sáng tôi ngay
Trước bạc tình sau lặm thắm duyên. Câu 485 – 486: Phúc gặp chúa đẹp duyên cá nước
Rạng vầy đuốc ngọc, vững thay âu vàng. Câu 933 – 934: Anh hùng chưa dễ bỗng chi,
Mở nương long dâng chước luận môn.
Mến duyên, mến nết, ắt vì, ắt yêu.
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4087 – 4088: Thạch ông thoát nợ trần duyên,
Câu 5833 – 5834: Nàng rằng: Dẫu việc triều đình,
Hồn hoa sớm đã chơi tiên kia rồi. Câu 4253 – 4254: Thơ đào chưa định lương duyên,
Thời tôi cũng kết duyên lành từ đây. Câu 6131 – 6132: Thiếp nay là phận nữ hài,
Muốn cùng người sẽ kết nguyền đệ huynh. Câu 5563 – 5564: Cân đai đủ vẻ anh hùng,
Mẹ cha bức bách ép nài nhân duyên. Câu 6133 – 6134: Cho nên thiếp phải băng miền,
Trái duyên nên chẳng đẹp lòng công nương. Câu 5697 – 5698: Ta cho phối ngẫu lương duyên,
Hay đâu giời định lương duyên vậy thì. Câu 6469 – 6470: Dưới hang đã ngỏ một nhời,
Nhường ngôi thiên tử, cầm quyền quốc bang. Câu 5717 – 5718: Gả nàng công chúa hợp duyên,
Rằng: về loan phượng kết đôi duyên vàng. Câu 6635 – 6636: Viện vương phán bảo triều nghi,
Để cho sửa trị cầm quyền giao dân. Câu 5791 – 5792: Nhường ngôi thiên tử trị vì,
Truyền làm sính lễ vậy thì hợp duyên. Câu 6637 – 6638: Sanh liền bái tại điện tiền,
Gả nàng công chúa kết nghì hợp duyên. Câu 5827 – 5828: Thiếp xin kết nghĩa lương duyên, Phượng loan chung gối phỉ nguyền keo sơn.
Cùng nàng công chúa hợp duyên vui vầy. Câu 6701 – 6702: Đàn kêu hơn thiệt mọi nhời, Nhân duyên phu phụ số giời đã se.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160) Câu 31 – 32:
Duyên chẳng khác chi duyên mái nguyệt.
Tuổi vừa nguyệt đáo thu thiên,
Chọn người hào kiệt se duyên tơ hồng. Câu 33 – 34: Mừng đã được cưỡi rồng phận đẹp, Câu 35 – 36:
Câu 148 – 149: Lại dẫn sự đinh ninh duyên cũ, Kết sắt cầm nam tử đã sinh. Câu 174 – 175:
Ước ba sinh vẹn kiếp phu thê. Trách thay tạo hóa chẳng vì,
Hay là duyên kiếp xưa kia lỗi nguyền. Câu 103 – 104: Lấy chồng kẻ Sóc yến anh kết nguyền,
Một mai dù nó cả khôn, Tìm nơi gia thất duyên ưa cửa nhà.
Câu180 – 181: Nhẫn ngàn năm duyên cầm còn đấy, Non nước mòn nghĩa ấy chẳng quên.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 25 – 26:
Nhân duyên vốn sẵn tự trời, Hôn nhân đã định vào nơi họ hầu. Câu 693 – 694: Lại mang cái tiếng tôi đòi, Nhân duyên trời có chiều người cho chăng.
Câu 917 – 918: Em cho nương nấu những ngày, Rắp đem tiểu nữ sum vầy kết duyên. Câu 949 – 950: Môn mi mong những nhờ duyên, Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân.
Câu 965 – 966: Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
Mua làm tiểu thiếp toan đường ép duyên.
Nhân duyên chưa ghép chữ đồng đã in. Câu 1051 – 1052: Vật thường gọi chút làm duyên,
Câu 1963 – 1964: Sinh rằng: Nguyệt lão se tơ, Nhân duyên đã định Trần gia những ngày.
Luật Đường mới ngụ một thiên giãi bày. Câu 1223 – 1224: Như lời thần mộng họa là,
Câu 2069 – 2070: Duyên này đã định tào khang, Có đâu phụ nghĩa tham sang lẽ nào.
Còn duyên chăng nữa cũng chờ lai sinh. Câu 1355 – 1356: Tôi nay vâng đẹp duyên bình,
Câu 2253 – 2254: Phán rằng: Những chúng vô loài, Thương con kén rể bức người ép duyên.
Xin tường quý tính đại danh được nhờ. Câu 1389 – 1390: Nhân duyên may gặp được nhau,
Câu 2283 – 2284: Ép duyên sai bắt thế nào? Việc rành rành phải đem vào lời cung.
Việc nhà xem đỡ ta sau sá gì. Câu 1481 – 1482: Ngọc Thư cho kết duyên lành,
Câu 2389 – 2390: Vua Đường xem hết sự duyên, Phán rằng: Tung Kỷ hại hiền bấy lâu.
Họa là phú quý phụ vinh kíp ngày. Câu 1519 – 1520: Lưới này như được cá đầu,
Câu 2505 – 2506: Cầm tay cất lấy về liền, Cười rằng cấm cách nhân duyên thế này.
Duyên con thì định xuân sau kén ngày. Câu 1551 – 1552: Giao cho đầy tớ đưa sang,
Câu 2519 – 2520: Chứa ti phạn tiểu tầm thường, Chẳng hay thượng hiến sao tường duyên do.
NỮ TÚ TÀI (Lấy từ thuvien.net, từ trang 1 đến trang 27) Câu 61 – 62:
Cát đằng nhờ gió đưa duyên,
Song hai gã ấy tài hiền ngang nhau. Câu 67 – 68: Chẳng hay duyên phận bởi trời, Mượn cơ tạo hóa thay lời nhân gian.
Câu 131 – 132: May mà hương lửa bén duyên, Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đề. Câu 153 – 154 Nàng buồn, than thở sự duyên Rằng: Lòng chẳng rắp mà nên lạ lùng.
Câu 157 – 158: Lòng ta muốn kết duyên hài, Câu 335 – 336:
Song tên thì lại ở nơi tay người Để mà ghi tấm lòng thơ,
Câu 571 – 572: Bỗng đâu giong rủi đến đây, Tưởng rằng cố hữu, ai hay duyên hài. Câu 584 - 585: Cùng nhau đã phỉ duyên hài,
Họa may kim cải duyên ưa cùng người! Câu 359 – 360: Trọ bên tửu điếm gần kề,
Nàng bèn năn nỉ trình lời vân vân... Câu 599 – 600: Con cảnh tướng quốc ở quan,
Lòng tôi cũng muốn kết nghì hợp duyên. Câu 365 – 366: Bây giờ đã đẹp duyên này,
Thấy tôi muốn kết phượng loan duyên lành. Câu 605 – 606: Gọi là lễ mọn xá chi,
Gọi hề lấy áo ông nay ra mừng. Câu 371 – 372: Dạy tôi đem đến thưa hầu,
Rắp ranh để kết duyên nghì đủ đôi. Câu 649 – 650: Đành hay có chí thì nên,
Nguyện xin quân tử hảo cầu kết duyên. Câu 375 – 376: Tiếc thay nàng cũng một loài,
Khôi nguyên mừng mới, nhân duyên phải thì. Câu 671 – 672: Mừng con đã đẹp duyên hài,
Trượng phu mà kết duyên hài, đẹp đôi! Câu 383 – 384: Lửa gần hương muốn bén duyên,
Câu 729 – 730:
Anh hùng nỡ phụ thuyền quyên rẫy ruồng. Câu 389 – 390: Nguyên xưa nàng đã tỏ tường,
Rủi may là phận, ai hầu biết sao? Câu 731 – 732: Sắc cầm duyên những ước ao,
Mới đem duyên kết cùng chàng, không đâu! Câu 403 – 404: Chưa nơi nào đẹp duyên hài,
Lượng công trình kể biết bao công trình. Câu 779 – 780: Những mong than thở sự duyên,
Bằng lòng lấy nó chọn người hợp duyên. Câu 425 – 426: Hiện còn chưa định nhân duyên,
Thành đô phủ ấy gần miền tới nơi. Câu 795 – 796: Ngày xưa có gửi ngọc trang,
Bèn toan một bước tạm quyền giả danh. Câu 539 – 540: Lòng tôi ái sắc tham tài,
Vốn đem duyên kết cùng nàng tiểu thư. Câu 811 – 812: Phiền người đưa đến cho nàng,
Hai anh cốt lấy một người kết duyên. Câu 569 – 570: Duyên sâu sánh với tình dài, Bỏ công đăng hỏa, dùi mài xưa nay.
