2
Đề tài: Khủng hoảng tài chính và suy thóai kinh tế
2007-2009 và sự phục hồi kinh tế thế giới.
Danh sách thành viên nhóm 3:
Nguyễn Đức Hà 11130991
Lê Đình Giáp 11121010
Trần Anh Đức 11130896
Nguyễn Bá Đức 11130898
Nguyễn Thị Thùy Dương 11130820
Phạm Thị Bích Đào 11130835
Neak Dy 11135207
Mục lục
Nội dung Trang
Lời mở đầu …………………………………………………………………...1
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2007-2009 ………………….2
Giới thiệu chung về khủng hoảng tài chính …………………………..…..2
1. Khái niệm…………………………………………………………………..2
2. Các mô hình khủng hoảng cơ bản………………………………………….2
2.1. Mô hinh khủng hoảng thế hệ thứ nhất……………………………………2
2.2. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai……………………………………..3
2.3. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba……………………………………...3
3. Các loại khủng hoảng tài chính………………………………….................4
3.1. Khủng hoảng ngân hàng………………………………………………….4
3.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính……………………………………4
3.3. Khủng hoảng tài chính thế giới…………………………………………...5
3.4. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế………………………..5
4. Nguyên nhân và dấu hiệu của khủng hoảng tài chính………………………5
4.1. Nguyên nhân……………………………………………………………....5
4.1.1. Đòn bẩy tài chính ……………………………………………………….6
4.1.2. Sự không tương thích giữa nợ và tài sản ……………………………….6
4.1.3. Sự không chắc chắn và tâm lý bầy đàn …………………………………6
4.1.4. Thất bại trong việc điều tiết …………………………………………….7
4.1.5. Sự lừa dối ……………………………………………………………….8
4.1.6. Sự lây lan ……………………………………………………………….8
4.2. Dấu hiệu …………………………………………………………………..9
5. Giải pháp………………………………………………………………….....9
Nội dung Trang
5.1. Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính…………………………….9
5.2. Giải pháp hạn chế các tác động của khủng hoảng tài chính……………...10
II. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2007-2009 …………………..12
Nguyên nhân.…………………………………………………………………12
Chứng khoán hóa.…………………………………………………………….12
1.2. Bong bóng thị trường nhà ở……………………………………………...13
2. Diễn biến ………..…………………………………………………………13
3. Tác động ………………………..………………………………………….15
3.1. Tác động của KH tài chính đến một số nền kinh tế trên thế giới……..….15
3.1.1. Đối với Hoa Kỳ…………………………………………………..…….15
3.1.2. Đối với 1 số khu vực trên thế giới……………………………………...16
3.2. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến VN …..………………………….17
3.2.1. Tác động đến xuất nhập khẩu …………………………………………..17
3.2.2. Tác động đối với kiều hối ………………………………………………20
3.2.3. Tác động của luồng vốn vào ròng đến nền kinh tế Việt Nam…………...21
B. Sự phục hồi kinh tế thế giới ……………………………..…………………26
I. Thế giới ………………………………………………………………….….26
1. Thế giới ứng phó với khủng hoảng tài chính ………………………………26
2. Sự hồi phục sau khủng hoảng ………………………………………………28
II. Việt Nam ……………………………….…………………………………..42
1. Các chính sách và biện pháp ứng phó của Việt Nam……………………….42
2. Sự phục hồi kinh tế ở Việt Nam…………………………………………….43
2.1. Năm 2010………………………………………………………………….43
Nội dung Trang
2.2. Năm 2011……………………………,,…………………………………50
2.3. Năm 2012……………………………………,………………………….52
2.4. Năm 2013..............................................................................................…53
2.5 Năm 2014…………………………………………………………...……58
Kết luận ………………………………………………………………………62
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………………63
Lời mở đầu
Sự kiện khủng hoảng tài chính của Mỹ diễn ra từ giữa năm 2007 đã tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế của hàng loạt các quốc gia trên thế giới. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng là rất lớn, đặc biệt với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của nó. Việc tìm hiểu những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng góp phần tìm ra bài học cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển. Đồng thời tìm hiểu các giải pháp mà chính phủ các nước đã thực hiện để ngăn cản tác động của cuộc khủng hoảng để đưa các giải pháp tích cực nhất nếu như trong tương lại khủng hoảng kinh tế có thể tái diễn. Trên cơ sở đó xác định những kết quả từ các giải pháp đề ra, những kết quả nào đạt được hiệu quả trong việc phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, từ đó ứng dụng vào thực trạng Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới.
Với những mục tiêu trên, nhóm 3 với kiến thức hạn hẹp của các thành viên trong nhóm xin chọn đề tài: "Khủng hoảng tài chính 2007-2009 và phục hồi kinh tế thế giới" làm đề tài nghiên cứu trong quá trình học bộ môn Tài chính quốc tế 2.
A. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 2007-2009
I. Giới thiệu chung về khủng hoảng tài chính
1. Khái niệm
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính là các dòng tiền vào/ra, nhận/ thanh toán, hình thành tài sản có /tài sản nợ. Khi xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó.
Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của khủng hoảng "thiếu" chứ không giống khủng hoảng "thừa" diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay. Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù như: Khủng hoảng ngân hàng; Khủng hoảng nợ quốc gia; Khủng hoảng tiền tệ; Khủng hoảng thị trường chứng khoán; Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn; Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản; Khủng hoảngngân sách. Đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của thị trường tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Các mô hình khủng hoảng cơ bản
Dựa trên đặc điểm và tính chất của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã nổ ra, các học giả đã xây dựng nên 3 mô hình khủng hoảng cơ bản.
2.1. Mô hinh khủng hoảng thế hệ thứ nhất
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây dựng và chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vòng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn công. Mô hình này xảy ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán cân vòng lai thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá, Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng căng thẳng về chính trị và x. hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu Mĩ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm 1990.
2.2. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng. Khủng hoảng dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh, có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm). Trước tín hiệu đó, các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép này buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát. Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng. Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng có "vấn đề", tình trạng này dẫn đến hành vi "bầy đàn", gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1992-1993.
2.3. Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoảnvốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng "kép": khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng. Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép: (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vòng lai; và (ii) Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn.
(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vòng lai (CA Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới hậu quả là thâm hụt cán cân vòng lai tăng, xuất hiện nền "kinh tế bong bóng" và mức cung dư thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
(ii) Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề "sai lệch kép" trầm trọng. Bảng cân đối tài sản của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
3. Các loại khủng hoảng tài chính
3.1. Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng kinh tế
3.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những "bong bóng" đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là "tâm lý bầy, đàn".
3.3. Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây khủng hoảng tiền tệ.
3.4. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.
4. Nguyên nhân và dấu hiệu của khủng hoảng tài chính
4.1. Nguyên nhân
Trong bài viết khủng hoảng kinh tế của chương trình giảng dạy Fulbright niên khóa 2011-2013, tác giả Đỗ Thiên Anh Tuấn đã nêu ra một số nguyên nhân của khủng hoảng tài chính như sau:
4.1.1. Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính có nghĩa là việc vay mượn để tài trợ cho đầu tư. Đòn bẩy tài chính thường cũng bị chỉ trích như là nhân tố đóng góp cho khủng hoảng tài chính. Khi một nhà đầu tư dùng tiền của mình để đầu tư thì nếu thua lỗ, trong tình huống xấu nhất, người này chỉ mất tiền của mình mà thôi. Nhưng khi vay nợ để đầu tư thì kết quả có thể làm cho thu nhập tiềm năng tăng lên nhưng cũng có thể thua lỗ nhiều hơn những gì nhà đầu tư có. Do đó, đòn bẩy tài chính có thể khuếch đại thu nhập nhưng cũng có thể tạo ra rủi ro phá sản. Nếu sự phá sản xảy ra thì có nghĩa là công ty đã thất bại trong việc đáp ứng các lời hứa trả nợ cho các công ty khác, tức có nghĩa là từ rắc rối tài chính của công ty này có thể lan sang thành của công ty khác.
4.1.2. Sự không tương thích giữa nợ và tài sản
Một yếu tố khác được cho là có đóng góp đến khủng hoảng tài chính là sự không tương thích giữa nợ và tài sản. Chẳng hạn, các ngân hàng thương mại chào mời các tài khoản tiền gửi có thể rút tiền ở bất cứ thời điểm nào nhưng lại cho các doanh nghiệp hay gia đình vay dài hạn. Sự không tương thích giữa nợ ngắn hạn và tài sản dài hạn của ngân hàng được xem là một trong những lý do có sự tháo chạy ngân hàng xảy ra (khi người gửi tiền hoảng loạn và quyết định rút tiền của mình nhanh hơn là ngân hàng có thể thu hồi nợ vay). Chẳng hạn, Ngân hàng Bear Stearns đã thất bại năm 2007 – 2008 bởi vì nó không thể tái cấu trúc các khoản nợ ngắn hạn mà nó đã dùng để đầu tư dài hạn vào các chứng khoán cầm cố.
Đứng ở phương diện quốc gia, một vài chính phủ ở các nền kinh tế mới nổi, vì một lý do nào đó, không thể bán trái phiếu có mệnh giá nội tệ, thay vào đó họ bán trái phiếu có mệnh giá ngoại tệ. Điều này có thể tạo ra sự không tương thích giữa mệnh giá ngoại tệ của nợ với tài sản hay thu nhập có thể kiếm được (doanh thu thuế bằng nội tệ). Do đó, các chính phủ này sẽ gặp rủi ro vỡ nợ quốc gia nếu tỷ giá có sự dao động mạnh hoặc khi nguồn dự trữ ngoại tệ yếu.
4.1.3. Sự không chắc chắn và tâm lý bầy đàn
Nhiều phân tích về khủng hoảng tài chính nhấn mạnh đến vai trò của các sai lầm trong đầu tư gây ra bởi sự thiếu hiểu biết và sự không hoàn hảo trong lý lẽ của con người. Kindleberger và Aliber (2003) đã chỉ ra rằng khủng hoảng thường phát sinh ngay sau các cuộc cách tân tài chính hay cách mạng kỹ thuật. Các cuộc cách tân này cho phép các nhà đầu tư tìm thấy những cơ hội đầu tư mới được gọi là "sự chuyển hoán" các kỳ vọng của nhà đầu tư. Một số ví dụ như Bong bóng Công ty Nam Dương (South Sea Bubble) và Bong bóng Mississippi năm 1720 là hệ quả của sự sáng tạo ra các cổ phần công ty với những đặc tính xa lạ với nhiều người lúc bấy giờ; hay sự sụp đổ của thị trường tài chính 1929 là hệ quả của các phát minh mới về vận tải và điện; sự sụp đổ của các bong bóng dot-com năm 2001 do "tính hoa mỹ phi lý" về các công nghệ internet; cuộc khủng hoảng 2008 cũng có dấu ấn của những chứng khoán phái sinh phức tạp như các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (credit default swaps hay CDS).
Sự xa lạ với các cách tân tài chính và kỹ thuật có thể giúp giải thích lý do các nhà đầu tư lại ước tính quá cao giá trị của các tài sản. Chẳng hạn, một số nhà đầu tư lớp đầu biết được tiềm năng của internet nên đã đầu tư vào các công ty dot-com. Các khoản lợi nhuận bắt đầu được tạo ra do sự tăng giá cổ phiếu dot-com. Những nhà đầu tư lớp thứ hai nhanh chóng nhảy vào để tìm kiếm lợi nhuận tương tự mặc dù những người này có thông tin rất hạn chế về tiềm năng của các công ty dot-com. Tâm lý bầy đàn như vậy ban đầu đã làm giá cổ phiếu tăng và thực tế họ đã thu được lợi nhuận. Giá cổ phiếu tăng cao vượt ra ngoài những tiềm năng thực sự mà ngành có thể tạo ra và đến một lúc nào đó thì sự đổ vỡ là không thể tránh khỏi. Khi đó, chỉ cần một số nhỏ nhà đầu tư nhận ra vấn đề và bắt đầu bán ra thì ngay lập tức gây nên làn sóng bán tháo cổ phiếu và hậu quả là sự sụp đổ của thị trường.
