LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay , thị trường Bảo hiểm Việt Nam đang rất sôi động với sù tham gia của nhiều công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài . Ngày càng có công ty bảo hiểm mới ra đời xâm nhập vào thị trường , tõ các công ty bảo hiểm cổ phần đến các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài . Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang ngày càng bị chia cắt thành các phần nhỏ hơn . Trước tình hình đó , mỗi công ty Bảo hiểm tự cần nhận thức được họ phải có chiến lược cạnh tranh hiệu quả cho bản thân họ .
Hiện nay đối cới các công ty bảo hiểm , Marketing đang ngày càng trở thành mét bộ phận quan trọng . Nã giúp cho công ty trong việc tiếp cận , khai thác và phát triển . Ngoài ra , marketing còn đưa ra nhiều giải pháp quan trọng cho chiến lược của công ty . Thế nhưng ở Việt Nam , các công ty bảo hiểm còn chưa chú trọng triệt để đến việc nghiên cứu và áp dụng marketing vào thực tiễn kinh doanh.
Trong tình hình trên , em đã chọn đề tài : " Hoạt động Marketing trong kinh doanh Bảo hiểm "
Trong phạm vi của đề tài bài viết chỉ xin trình bày mét sè nét về bảo hiểm thương mại và Marketing trong bảo hiểm mà chủ yếu là các chính sách marketing , các chiến lược marketing cạnh tranh nói chung cho ngành kinh doanh bảo hiểm . Với nội dung trên kết cấu của đề tài sẽ bao gồm :
Chương I: Tổng quan hoạt động kinh doanh Bảo hiểm và Bảo hiểm thương mại
Chương II: Khái quát chung về Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo hiểm
Chương III: Marketing trong Bảo hiểm và các chiến lược Marketing cạnh tranh
Chương IV: Hoạt động Marketing trong kinh doanh Bảo hiểm ở Việt Nam
CHƯƠNG I :
TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI
I. Vị trí vai trò của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
1. Các yếu tố dẫn đến sù ra đời và phát triển của Bảo hiểm thương mại:
Trong cuộc sống hàng ngày hay trong hoạt động kinh doanh, mỗi cá nhân mỗi doanh nghiệp thường gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra mà không ai lường được . Có rất nhiều các loại rủi ro trong thưc tế phát sinh , nã tác động trực tiép vào con người , tài sản và trách nhiệm của con người . Người ta thường chia ra làm ba nhóm rủi ro chính :
Một là rủi ro thiên nhiên . Mặc dù con người đã và đang tác động vào thiên nhiên , từng bước nhận thức và vận dụng những quy luật thiên nhiên , chinh phục v cải tạo thiên nhiên nhưng con người vẫn phải chịu tác động của thiên nhiên nhưng con người vẫn phải gành chịu những hậu quả nặng nề từ thiên tai , bão lò , hạn hán .
Hai là rủi ro kĩ thuật . Trong quá trình đấu tranh với tự nhên để tồn tại và phát triển , con người đã sáng tạo ra máy móc và các phương tiện kĩ thuật tạo điều kiện để năng suất lao đông tăng lên , tạo thêm nhiều của cải vật chất , nâng cao đời sống tinh thần cho con người . tuy nhiên , mặt khác nã còng gây ra những tổn thất dối với con người trong quá trình sử dụng và vận hành .
Ba là rủi ro xã hội . Xã hội càng phát triển thì càng xuất hiên thêm những tệ nạn mới như cướp giật , lừa dảo , trộm cắp làm cho tổn thất về rủi ro xã hội ngày càng tăng nhanh
Ngay tõ thời xa xưa có người đã biết áp dụng mét sè các biện pháp để khắc phục những tổn thất xảy ra :
- tự tích luỹ ( hay tự bảo hiểm)
- Đi vay
- Lập hội tương hỗ
Do khoa hoc kĩ thuật phát triển ngay càng cao , quy mô sản xuất ngày càng mở rộng dẫn đến thu nhập của mội người đều tăng . Mỗi cá nhân , mỗi doanh nghiệp đều có nhiều tải sản có giá trị và nguy cơ găp rủi ro ngày càng cao . Mặt khác , giá trị của con người thì không thể đo được bằng tiền nên những phương pháp trên ngày càng không thể đáp ứng được ngững đòi hỏi của con người cho nên tất yếu sẽ xuất hiện phương pháp để thoả mãn những yêu cầu này . Bảo hiểm đã dần dần trở thành phương pháp tốt nhất khi nã khắc phục được những nhược điểm của những phương pháp trên và đáp ứng được những yêu cầu của xã hội . Nã góp phần ổn định kinh tế cho mọi thành phần kinh tế và nền kinh tế nói chung.