Nhận xem tự dạng mới tường sự duyên. Câu 819 – 820: Quải người thay bấy ông tơ, Se duyên chểnh mảng, thẫn thờ niềm đơn.
Việc gì bởi phận tại trời xui ra. Sắc tài ai kém ai đâu,
Câu 825 – 826:
Câu 859 – 860: Còn chàng Ngụy Soạn quốc tài,
Rày chi những sự trái tai,
Thiên duyên chẳng lọ vật nài ép duyên!
Chưa nơi nào đẹp duyên hài xứng cân.
QUAN ÂM THỊ KÍNH (Diệu Phương xuất bản từ trang 1 đến trang 60) Trăng hoa tình ái ướm lời, Dấu yêu nài ép duyên đời dài lâu. So ra tốt đẹp nhân duyên,
Câu 289 – 290: Kiếp này thôi đã lỡ làng, Mong gì tác hợp cùng chàng kiếp sau. Câu 297 – 298: Đang tay gây chuyện ly phân,
Một bên gái sắc, một bên trai tài. Câu 91 – 92: Tơ duyên đã khéo se rồi, Ông bà vội viết thư hồi đáp luôn. Câu 137 – 138: Đủ năm lễ thực hiện liền,
Khiến cho tan nát duyên phần lứa đôi. Câu 301 – 302: Hối vì dự đã lỡ làng, Duyên này mà đã dở dang lỡ thì. Câu 311 – 312: Tiếc thay chia cách đôi đường,
Trước là dạm mặt khởi duyên tác thành. Câu 145 – 146: Duyên cầm sắt đẹp tuyệt vời, Nàng lên xe rước về nơi nhà chồng. Câu 207 – 208: Đầu đuôi mọi chuyện phân minh,
Tương lai không biết ai nàng trao duyên. Câu 363 – 364: Duyên trần đã lắm ngậm ngùi, Vào tu cửa Phật tránh đời gian truân. Câu 395 – 396: Tiếc thay cho gái má hồng,
Con từ lúc kết duyên thành lứa đôi. Câu 239 – 240: Xin nghe chuyện lạ vô vàn, Vợ chồng duyên kiếp dở dang nào ngờ. Câu 263 – 264: Làm tình nghĩa mất từ đây,
Duyên không đằm thắm, phận không tốt lành. Câu 471 – 472: Hay là con đã thất tình, Hờn duyên tủi phận nên đành bỏ đi? Câu 561 – 562: Có con gái tên Thị Mầu,
Câu 12 – 14: Câu 83 – 84:
Nhân duyên dang dở tới ngày chia xa.
Tuổi vừa đôi tám khởi đầu tình duyên.
Câu 587 – 588: Dù duyên chồng vợ chẳng thành,
Câu 983 – 984: Trần duyên trừ sạch mọi đường,
Lấy nhau không được cũng đành vậy thôi.
Không còn quyến luyến vấn vương gì đời.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 3 – 4: Câu 5 – 6:
Cơ duyên ngẫm lại mà suy, Trời Nam nào có xa gì cõi Tây. Tưởng duyên kỳ ngộ xưa nay, Trước kia Lưu, Nguyễn sau này Bùi, Trương.
Câu 67 – 68:
Đã người trong sách là duyên, Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa. Câu 245 – 246: Hà rằng: Hương lửa duyên ưa, Có khi tình trước còn chờ hội sau. Câu 273 – 274: Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm, Tới đền Bạch Mã, giải niềm cầu duyên. Câu 351 – 352: Ba sinh đã nặng vì duyên,
Câu 107 - 108: Nhân duyên ví chẳng tự trời, Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ. Câu 353 – 354: Nhân duyên đã định từ xưa,
Câu 133 – 134: Rằng: Đây lầm xuống mê tân, Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân. Câu 359 – 360: Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
Câu 135 – 136: Ba sinh cho vẹn mười nguyền, Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
Làm chi cho bận lòng người lắm nao! Câu 385 – 386: Trước xin từ biệt cùng nhau,
Câu 141 – 142: Nước bèo dù có duyên sau, Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây.
Chữ duyên này trở về sau còn dài. Câu 423 – 424: Tài hoa quốc sắc khuynh thành,
Câu 221 – 222: Chẳng thần nữ, cũng tiên phi, Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên. Câu 431 – 432: Duyên ai tính đã vuông tròn,
Câu 243 – 244: Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nào hay nợ trước chút còn dở dang.
Câu 465 – 466: Nàng rằng: Duyên nợ bấy nay
Chờ cho duyên hợp châu về mõn hơi!
Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu. Câu 469 – 470: Sá chi nữa, cái hoa hèn,
Câu 531 – 532: Duyên xưa âu chẳng se lầm, Bao giờ kéo hết tơ tằm mà hay!
Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ càng. Câu 521 – 522: Dù tiên duyên đã mãn kỳ,
Câu 539 – 540: Quyết tìm khắp nước non tiên, Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh.
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 183 - 184: Trước là cho vẹn nhân luân, Sao là khỏi hổ với thần giao duyên,
Tinh linh phảng phất ở bên trai phòng. Câu 401 – 402: Trần duyên trót đã lỡ làng,
Câu 223 – 224: Rằng: Tôi bồ liễu phận hèn, Rủi may cũng mặc dây duyên tơ hồng, Câu 233 – 234: Khen rằng: “Việc ấy cũng nên,
Đem thân phấn đại vui lòng cỏ cây. Câu 417 – 418: Duyên ưa, vật lạ, cảnh thanh, Ong xa xa liệng bướm quanh quanh dờn.
Chẳng quên nghĩa trước, ắt bền duyên sau!” Câu 329 – 330: Trần duyên quả kiếp nặng nề,
Câu 575 – 576: Vẫy vùng cá nước duyên tra
Chán bên tục lụy, lánh bề phồn hoa. Câu 359 – 360: Xiết bao nuốt tủi, ngậm sầu,
Câu 855 – 856:
Kiếp trần duyên ấy chắc đâu mà chờ? Câu 373 – 374: Cam lồ rửa sạch trần duyên, Triện hương ngày vắng, ngọn đèn đêm thanh. Câu 389 – 390: Chạnh niềm nhớ nỗi trần duyên,
Mới hay bĩ thái là cơ chuyển vần. Thù kia, oán nọ đã đành,
Duyên xưa còn vướng chút tình tào khang. Câu 913 – 914: Sinh rằng: Từ buổi Chiết – giang Lẻ loi phận bạc, lỡ làng tơ duyên. Câu 961 – 962: Ông rằng: “Sự bởi tiền duyên, Ai hay chẳng hẹn mà nên lạ lùng”.
Câu 1071 – 1072: Sư rằng: Tác hợp thiên duyên,
Mà cơ báo ứng nhãn tiền không sai.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 25 - 26: Tăng phòng chi để lụy trần duyên, Lẩn quất am thanh náu gót tiên.
Câu 281 – 282: Tiện thiếp từ tu ở cõi tiên, Chưa hề bén lụy thói trần duyên.
Câu 41 – 42: Rắp mảng cầu duyên tới cửa Già, Trạnh niềm nên phải gắng công ra. Câu 79 – 80: Vì duyên cho phải thăm tìm thú, Vắng vẻ còn phen cảm đức Già.
Câu 285 – 286: Kim cải đã dành duyên mắc mối, Gió trăng nào quản tiếng chê khen. Câu 291 – 292: Gieo mận hiềm chưa cam sự ấy, Vương tơ mừng được khép duyên này.
Câu 89 – 90: Dưa rau đã trải mấy thu chầy, Khuya sớm làm duyên bạn tớ thầy. Câu 93 – 94: Bén duyên hay đã quy miền khác, Vui thú cho nên lạt cảnh này.