4.1.4. Thất bại trong việc điều tiết
Các chính phủ cố gắng loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ khủng hoảng tài chính bằng sự điều tiết đối với khu vực tài chính. Một mục tiêu lớn của sự điều tiết là làm tăng tính minh bạch: buộc các định chế tài chính phải công bố rộng rãi các báo cáo tài chính một cách thường xuyên theo các tiêu chuẩn kế toán. Một mục tiêu khác của sự điều tiết là đảm bảo các định chế tài chính có đủ tài sản để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng, chẳng hạn như yêu cầu dự trữ, yêu cầu về vốn, và các giới hạn khác về vay nợ.
Một số cuộc khủng hoảng tài chính đã nổ ra do thiếu một hệ thống điều tiết hữu hiệu. Chẳng hạn, theo cựu Giám đốc điều hành của IMF, ông Dominique Strauss-Kahn, cuộc khủng hoảng 2008 nổ ra là do "sự thất bại của hệ thống điều tiết nhằm chống lại những hành vi chấp nhận rủi ro quá mức trong hệ thống tài chính, đặc biệt là ở Mỹ". Tờ New York Times thì cho rằng sự thiếu điều tiết đối với các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) là một nguyên nhân của khủng hoảng.
Tuy nhiên, nhiều khi sự điều tiết quá mức cũng có thể bị chỉ trích là nguyên nhân của khủng hoảng tài chính. Chẳng hạn như Hiệp ước Basel II thường bị chỉ trích bởi yêu cầu các ngân hàng tăng vốn tự có khi rủi ro tăng lên, mà điều này có thể buộc ngân hàng giảm vay mượn xuống khi không thể tăng vốn tự có. Điều này, ở một phương diện nào đó, có thể làm gia tăng các tiềm năng gây ra sự trói buộc tín dụng như đã trình bày mà hệ quả của nó có thể là khủng hoảng tài chính.
4.1.5. Sự lừa dối
Sự lừa dối đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sụp đổ một số tổ chức tài chính. Chẳng hạn nhiều công ty thu hút đầu tư với lời hứa hảo huyền về các cơ hội đầu tư, hoặc che đậy kết quả thu nhập thực sự của mình. Chẳng hạn như kế hoạch của Charles Ponzi vào đầu thế kỷ 20 ở Boston, sự sụp đổ của các quỹ đầu tư MMM ở Nga năm 1994, sự sụp đổ của các chứng khoán đầu tư của Madoff năm 2008. Sự lừa dối này có nguyên nhân do sự bất cân xứng thông tin với các hệ quả như vấn đề ủy quyền-tác nghiệp hay rủi ro đạo đức.
Sự lừa dối trong các khoản tài trợ bất động sản thế chấp cũng bị chỉ trích là một khả năng gây ra khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn năm 2008; các quan chức chính phủ phát biểu ngày 23 tháng 12, 2008 rằng FBI đang tìm kiếm bằng chứng về các khả năng lừa dối của các công ty tài trợ bất động sản như Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, và tập đoàn bảo hiểm AIG. Tương tự, người ta cho rằng nhiều công ty tài chính đã phá sản trong cuộc khủng hoảng này do các giám đốc của họ không thể (hoặc không muốn) thực hiện các nhiệm vụ được giao phó.
4.1.6. Sự lây lan
Người ta cho rằng các trục trặc tài chính có thể lây lan từ tổ chức này sang tổ chức khác giống như các căn bệnh truyền nhiễm vậy. Chẳng hạn như khi một ngân hàng bị rơi vào tình trạng tháo chạy thì các ngân hàng khác cũng có nguy cơ bị rơi vào tình trạng tương tự. Khi sự sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó đe dọa đến sự ổn định của nhiều tổ chức tài chính khác, người ta gọi đó là rủi ro hệ thống.
Sự lây lan còn mang tính chất quốc gia, ở đó sự khủng hoảng tài chính từ quốc gia này có thể lan sang các quốc gia khác. Chẳng hạn như khi có khủng hoảng tiền tệ, sự vỡ nợ quốc gia, hay sự sụp đổ của thị trường chứng khoán nó ngay lập tức sẽ lan sang các thị trường tài chính ở các quốc gia khác. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 đã nhanh chóng lây lan đến các quốc gia khác như Indonesia, Hàn Quốc…
Tuy nhiên, các nhà kinh tế thường tranh luận rằng liệu các cuộc khủng hoảng được quan sát từ các quốc gia khác là do sự tác động lây lan hay là do cùng một yếu tố căn bản tương tự của chính bản thân các quốc gia này gây ra ngay cả khi không có sự liên kết giữa các thị trường tài chính đó. Hãy nhìn lại những bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam thời gian qua để thảo luận thêm về nhận định này.
4.2. Dấu hiệu
Một số dấu hiệu của 1 cuộc khủng hoảng tài chính đó là:
Các Ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Tự do hóa tài chính
Sự yếu kém trong hệ thống tài chính, nhất là các ngân hàng trong nước
Thể chế giám sát kém
5. Giải pháp
5.1. Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính
Tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
Tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng qua đó làm giảm thiếu các rủi ro đổ vỡ dây chuyền trong ngành ngân hàng. Với bất kỳ quốc gia nào, sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng luôn giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu kéo dài từ năm 2008 và đến nay vẫn còn để lại hậu quả nặng nề ở nhiều nước, đặc biệt là ở Mỹ có nguyên nhân chính từ sự yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại, điều đó buộc các quốc gia phải quan tâm, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của các ngân hàng. Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã trở nên phổ biến và cấp thiết ở mỗi quốc gia, đảm bảo cho các ngân hàng thích nghi được với nhu cầu phát triển mới trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đầy biến động.
Đáp ứng các tỷ lệ an toàn hoạt động ngân hàng trên cơ sở áp dụng Basel II & Basel III Do đặc thù và tính "nhạy cảm" trong kinh doanh, hệ thống NHTM đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, song luôn tiềm ẩn rủi ro cao và khi rủi ro phát sinh sẽ tác động sâu sắc tới mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Cùng với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, việc áp dụng các tiêu chuẩn an toàn cũng là một vấn đề cấp thiết.
Đảm bảo khả năng thanh toán: Ngân hàng nhà nước vẫn cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát. Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn thì việc hỗ trợ thanh khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước. Đối với các ngân hàng thương mại cần thực hiện tốt việc quản trị rủi ro thanh khoản và các biện pháp phong ngừa rủi ro.
Đảm bảo dữ trữ ngoại hối: Dự trữ ngoại hối được sử dụng nhằm tài trợ cho sự mất cân bằng cán cân thanh toán, hoặc gián tiếp tác động thông qua việc can thiệp trên thị trường ngoại hối giữ vai trò ngăn ngừa những biến động trong nguồn thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, cũng như chu chuyển quá lớn luồng vốn đối với một quốc gia. Có dự trữ ngoại hối là một cơ sở cho việc phát hành đảm bảo cho mối tương quan giữa tiền - hàng trong nước. Nhà nước có thể chủ động sử dụng ngoại hối như là một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu, theo kế hoạch. Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền tệ theo những mục tiêu, theo kế hoạch. Đối với những nước mà đồng tiền không được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái của đồng bán tệ.
5.2. Giải pháp hạn chế các tác động của khủng hoảng tài chính
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa các giải pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối năm. Trong quãng thời gian này, chính phủ cần có những gói kích cầu thích hợp để vực dậy nền kinh tế
Thứ ba, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm nhập khẩu của một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ tư, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, cung cấp thanh khoản cho thị trường bằng các gói cứu trợ cho ngành ngân hàng thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, cho vay chiết khấu của ngân hàng trung ương với ngân hàng thường mại. Tiếp đó để giải tỏa tâm lý cần phải có một cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt
II. Khủng hoảng tài chính 2007-2009:
1. Nguyên nhân
1.1. Chứng khoán hóa:
Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001. Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.
Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ.
1.2. Bong bóng thị trường nhà ở:
Bong bóng nhà ở vỡ làm nhiều người vay tiền ngân hàng đầu tư nhà không trả được nợ dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản tịch biên không bù đắp nổi khoản ngân hàng cho vay, khiến các ngân hàng rơi vào khó khăn.
Sau khi bong bóng Dot-com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng... Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị lũy tích các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ dollarõ
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra.
2. Diễn biến:
Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng đòi rút tiền gửi của mình ra. Trước tình hình đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức độ thanh khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Tháng Chín 2007, Cục Dự trữ Liên bang còn tiến hành giảm lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống 4,75%. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205 tỷ Dollar Mỹ vào thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản.
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi.
Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng không nổi. Công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stern đã đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác. Tháng 9 năm 2008, Thượng viện Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp 2008 cho phép bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ USD cứu nền tài chính của nước này bằng cách mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản.
Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ nặng. Trong tháng Ba, nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là ngân hàng Bear Stearns. Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán mình cho JP Morgan với giá 10 USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần mức giá niêm yết cách đó 10 năm. Ngay sau đó, cơn bão tài chính gần như đã cuốn phăng hai đại gia cho vay lớn nhất Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac. Kế đó, họ gánh vác 5 nghìn tỷ USD, chiếm gần nửa trong tổng số các khoản thế chấp tại Mỹ. Đến tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã chi 200 tỷ USD làm phao cứu sinh cho hai đơn vị này. Tuy nhiên, tin xấu không chỉ dừng lại ở đó. Ngày 15/9, công ty tài chính khổng lồ Lehman Brothers gục ngã. Trước khi sụp đổ, tiền nợ ngân hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là 30-1, cao gần gấp ba lần quy định luật pháp cho phép. Một số ngân hàng đầu tư khác cũng đội nón ra đi, như Merrill Lynch, đơn vị sau đó được Bank of America mua lại. Tiếp đó, nhiều ngân hàng lớn ở châu Âu như UBS và Ngân hàng Hoàng gia Scotland cũng lâm vào tình cảnh nguy ngập. Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Khi Iceland lâm vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy nền kinh tế. Vào cuối năm ngoái, thế giới cảm thấy ớn lạnh trước khủng hoảng. Thị trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá trị so với năm liền trước với quy mô thiệt hại 28,7 nghìn tỷ USD. Thất nghiệp đua nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa làm ăn
3. Tác động:
3.1. Tác động của KHKT đến một số nền kinh tế trên thế giới:
3.1.1. Đối với Hoa Kỳ:
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow-Jones giảm liên tục từ cuối quý III năm 2007. Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007. NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm.
Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại
3.1.2. Đối với 1 số khu vực trên thế giới:
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.
3.2. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến VN:
3.2.1. Tác động đến xuất nhập khẩu
Tác động của khủng hoảng tài chính đến xuất khẩu là nhanh nhất vì đây là lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với biến động trên thị trường thế giới. Nhìn chung, xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ chịu tác động rất lớn bởi lẽ: (i) Việt Nam là một trong một số nước có độ mở ngoại thương khá lớn; (ii) Trước khủng hoảng, Việt Nam nằm trong tốp 50 quốc gia có kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng đầu thế giới với xuất khẩu đứng hàng thứ 50, chiếm tỷ trọng 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu và nhập khẩu đứng hàng thứ 41, chiếm tỷ trọng 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa toàn cầu. Thêm vào đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước Mỹ, Nhật, châu Âu lên đến 52%, riêng Mỹ chiếm đến 20,8% (Bảng 1). Ðây là những nước chịu ảnh hưởng trực tiếp của suy thoái kinh tế, cầu đầu tư và tiêu dùng giảm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 1: Tỷ trọng xuất nhập khẩu theo các đối tác thương mại của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2011
(Đơn vị: %)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011*
ASEAN
18,1
17,0
14,6
14,7
15,3
17,7
16,7
16,7
16,5
15,3
14,3
17,5
EU
19,6
20,0
18,9
19,1
18,8
17,0
17,8
18,7
17,4
16,5
15,8
12,3
Đài Loan
5,2
5,4
4,9
3,7
3,4
2,9
2,4
2,3
2,2
2,0
2,0
5,3
Hàn Quốc
2,4
2,7
2,8
2,4
2,3
2,0
2,1
2,6
2,9
3,6
4,3
9,1
Hồng Kông
2,2
2,1
2,0
1,8
1,4
1,1
1,1
1,2
1,4
1,8
2,0
1,6
Nhật Bản
17,8
16,7
14,6
14,4
13,4
13,4
13,2
12,5
13,5
11,1
10,7
10,7
Trung Quốc
10,6
9,4
9,1
9,3
10,9
9,9
8,1
7,5
7,7
9,5
10,1
18,1
Hoa Kỳ
5,1
7,1
14,7
19,5
19,0
18,3
19,7
20,8
19,0
20,0
19,7
10,9
Úc
8,8
6,9
8,0
7,1
7,1
8,4
9,4
7,8
6,9
4,2
3,7
2,4
Tổng cộng
89,8
87,3
89,6
92,1
91,6
90,7
90,6
90,2
87,5
83,9
82,7
87,8
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu Kim ngạch xuất nhập khẩu phân theo nước, khối nước và vùng lãnh thổ chủ yếu, Tổng cục Thống kê, *số sơ bộ.