2. Tác dụng của bảo hiểm thương mại :
Bảo hiểm thương mại có nhiều tác dụng trong đời sống kinh tế xã hội :
Thứ nhất , bảo hiểm thương mại giúp nhiều thành viên trong xã hội, nhiều cơ quan đơn vị ổn định cuộc sống , ổn định sản xuất kinh doanh khi họ gặp rủi ro . Điều đó có ý nghĩa là khi họ gặp rủi ro được bảo hiểm , họ có thể được doanh nghiệp bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm .
Thứ hai , bảo hiểm thương mại góp phần giữ gìn trật tự an ninh , an toàn xã hội và góp phần làm cho xã hội văn minh hơn lành mạnh hơn . Tác dụng này của bảo hiểm thương mại con được thể hiện ở chỗ , khi con người gặp rủi ro – nhất là những rủi ro gây ra những thiệt hại nghiêm trọng – họ thường bị bất ổn về mặt tinh thần. Điều đó có thể dẫn đến sự bất ổn mang tính dây chuyền trong đời sống chính trị , kinh tế , xã hội . Do đó để tránh sự bất ổn , mọi người thường tìm đến những giải pháp an toàn . Bảo hiểm chính là giải pháp tốt nhất để lầm giảm sự bất ổn này thông qua việc chi trả tiền bảo hiểm cho các khách hàng gặp rủi ro –nhằm làm giảm bớt khó khăn về mặt tài chính – và qua đó tinh thần họ sẽ ổn định hơn .
Thứ ba, bảo hiểm thương mại góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất qua việc các doanh nghiệp bảo hiểm làm đường tránh nạn , hướng dẫn , cung cấp các thiết bị phòng cháy chữa cháy . Đây là tác dụng mang tính "phòng bệnh " hơn " chữa bệnh " của bảo hiểm thương mại . từ đó , doanh nghiệp bảo hiểm sẽ Ýt phải trả tiền hơn do mức độ rủi ro giảm xuống .
Thứ tư , bảo hiểm thương mại còn góp phần vào việc đầu tư cho sù tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia . Điều này thể hiện qua việc mỗi doanh nghiệp bảo hiểm là một nhà đầu tư tài chính cỡ lớn . Nguồn tài chính của doanh nghiệp chủ yếu thu tõ nguồn đóng phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và vốn tự có của công ty. Đối tượng đầu tư của các doanh nghiệp chủ yếu là trái phiếu, cổ phiếu, bất dộng sản, cho vay.
Thứ năm, bảo hiểm thương mại ra đời góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời còn làm tăng thu ngân sách và ngoại tệ cho nhà nước. Tác dụng này được thể hiện khi gặp rủi ro, người được bảo hiểm có thể được bồi thường mà không cần sự giúp đỡ từ ngân sách nhà nước. Còn doanh nghiệp có trách nhiệm nộp thuế cho nhà nước.
Cuối cùng, bảo hiểm thương mại góp phần mở rộng mối quan hệ kinh tế với nước ngoài. Điều này được thể hiện chủ yếu qua hoạt động tái bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm với các nhà tái bảo hiểm ở nước ngoài - qua hoạt dộng bán bảo hiểm cho các tổ chức quốc tế.