Câu 313 – 314: Duyên ưa quân tử với hồng nhan, Ân ái thêm vui bạn phượng loan. Câu 329 – 330: Bén duyên từ sánh nhị đào mai, Giấc mộng hung bi lại báo thai.
Câu 167 – 168: Phỏng dạng chi không dường có ý, Tìm duyên hay rắp đợi ai đây. Câu 229 – 230: Đã mừng trướng gấm duyên đầm ấm, Lại nghĩ hồng nhan phận bẽ bàng.
Câu 363 – 364: Bỗng dưng khéo dẩy dun duyên dưới nguyệt, Cho nên gặp gỡ chốn quê người. Câu 387 – 388: Yêu nữ vốn đang cưu thói ấy, Lương nhân đâu dám hóa duyên này.
Câu 245 – 246: Vốn rắp cầu duyên chơi thú khác, Hay là mến cảnh tới am này. Câu 277 – 278: Rừng tối luống mong tìm quán khách, Duyên may mừng lại gặp cung tiên.
Câu 397 – 398: Yêu tinh hơi bén đâu thời hẳn, Thục nữ duyên ưa ắt lại càng. Câu 431 – 432: Thương nhẽ duyên lành nên chếch mếch, Trách ai nỡ để lụy Hằng Nga.
Câu 455 – 456: Dở điều đón tụ chiều sum họp,
Câu 644 – 645: Tần Tấn nỡ quên duyên mắc mối,
Lần tưởng duyên do luống ngậm ngùi. Câu 469 – 470: Liễu hoa cười gượng duyên deo dẳng,
Việt Hồ luống để khách xa xôi. Câu 649 – 650: Xưa vốn về qua chốn thạch tuyền
Non nước buồn tênh phận hẩm hiu. Câu 473 – 474: Nguồn cơn nghĩ lại sự nhân duyên,
Gặp nàng lương thị kết lương duyên. Câu 753 – 754: Lĩnh biết duyên do nỗi ái ân,
Há trách lòng người khéo bạc đen. Câu 477 – 478: Duyên ưa dầu nhẫn đành đôi chốn,
Trước sau từ tạ mới dời chân. Câu 771 – 772: Nào ngờ Bạch thị duyên mây nước,
Phận thiếp thương ôi dễ mấy phen! Câu 491 – 492: Gối phượng duyên ưa phai lại thắm,
Chỉa thực quan nhân dạ sắt vàng. Câu 827 – 828: Kết tóc độ dâu duyên gắn bó,
Bạn loan nghĩa cũ lạt nên nồng. Câu 513 – 514: Nghe tin thiếp cũng bội lòng mừng,
Vương tơ nên nỗi nghĩa riêng tây. Câu 837 – 838: Lần lữa sáu thu duyên mắc mối,
Song lệ duyên này biếng nói năng. Câu 521 – 522: Thuyền nhẹ thênh thênh gác mé ngoài,
Đèo bòng hai chút phận thơ ngây. Câu 951 – 952: Một giải sông Ngân nên cách trở,
Duyên này thề vững bể sông dài. Câu 573 – 574: Xót phận chưa cam bể khổ hạnh,
Hạnh nào lại được gặp nhân duyên. Câu 955 – 956: Mong mỏi vì đâu nên nỗi ấy,
Vì duyên nên lụy thói trần hoàn. Câu 579 – 580: Lòng nọ chưa nguôi phong cảnh ấy,
Nhớ trông về để những duyên đây. Câu 967 – 968: Những ước lại tròn duyên chếch mếch,
Duyên này nỡ phụ nước non xưa. Câu 601 – 602: Vốn thiếp xưa nay cửa đế thiên,
Muôn trông bệ ngọc đức tài bồi. Câu 979 – 980: Điện nguyệt những hiềm đau phận bạc,
Vì duyên cho phải lụy trần duyên. Câu 609 – 610: Bây giờ trót đã bén nhân duyên,
Phòng hương mừng lại bén duyên nồng. Câu 1009 – 1010: Mừng thấy duyên xưa lạt lại nồng,
Sao khách cung trăng bỗng chốc liền. Câu 619 – 620: Cung quế đã dành yên phận thiếp, Gõi trần dầu mặc đẹp duyên chàng.
Gần xa ai chẳng nức vui lòng. Câu 1039 – 1040: Kính tin lòng này chư Phật độ, Thiện duyên đã trước lại còn sau.
Câu 1107 – 1108: Vầy duyên hoa liễu say chiều dấu,
Câu 1135 – 1136: Dan díu vì ai duyên thúc rối.
Tiệc mở sênh ca nổi chén mời. Câu 1115 – 1116: Vì đâu gặp gỡ ưa duyên ấy,
Mà khi lạt lẽo lại khi nồng. Câu 1145 – 1146: Ân tình giãi hết sự duyên do,
Bỗng sảy sương siêu nỗi nghĩa này. Câu 1119 – 1120: Sao xưa ly biệt nay sum họp,
Chiếu phượng phó ban trước mặt vua. Câu 1157 – 1158: Cửa thu vừa đượm duyên hương lửa,
Sự bởi duyên ai ngỏ được hay. Câu 1127 – 1128: Hay đâu còn đoái ân tình nặng,
Lều cỏ thêm doanh nghĩa đứng ngồi. Câu 1165 – 1166: Đội đức bể hồ lòng ấp yếm,
Vậy khến duyên này lại bén duyên.
Phỉ duyên tơ chỉ nghĩa sân siu.
TRẦN MINH KHỐ CHUỐI (Người soạn Nguyễn Văn Khỏe, Nhà in Phạm Văn Thình, Sài Gòn -1952) Câu 15 – 16:
Ông bà làm phúc làm duyên,
Mở lòng bố thí mấy thiên bạc vàng. Câu 25 – 26: Cũng vì vô hậu truyền gia, Ông bà tìm đến phật tòa cầu duyên, Câu 143 – 144: Nhớ xưa trong lúc sanh tiền, Cha con đã có ước nguyền lương duyên. Câu 245 – 246: Hiềm vì không có con trai, Mới tìm đến chốn Phật đài cầu duyên. Câu 343 – 344: Nàng nghe cha hỏi phân miêng,
Thưa rằng: Duyên nợ hoàng thiên đinh phần. Câu 843 – 844: Rõ ràng hào kiệt thuyền quyên, Đông sàng nam giáng xứng duyên thay là.
PHỤ LỤC 10: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “BÓI TOÁN” TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay.
Câu 413 – 416: Nhớ từ năm hãy thơ ngây
Câu 2403 – 2410:
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời.
Sư rằng: cũng chẳng bao lâu
Anh hoa phát tiết ra ngoài
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Nhớ ngày hành cước phương xa
Câu 1693 - 1698:
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri Người ấy nặng kiếp oan gia
Bảo cho hội ngộ chi kỳ
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Năm nay là một, nữa thì năm năm
Mệnh cung đang mắc nạn to
Mới hay tiền định chẳng lầm
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Đã tin điều trước, ắt nhằm việc sau.
Hai bên giáp mặt chiền chiền
LỤC VÂN TIÊN
(Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 65 – 66:
Số con hai chữ khoa kỳ, Khôi tinh đã rạng Tử - vi thêm lòa.
Câu 1193 – 1194: Nên hư có số ở trời, Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1281 đến 1310) Câu 187 – 188: Số tử vi đã giãi bày, Tham lang thụ nịnh ắt dày vượng thay.
Câu 207 – 208: Đã từng xem quẻ bói rùa, Còn toan bói hạc xem cho mấy đành.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508) Câu 51 – 52: Xét trong cung số dân hèn, Đã lo không của, lại phiền không con.
Câu 415 – 416: Chiếu kính sự đã không rành, Âu ta đi bói xem tình làm sao!
Câu 75 – 76: Đầu thai Dương thị ngày nay, Để hòa nối dõi giữ rầy thần hôn!
Câu 421 – 422: Thưa: Tôi xem quẻ lành yên, Năm quan tiền đặt nâng lên rõ ràng.
Câu 423 – 424: Bói xem gia sự mọi đàng,
Quẻ này là quẻ phải lòng ai đây.
Bói xem bản mệnh an khang thế nào. Câu 429 – 430: Thoắt thôi thầy mới giãi bày:
Câu 473 – 474: Sao con chẳng nói làm sao, Để cha bói toán lao đao bấy chầy?