Số liệu thống kê cho thấy xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 tăng đều qua các tháng (bảng 2), nhưng qua năm 2008 chỉ tăng đến tháng 07/2008 sau đó giảm dần; sang năm 2009, kim ngạch xuất khẩu có tăng trong hai tháng đầu năm nhưng vẫn chưa bằng trước lúc giảm năm 2008. Ngoài ra, theo Tổng cục Hải quan, giá xuất khẩu bình quân một số mặt hàng chủ lực như dầu, cao su, gạo, cà phê, hạt điều, đậu đều đi xuống; nhiều đơn hàng xuất khẩu vào Mỹ, EU, Nhật như dệt may, tiêu, điều, gỗ giảm 20 - 30%; việc ký kết hợp đồng xuất khẩu mới gặp khó khăn; nhiều hợp đồng xuất khẩu bị hoãn hoặc lùi sang năm 2009. Số liệu về kim ngạch xuất khẩu năm 2009 cho thấy một số dấu hiệu tích cực nhưng về bản chất việc cải thiện này chỉ là vẻ bên ngoài, kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do xuất khẩu vàng. Ðến hết quý I năm 2010, kim ngạch xuất khẩu mới ổn định trở lại mức trước khủng hoảng.
Bảng 2: Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2012
(Đơn vị: Tỷ USD)
Năm 2007; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
3,76
2,89
3,86
3,64
4,08
4,17
4,25
4,30
3,77
4,30
4,50
4,68
Nhập khẩu
4,33
3,44
4,43
4,45
5,28
4,96
5,22
5,29
4,90
5,60
6,00
4,33
Cán cân thương mại
-0,57
-0,60
-0,60
-0,80
-1,20
-0,80
-1,00
-1,00
-1,10
-1,30
-2,00
0,35
Năm 2008; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
4,91
3,33
4,83
5,00
5,75
6,20
6,55
6,00
5,27
5,04
4,80
4,67
Nhập khẩu
7,20
6,04
8,07
8,24
7,67
6,93
7,30
6,28
5,51
5,71
5,30
-
Cán cân thương mại
-2,29
-2,70
-3,20
-3,20
-1,90
-0,70
-0,80
-0,30
-0,20
-0,70
-1,00
-
Năm 2009; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
3,83
5,08
5,33
4,28
4,44
4,81
4,81
4,62
4,61
5,07
4,76
5,47
Nhập khẩu
3,42
4,22
5,10
5,46
5,56
5,98
6,38
5,94
6,61
6,76
6,83
7,40
Cán cân thương mại
0,41
0,86
0,23
-1,18
-1,12
-1,17
-1,57
-1,32
-2,00
-1,69
-2,07
-1,93
Năm 2010; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
5,08
3,72
5,60
5,46
6,31
6,32
6,07
6,94
6,212
6,282
6,709
7,543
Nhập khẩu
6,06
5,11
6,81
6,68
7,21
7,07
7,10
7,42
7,095
7,396
8,055
8,829
Cán cân thương mại
-0,98
-1,39
-1,21
-1,22
-0,90
-0,75
-1,03
-0,48
-0,88
-1,11
-1,35
-1,29
Năm 2011; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
7,36
4,95
7,66
7,57
7,35
8,58
9,40
9,40
8,20
8,43
8,93
9,10
Nhập khẩu
8.22
6,18
9,06
9,06
9,01
8,79
8,40
10,1
9,58
9,24
9,58
9,36
Cán cân thương mại
-0,86
-1,23
-1,49
-1,49
-1,66
-0.21
1.0
-0.7
-1,38
0,81
-0,65
-0.26
Năm 2012; Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Xuất khẩu
6,5
8,2
9,2
8,6
9,1
9,8
9,6
9,8
9,7
9,9
10,2
10,4
Nhập khẩu
6,6
9,0
9,3
9,0
9,8
9,9
9,5
10,0
9,8
10,4
10,3
10,6
Cán cân thương mại
-0,1
-0,8
-0,1
-0,4
-0,7
-0,1
-0,1
-0,2
-0,1
-0,5
-0,1
-0,2
Nguồn: Tổng hợp từ "Tình hình xuất nhập khẩu" hàng tháng của Tổng cục Hải quan
Nhập khẩu cũng chịu tác động của khủng hoảng do: (i) Việt Nam phải nhập từ 70 - 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Xuất khẩu giảm kéo theo nhập khẩu giảm; (ii) suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho giá yếu tố đầu vào như dầu mỏ, các sản phẩm hóa dầu, phôi thép và thép xây dựng, các thiết bị công nghệ cũng bị giảm mạnh kéo theo kim ngạch nhập khẩu giảm. Tuy nhiên, nhờ tác động của gói kích thích kinh tế triển khai từ tháng 02/2009, nhập siêu đã tăng trở lại từ tháng 03/2009. Hệ quả là nhập siêu của Việt Nam ngày càng nghiêm trọng hơn. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu điều này hoàn toàn không có lợi dù Việt Nam chủ yếu nhập tư liệu sản xuất vì thâm hụt cán cân thương mại hiện đang ở mức rất cao, khi các luồng tiền vào để bù đắp đều có khả năng bị cắt giảm thì việc cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt có khả năng gây bất ổn định rất nguy hiểm như tăng nợ và giảm dự trữ ngoại tệ.
3.2.2. Tác động đối với kiều hối
Kiều hối là một nguồn thu rất quan trọng của Việt Nam. Kiều hối vào Việt Nam gồm hai nguồn chính: Chuyển tiền của lao động xuất khẩu, lưu học sinh làm việc và học tập tại nước ngoài và chuyển tiền của thân nhân người Việt ở nước ngoài. Tính trung bình với mức tăng trên 10% mỗi năm, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đang trở thành nguồn ngoại tệ chính vượt qua cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp lẫn vốn hỗ trợ chính thức.
Hình 1. Kiều hối trong giai đoạn 1996 – 2011 (Đơn vị: triệu USD)
Ghi chú: 2012 dự kiến 9,052 tỷ
Nguồn: IMF (2011), Thanh Xuân (2011)
Hình 1 cho thấy nguồn kiều hối càng ngày càng tăng qua thời gian do: (i) Ngày càng nhiều người đi xuất khẩu lao động, chuyên gia Việt Nam, lưu học sinh làm việc và học tập tại nước ngoài; (ii) có nhiều thay đổi về mặt chính sách và do thủ tục chuyển tiền cũng ngày càng đơn giản, hình thức chuyển tiền ngày càng đa dạng, định chế thực hiện chuyển tiền ngày càng phong phú.
Nguồn kiều hối vào năm 2009 giảm vì: (i) Thị trường lao động xuất khẩu đang và sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động phải quay trở về nước do không có việc làm; (ii) bản thân thân nhân người Việt ở nước ngoài cũng bị giảm thu nhập do khủng hoảng tài chính. Hơn nữa, nguồn kiều hối vào ngoài việc hỗ trợ thân nhân còn đầu tư vào hoạt động sản xuất, chứng khoán và bất động sản. Ðây là những lĩnh vực hiện thời đang có suất sinh lợi giảm nên không còn thu hút nguồn kiều hối vào như trước. Hiện tại, Việt Nam cũng chưa có giải pháp hữu hiệu để thu hút nguồn kiều hối vào các kênh chuyển tiền chính thức.
3.2.3. Tác động của luồng vốn vào ròng đến nền kinh tế Việt Nam
Hình 2: Luồng vốn vào ròng giai đoạn 2000 – 2011 (đơn vị: triệu USD)
Nguồn: IFS (2012)
Nhờ vào chính sách nới lỏng các rào cản đầu tư, đẩy mạnh mở cửa thị trường vốn và tự do hóa thị trường tài chính, luồng vốn vào ròng của Việt Nam tăng khá nhanh qua từng năm và đặc biệt tăng mạnh từ năm 2007 (Hình 2). Trong cơ cấu luồng vốn vào, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vẫn là dòng vốn chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng tương đối ổn định. Vốn đầu tư gián tiếp (FPI) chỉ bắt đầu xuất hiện từ năm 2005 nhưng đã cho thấy sự linh hoạt và nguy hiểm của nó đối với luồng chu chuyển ngoại tệ của nền kinh tế. FPI tăng mạnh vào năm 2007 (6,243 triệu USD) khi TTCK Việt Nam bùng nổ cùng lúc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, rồi nhanh chóng đảo chiều vào năm 2008 (-578 triệu USD) khi bong bóng chứng khoán vỡ và giảm hẳn vào năm 2009. Vốn đầu tư khác (OI), với phần lớn là tín dụng và tài sản ngân hàng, là dòng vốn đang ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cán cân tài khoản vốn.
Tuy nhiên, luồng vốn vào cũng có những tác động đáng chú ý:
Thứ nhất, luồng vốn vào ròng ồ ạt gây áp lực lên cung tiền khiến lạm phát gia tăng. Lượng vốn đầu tư gián tiếp ồ ạt đổ vào trong nửa cuối năm 2007 và quý I/2008 đã dẫn tới tình trạng tỷ giá hối đoái giảm và để giữ ổn định tỷ giá, NHNN đã thực hiện các giao dịch can thiệp trên thị trường ngoại hối. Hậu quả là lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế tăng lên nhanh chóng, dẫn đến chỉ số CPI tăng cao với đỉnh điểm là 27,7% vào quý III năm 2008 và lên đến 23,9% vào cuối năm 2008 (Hình 3).
Hình 3: Luồng vốn vào và chỉ số CPI theo quý giai đoạn 1999 – 2011
Nguồn: Tổng hợp từ IFS (2012)
Thứ hai, luồng vốn vào Việt Nam góp phần khiến tăng trưởng quá nóng cho nền kinh tế, tạo nên các bong bóng tài sản và ảnh hưởng đến tính thanh khoản hệ thống. Cùng với luồng vốn vào ồ ạt, tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2010 luôn ở mức cao, với mức trung bình là 36,5%.
Thứ ba, luồng vốn vào ồ ạt tiềm ẩn nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tiền tệ. FPI mặc dù chỉ mới xuất hiện nhưng đã cho thấy sự biến động thất thường của nó khi liên tục tăng mạnh mẽ vào năm 2007 rồi đảo chiều nhanh chóng vào năm 2008 trên cán cân thanh toán (Bảng 3). Sự biến động đó do các nguyên nhân: (i) Trong bối cảnh suy thoái đang lan rộng ra toàn cầu, các định chế tài chính, các nhà đầu tư đã phải xem xét lại chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình, dẫn đến việc bán chứng khoán để thu hồi vốn. Các nhà đầu tư nước ngoài, những người đang nắm giữ 40% - 50% giá trị giao dịch và khoảng 25% - 30% cổ phiếu trên TTCK Việt Nam đã rút vốn; (ii) tác động tâm lý của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến các TTCK toàn cầu, biểu hiện qua VN - Index liên tục dò đáy mới và giảm xuống mức kỷ lục xuống 252,57 điểm vào ngày 24/02/2009 (Hình 4); (iii) nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống và có sự thay đổi mạnh và nhanh trong CSTT như lạm phát tăng, NHNN thắt chặt tiền tệ, thâm hụt thương mại ngày càng nghiêm trọng, dự trữ giảm sút; (iv) các tổ chức nước ngoài cung cấp những thông tin bất lợi như Fitch Ratings hạ định mức tín nhiệm của Việt Nam từ "ổn định" xuống "tiêu cực", Morgan Stanley nhận định tình trạng khủng hoảng tiền tệ có thể xảy ra ở Việt Nam.