II. Bản chất và chức năng của Bảo hiểm thương mại.
1. Bản chất của bảo hiểm thương mại:
Hiện nay trên thế giới không có một định nghĩa chính xác về bảo hiểm thương mại đồng thời tên gọi của nó ở mỗi nước cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên đại đa số các nước trên thế giới đều gọi nó là bảo hiểm thương mại. Ngày nay, người ta đã đưa ra khái niệm bảo hiểm thương mại như sau:" Bảo hiểm thương mại là biện pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên và từ quỹ đó có thể bồi thường cho người tham gia khi họ gặp rủi ro bất ngờ gây hiệu quả thiệt hạ "
Như vậy, bản chất bảo hiểm thương mại được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thực chất bảo hiểm thương mại là sù cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm, đó là mối quan hệ vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội: Sù cam kết được thể hiện qua hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là văn bản thể hiện quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia. Tính kinh tế trong bảo hiểm thương mại được thể hiện khi mét người mua bảo hiểm ( đã đóng phí bảo hiểm) thì tức là người đó đã chuyển giao rủi ro của mình cho doanh nghiệp bảo hiểm và khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra thì người đó có quyền được nhận số tiền bảo hiểm lớn hơn so với số phí bảo hiểm đã đóng. Tính xã hôi được thể hiện qua qui luật" Số đông bù sè Ýt" của bảo hiểm, tức là trong bảo hiểm sẽ có sù san sẻ rủi ro giữa người gặp nhiều rủi ro và người gặp Ýt rủi ro. Tính xã hội của bảo hiểm còn được thể hiện qua hoạt động đề phóng và hạn chế tổn thất của doanh nghiệp bảo hiểm; mà nó có thể làm giảm bớt khả năng gặp rủi ro cho các đối tượng tham gia bảo hiểm.
Thứ hai, bảo hiểm thương mại là một dịch vụ tài chính , mét dịch vụ đặc biệt dễ bắt chước , có kĩ thuật phức tạp . Tình tài chính được thể hiện qua hoạt động thu chi tiền giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng . Tính đặc biệt được thể hiện ở cơ chế chuyển giao rủi ro , của hoạt động bảo hiểm . dịch vụ bảo hiểm là hoạt động dễ bắt chước giữa các doanh nghiệp bảo hiểm . Tính phức tạp của nghiệp vụ bảo hiểm được thể hiện qua ngôn từ cú tính pháp lý cao , các thuật ngữ mang tính chuyên ngành cao . ngoài ra , bảo hiểm thương mại còn là một dịch vụ . do đó nã còng có các tính chất, đặc điểm giống dịch vụ như :
- tính vô hình: bảo hiểm là sản phẩm vô hình không sờ thấy , không nhìn thấy , không ngửi thấy . Đó chỉ là lời hứa sẽ bồi thường khi gặp tổn thất .
- tính không tách rời khỏi nguồn gốc : dịch vụ bảo hiểm không tách rời khỏi nhà bảo hiểm .
- tính không ổn định về chất lượng : chất lượng dịch vụ bảo hiểm phụ thuộc chủ yếu vào từng người cung ứng , tức là phụ thuộc vào tình trạng hiện tại của họ .
Thứ ba , bảo hiểm thương mại vì mục đích ổn định cuộc sống , ổn định sản xuất kinh doanh của nhiều thành viên trong xã hội khi họ gặp rủi ro . Ngoài ra nã còn đáp ứng được mét số mục đích khác của người tham gia bảo hiểm . VD: Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng mục đích tiết kiệm trong tương lai .
Thứ tư, bảo hiểm thương mại qua quá trình thu phí bảo hiểm của các đối tượng tham gia bảo hiểm sẽ hình thành nên quỹ bảo hiểm thương mại . Quỹ bảo hiểm thương mại chủ yếu dùng để bồi thường và đầu tư . Vì vậy muốn có một nguồn quỹ đủ lớn thì hoạt động bảo hiểm phải dựa trên cơ sở số đông bù sè Ýt.
2. Chức năng của bảo hiểm thương mại :
Bảo hiểm thương mại có hai chức năng chủ yếu là chức năng phân phối và chức năng giám đốc .