Cứ trong bản mệnh quẻ này bình yên. Câu 441 – 442: Nội tà ma, ngoại không vong,
Câu 2559 – 2560: Vợ con xấu số đã rồi, Bây giờ con lại băng vời tìm đi!
NỮ TÚ TÀI (Lấy từ thuvien.net, từ trang 1 đến trang 27) Câu 151 – 152: Lòng ta rắp lấy một người, Bói tên thời lại lạc loài khác tên
PHỤ LỤC 11: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “HỒN MA”
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 115 – 120: Kiều rằng: Những đấng tài hoa, Thác là thể phách còn là tinh anh.
Câu 905 – 906:
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần! Câu 2235 – 2236: Đoái trông muôn dặm tử phần,
Dễ hay tình lại gặp tình, Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa. Câu 2389 – 2390: Máu rơi thịt nát tan tành,
Một lời nói chửa kịp thưa, Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời. Câu 2711 – 2712: Mơ màng phách quế hồn mai,
Mai sau dầu đến thế nào,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 1477 – 1478: Hiu hiu gió thổi ngọn cây, Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.
Câu 1519 – 1520: Bóng trăng vừa khuất ngọn cây, Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 11 đến trang 48) Câu 556 – 557: Nàng vừa than thở một giây,
Hồn mai phút đã tếch rày âm cung.
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 5 – 6:
Anh em chẳng có một người, Cha mẹ sớm cách hồn rời cõi Tây. Câu 1768 – 1769: Ba hồn bảy vía rụng rời, Tây đu miệng hát mấy lời còn ghi.
Câu 2796 – 2797:Trăm năm trong dạ phỉ nguyền, Hồn về cũng báo nhỡn tiền mày hay. Câu 2908 – 2909: Tướng quan trên ngựa đương ngồi, Bỗng đâu thất lạc vậy thời hồn hoa.
Câu 1856 – 1857: Xuân Hương tuổi đã lên mười, Cha già sớm cách hồn rời cõi tây. Câu 1994 – 1995: Xuân Hương hồn phách rụng rời, Xem lên trên trời thiên ám địa hôn.
Câu 3627 – 3628: Khai ngay mới đặng toàn hồn, Việc này thế ắt chẳng lành kinh thay! Câu 4029 – 4030: Huống lão một đống xương tàn, Đem mình đến nạp cho oan linh hồn.
Câu 2411 – 2412: Linh hồn thân phụ phụ thân, Lai hâm lai hưởng cho đành dạ con. Câu 2792 - 2793: Trời kia mà có hại tau, Hồn về chín suối hồn sau báo thù.
Câu 4110 – 4111: Ngạnh rằng: Thằng bé tài hay, Tam hồn thất phách chân tay rụng rời. Câu 4260 – 4261: Lệnh truyền chiêu tế quỷ thần, Làm chay tuyên cấp độ chưng âm hồn.
PHƯƠNG HOA
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 245 – 246: Hãi hùng phách tán hồn kinh,
Nàng nghe Đào nói hồn tan phách rời.
Thương cha thảm thiết, lo mình oan gia. Câu 323 – 324: Thở than chưa kịp hết nhời,
Câu 837 – 838: Nói thôi, giọt ngọc tuôn rào, Hồn hoa gió đã lọt vào linh tiêu.
Hồn hoa trót đã tếch vời tiên phương. Câu 333 – 334: Mẹ già gần đất xa trời,
Câu 881 – 882: Sáng khắp địa giới thiên tào, Linh hồn được thoát, tiêu dao mộ phần.
Nỡ nào nàng lại tếch vời âm cung. Câu 763 – 764: Liễu thì phách lạc hồn bay,
Câu 1099 – 1100: Một hòm vàng bạc biết bao, Oan hồn con Liễu hiện vào kêu đây.
Nàng thì ngồi đợi đêm chầy canh khuya. Câu 785 – 786: Máu me quần áo chan chan,
Câu 1103 – 1104: Hồ Nghi, Đào thị đến gần, Hồn tan, phách lạc, tay chân rụng rời.
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 695 – 696: Hồn chàng thác ở đâu đây, Có thương đón thiếp đi rày mới nao!
Khôn thiêng xin hưởng về cùng thiếp đây. Câu 995 – 996: Tam hồn thất phách Tống công,
Câu 963 – 964: Tam hồn thất phách Tống công
Khôn thiêng xin hiện về cùng thiếp nay.
BÀ CHÚA BA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 895 đến 956) Câu 607 – 608: Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa, Thấy Thanh y sứ đến mà hỏi han. Câu 763 – 764: Chúa Ba hồn phách tỉnh ngay,
Câu 887 – 888: Thiên đình đòi sổ tra xem, Truyền bắt hồn phách xuống miền Âm ty. Câu 913 – 914: Vua nghe giận con bất nghì, Thêm sầu, thêm bệnh hồn mê mơ màng.
Vẫn còn ngọc thể như ngày giáng sinh.
HOÀNG TRỪU (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 959 đến 1023) Câu 15 – 16: Những là phách tinh hồn ma, Tắc chừng thủy nguyệt mới hay nhâm thần.
Câu 367 – 368: Canh trường trống đã điểm hai, Chúa đương giấc quế hồn mai mơ màng.
LÝ CÔNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1027 đến 1087) Câu 185 – 186: Chớ còn lai vãng tới đây, Mà vua chém giết oan thay linh hồn. Câu 301 – 302: Có không bà thử nói coi, Kẻo vua cha giết oan nơi hồn nầy.
Câu 845 – 846: Dù vua chẳng nghĩ gần xa, Giết tôi hồn được theo hòa Lý Công. Câu 997 – 998: Dù chàng hồn ở nơi đâu, Cũng lên tạm hưởng cơm rau thiếp mời.
LƯU NỮ TƯỚNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1091 đến 1214) Câu 175 – 176: Chúc rằng: Đất rộng trời cao,
Hồn thiêng về dưới suối đào, biết chưa?
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 1065 – 1066: Lại tìm các ngã ba sông, Hô hồn thôi mới lại phong quan tài. Câu 1127 – 1128: Lặn câu chẳng thấy khôn nài,
Hô hồn an táng ở nơi sau vườn. Câu 1129 – 1130: Nói thôi ngần ngại đời cơn, Hồn hoa phảng phất, đã hơn nửa giờ.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1281 đến 1310) Câu 663 – 664: Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi xa chiều lao đao.
CHUYỆN CÁI TẤM – CÁI CÁM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1313 đến 1333)
Câu 327 – 328: Mặt hồ nước chảy hoa trôi, Thất cờ hồn Tấm qua chơi hoàng tuyền.
Câu 385 – 386: Thiên ma bách chiết sá gì, Hồn thiên Tấm lại mất đi được nào.
Câu 335 – 336: Mưu mô xảo quyệt ai hay, Oan hồn Tấm cũng hiện ngay cõi trần.
Câu 537 – 538 Thất kinh vả lại bành hoành, Hồn lìa khỏi xác suối vàng xa chơi.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508) Câu 163 – 164: Nói thôi thân thể rụng rời, Tam hồn thất phách xa chơi non bồng.
Cha con ông Trạng nằm trong trướng đào. Câu 1729 – 1730: Cúc Hoa em hỡi có linh,
Câu 973 – 974:
Nhời em dặn thế, lòng anh não nùng. Câu 2001 – 2002: Mắt trông mả mẹ xót xa,
Hồn cha phách mẹ có linh, Giúp cho con trẻ bộ hành nàng dâu.
Câu 1219 – 1220: Mục đồng hết vía kinh hồn, Vội vàng trình bẩm ôn tồn vân vân.
Anh em nước mắt nhỏ sa bùi ngùi. Câu 2019 – 2020: Từ ngày mẹ thác ra ma,
Câu 1307 – 1308: Lòng ngay thẳng nõ yêu ma, Thổ công bắt hết gian tà ai ai.
Cha con cưới vợ về nhà đến nay. Câu 2027 – 2028: Bấy giờ canh đã sang ba,
Câu 1455 – 1456: Cúc Hoa phách lạc hồn bay, Van rằng: Xin hãy chờ rầy chút nao!