Bảng 3: Quy mô và tỷ trọng đầu tư gián tiếp ròng/GDP giai đoạn 2005-2011
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Đầu tư gián tiếp (triệu USD)
115
1313
6243
-578
128
2383
1412
Đầu tư gián tiếp/GDP (%)
0,2
2,2
8,8
-0,6
0,1
2,2
1.2
Nguồn: World Bank (2012)
Hình 4: VN-Index giai đoạn 2000 – 2011
Nguồn: Công ty chứng khoán Rồng Vàng
Bất ổn từ thị trường tài chính thế giới và nền kinh tế thế giới cũng có tác động không nhỏ. Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 khiến dòng vốn đầu gián tiếp nước ngoài giảm sút và thu hẹp đáng kể. Trong số 7 quỹ thành lập đầu tiên ở Việt Nam có quy mô ban đầu không lớn nhưng sau khủng hoảng đã có đến 4 quỹ chấm dứt hoạt động, 2 quỹ thu hẹp quy mô, chỉ còn một quỹ của công ty Dragon Capital còn trụ lại (Nguyen Van Hieu, 2007).
Ngoài ra, theo kết quả ước lượng của Phạm Thị Tuyết Trinh (2011), mở cửa thị trường tài chính thông qua việc tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn đang có tác động không tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam và nguyên nhân nằm ở các dòng FPI vì tất cả nghiên cứu đến hiện nay đều khẳng định FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2006). Nhìn vào bảng 4, sau khi đạt mức tăng trưởng cao 8,5% năm 2007, GDP giảm mạnh 6,3% và 5,3% năm 2008 và 2009.
Bảng 4: Tăng trưởng GDP thực giai đoạn 2000 – 2011 (Đơn vị tính: %)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tăng trưởng
GDP thực
8,6
6,9
7,1
7,3
7,8
8,4
8,2
8,5
6,3
5,3
6,8
5,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2013)
Như vậy, quá trình tự do hóa các giao dịch vốn của Việt Nam, đặc biệt là các dòng FPI, đang diễn ra với lộ trình khá nhanh, điều này đã dẫn đến những khó khăn trong việc ứng phó với tác động không mong đợi của hội nhập tài chính do nền kinh tế chưa có sự chuẩn bị đầy đủ.
Trước tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng các công cụ chính sách, đặc biệt là CSTK và CSTT để giảm bớt các tác động tiêu cực.
Ðối với chính sách tài khóa, Việt Nam đã nhận thức về tác động của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam và hoạch định chính sách nhằm giảm bớt tác động từ rất sớm, sớm hơn cả Mỹ. Xét tổng quan, Chính phủ đã đưa ra các giải pháp toàn diện và đồng bộ. Có thể thấy điều này khi tham khảo báo cáo 191/BC-CP ngày 18/12/2008 và Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ ngày 11/12/2008 trong đó phân công công việc cho từng Bộ. Riêng gói kích cầu Chính phủ đưa ra đã tác động đến tất cả các thành phần của tổng cầu (Nguyễn Thị Nhung, Hạ Thị Thiều Dao, 2009).
Ðối với chính sách tiền tệ, sau khi được Chính phủ giao cho NHNN nhiệm vụ điều hành CSTT linh hoạt, hướng dẫn NHTM cho vay theo lãi suất thỏa thuận vào ngày 11/12/2008 với Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP, NHNN đã ban hành rất nhiều văn bản, quan trọng nhất là Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN ngày 31/12/2008 về bảy biện pháp ngăn ngừa suy giảm kinh tế của NHNN, hướng dẫn thực hiện, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện những chính sách liên quan đến gói kích cầu hỗ trợ lãi suất; Thông tư số 01/2009/TT-NHNN ngày 23/01/2009 và hướng dẫn tại văn bản số 1288/NHNN-CSTT ngày 27/02/2009 của NHNN Việt Nam về thực hiện lãi suất thỏa thuận; Thông tư 02/2009/TT-NHNN ngày 03/02/2009 và nhiều thông tư khác liên quan (Hạ Thị Thiều Dao, Nguyễn Thị Nhung, 2011)
Nhờ phản ứng kịp thời của CSTK và CSTT kết hợp với sự phối hợp đồng bộ nhiều chính sách đã sớm vượt qua khủng hoảng. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Việt Nam thực hiện kích cầu quy mô lớn nên không tránh khỏi một số bỡ ngỡ và thiếu sót như: (i) Việc triển khai các giải pháp còn thể hiện sự lúng túng, thiếu tính kế hoạch và mang tính thử sai; (ii) gói kích cầu chưa chú trọng đến những thành phần của tổng cầu cần kích thích để có thể đem lại hiệu quả kích cầu lớn nhất về mặt thời gian cũng như hiệu quả chi phí của gói kích cầu; (iii) giải pháp kích cầu chỉ nên chú trọng đến ngắn hạn chứ không nên ôm đồm cả ngắn và dài hạn; (iv) chính sách đưa ra chưa đến được đối tượng cần tác động hoặc bị rò rỉ trước khi đến được đối tượng cần đến; (v) CSTK và CSTT đồng loạt nới lỏng với gói kích cầu có quy mô khá lớn đã là một trong các yếu tố gây áp lực lên cả lạm phát và thâm hụt ngân sách; (vi) cơ chế lãi suất thoả thuận làm tăng mặt bằng lãi suất cho vay tiêu dùng và tăng áp lực lên cầu ngoại hối.
Những bất cập trong phản ứng chính sách trên chủ yếu là do: (i) Chưa coi trọng vai trò của CSTT ngang bằng với CSTK trong cuộc chiến chống suy thoái kinh tế. Trong cuộc khủng hoảng lần này, CSTK được đặc biệt quan tâm trong khi CSTT chỉ đóng vai trò là một biến tĩnh - với lãi suất cơ bản đóng khung liên tục 10 tháng để có được lãi suất cho vay cố định 10,5% và để cho CSTK thực hiện kích cầu. Nếu CSTT được xem trọng thì theo lý thuyết truyền thống, NHNN sẽ giảm mặt bằng lãi suất điều hành, đặc biệt là lãi suất cơ bản nhiều hơn nữa và không sử dụng hỗ trợ lãi suất. Làm được điều này, ngân sách sẽ không căng thẳng do phải gánh khoản chi bù lãi suất, NHTM sẽ không gánh trách nhiệm nặng nề trong sàng lọc đối tượng vay, cầu tín dụng ngoại tệ sẽ không quá căng thẳng, áp lực tỷ giá sẽ không quá lớn, hạn chế tiêu cực nảy sinh trong quá trình xét duyệt các khoản vay; (ii) chưa xây dựng bộ dữ liệu để có thể dựa trên những phân tích định lượng thuyết phục từ những dữ liệu đó tác động vào nền kinh tế.
B. Phục hồi kinh tế
I. Thế giới:
1. Thế giới ứng phó với khủng hoảng tài chính:
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính - kinh tế, hầu hết các nước đều thực hiện đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt, kích thích tiêu dùng chính phủ và kích thích tiêu dùng trong dân cư; mặt khác, giảm bớt khó khăn, giảm chi phí và giá thành cho các doanh nghiệp để có sản phẩm cạnh tranh hơn, giá rẻ hơn theo hướng tăng tổng cầu có khả năng thanh toán trên đơn vị hàng hoá. Đồng thời, trên thị trường tài chính, tập trung vào hỗ trợ và củng cố lại các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như phối hợp giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và tổ chức tài chính….
Hàng loạt gói kích cầu khẩn cấp có giá trị lớn được chính phủ các nước thông qua nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Ngày 17-2-2009, Tổng thống Mỹ đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) với tổng trị giá 787 tỉ USD, bằng 6% GDP của nước Mỹ. Mục tiêu của gói kích thích kinh tế thứ 2 này là nhằm tạo 3,5 triệu việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng đối với người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để phục hồi tăng trưởng kinh tế trong 2 năm tới. 65% giá trị của gói kích thích này là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và 35% là giảm thuế. Như vậy, cho đến nay, tổng trị giá gói kích thích kinh tế của Mỹ qua các đợt đã lên đến 2.250 tỉ USD.
Các nước EU cũng triển khai các gói kích thích kinh tế lớn để đối phó với khủng hoảng. EU khuyến nghị các nước thành viên cam kết không giảm ngân sách, thực hiện sớm kích cầu thông qua giảm thuế, tăng cho vay ngắn hạn, cải thiện môi trường đầu tư, giảm chi phí hành chính và tăng cường đổi mới công nghệ. Là một trong những nền kinh tế đầu tàu của EU, tháng 12-2008, Đức chi các gói cứu trợ kinh tế đầu tiên với 31 tỉ USD, gói thứ hai 50 tỉ USD được Hạ viện thông qua ngày 13-2-2009, tập trung vào xây dựng trường học, đầu tư đường bộ, đường sắt, internet băng thông rộng, xây dựng, khai thác các nguồn năng lượng sạch.
Ngay từ đầu khủng hoảng, Chính phủ Pháp liên tiếp đã đưa ra những biện pháp đối nội và đối ngoại để để đối phó với khủng hoảng. Dành 26 tỉ ơ-rô để đầu tư vào 1.000 dự án ưu tiên trong các lĩnh vực: kết cấu hạ tầng đường bộ và đường sắt; xây dựng nhà ở xã hội; quốc phòng và an sinh; giáo dục bậc cao và nghiên cứu; bảo tồn bảo tàng. Ngoài biện pháp hỗ trợ bán ô tô thông qua việc thưởng 1.000 euro cho những người mua ô tô sạch, chính phủ dành 7,8 tỉ ơ-rô để hỗ trợ hai doanh nghiệp sản xuất ô tô PSA (Peugeot) và Renault. Tây Ban Nha cũng nhanh chóng thành lập Quỹ đặc biệt kích thích kinh tế và tạo công ăn việc làm của nhà nước với nguồn vốn 11 tỉ ơ-rô nhằm mục tiêu tạo ra 300.000 việc làm mới trong năm 2009.
Trong các nền kinh tế châu Âu, Anh là nền kinh tế không sử dụng đồng ơ-rô (eurozone), và có cấu trúc, cách thức phát triển tương đối giống Mỹ, nên chịu tác động của khủng hoảng mạnh nhất trong nhóm các nước G20. Ngay từ tháng 9-2008, nước này đã đưa ra kế hoạch giải cứu tổng thể đầu tiên với 400 tỉ bảng nhằm cung cấp tín dụng, tiếp quản một số ngân hàng lớn có nguy cơ đổ vỡ… Tiếp đến, tháng 11-2008, đưa ra gói giải pháp kích cầu trị giá 20 tỉ bảng nhằm giảm thuế VAT; tăng chi của chính phủ, điều chỉnh một số chính sách thuế với doanh nghiệp; an sinh xã hội.
Mặc dù hệ thống ngân hàng của Nhật Bản hiện nay không bị nguy cơ đổ vỡ như của Mỹ và EU, nhưng các ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế bị đình trệ do xuất khẩu sụt giảm mạnh. Đến nay, Nhật Bản đã công bố gói kích thích kinh tế 117 tỉ USD trong quý 4/2008 với mục tiêu tạo 1,5 triệu việc làm trong 3 năm, hỗ trợ tiêu dùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giảm thuế, đầu tư phát triển giao thông, trợ giá nhiên liệu, lương thực….