Chức năng phân phối thể hiện qua việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm . Việc sử dụng được thể hiện chủ yếu là phân phối lại , tức là người tham gia bảo hiểm đóng phí , hình thành nên quỹ bảo hiểm và quỹ bảo hiểm sẽ được sử dụng để chi trả tiền bảo hiểm cho người gặp rủi ro được bảo hiểm .
Chức năng giám đốc của bảo hiểm thương mại được thể hiện thông qua việc kiểm tra , kiểm soát của nhà nước trong quá trình thực hiện các chính sách văn bản pháp quy và luật bảo hiểm thương mại . từ đó , nhà nước có thể kiểm soát tình hình hoạt động , tình hình tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở những hành lang pháp lý .
III. Đối tượng và các tổ chức hoạt động kinh doanh Bảo hiểm thương mại
1. Đối tượng của hoạt động bảo hiểm thương mại:
Đối tượng của bảo hiểm thương mại rất phong phó và đa dạng , nã được thể hiện ở hầu hết các lĩnh vực bảo hiểm . bảo hiểm thương mại bao gồm bảo hiểm con người , bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm . Ngoài ra , bảo hiểm thương mại còn bảo hiểm cho các quyền lợi khác có thể tính được bằng tiền . Bảo hiểm thương mại được tiến hành theo phương pháp tự nguyện là chủ yếu còn nếu bắt buộc thì thường áp dụng cho các đối tượng ở phạm vi rộng như trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hay bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức của nhà nước .
2. Các tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại :
Bảo hiểm thương mại là một hoạt động mang tính chất kinh doanh . Vì vậy , các tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thường được thực hiện dưới dạng công ty , doanh nghiệp hoặc các tập đoàn bảo hiểm do các tổ chức , các cá nhân đứng ra sáng lập . Mục đích chính của các tổ chức này là hoạt động kinh doanh lấy lãi . Vì vậy nó rất đa dạng và phong phó – cụ thể trên thế giới hiên nay đã và đang hình thành những loại hình công ty , tập đoàn bảo hiểm như :
- Công ty bảo hiểm nhà nước : nhà nước là chủ sở hữu
- Công ty bảo hiểm chuyên nghành : kinh doanh bảo hiểm trong một nghành
- Công ty bảo hiểm nước ngoài : có chủ sở hữu là tập thể , cá nhân nước ngoài
- Công ty bảo hiểm liên doanh : do hai hay nhiều chủ sở hữu trong nước và nước ngoài cùng tham gia góp vốn thành lập
- Công ty bảo hiểm tổng hợp : kinh doanh nhiều sản phẩm bảo hiểm
- Công ty bảo hiểm tư nhân : chỉ có một chủ sở hữu trong nước
Ngoài các công ty bảo hiểm nói trên thì còn có mét sè các loại hình khác như công ty bảo hiểm tương hỗ , công ty tái bảo hiểm . Các công ty bảo hiểm dều phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như chấp hành hiến pháp và luật pháp của quốc gia mình . Mỗi một quốc gia đều có một luật bảo hiểm riêng nhằm tổ chức quản lý các công ty bảo hiểm một cách chặt chẽ và dể đảm bảo cho các công ty bảo hiểm duy trì và phát triển.
IV. Những nguyên tắc chung trong hoạt đông Bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại cũng như một hoạt động kinh doanh , ngoài việc đáp ứng cho các nhu cầu an toàn của con người thì nó còn quan tâm tới mục tiêu lợi nhuận . Bởi vậy , có mét số nguyên tắc phải được tuân thủ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại
1. Nguyên tắc số đông :
Đây là nguyên tắc không thể thiếu được trong bất kì một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại nào , theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc mét sè Ýt người sẽ được bù đắp bằng số tiền gom được từ rất nhiều người có khả năng gặp rủi ro như vậy. Qua đó người bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật thống kê số lớn . Nguyên tắc " số đông bù sè Ýt " cho biết rằng , càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo hiểm tích tụ càng lớn , việc chi trả càng trở lên dễ dàng hơn và rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn .
2. Nguyên tắc lựa chọn rủi ro :