Đi kèm theo với Cúc Hoa hai người. Câu 2067 – 2068: Con nghe quay mặt tức thì,
Câu 1669 – 1672: Lạ lùng sự rõ hiển nhiên, Cúc Hoa hiện đến vào bên động phòng Rõ ràng đèn lửa sáng choang,
Cúc Hoa nàng đã biến đi nơi nào. Câu 2073 – 2074:Anh rằng: Mẹ thực hồn ma, Có đâu ở đặng cùng ta chốn này.
Câu 2425 – 2426: Nàng rằng: Anh ở đường xa,
Chàng Ba lại bảo xuống tòa chàng Tư.
Bay hồn về nhà ân ái cùng em. Câu 2449 – 2450: Anh đi vắng bấy lâu nay,
Câu 3537 – 3538: Trạng nguyên thấy nói thêm đau, Tam hồn thất phách bỗng đâu rụng rời!
Cỏ mọc làm vầy, chua xót hồn em. Câu 3007 - 2008: Hồn ăn cơm nước chưa ra,
Câu 1715 – 1716: Trạng nguyên nằm mộng rõ ràng, Càng nghe nàng nói lại càng thêm đau.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 1541) Câu 283 - 284: Mộng hồn say giấc mây mưa,
Đá Vu Sơn tạc tiếng dư Cao đường.
THOẠI KHANH – CHÂU TUẤN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1599 đến 1636) Câu 124 - 125: Con đà mắc phải tai ba, Có linh xin cứu mẹ già sống lâu.
Câu 451 – 452: Bắt hồn Tuấn mẫu mà giam, Muốn mẹ nàng sống phải an một bề.
Câu 675 – 676: Phải mà tôi gặp chàng đây,
Để chàng nuôi mẹ, thác rày cho xong
GƯƠNG SÁNG TRỜI NAM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1665 đến 1743) Câu 277 – 278: Ấy là hồn nàng thành ả chợ So nào tày cung rợ nước Chiêm.
Câu 315 – 316: Võ văn kiêm trọn mạnh khôn Buông oai hùm sói, nộp hồn kình nghê.
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4087 – 4088: Thạch ông thoát nợ trần duyên, Hồn hoa sớm đã chơi tiên kia rồi. Câu 4165 – 4166: Nói thôi hồn lạc, phách rời,
Ngày mai xôi thịt ta thì cúng cho. Câu 5671 – 5672: Thị tì chợt tỉnh hồn mai, Vào chầu thưa hết mọi nhời quì tâu.
Thạch Sanh ôm mẹ một hồi khóc vang. Câu 4367 – 4368: Nó dù hồn có khôn thiêng, Thì con cúng giỗ cũng yên một bề. Câu 4451 – 4452: Mẹ con Lý thị hồn bay,
Câu 6299 – 6300: Mãng xà hồn cũng ghê thay! Khốn cùng ăn những thuở nay ngô đồng. Câu 6357 – 6358: Hai hồn khi ấy vào kho, Cùng nhau lấy hết cả đồ kim ngân.
Chắc rằng nó chết về đây trách mình. Câu 4455 – 4456: Oan hồn xin hãy tạm đi,
Câu 6627 - 6628: Bắt hồn Lý thị, lão bà, Ngọc hoàng phán chỉ đem ra tức thì.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160) Câu 39 – 40: Mồng ba tháng ba Dần thì,
Hồn hoa phút biến âm ty chẳng còn.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 685 – 686: Mối tình buộc lấy khư khư, Hồn bâng khuâng quế phách thờ thẫn mai. Câu 995 – 998: Hồn mai tỉnh tỉnh say say, Mới trong vài bữa xem tày mấy niên.
Rộng cho chầu trực trước ban là nhờ. Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ, Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao. Câu 1483 – 1484: Được như số đoán là may,
Trông xa khi thác rèm lên, Vòng thành chất ngất tòa đền thoi loi. Câu 1155 – 1158: Thiêng chăng thu lấy hồn oan,
Vong hồn cũng thỏa đền thầy nó xưa. Câu 2457 – 2458: Suối trung liệt thác anh linh, Suối vàng thơm phách mây xanh thỏa hồn.
QUAN ÂM THỊ KÍNH (Diệu Phương xuất bản từ trang 1 đến trang 60) Câu 1001 – 1002: Hóa thân để lại chốn này, Hương hồn đã sẵn xe mây rước về. Câu 1179 – 1180: Một dây lụa trắng bềnh bồng,
Giăng làm cầu tế độ vong hồn người. Câu 1191 – 1192: Lời kinh cầu nguyện vang đi, Đưa hồn người chết hướng về tây phương.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 159 – 160: Ngửa trông năm thức mây vần, Hồn chưa đến chốn non thần đã mê. Câu 461 – 462: Sinh đang vui chén la đà,
Vẩn vơ tính quỉ hồn ma biết gì. Câu 513 – 514: Xác ve ngày một héo mòn, Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên.
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 179 - 180: Hơi chăn còn ấm bên mình,
Hồn kia văng vẳng dưới đoàn còn oan.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 341 – 342: Tỉnh say bên gối hồn hồ vẩn, Mong mỏi phương trời chiếc nhạn bay. Câu 427 – 428: Gối phượng ngẩn ngơ say phách nguyệt,
Giấc loan trằn trọc bặt hồn hoa. Câu 691 – 692: Hồn hoa vắng vẻ năm canh nguyệt, Thuyền bách lênh đênh một khúc sông.
TRẦN MINH KHỐ CHUỐI (Người soạn Nguyễn Văn Khỏe, Nhà in PhạmVăn Thình, Sài Gòn - 1952) Câu 87 – 88:
Lại lo làm phước làm doan,
Cầu linh hồn đến Tây phan thanh nhàn. Câu 277 – 278: Ôm con than khóc trói trăn, Mới vừa dứt tiếng hồn thăng phách dời. Câu 287 – 288: Mẹ ôi hồn mẹ có hay, Lòng con thảm não đắng cay muôn vàn. Câu 295 – 296: Táng xong quì lạy vong linh, Cầu cho hồn mẹ siêu sinh Thiên đàng. Câu 1057 – 1058: Dứt lời thiêm thiếp hồn trung, Gió đưa vùn vụt lạnh lùng thấu xương. Câu 1239 – 1240: Vệ quan hồn đã lìa đời, Vì chơn sét đánh thân thời nát tan.
PHỤ LỤC 12: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “LỜI THỀ”
HOA TIÊN (Nhà xuất bản Văn học – 1978)
Câu 1231 – 1232: Lời thề dù hãy chút lòng,
Trên mồ một chén rượu trong cũng là.
SƠ KÍNH TÂN TRANG (Nhà xuất bản Giáo dục – 1994) Câu 19 – 20: Vườn đào chén cúc dang tay,
Thề lòng ấy với cao dày, dưới trên.
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986)
Câu 351 – 352: Đã lòng quân tử đa mang, Một lời vàng bạc đá vàng thủy chung. Câu 551 – 552: Cùng nhau trót đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ! Câu 55 – 556: Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai!
Câu 727 – 728:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. Câu 1631 – 1632: Tóc thề đã chấm ngang vai,
Câu 2807 – 2808: Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương.
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 323 – 324: Xưa đà định chữ lương duyên,
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn – giang. Câu 371 – 372: Muốn cho Trực sáng cùng Tiên,
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy. Câu 1323 – 1324: Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Lấy câu bình thủy hữu duyên làm đề. Câu 1245 – 1248:Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu. Câu 1497 – 1498: Vân Tiên anh hỡi có hay?
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng.
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 343 – 344: Chồng tôi có chức có quyền, Xưa tôi đã mặn lời nguyền chồng tôi. Câu 347 – 348: Lời thề tại chốn loan phòng, Non mòn núi lở mà lòng không sai.
Câu 2279 – 2280: Nay tham quý nữ thanh tân, Lỗi trong nguyện ước quỷ thần ngày xưa. Câu 2285 – 2286: Nay giờ âm đức tổ tiên, Bảng vàng chiếm đặng lời nguyền dễ vong.
Câu 2366 – 2367: Cùng nhau nguyền ước say mê,
Trời xui lan huệ yến anh kết nguyền.
Vui vầy cá nước đẹp bề lửa hương. Câu 2507 – 2508: Lời thề tại chốn lều tranh,
Câu 3360 – 3361: Ví dầu ngọc đúc thành người, Một thề một nguyện một hiền một trung.