Để đối phó với khủng hoảng, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng thực hiện "chính sách kinh tế - xã hội mới" với chi phí 38 tỉ USD, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng để tăng việc làm, tạo điều kiện cho ngành xây dựng cũng như kinh tế địa phương phát triển. Ngoài ra chính phủ nước này đã tuyên bố kế hoạch phát triển kinh tế xã hội xanh để tạo 96 ngàn việc làm cho đến năm 2012. Hàn Quốc muốn thông qua những kế hoạch này trước mắt là tạo việc làm, song về lâu dài để nhằm củng cổ các nền tảng cho sự phát triển sau khủng hoảng.
Trung Quốc gây ngạc nhiên cho toàn thế giới khi công bố gói kích thích tài chính trị giá 4000 tỉ NDT (tương đương 586 tỉ USD) đến năm 2010 với 10 giải pháp và các hạng mục đầu tư khá rạch ròi, bao gồm: xây dựng các công trình đảm bảo đảm đời sống, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đường sắt, đường bộ, sân bay; tăng chi cho phát triển y tế, giáo dục, môi trường sinh thái; phục hồi khu vực động đất; điều chỉnh cơ cấu; cải cách chính sách thuế giá trị gia tăng; cải tạo kỹ thuật, giảm thuế cho các doanh nghiệp, tăng mức hỗ trợ tài chính - tiền tệ. Chính sách kích cầu của Trung Quốc nhìn chung khá linh hoạt và tỏ ra có hiệu quả bước đầu. Có sự phân biệt đối tượng hưởng thụ chính sách, không tràn lan, hướng nhiều đến cải cách hành chính, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, khu vực nông thôn, lao động, việc làm và y tế, giáo dục.
Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng hoảng tài chính đã làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu (Mỹ, châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước. Vì vậy, các biện pháp kích thích của các nước đều hướng vào kích thích nhu cầu trong nước; giải quyết việc làm, tăng cường đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh.Cụ thể là: Xin-ga-po đã đưa kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 13,7 tỉ USD chủ yếu hỗ trợ các doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh; Thái Lan thực hiện gói kích thích kinh tế 8,7 tỉ USD với trọng tâm nhằm tăng sức tiêu thụ trong nước, hỗ trợ nông dân, xuất khẩu, du lịch, giảm chi phí dịch vụ công, tạo công ăn việc làm; In-đô-nê-xi-a đang triển khai chương trình kích thích kinh tế 6,3 tỉ USD nhằm miễn thuế VAT cho 17 lĩnh vực ưu tiên, tạo việc làm và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân. Phi-li-pin kích thích kinh tế với 6,3 tỉ USD, tập trung đầu tư công cho phát triển hạ tầng và nông nghiệp, tăng cường an sinh xã hội, y tế, giáo dục…
2. Sự hồi phục sau khủng hoảng:
2.1 Hoa Kỳ:
Sau khủng hoảng, nền kinh tế Mĩ bắt đầu phục hồi từ tháng 6 năm 2009 .
Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ giai đoạn 2008-2015
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Hòa Kỳ giai đoạn 1990-2015
Từ nửa cuối năm 2009 và đến năm 2010 GDP thực tế tăng lên với tốc độ hàng năm là 2,4%. Năm 2010, tuy ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng ở châu Âu nhưng nền kinh tế Mỹ phục hồi khá chậm trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao là gần 10% trong suốt năm. Ngoài ra, do cũng phải đối mặt với nợ công cao và thâm hụt ngân sách trầm trọng, lại bị trói tay do không kiểm soát được Hạ viện nên chính quyền Obama đã không có khả năng đưa ra một gói kích cầu mới có ý nghĩa. Đây là nguyên nhân chính khiến Cục dự trữ liên bang Mỹ (Ngân hàng Trung ương Mỹ, Fed) buộc phải tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng để vực nền kinh tế và đối phó với tình trạng thất nghiệp cao. Kết quả là một lượng lớn thanh khoản được bơm ra thị trường thông qua kênh mua trái phiếu chính phủ Mỹ trong khi lãi suất ở nước này đã gần bằng không.
Năm 2011, tăng trưởng của Mỹ ở mức thấp và đã chậm lại so với năm 2010. Mức tăng trưởng này chủ yếu là do tăng trưởng tiêu dùng cá nhân vào những tháng cuối năm, nhưng củng chỉ đủ để giảm mức thất nghiệp 0,4 điểm phần trăm xuống 8,6% trong tháng 11. Như vậy, cả năm 2011, mức thất nghiệp của Mỹ vẫn ở mức cao, trên 8%. Ước tính để giảm được 1% mức thất nghiệp, nước Mỹ cần phải có mức tăng trưởng 3,5% một năm.
Năm 2012, suy thoái kinh tế của EU đã có tác động to lớn đến nền kinh tế khác, trong đó có Mỹ. Tăng trưởng kinh tế Mỹ bị coi là đáng thất vọng trong năm 2012 với "tốc độ khiêm tốn" mặc dù đạt 2,25%, cao hơn mức 1,8% của năm 2011. Động thái tăng trưởng 2 quý cuối năm 2012 của Mỹ khác hẳn năm 2011, khi GDP quý III tăng lên 3,1% và tụt sâu xuống còn 0,1% vào quý IV, trong khi các con số này của quý III và quý IV năm 2011 là 1,3% và 4,1%. Mặc dù quý IV là thời điểm Giáng sinh và mùa mua sắm tại Mỹ nhưng những tranh cãi về "vách đá tài khóa" đã làm tăng sự lo ngại và suy giảm lòng tin của cả những người tiêu dùng lẫn giới kinh doanh. Sự sụt giảm bất ngờ vào quý IV đã làm tăng tỷ lệ thất nghiệp cả năm 2012 ở Mỹ lên 8,1% (OECD, 2012).
Đối với những người Mỹ còn đang vật lộn trong một nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp, đó vừa tốt, vừa là tin tốt là tin xấu. Rủi ro về một cuộc suy thoái khác đang giảm đi, ít nhất là khi Fed tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng và thảo luận về "vách đá tài khóa" kết thúc. Nhưng triển vọng về một thời kỳ tăng trưởng nhanh để có thể giảm được tỷ lệ thất nghiệp và giúp nền kinh tế lấy lại những gì đã mất trong đợt suy thoái vừa qua cũng không khả quan hơn. Về mặt kỹ thuật, quá trình hồi phục của kinh tế Mỹ đã kết thúc vào cuối năm 2011, khi sản lượng kinh tế, sau điều chỉnh lạm phát, đã trở lại mức trước suy thoái. Nhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn chưa trở lại mức cao của năm 2007 và trong hầu hết các chỉ tiêu khác, nền kinh tế vẫn đang "dậm chân tại chỗ".
Tuy nhiên, năm 2012 là năm mà thị trường bất động sản, lĩnh vực vốn kéo lùi tăng trưởng của Mỹ trong suốt những năm qua, đang trở thành điểm sáng của nền kinh tế với doanh số giao dịch tăng vọt lên mức trước khủng hoảng và giá nhà cũng duy trì xu hướng tăng đều đặn. Thị trường chứng khoán liên tiếp lập các kỷ lục mới trong những tháng đầu năm 2013.
2013, chương trình "vách đá tài chính" cắt giảm chi tiêu và tăng thuế đã được Quốc hội nước này thông qua ngay từ đầu năm và có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Chương trình này được cho là đã trợ giúp cho thâm hụt ngân sách của Mỹ được cải thiện hơn. Tuy nhiên, IMF (2013) đã cảnh báo chương trình cắt giảm chi tiêu này sẽ làm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ giảm ít nhất 0,5 điểm phần trăm. Việc cắt giảm chi tiêu tự động không chỉ tác động làm giảm tốc độ tăng trưởng trong ngắn hạn mà còn ảnh hưởng tới tiềm năng tăng trưởng trong trung hạn, vì các khoản chi cho giáo dục và cơ sở hạ tầng bị cắt bớt. Trong năm 2013, Mỹ tiếp tục thực hiện gói nới lỏng định lượng QE3 được tung ra từ tháng 9/2012. Những yếu tố tích cực này đã bù đắp cho những điều chỉnh lớn trong hành vi tiêu dùng của người Mỹ do chính sách tăng thuế. Đầu tháng 3/2013, ngân sách tài khóa 2013 bị tự động cắt giảm 85,4 tỷ USD đã gây trở ngại cho nỗ lực thoát khỏi đà quỹ đạo tăng trưởng thấp của nền kinh tế số một thế giới. Vì vậy, GDP của Mỹ năm 2013 chỉ đạt mức tăng trưởng 1,9%. Sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng này của Mỹ được cho là đã kéo tốc độ tăng trưởng toàn cầu giảm nhẹ từ 3,2% năm 2012 xuống còn 3% năm 2013.
Tính đến năm 2013, sau 5 năm từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tuy nền kinh tế Mỹ chưa hoàn toàn hồi phục nhưng cũng đã có những điểm sáng nhất định. Kinh tế Mỹ có được kết quả trên là nhờ vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, Chính quyền G. Bush đã "bơm" gói cứu trợ lớn nhất trong lịch sử trị giá lên tới 700 tỷ USD, nhằm giải quyết các tài sản xấu trong khu vực tài chính (chủ yếu là chứng khoán cho vay cầm cố), trợ giúp tài chính thông qua mua cổ phần nâng vốn, thay đổi quản lý và lãnh đạo các công ty. Kết thúc chương trình cứu trợ vào ngày 21/7/2010, gói cứu trợ này đã làm cho khu vực tài chính và ngân hàng cho vay trở lại;
Thứ hai, gói kích thích kinh tế trị giá 831 tỷ USD của chính quyền Tổng thống B. Obama vào tháng 01/2009, để chi cho các hạng mục cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, giáo dục; hỗ trợ dân chúng gặp khó khăn; giảm thuế và mua hàng
Thứ ba, các chương trình giải cứu khu vực tài chính và cung tiền mạnh mẽ chưa từng có của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Cụ thể, FED đã chi 29 tỷ USD cho Jase P. Morgan mua lại Tập đoàn tài chính Bear Stern, chi 182 tỷ USD để giải cứu Tập đoàn tài chính AIG. Bên cạnh đó, FED cũng đã có hàng loạt các động thái khác như các chương trình nới lỏng định lượng, các quyết định cắt giảm lãi suất... nhằm hỗ trợ nền kinh tế Mỹ hồi phục.
Năm 2014, nền kinh tế thế giới tiếp tục hồi phục chậm chạp và không vững chắc. IMF đã phải 3 lần hạ dự báo tăng trưởng, thậm chí cảnh báo nguy cơ tái khủng hoảng, nhất là kinh tế của khu vực EU, khiến các chuyên gia buộc phải thận trọng khi đưa ra những con số dự báo cho năm 2015. Trong khi đó, nền kinh tế Mỹ được coi là điểm sáng, có nhiều dấu hiệu tích cực, nhất là vào quý III và quý IV. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã bắt đầu tăng lên từ mùa xuân năm 2014, cao hơn tỷ lệ của 3 năm trước đó. Thâm hụt ngân sách Hoa Kỳ trong năm 2014 khoảng 2,8% GDP, đây là một sự tiến triển kỷ lục so với năm 2009, khi mà thâm hụt ngân sách chiếm đến gần 10% GDP. Mức tăng trưởng cả năm đạt khoảng 3,5%, FED đã rút toàn bộ gói QE (Nới lỏng định lượng) khỏi thị trường. Theo thống kê cho thấy, số lượng người Mỹ đăng ký hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp liên tục giảm; tốc độ tăng trưởng GDP hai quý liên tiếp của năm 2014 đạt mức cao. Sự phục hồi của nền kinh tế số một thế giới được dự đoán sẽ trở lại vị thế là động lực chính vực dậy nền kinh tế toàn cầu thay cho các nước mới nổi chiếm vị trí này từ sau năm 2008. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ năm 2015 được dự báo cũng chỉ ở mức 3,1% GDP (thấp hơn năm 2014), tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn 5,8%, thị trường địa ốc mới bắt đầu được cải thiện, lạm phát đang trở lại mức thấp… những dấu hiệu trên cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới đang phục hồi và có thể sẽ tiếp tục là điểm sáng trong năm 2015.
2.2 Châu Âu:
Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng GDP của Châu Âu giai đoạn 2008-2015
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Châu Âu giai đoạn 2007-2016
năm 2015 là ước tính, năm 2016 là dự đoán
Năm 2009, để thoát khỏi khủng hoảng, hàng loạt các gói kích cầu khổng lồ được triển khai trên toàn thế giới với ước tính khoảng 3,16% GDP của các nước. Nhờ những nỗ lực mạnh mẽ và đồng bộ của chính phủ các nước, kinh tế toàn cầu đã phát đi những tín hiệu tích cực và có dấu hiệu thoát đáy, theo kết luận tại báo cáo về kinh tế thế giới 2009 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 11/2009.
Tuy nhiên, niềm lạc quan không kéo dài lâu khi cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu trở nên nghiêm trọng đe dọa sự tồn tại của đồng tiền chung Euro với nguyên nhân chính xuất phát từ những nỗ lực kích cầu để thoát khoải khủng hoảng năm 2008 trước đó. Ngày 9/5/2010, các bộ trưởng tài chính châu Âu đã thông qua gói giải cứu trị giá 750 tỷ Euro nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính ở khu vực châu Âu, và lập ra ủy ban ổn định tài chính châu Âu.
Hàng trăm tỷ Euro đã được cơ quan này tung ra bên cạnh IMF để cứu trợ cho Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha với các điều kiện "thắt lưng buộc bụng" ngặt nghèo. Sự cắt giảm chi tiêu chính phủ trên toàn khu vực trong bối cảnh đầu tư tư nhân chưa hồi phục sau khủng hoảng, nhằm giảm thâm hụt và nợ công, cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha thường xuyên trên 25%. GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% kể từ năm 2008. Toàn châu Âu rơi vào một cuộc suy thoái dài nhất trong lịch sử hình thành đồng tiền chung.
Năm 2010, quá trình phục hồi kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) chậm lại với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chỉ đạt 2.05% năm 2010. Sự tăng trưởng kinh tế không đồng đều của các nền kinh tế trong EU không chỉ phản ánh những tác động dai dẳng của khủng hoảng, mà còn phản ánh sự xơ cứng trong cơ cấu tại các thị trường lao động, sản phẩm và dịch vụ. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn ở mức cao (chiếm hơn 10% lực lượng lao động).
Một thực trạng nữa, đó là sự phân cực đang ngày càng rõ nét trong EU. Trong lúc kinh tế Ai-len lâm nguy và các nước trong nhóm PIGS (Bồ Đào Nha, I-ta-li-a, Hy Lạp, Tây Ban Nha) điêu đứng về tài chính, thì nền kinh tế Đức vẫn là điểm sáng trong bức tranh tối màu của kinh tế EU. Kinh tế Đức đang phục hồi nhanh chóng, đạt mức tăng trưởng 3,7%. Đây là kết quả của việc kim ngạch thương mại nước này tăng đáng kể, trong đó xuất khẩu đạt 703,2 tỉ ơ-rô (tăng 19%) và nhập khẩu đạt 589,2 tỉ ơ-rô (tăng 19,4%); niềm tin đầu tư và tiêu dùng tăng lên; tỷ lệ thất nghiệp được kiềm chế ở mức dưới 7%; thị trường nhà đất sôi động và tăng trưởng 9%; lạm phát được kiềm chế ở mức 1,2%, thấp hơn so với mức quy định 2% của khu vực đồng tiền chung châu Âu. Kinh tế Đức đóng vai trò "đầu tàu chủ chốt" của EU, vì vậy sẽ là nhân tố kéo toàn bộ "con tàu kinh tế" EU vượt dốc và tiến tới phục hồi, phát triển. Nền kinh tế Pháp, đứng thứ hai tại EU, đã thoát khỏi sự tăng trưởng âm và đạt tốc độ tăng trưởng GDP 1,5%, nhờ các chính sách kích thích nền kinh tế và hỗ trợ tiêu dùng, sức mua của các hộ gia đình đều tăng, chủ yếu tập trung vào các mặt hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp chế biến.
Năm 2011, tăng trưởng của kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu không theo kịp Mỹ, nước công bố tăng trưởng GDP quý 3/2011 đạt 0,6%. Kinh tế Anh quý 3/2011 tăng trưởng 0,5%. GDP của Đức có mức tăng trưởng dự báo cả năm là 0,5% trong khi mức tăng trưởng GDP quý 2/2011 của nước này được điều chỉnh lên mức 0,3% từ mức 0,1% theo công bố trước đó. Pháp công bố GDP quý 3/2011 tăng trưởng 0,4%, GDP quý 2/2011 sụt giảm 0,1% chứ không phải con số 0% công bố ban đầu. Hà Lan bất ngờ công bố GDP quý 3/2011 sụt giảm 0,3% trong khi trước đây kinh tế Hà Lan tăng trưởng thuộc loại tốt nhất khu vực, đây có thể coi như hậu quả trực tiếp từ các biện pháp thắt chặt ngân sách cũng như tác động từ khủng hoảng nợ thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu.
Thời kỳ này, Châu Âu phải giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: Khủng hoảng nợ công và khủng hoảng hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ Tây Ban Nha. Để giải quyết những nhiệm vụ này, sau nhiều nỗ lực, ngày 11/7/2011, Châu Âu thống nhất thành lập Cơ chế Ổn định châu Âu (ESM) nhằm cứu trợ các nền kinh tế trong khu vực thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công.
Với những thay đổi lớn trong chính sách và biện pháp giải cứu, châu u đã vượt qua khủng hoảng nợ công và loại bỏ nguy cơ đổ vỡ khối Eurozone. Niềm tin của nhà đầu tư đã quay trở lại và tăng trưởng kinh tế đã ổn định hơn
Năm 2012, lần thứ hai trong vòng 4 năm, kể từ năm 2009, Liên minh châu Âu (EU) lại rơi vào suy thoái khi chính phủ các nước thành viên thắt chặt chi tiêu nhằm giảm thâm hụt ngân sách. Các nhà lãnh đạo EU vẫn phải vật lộn với cuộc khủng hoảng nợ. Năm 2012, EU chìm ngập trong tình trạng khủng hoảng do gánh nặng nợ nần của nhiều quốc gia như Hy Lạp hay Tây Ban Nha và sự căng thẳng của hệ thống ngân hàng. Tăng trưởng của khu vực đồng Euro và của cả EU gồm 27 thành viên đều rơi xuống mức âm, lần lượt là -0,4% và -0,3%. Chương trình "thắt lưng buộc bụng" của bộ ba EU, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã tạo ra sự trì trệ chưa từng thấy và những hậu quả nghiêm trọng cho phần lục địa vốn được coi là già nua này. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức chỉ đạt 0,9%, giảm 2,2 điểm phần trăm từ mức 3,1% của năm 2011. Tương tự, Pháp chỉ tăng trưởng 0,2% trong năm 2012, giảm 1,5 điểm phần trăm so với năm 2011. Trong khi đó, một số nền kinh tế hàng đầu khác của EU lại suy giảm, như Anh giảm 0,1%, Bồ Đào Nha giảm 3,1%, Italia 2,2%
Năm 2013, tại châu Âu, chính sách tài khóa "thắt lưng buộc bụng" tiếp tục được thực hiện sang năm thứ ba dẫn đến hệ lụy như kỳ vọng là làm cho suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2013, nền kinh tế của khu vực đồng euro không suy giảm mạnh như năm 2012, nhưng tăng trưởng GDP vẫn ở mức âm (-0,5%). Tại Đức, đầu tầu của nền kinh tế châu Âu, mức lãi suất cơ bản thấp đã tạo đà cho lĩnh vực xây dựng và tiêu dùng cá nhân được cải thiện. Chính vì thế, trong báo cáo tháng 12/2013, Ngân hàng liên bang Đức (Bundesbank, 2013) đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế của nước này từ 0,3% lên 0,5%. Tuy nhiên, do tác động của chính sách tài khóa quá chặt chẽ được thực hiện kéo dài từ những năm trước nên các biện pháp tiền tệ và tài khóa linh hoạt hơn đã không làm cho kinh tế Đức đạt mức tăng trưởng cao trong năm 2013 mà vẫn thấp hơn so với mức tăng trưởng 0,9% trong năm 2012 (Deutsche Bundesbank (2013). Khác với Đức, năm 2013 Pháp đã tìm hướng đi riêng, mặc dù vẫn còn thận trọng đối với chính sách tài khóa, song thay vì cắt giảm ngân sách hoặc tăng thuế, nước này đã bắt đầu hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Nhờ vậy, kinh tế Pháp đã tăng trưởng trở lại với mức 0,3%. Ngược lại, kinh tế Italia và Tây Ban Nha vẫn tiếp tục suy giảm lần lượt với mức -1,9% và -1,2%, do hai nước này chưa giải quyết được vấn đề nợ công nên tăng trưởng vẫn còn "mong manh".
Năm 2014, khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã thoát khỏi cơn suy thoái nhưng vẫn là khu vực đáng quan ngại hơn cả do nguy cơ tái khủng hoảng đang cận kề. Sau khi khu vực này phục hồi và tăng trưởng ở mức 0,13% năm 2013, nhưng sang năm 2014 lại tăng trưởng âm do chưa thoát khỏi nợ công lại thêm tác động ngược của chính sách trừng phạt kinh tế Nga. Khu vực Eurozone tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao (11,9%) tuy nhiên cũng tránh được giảm phát khi tỷ lệ lạm phát xoay quanh mức 0,5%. Thế nhưng trong con mắt của các nhà đầu tư, châu Âu được xem như "người ốm" của nền kinh tế thế giới và năm 2015 được dự báo là 11,6%, khiến kinh tế EU khó bề phục hồi trong ngắn hạn.
Châu Á:
Năm 2009
Trái ngược với tình cảnh tại Hoa Kỳ và châu Âu, những năm đầu của cuộc khủng hoảng, khu vực Đông Á - Thái Bình Dương lại là điểm sáng khi đóng góp tới 40% tăng trưởng GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản, Singapore cũng thoát khỏi suy thoái tương đối sớm, hầu hết vào nửa cuối năm 2009. Thậm chí, một số quốc gia trong nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS) như Ấn Độ hay Trung Quốc chỉ bị giảm nhẹ mức tăng trưởng trong hai năm 2008 và 2009 nhưng vẫn ở mức cao so với toàn cầu. Đặc biệt là Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng lần lượt là 9,6% và 9,2% trong năm 2008 và 2009.
Năm 2010
Do ảnh hường của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, để nhanh chóng thoát khỏi suy thoái, các chính phủ vẫn liên tiếp tung ra các chương trình kích thích tăng trưởng, tạo ra những lượng thanh khoản ào ạt bơm vào nền kinh tế. Đồng thời các ngân hàng trung ương tìm cách duy trì lãi suất thấp để kích cầu đầu tư; chính những điều này đã tạo ra các luồng "tín dụng nóng" đổ về các nền kinh tế đang phát triển, nơi lạm phát và kiểm soát chính sách tiền tệ vẫn đang là bài toán đau đầu. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), châu Á đi đầu trong tiến trình phục hồi kinh tế với mức tăng GDP là 9,4%, trở thành động lực của sự tăng trưởng kinh tế thế giới.
Hầu hết các nền kinh tế khu vực, trải dài từ tiểu lục địa Ấn Độ tới Ô-xtrây-li-a đều tăng trưởng trên mức trước khi xảy ra khủng hoảng. Khu vực ASEAN tăng 7,4%, cao hơn 6,1% so với mức tăng 1,3% năm 2009; các nền kinh tế Đông á đạt kết quả khả quan với mức tăng 8,6%. Ấn Độ - nền kinh tế mở cửa ít hơn so với các nước láng giềng và nhờ đó ít bị ảnh hưởng hơn, hầu như không giảm tốc, đạt 9,1%, mức tăng cao nhất trong ba năm qua. Nền kinh tế Trung Quốc không chỉ giữ vững tốc độ tăng trưởng 10,3%, mà còn hỗ trợ các nền kinh tế khác, trong đó có Ô-xtrây-li-a, cùng "cất cánh".