Ác vàng đã xế chênh chênh non đoài. Câu 2629 – 2636: Trời xui mai trúc một cành,
Câu 3516 – 3517: Nhớ câu giá thú nguyền thề, Vợ chồng biển cạn non thề với nhau.
PHƯƠNG HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 215 – 216: Nhẽ đâu trong nghĩa lan vàng,
Câu 641 – 642:
Trót đà gả bán hợp hoan giao thề.
Trước đà chỉ núi thề non, Trao duyên cùng chú sắt son ân cần.
PHAN TRẦN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 625 đến 672) Câu 231 – 232: Dãi dầu kể mấy nắng mưa,
Thề phai nguyền lạnh bây giờ biết đâu.
LƯU NỮ TƯỚNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 1091 đến 1214) Câu 1559 – 1560: Bút thần đã nặng lời nguyền
Há rằng trăng gió tạm nguyền hay sao?
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 45 – 46: Hay là hiềm nỗi thốt thề, Khôn ngoan chẳng đến vụng về chẳng thông. Câu 303 – 304: Nghìn năm hương lửa bén duyên,
Đã thề non thẳm lại nguyền giời cao. Câu 857 – 858: Rằng: Hai ta bởi tạo đoan, Ước nguyền nay đã phỉ nguyền phòng hương.
TRINH THỬ TÂN TRUYỆN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1281 đến 1310) Câu 107 – 108:
Câu 243 – 244:
Vu qui núi chỉ non thề, Tấc lòng đá tạc vàng ghi dám rời.
Nọ là núi chỉ non thề, Bất kỳ nên nghĩa tương cờ mới hay.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508)
Câu 553 – 554: Đã nguyền kết nghĩa giao thông,
Quyết niềm ở vậy cho xong một đời.
Hay còn nghi ngại, nói ông nghe chừng! Câu 1529 – 1530: Chồng đâu vợ đó cho liền,
Câu 1815 - 1816: Vái cùng hậu thổ, hoàng thiên: Ai ở chẳng hiền, thiên địa chứng tri.
Trước sau cho trọn lời nguyền cùng nhau. Câu 1731 – 1732: Anh thề có bóng trăng trong,
Câu 1903 – 1904: Say sưa cùng đứa Mỹ Hiền, Hai người từ đó kết nguyền cùng nhau.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 1541) Câu 103 - 104: Để cùng nguyện trước cửa không, Tạc ghi hai chữ: tâm đồng nên chăng? Câu 107 – 108: Lọ là thề trọng nguyền sâu, Thiếp vâng minh khắc, dám đâu quên lòng.
Câu 339 – 340: Lời thề chưa cạn chén son Đào chưa phai thắm, lan còn quyến hương. Câu 593 – 594: Tiếc vì đôi lứa thiếu niên Tơ Tần chỉ Tấn vẹn nguyền duyên xưa.
THOẠI KHANH – CHÂU TUẤN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1599 đến 1636) Câu 458 – 459: Lời nguyền thấu đến Ngọc Hoàng,
Cầm dao khoét mắt để bàn dưng lên.
GƯƠNG SÁNG TRỜI NAM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1665 đến 1743) Câu 471 – 472: Anh hùng nằm gối phập phù, Thề lòng tìm chúa rửa thù đặt yên.
Câu 865 – 866: Thề sương thốt tuyết vật vờ, Dạ đưa chốn mới, mặt ngừa chốn quen.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160) Câu 182 – 183: Thiếp nay người thượng giới tiên,
Thương chàng sẽ nhớ nhời nguyền ngày xưa.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 2085 – 2086: Thề không dung kẻ lộng quyền,
Vì dân trừ hại mới nên anh tài.
QUAN ÂM THỊ KÍNH
(Diệu Phương xuất bản từ trang 1 đến trang 60) Câu 153 - 154:
Câu 741 – 742:
Lời thề như đá khắc sâu,
Quá yêu nên trót thốt lời,
Nguyện thề chung sống trọn đời ái ân. Câu 1153 – 1154: Nhớ xưa chỉ núi thề sông, Lời nguyền thắm thiết vợ chồng yêu thương. Câu 1165 – 1166: Chàng thề: Xin được chết đi,
Như là đem thiếp vàng đâu thác gì. Câu 285 – 286: Dám đâu phụ nghĩa phu thê, Quỷ thần chứng giám lời thề thiết thân. Câu 493 – 494: Muốn tìm cửa Phật nương thân
Họa may có dịp cận kề nhau ngay.
Tu hành rốt ráo, thành tâm nguyện thề.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 57 – 58:
Thề xưa đã nặng với lòng, Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi. Câu 135 – 136: Ba sinh cho vẹn mười nguyền, Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
Câu 527 – 528: Rằng: Xưa trót đã nặng nguyền, Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi. Câu 641 – 642: Dang tay cỡi hạc cả cười, Nhủ Chân Nhi lại nối lời thề xưa
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964) Câu 219 - 220:
Nguyền xưa chút chửa vẹn nguyền,
Thời xin khi xuống cửu tuyền gặp nhau.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1964)
Câu 317 - 318: Thề sông chỉ núi nguyền muôn kiếp, Tựa ngọc nương vàng hợp một đoàn.
Câu 841 – 842: Từ về qua tới chốn thạch tuyền, Sảy gặp Hằng Nga mới kết nguyền.
Câu 333 – 334: Thêu hoa phận ấy đà nên một, Chắt chỉ nguyền xưa hẳn vẹn mười. Câu 411 – 412: Đoái lời thề thốt còn đành lảnh, Tưởng nỗi sinh ly chỉn ngại ngùng.
Câu 991 – 992: Nhủ nhẽ trăm năm nguyền được vẹn, Kíp chày lại tới chốn thiên đình. Câu 1037 – 1038: Ba thân hương lửa lòng nguyền ước, Đôi chữ bình an miệng khẩn cầu.
Câu 475 – 476: Thề sông chỉ núi nỡ nào quên, Duyên tra dầu nhẫn đành đôi chốn.
Câu 1081 – 1082: Thề lòng vàng đá vốn khăng khăng, Mây gió khen ai khéo dãi dằng.
Câu 603 – 604: No ngày lại mới lên chầu chực, Vâng mệnh cho nên lỗi ước nguyền.
Câu 1087 – 1088: Nguyện ước trót để lời gắn bó, Làm chi uốn éo thói hoa trăng.
Câu 615 – 616: Ân ái nguyền xưa xin chớ phụ, Vàng phai đá nát nghĩa còn bền.
Câu 1123 – 1124: Ơn nàng hay đến lòng dung dãi, Kết tóc xây nên nghĩa ước nguyền.
Câu 641 – 642: Nguyền xưa bỗng chốc thắm nên phai, Xiết nỗi nguồn cơn vẹn vũng dồi.
Câu 1131 – 1132: Phòng động đã nguyền người một gối, Sông Ngân chi để nước đôi dòng.
TRẦN MINH KHỐ CHUỐI (Người soạn Nguyễn Văn Khỏe, Nhà in Phạm Văn Thình, Sài Gòn - 1952) Câu 131 – 132: Con nguyền đền đáp chút công, Sanh thành dưỡng dục non sông ơn dày. Câu 143 – 144: Nhớ xưa trong lúc sanh tiền, Cha con đã có ước nguyền lương duyên.
Câu 169 – 170: Con nguyền nấu táo dâng lê, Miễn vui dạ mẹ chẳng hề than van. Câu 317 – 318: Nhắc qua Thị vệ đoạn này, Quên lời nguyền trước đổi thay tấc tình.
Câu 151 – 152: Chắc người cũng nhớ lời nguyền, Lẽ nào đoạn nghĩa quên giềng nhơn luân.
Câu 325 – 326: Ông bèn phân rõ âm hao, Từ khi đến chốn non cao ước nguyền.
Câu 857 – 858:
Em xin giữ vẹn lời nguyền,
Đặng mà chuộc lỗi thung uyên tại đàng. Câu 1069 – 1070: Nếu chàng thác xuống âm ty, Thiếp nguyền theo với sống chi lẽ bày. Câu 1081 – 1082: Cùng nhau ước đến bạc đầu, Thương nhau còn hỡi ngại nhau cho đành.
PHỤ LỤC 13: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “PHÉP LẠ”
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 2884 – 2985: Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 761 – 762: Đồng rằng: Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma yếm quỷ phép thần rất hay.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 11 đến trang 48) Câu 870 – 879: Vợ chồng bái tạ bước ra, Bèn quỳ bái tạ chương tòa Diêm Vương. Hai bên đứng dãy hai hàng, Bèn sai quỷ sứ dọn đường đưa lên.
Nghe tiếng mõ ở hai bên, Sấm vang chớp giật dưới trên đùng đùng. Gió bay, lăng vỡ, thông tung, Một giờ mưa tạnh như không, vẹn tuyền.
Vợ chồng lại hợp nhân duyên,
Lên dương gian lại phỉ nguyền như xưa.
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 2888 – 2889: Con đã có phép huyền cơ,
Câu 2994 – 2995: Đánh lên lửa dậy khói bay,
Bách ban võ nghệ mật thưa am tường. Câu 2892 – 2893: Dù con nay có tài cao, Diệu pháp thế nào thử nghiệm cha coi. Câu 2898 – 2899: Nay con mà hóa phép ra,
Xuân Hương hóa phép bắt ngay tức thời. Câu 3138 – 3139: Cho rồi lại dặn một điều, Phép này để trợ những khi hiểm nghèo. Câu 3246 – 3247: Con ngươi cho học phép tiên,
Dâu mà đánh với ông gia thế đồn. Câu 2906 – 2907: Nguyện cùng trời đất ông bà, Hồ lô khi ấy hóa ra trong trời. Câu 2912 – 2913: Phép hay dị quái linh tiêu,
Dạy cho các phép tinh chuyên đủ nghề. Câu 3259 – 3260: Mã Điểu đi học phép tiên, Đến nay tính đặng bảy niên trời thời. Câu 3829 – 3830: Chiếu kính thực đã như lời,
Cánh bèn bó cánh tay đều bó tay. Câu 2914 – 2915: Ước chừng đặng nửa canh chầy, Xuân Hương hóa phép mở ngay tức thì. Câu 2940 – 2941: Xuân Hương nghe nói động lòng,
Khen con học phép vậy thời đã tinh. Câu 3835 – 3848: Ngọc hoành vốn thực phép thần, Chiếu lên trăm họ muôn dân phục hầu. Kim chi liễu diệp phép mầu,
Hóa ra linh dược phép dùng cứu cha. Câu 2950 – 2951: Những việc xuất trận phép binh, Phải dò lợi hại lượng tình hơn thua. Câu 2964 – 2965: Ra để đánh thử ai thua, Phép đánh theo phép tài thua theo tài.
Chiếu lên thời giặc khấu đầu bó tay. Phép này hay đã quá hay, Chiếu lên lửa dậy khói bay những là. Dầu sai quỷ quái tinh ma, Dầu sai mãnh hổ độc xà phải theo.
Chiếu kính phép ấy trợ nhiều,
Hóa ra lửa đốt rần rần,
Dầu xa ngàn dặm thời chiêu cũng gần. Phép nầy giá vũ đằng vân,
Lại hóa đại vũ lửa liền tan ngay. Hùng Sư nịnh tặc tài hay,
Biến nhiều thành ít biến gần thành xa. Cho con bốn phép vậy mà,
Lại hóa lưới sắt phép rày bủa quanh. Câu 4070 – 4071: Tôi xin siêu hải bạt hà,
Con về khôi phục quốc gia Nam trào. Câu 3893 – 3894: Thầy dạy đã hết trước sau,
Thử coi phép quỷ phép ma thế nào? Câu 4104 – 4105: Mã Điểu đứng giữa thanh không,
Diệu phương nhuần thục phép màu tri thông. Câu 4058 – 4063: Đánh lên lửa dậy khói bay,
Bèn mới chiếu kính lửa hồng biến tan. Câu 4108 – 4121: Mã Điểu bèn hóa phép mầu,
Hùng Sư hóa phép bắt ngay nịnh thần.
Tay cầm liễu diệp bèn khâu lưới rày.
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 739 – 740:
Tạ từ mảnh hổ dời chân,
Câu 743 – 744: Biến ra mười người khác thường,
Tự nhiên biến hóa vô vàn Sơn Tinh.
Áo xiêm mũ đội sẵn sàng uy nghi.
BÀ CHÚA BA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 895 đến 956) Câu 521 – 524:
Rồng thì tuôn nước đến kề, Hùm thì hái củi, chim thì nhặt rau.
Câu 593 – 594: Tối tăm trời đất mịt mùng, Hào quang sáng khắp cả trong trường hình.
Thổ địa thì quét trước sau, Lục đinh thần tướng đứng hầu thiên hương.
Câu 817 – 817: Tu hành đã được chín niên, Bao nhiêu phép Phật, phép Tiên vào lòng.
Câu 527 – 528: Phép trời giúp chúa nhiệm mầu, Trăm việc một khắc ai hầu biết ra. Câu 545 – 548: Tự nhiên chuyển động dời dời, Sấm ran, mưa xuống khắp nơi chùa chiền. Gió êm lửa tắt được liền, Ai cũng khen chúa phép Tiên lạ lùng.
Câu 983 – 984: Ai ngờ phép thuật thông huyền, Chúa Ba biết trước, Ngài liền hóa thân. Câu 1335 – 1336: Ấy là phép Phật lạ lùng, Giả làm chước ấy để phòng cứu cha. Câu 1373 – 1374: Phép Ngài, kể nhiệm mầu thay. Dỗ được người ác đến loài quỷ tinh.
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 222 – 223: Làm nên một trận phong ba, Sấm ran, chớp giật mưa sa sóng cồn. Câu 309 – 314: Hư không hóa phép thần thông, Ào ào gió thổi, đùng đùng mưa sa. Tiến lên nước chảy chan hòa, Xem trong phép tắc chỉn đà uy linh.
Câu 347 – 350: Mở con sách ước thần thông, Tự nhiên nước bỗng cạn không bốn bề. Câu 771 – 776: Thần thông phép Chuối ghê thay! Mang cầm quả bí một tay xách về. Mở xem thấy các đồ lề, Chứa chan tiền bạc khê lê ngọc ngà.
Trâu bò đến cả vịt gà,
Nàng liền bái tạ điện đình quì tâu.
Chật sân võng giá đầy nhà quan quân. Câu 1081 - 1082: Bây giờ cải tử hoàn sinh,
Câu 1161 – 1162: Lại thêm Thượng đế ra hình, Sai Thiên lôi đã tan tành thịt xương.
CHUYỆN CÁI TẤM – CÁI CÁM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1313 đến 1333) Câu 235 – 236: Đàn chim có phép lắm thay, Lựa xong nó bảo nhau bay tức thì. Câu 247 – 248: Phật rằng: Con hãy tạm nguôi, Ta cho phép lạ tức thời có ngay. Câu 361 – 362: Lạ thay vừa được mấy hôm, Đóng lông chim bỗng hóa luôn xoan đào.
Câu 413 – 418:
Bà vừa ra khỏi một giây,
Tấm liền trút lốt ra ngay cửa buồng. Dung nhan chẳng khác ngày thường, Phong tư nết cũ đoan trang dấu nhà. Câu 483 – 484: Phép tiên giúp chị hay sao, Em mong chị ngỏ thấp cao em tường.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1337 đến 1508)
Câu 1191 – 1192: Phép công chiếu án luận mau,
Bắt Trạng nguyên bỏ vạc dầu không tha.