Đà phục hồi kinh tế Nhật Bản sau khủng hoảng cũng chững lại. Giảm phát triền miên hơn 20 tháng liên tiếp đang đè nặng lên kinh tế nước này. GDP tăng 2,8% năm 2010, sau khi giảm 5,2% năm 2009. Đồng yên tăng giá 14% trong năm nay so với USD đã khiến chi phí nhập khẩu thấp, làm tình trạng giảm phát thêm trầm trọng. Văn phòng nội các Nhật Bản nhấn mạnh, nền kinh tế đang đối mặt với xuất khẩu yếu, sản lượng công nghiệp thấp trong bối cảnh thị trường lo ngại giá đồng yên tăng lên mức cao nhất so với đồng USD trong hơn 15 năm qua, ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu. Thủ tướng Nhật Bản N.Kan đã đưa ra gói kích thích kinh tế 5.000 tỉ yên (61,3 tỉ USD), tập trung vào các lĩnh vực: việc làm, tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội, khuyến khích các nền kinh tế trong khu vực tăng trưởng, theo dõi chặt chẽ các động thái trên thị trường ngoại hối, can thiệp khi cần thiết để ngăn chặn đà tăng giá mạnh mẽ của đồng yên, giảm thiểu những thiệt hại cho nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Chính phủ cũng thông qua các kế hoạch cải cách thuế trong năm tài khóa 2011, mở đường cho việc giảm thuế thu nhập của công ty để kích thích nền kinh tế, đánh thuế về môi trường nhằm đối phó với hiện tượng bi n đổi khí hậu.
Tại Trung Quốc, lạm phát tiêu dùng trong tháng 11.2010 đã tăng lên 5,1%, mức cao kỷ lục trong vòng 28 tháng. Quốc gia này đã ghi một dấu ấn lớn lao sau khi vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Hoa Kỳ. Tuy nhiên, lạm phát cao khiến mọi thành quả tăng trưởng GDP trở nên vô nghĩa, nhất là với người nghèo.
Năm 2011
Tăng trưởng trong Khu vực đang phát triển Đông Á - Thái Bình Dương vẫn duy trì ở mức cao trong năm 2011, mặc dù đã giảm so với đỉnh điểm thời kỳ sau khủng hoảng. Nhu cầu mạnh mẽ trong nước đã phần nào bù đắp cho những nhu cầu bên ngoài đang có xu hướng yếu đi từ thị trường Mỹ và Tây Âu.
Khu vực đang phát triển Đông Á - Thái Bình Dương đạt tỷ lệ tăng trưởng 8,2% trong năm 2011 (4,3% ngoại trừ Trung Quốc), đánh dấu sự suy giảm mạnh từ mức tăng trưởng gần 10% ghi nhận trong năm 2010 (7,0% ngoại trừ Trung Quốc). Hiện tượng tăng trưởng chậm lại này chủ yếu bắt nguồn từ mức tăng thấp hơn dự kiến của kim ngạch xuất khẩu trong khu vực sản xuất cũng như gián đoạn nguồn cung trong bối cảnh của trận động đất và sóng thần ở Nhật Bản và lũ lụt nghiêm trọng ở Thái Lan, Lào và Campuchia. Nhu cầu và đầu tư trong nước đã bù đắp cho những tác động tiêu cực trên, cộng thêm được hỗ trợ từ việc nới lỏng chính sách tiền tệ ở một số quốc gia. Tuy nhiên, đối với nhiều nước, tốc độ tăng trưởng này là sự trở lại của xu hướng tăng trưởng trước khủng hoảng sau sự phục hồi năm 2010 tiếp theo cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu. Nhìn chung, xét trên quy mô toàn cầu, tăng trưởng của Khu vực Đông Á vẫn còn khá ấn tượng. Trong năm 2011, mức tăng trưởng của Khu vực này cao hơn khoảng 1% so với Khu vực Nam Á và cao hơn khoảng 3% so với ở Đông Âu và Mỹ La Tinh.
Về phía Nhật Bản, mặc dù thoát khỏi suy thoái khá sớm so với các nền kinh tế phát triển khác, nhưng kinh tế Nhật Bản liên tiếp gặp vấn đề những năm sau đó. Trong khi chưa thể giải quyết được tình trạng giảm phát trong gần 2 thập kỷ, đầu năm 2011, nước Nhật lại lao đao v. thảm họa kép động đất - sóng thần, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD. Nợ công của nước này cũng ở vào mức đáng báo động với khoảng 230% GDP. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi cũng không kém phần "lao đao" khi tình trạng nợ công và siết chặt tài chính của các quốc gia làm thu hẹp thị trường xuất khẩu của họ, đặc biệt là đối với Trung Quốc khi bản thân nước này cũng phải đối mặt với những vấn đề nội tại như lạm phát cao, tiêu dùng hạn hẹp, nợ xấu của địa phương tăng cao. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này trong năm 2011 chỉ đạt 9,2%, thấp hơn mức 10,4% trong năm trước đó.
Năm 2012
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ảm đạm thì châu Á vẫn là khu vực có tốc độ phát triển cao. Kinh tế Nhật Bản đă tăng trưởng 1,6% trong năm 2012, cao hơn nhiều mức -0,8% năm 2011. Tuy vậy, Ngân hàng trung ương Nhật Bản đánh giá nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này vẫn là "cỗ xe ỳ ạch" lết tới đích của sự phục hồi. Những hoạt động tái thiết và phục hồi sau ảnh hưởng của đợt sóng thần năm 2011 đă phát huy tác dụng, cùng với những nỗ lực kích cầu tiêu dùng cá nhân trong nước của Chính phủ, giúp cho nền kinh tế Nhật Bản bật lên tăng trưởng 3,6% trong nửa đầu năm 2012. Tuy nhiên, nửa sau của năm 2012, tăng trưởng GDP của Nhật Bản đă giảm mạnh chỉ còn 0,4% do những căng thẳng lănh thổ với Trung Quốc, ảnh hưởng từ khủng hoảng nợ châu Âu và sản xuất công nghiệp giảm mạnh bởi nhu cầu nội địa giảm mạnh do Chính phủ ngừng trợ giá các loại ô tô tiết kiệm nhiên liệu. Để tránh nguy cơ nền kinh tế rơi vào suy thoái, Chính phủ Nhật Bản đă đưa ra hai gói kích thích liên tiếp trong vòng hai tháng, trong đó gói kích thích tung ra ngày 30/11/2012 giá trị 10,7 tỉ USD, lớn gấp đôi so với gói kích thích tháng 10/2012.
GDP của Trung Quốc trong năm 2012 tăng lên 51,9 nghìn tỷ nhân dân tệ (8,28 nghìn tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc chỉ đạt 7,8% trong năm 2012, thấp nhất trong 13 năm qua, thấp đáng kể so với 9,3% của năm 2011 và 10,4% của năm 2010. Theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS), tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này đă phục hồi trở lại, đạt 7,9% trong quư cuối năm 2012, sau 7 quý tăng trưởng chậm lại liên tiếp nhưng đà phục hồi.
Mặc dù thành tích tăng trưởng năm 2012 của Trung Quốc rơi xuống mức thấp nhất kể từ 1999 nhưng nền kinh tế thứ hai thế giới đă thoát khỏi kịch bản đen tối nhất. Chính phủ nước này đă tránh để nền kinh tế bị hạ cánh đột ngột, gây xáo trộn cho các lĩnh vực kinh tế và xă hội. Tăng trưởng của Trung Quốc có được vẫn là nhờ vốn đầu tư của tư nhân và Nhà nước. Ngân sách chi tiêu công đă tăng 19% trong lúc đầu tư vào hạ tầng cơ sở tăng thêm 25% trong năm 2012 so với 2011. Trong khi đó, tiêu thụ nội địa vẫn còn yếu kém. Năm 2000, tiêu dùng tư nhân chiếm 47% GDP Trung Quốc, năm 2012 tỷ lệ này chỉ còn 38%. Trong khi đó, tỷ lệ vốn trên GDP đă tăng từ 35% năm 2000 lên 49% vào năm 2012.
Một cột trụ khác của kinh tế Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 12/2012 đã tăng nhanh hơn dự kiến, nhưng nhìn chung cho cả năm, ngoại thương của Trung Quốc không đạt chỉ tiêu tăng trưởng 10% như kế hoạch đề ra. Còn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2012 vào Trung Quốc đã giảm 3,7% tức còn hơn 111 tỷ USD, trong khi đó đầu tư của Trung Quốc ra nước ngoài lại đạt hơn 77,2 tỷ USD vào 4.425 công ty nằm trải trên 141 nước và vùng lãnh thổ, tức tăng 28,6%. FDI vào Trung Quốc giảm mạnh vào những tháng cuối năm, đặc biệt chỉ riêng tháng 12 đã giảm 4,5%. Mặc dù có những căng thẳng tranh chấp biển đảo, các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn tiếp tục đổ tiền vào Trung Quốc làm lượng đầu tư của nước này tăng 7,38 tỷ USD trong năm 2012, cao hơn 16,3% so với năm 2012. Trong khi đó, do tác động của cuộc khủng hoảng nợ công, đầu tư của EU vào Trung Quốc đã giảm 3,8% (6,11 USD).
Kinh tế khu vực ASEAN vẫn giữ được mức tăng trưởng cao. Theo IMF (2013), tăng trưởng kinh tế của ASEAN đạt khoảng 5,2%. Trong đó, tốc độ tăng trưởng GDP của Lào cao nhất là khoảng 8,4%, tiếp đến là Campuchia với mức tăng 6,4%, Indonesia khoảng 6,1%, Brunei khoảng 3,2%, Malaysia khoảng 4,4%, Myanmar khoảng 6,0%, Philippines khoảng 4,2%, Singapore khoảng 2,7%, Thái Lan khoảng 5,5%.
Năm 2013
Theo thống kê năm 2013, kinh tế các nước châu Á chỉ đạt mức tăng trưởng 6,0% so với dự báo trước đó là 6,6% và năm 2014 cũng sẽ giảm từ 6,7% xuống còn 6,2%. ADB cho rằng, tuy tốc độ tăng trưởng nhìn chung có sụt giảm nhưng vẫn là khu vực dẫn đầu thế giới.
Tại khu vực có hai nền kinh tế phát triển như: Sri Lanka và Philippines tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ với 6,6% và 7,3%, riêng Philippines còn bị cơn bão Haiyan tàn phá. Khu vực kinh tế ASEAN về cơ bản là phục hồi và tăng tưởng cao, do đã tạo ra môi trường kinh tế và đầu tư lành mạnh. Đây cũng là động lực thúc đẩy kinh tế các nước khu vực lạc quan hơn, thể hiện rõ nét nhất là kinh tế Indonesia.
Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất khu vực, tuy có sụt giảm nhưng vẫn giữ mức tăng cao nhất thế giới (Quý III đạt 7,7% và cả năm có thể đạt mức 7,5% – 7,8%, nhưng năm 2014 sẽ chỉ còn 7,2%. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và không ổn định thì mức tăng trưởng của Trung Quốc vẫn được coi là "ngoạn mục".
Nền kinh tế lớn thứ hai châu Á là Nhật Bản, tuy chưa phục hồi so với trước suy thoái nhưng cũng có những bước tiến mới (2,5%) kể từ chính sách kinh tế được gọi là Abenomics phát huy hiệu quả; Ấn Độ cũng bị giảm sút từ 6% xuống còn 5,8% trong năm 2013 và có thể cả năm 2014.
Kinh tế khu vực Trung Á tăng trưởng giảm xuống mức 5,4% trong năm 2013, do kinh tế Kazactan Gruzia yếu kém, nhưng có thể phục hồi và đạt mức 6,0% vào năm 2014. Kinh tế khu vực Nam Á, cũng chỉ đạt 4,7% trong năm 2013 và 5,5% năm 2014. Khu vực Đông Á trong cả năm nay và năm tới cũng giảm từ 7,1% xuống còn 6,6%. Đông Nam Á sẽ đạt 4,9% trong năm 2013 và 5,3% vào năm 2014. Nhìn chung, theo ADB các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á bao gồm 45 nước và vùng lãnh thổ đã đạt mức tăng trưởng 6,6% năm 2013 và 6,7% vào năm 2014. Sự sụt giảm này là do nhu cầu từ các nước công nghiệp chủ chốt suy giảm đáng kể và tốc độ tăng trưởng chậm lại ở hai nền kinh tế đầu tàu khu vực là Trung Quốc và Ân Độ.