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4205 – 4207: Bao nhiêu các phép tiên ban,
Câu 5521 – 5522: Huống chi nó sống phép mầu,
Dạy cho họ Thạch chu toàn tinh thông. Câu 4419 – 4420: Tiên ông đem phép bí tàng,
Thần thông biến hóa ai nào dám đương! Câu 5959 – 5960: Hoàng nghe Sanh tỏ sự duyên,
Dạy cho họ Thạch tỏ tường thần thông. Câu 4427 – 4432: Ai ngờ rắn có phép tiên,
Khen rằng: Anh có phép tiên đại tài. Câu 6159 – 6162: Vội vàng hóa phép hiển linh,
Hóa ra lửa cháy bốn bên đỏ ngòm! Thạch Sanh hóa phép mưa tuôn:
Hỏa hào đốt cháy yêu tinh bấy giờ. Hồ tinh biết trước liền che,
Tự nhiên lửa tắt kinh hồn Xà tinh. Câu 4498 – 4499: Thấy Xà tinh muốn ra oai,
Dập ngay lửa tắt bấy giờ mới xong. Câu 6225 – 6226: Lại về chốn cũ như y,
Tôi liền giở hết phép tài của tôi. Câu 5505 – 5506: Trăn tinh nó lắm phép kỳ,
Đêm ngày tập luyện tinh vi phép thần. Câu 6319 – 6320: Phép mầu nó thực không hai,
Bấy lâu ai dám làm gì nó đâu!
Vậy nên tôi phải lạc loài đến đây.
LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA – DIỄN ÂM (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 2151 đến 2160) Câu 154 – 155: Thoắt thôi thôi biến tự nhiên,
Đôi hàng đũa ngọc nằm bên chan hòa.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994) Câu 1281 – 1284: Hòa Phiên khi đến nước ngoài, Miếu thần ứng mộng nhạn nhai gieo mình.
Phép thiêng cải tử hoàn sinh, Ở hiền gặp mai lại gặp lành đến đây.
NỮ TÚ TÀI (Lấy từ thuvien.net, từ trang 1 đến trang 27) Câu 271 – 272:
Cỡi trâu hóa phép phong vân chớ chầy. Khấn rằng: Thái thượng lão quân,
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964) Câu 983 - 984: Sắc, không cậy có phép màu, Thân này ai có chắc đâu hội này
PHỤ LỤC 14: CÁC CÂU THƠ CHỨA YẾU TỐ “CHIÊM BAO – MỘNG MỊ”
HOA TIÊN (Nhà xuất bản Văn học – 1978) Câu 815 – 816: Chập chờn xem bẵng chiêm bao, Làm chi một giấc lá hươu khó lòng.
Câu 1209 – 1210: Tưởng bây giờ là bao giờ, Song song đôi mắt còn ngờ chiêm bao.
TRUYỆN KIỀU (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp Hà Nội – 1986) Câu 213 – 214: Gió đâu xịch bức mành mành, Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. Câu 235 – 236: Dạy rằng: Mộng huyễn chắc đâu,
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao. Câu 443 – 444: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rỗi nữa chẳng là chiêm bao?
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao! Câu 249 – 250: Mây Tần khóa kín song the,
Câu 2621 – 2622: Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây.
LỤC VÂN TIÊN (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội – 2001) Câu 705 – 706: Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm, Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
Câu 1667 – 1668: Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
PHẠM TẢI – NGỌC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 11 đến trang 48) Câu 103 – 108:
Có đêm giấc quế hồn mai
Có hôm nghiêm phụ thừa lương
Thấy chàng quân tử xa chơi động đào. Càng trông càng lắm chiêm bao, Rõ chàng quân tử đã vào phòng hương.
Hướng vui dạo mát tìm đường thăm con. Câu 584 – 585: Năm canh rắp tưởng nằm mơ, Trách duyên tủi phận cay chua ngậm ngùi...
MÃ PHỤNG – XUÂN HƯƠNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 95 đến 312) Câu 1764 – 1765: Bà liền mở miệng tỏ bày,
Chẳng qua mộng mị đêm nay lạ lùng.
PHƯƠNG HOA
(Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 315 đến trang 370) Câu 1125 – 1126: Kẻo mà có sứ thiên tào,
Đêm qua trẫm thấy chiêm bao nhỡn tiền.
TỐNG TRÂN – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 551 đến 622) Câu 1509 – 1510: Trạng về vừa được nửa đông, Chiêm bao mơ tưởng ở trong giường nằm.
Câu 1511 – 1512: Đêm ngày mơ tưởng âm thầm, Mặt phai nét ngọc, da dầm màu sương.
PHAN TRẦN (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 625 đến 672) Câu 399 – 400: Ba sinh ước nguyện mười nguyền,
Chiêm bao lẩn quất ở bên giảng đình.
BÀ CHÚA BA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 895 đến 956) Câu 603 – 604: Hổ tha vào tới rừng hoang, Đức chúa mơ màng như lúc chiêm bao.
Nay mai trở lại dương gian, Trước độ thánh hoàng, sau độ hai ngươi.
Câu 1015 – 1020: Thổ thần mộng báo cho hay: Rằng: Em còn sống ở rày Hương Sơn.
Chiêm bao rõ biết mọi lời, Hai người từ ấy ăn chay tu hành.
LÝ CÔNG (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1027 đến 1087) Câu 1043 – 1044: Nói cùng văn võ trong thuyền,
Đêm nay nằm thấy một điềm chiêm bao.
TRUYỆN CHÀNG CHUỐI (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1233 đến 1278) Câu 1143 – 1144: Tưởng vì đông liễu tây đào,
Thủy chung tiên hợp chiêm bao mơ màng.
PHẠM CÔNG – CÚC HOA (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000,
từ trang 1337 đến 1508) Câu 389 – 390: Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Biếng bên thi phú, trễ nghề cửi canh.
Câu 1715 – 1716: Trạng nguyên nằm mộng rõ ràng, Càng nghe nàng nói lại càng thêm đau.
TRUYỆN TỪ THỨC (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1511 đến 1541) Câu 125 - 126: Giấc nào là chẳng chiêm bao,
Bữa nào là chẳng khát khao âm thầm.
THẠCH SANH (Kho tàng Truyện Nôm Khuyết danh Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Văn học 2000, từ trang 1937 đến 2008) Câu 4069 – 4072: Đoạn này họ Thạch mỏi mê, Chiêm bao thấy có rồng kề một bên.
Tỉnh ra chồng vợ muôn nghìn vui tươi. Câu 5649 – 5650: Canh chầy mơ giấc hoàn lương,
Tiêu thiều nhã nhạc vang rền,
Tỉnh ra lại thấy muôn dường như không.
NHỊ ĐỘ MAI (Nhà xuất bản Văn học - 1994)
Câu 1157 – 1158: Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,
Phép thiêng cải tử hoàn sinh,
Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao. Câu 1179 – 1180: Gió đầu lọt cánh cửa ngoài,
Ở hiền may lại gặp lành đến đây. Câu 2573 – 2574: Thảm chồng thôi lại mừng con,
Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm bao. Câu 1281 – 1284: Hòa Phiên khi đến nước ngoài,
Thức cười nước mắt ngủ hồn chiêm bao. Câu 2755 – 2756: Bèn đem tâm sự tâu qua,
Miếu thần ứng mộng nhạn nhai gieo mình.
Lại xin ở đấy đợi chờ chiêm bao.
QUAN ÂM THỊ KÍNH (Diệu Phương xuất bản từ trang 1 đến trang 60) Câu 433 – 434 Chập chờn giấc mộng bao ngày, Tình quê đành gửi đám mây cuối trời. Câu 503 – 504:
Như chiêm bao lúc nửa đêm chập chờn. Câu 593 – 594: Nàng chờ đợi nàng mơ màng,
Như sương tan khi nắng lên,
Sầu riêng một khối ôm trong tâm hồn.
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Tân Việt, 1964 từ trang 1 đến trang 16) Câu 277 – 280: Bóng trăng vừa xế cành ngô, Giấc hòe dìu dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm, Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Câu 285 – 286: Vội vàng chợt tỉnh giấc hoa,
Câu 317 – 318: Từ phen giáp mặt đến giờ,
Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo.
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn.
PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964) Câu 937 - 938: Nàng nghe chuyển động tâm bào,
Bâng khuâng như giấc chiêm bao mơ màng.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964) Câu 377 - 378: Canh khuya vừa thuở giấc mơ màng, Thoắt có chiêm bao thấy một nàng.
Câu 385 – 386: Đêm qua giấc mộng lạ lùng thay, Gẫm biết âm linh giống chẳng ngay.
TRẦN MINH KHỐ CHUỐI (Người soạn Nguyễn Văn Khỏe, Nhà in Phạm Văn Thình, Sài Gòn - 1952) Câu 847 – 848: Trần Minh ngỡ giấc mộng đào, Tưởng thầm mình đã lạc vào Đào Nguyên.