Năm 2014
Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng giảm tốc: Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, kinh tế Trung Quốc trong quý I, quý II, quý III năm 2014 lần lượt tăng trưởng 7,4%, 7,5% và 7,3%, theo dự báo tăng trưởng cả năm sẽ đạt mức 7,4%. Kinh tế Trung Quốc đang trong một nỗ lực hạ cánh mềm, giảm tốc độ tăng trưởng để đổi lấy ổn định và bền vững.
Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại là do đã trải qua giai đoạn tăng trưởng "nóng" thậm chí "quá nóng", nay theo quy luật tự nhiên nó đòi hỏi phải cân đối lại. Mặt khác, nhu cầu bên ngoài yếu dẫn đến xuất khẩu giảm, nguồn vốn FDI quốc tế chảy vào nước này cũng giảm mạnh, bất động sản suy yếu trầm trọng, bong bóng tín dụng tăng lên, nguy cơ rủi ro lớn, nhất là nợ công và nợ trong lĩnh vực "ngân hàng mở" mức doanh thu và tiêu dùng trong nước bị chững lại.
Kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái kỹ thuật: Việc tăng thuế tiêu dùng từ 4% lên 8% vào tháng 4/2014 đã khiến nền kinh tế Nhật Bản sụt giảm ba quý liên tiếp, GDP quý II giảm 1,7% so với quý I, và giảm 6,8% so với cùng kỳ năm ngoái, và quý III giảm 1,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tăng trưởng âm trong ba quý liên tiếp khiến Nhật Bản chính thức bước vào giai đoạn suy thoái kỹ thuật sau 6 tháng tăng trưởng dương, và là lần suy thoái thứ 5 trong vòng 6 năm qua.
Nhật Bản đã rơi vào suy thoái ở quý 4 năm 2014 và năm tới sẽ tăng trưởng âm từ 0,7% đến 2,5%, mặc dù Đảng Dân chủ Tự do (LDP) của Thủ tướng Shinzo Abe vừa thắng lớn trong cuộc bầu cử hạ viện ngày 14/12. Nhưng do chính sách "Abenomics" với 3 mũi tên, thì mũi tên thứ 3 lại chứa đựng yếu tố (tăng thuế tiêu thụ) triệt tiêu mặt tích cực đã đạt được ở 2 mũi tên trước đó.
Kinh tế các nước khu vực ASEAN: trong đó có Việt Nam, nhìn chung tăng trưởng chậm và cũng có xu hướng chững lại, chỉ đạt mức 4-5%. Trong đó có hai nước là Philippines và Indonesia có mức tăng trưởng cao hơn gần 6%.
II. Việt Nam:
Các chính sách và biện pháp ứng phó của Việt Nam:
Trước tình trạng lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, Chính phủ đã đề ra và tập trung thực hiện 8 nhóm giải pháp, và điều chỉnh, bổ sung khi tình hình đã thay đổi nên đã kiềm chế lạm phát, giảm rõ rệt mức nhập siêu của những tháng cuối năm. Từ khi nhận thức được tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với nước ta, Chính phủ đã đề ra gói giải pháp mới để bảo đảm ổn định tình hình kinh tế, giữ mức tăng trưởng hợp lý, đồng thời chuẩn bị đối phó với tình trạng có thể tồi tệ hơn do kinh tế thế giới suy thoái trong năm 2009. Gói giải pháp này gồm 5 nhóm giải pháp chính sau đây:
Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất- kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Chính phủ có chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh, cho những người trực tiếp sản xuất, nhất là nông dân và người nghèo về chính sách thuế, vay vốn ngân hàng, hoãn nợ, giãn nợ ngân hàng, hỗ trợ về cây, con giống... miễn là không vi phạm các quy định của WTO.
Thứ hai, đẩy mạnh kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Chính phủ khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, điện, xi măng... Chính phủ cũng phát hành thêm trái phiếu Chính phủ; linh động cơ chế thầu, chỉ định thầu đối với các công trình ở vùng sâu, vùng xa; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người nghèo, cho công nhân để giải quyết vấn đề tồn đọng của hàng hóa, vật liệu xây dựng.
Thứ ba, thực hiện chính sách tài chính- tiền tệ linh hoạt, hiệu quả nhằm thúc đẩy sản xuất- kinh doanh, xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội. Chính phủ giữ lãi suất, thuế ở mức phù hợp.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện chính sách an sinh xã hội, trong đó có đề án giảm nghèo ở 61 huyện nghèo, bảo hiểm thất nghiệp. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo không để nhân dân thiếu đói và chỉ đạo Bộ Tài chính mua trên 150.000 tấn gạo, nhu yếu phẩm dự trữ.
Thứ năm, quyết liệt, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả trong tổ chức chỉ đạo, điều hành cho phù hợp với tình hình mới. Trong đó, tập trung chủ động về công tác dự báo, phân tích; đặt nhiệm vụ dự báo sát với tình hình thế giới là việc làm thường xuyên, liên tục của các ngành, các cấp, các tổ chức nghiên cứu khoa học...
Lường trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngày 11/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, yêu cầu các Bộ, các địa phương tổ chức triển khai thực hiện ngay.
Sự phục hồi kinh tế ở Việt Nam
2.1. Năm 2010
Tăng trưởng kinh tế khả quan trong năm 2010. Đáng lưu ý là ngành công nghiệp phục hồi ấn tượng, tăng trưởng gần 14%: Mặc dù chịu tác động mạnh bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ khá cao và cải thiện dần qua các quý. GDP trong 9 tháng đầu năm tăng 6.52%, và dự báo có thể đạt được mức tăng 6.7% cho cả năm 2010.
Cụ thể, tăng trưởng GDP quý 3 đã đạt 7.2%, cao hơn nhiều so với mức 5.83 và 6.4% của quý 1 và quý 2. Như vậy, năm 2010 tăng trưởng GDP của Việt Nam đã được cải thiện khá nhiều so với mức 5.3% của năm 2009. Tăng trưởng GDP của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á nhưng thấp hơn so với Trung Quốc và Ấn Độ.
Điểm đáng lưu ý là ngành công nghiệp phục hồi ấn tượng. Khu vực công nghiệp và xây dựng 9 tháng năm 2010 tăng 7.29%, cao hơn mức 4.64% của cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trong 11 tháng đầu năm 2010, sản xuất công nghiệp tăng trưởng 13.8%, gần gấp đôi so với mức tăng 7.3% cùng kỳ năm 2009.
Đà phục hồi cũng có thể nhận thấy ở ngành dịch vụ, với mức tăng trưởng trong 9 tháng đạt 7.24%, cao hơn nhiều so với mức 5.9% của cùng kỳ năm 2009. Đáng chú ý là doanh số bán lẻ 11 tháng tăng đến 14.7%, sau khi loại trừ tăng giá. Sự phục hồi mạnh mẽ của ngành dịch vụ còn nhờ vào kết quả khả quan của ngành du lịch, thương mại và dịch vụ tài chính.
Trong khi đó, tăng trưởng khu vực nông nghiệp 9 tháng năm 2010 đạt 2.89%, so với mức 1.58% của cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư đóng góp 44.62% cho tăng trưởng, cao nhất từ trước tới nay. Đầu tư khu vực nhà nước giúp duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010: Trong 9 tháng đầu năm tổng đầu tư tăng 19.8%, tỷ lệ Đầu tư/GDP lên tới 44% và ước tính khoảng 42-43% trong năm 2010. Tỷ lệ đầu tư này cao hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á khác, hiện chỉ ở 15-20%. Với tỷ lệ đầu tư này thì ICOR trong 9 tháng đã lên tới 6.78 lần, cao hơn đáng kể so với Trung Quốc và Ấn Độ hiện chỉ 3 - 4 lần.
Ước tính năm 2010, vốn đầu tư đóng góp 44.62% cho tăng trưởng và đây là mức đóng góp cao nhất từ trước tới nay. Trong khi đó, tiêu dùng khu vực tư nhân đóng góp 66.15% cho tăng trưởng GDP, tiêu dùng của khu vực nhà nước đóng góp khoảng 7%, thâm hụt thương mại chiếm 17% GDP.
Đầu tư của khu vực nhà nước trong 9 tháng tăng đến 30.2% so với năm 2009, chiếm 37.6% tổng đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó, vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng 17%, chiếm 36.8%; khu vực đầu tư nước ngoài tăng 10.7%, chiếm 25.6%.
Như vậy, việc đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh đóng góp một phần quan trọng để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2010.
Xuất khẩu tăng mạnh bất chấp xuất khẩu dầu thô giảm. Tăng trưởng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở mức cao, đạt gần 40%: Mặc dù kinh tế thế giới chưa thực sự phục hồi nhưng xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 64.28 tỷ USD, tăng 24.5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu không tính dầu thô, giá trị xuất khẩu các mặt hàng còn lại tăng 30%. Kim ngạch xuất khẩu ước tính cho cả năm 2010 có thể đạt 70.5 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay.
Hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực là Dệt may và Giày dép đứng đầu trong những mặt hàng xuất khẩu, với kim ngạch tương ứng đạt 10 tỷ và 4.5 tỷ USD lần lượt tăng 22.6% và 25.3% so với cùng kỳ năm trước.
Thủy sản đứng thứ 3 với kim ngạch đạt 4.49 tỷ USD, tăng 16.3% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng khác có mức tăng trưởng cao là Máy móc, thiết bị, dụng cụ đạt kim ngạch 2.7 tỷ USD, tăng 51.3%; Cao su đạt 2 tỷ USD tăng 92.8%.
Khu vực vốn đầu tư nước ngoài, không tính hoạt động xuất khẩu dầu thô, đã tăng trưởng đến 40%; trong khi đó, khu vực trong nước tăng 21.6% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu cũng tăng mạnh trở lại do nhu cầu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm tích cực là kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị đứng đầu danh sách: Nhập khẩu trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 74.9 tỷ USD, tăng 19.8% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực vốn đầu tư trong nước chỉ tăng 8%, trong khi khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng đến 39.9%.
Điều này cho thấy sự phục hồi mạnh của nhập khẩu phần lớn do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập các nguyên vật liệu để sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu như bông, vải, nguyên phụ liệu sản xuất khác.
Mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất là Máy móc, thiết bị với giá trị 12.36 tỷ USD, tăng 7.6%, cho thấy nhu cầu đầu tư và mở rộng sản xuất vẫn tăng khá. Sắt thép đứng thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu đạt 5.3 tỷ USD, tăng 14.7% so với cùng kỳ.
Các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh như sợi dệt, sản phẩm chất dẻo, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ, nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép.
Nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 24% tổng kim ngạch nhập khẩu. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam: Tính trong 11 tháng đầu năm tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và Trung Quốc đã đạt 21.3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam đạt 5.4 tỷ USD, tăng 45%, nhập khẩu đạt 15.9 tỷ USD, tăng 22,8%.
Kim ngạch thương mại với các nước ASEAN đạt 21.5 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 8.4 tỷ USD, tăng 18%, nhập khẩu đạt 13.1 tỷ USD, tăng 22%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 13.8 tỷ USD, với 8.8 tỷ USD xuất khẩu và 5 tỷ USD nhập khẩu. Xuất khẩu sang Hòa Kỳ trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt 11.6 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Có thể thấy Trung Quốc đang dần trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Năm 2010, nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm tới 24% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc đang cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, rõ ràng là Việt Nam rất khó có thể tiếp cận được công nghệ nguồn, khi nhập khẩu máy móc thiết bị từ quốc gia này.
Tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 có thể đạt 27%, tăng trưởng cung tiền ở mức 25%. Đáng lưu ý là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cao hơn nhiều so với nội tệ. Hệ thống ngân hàng khó huy động vốn, nhưng điểm tích cực là tốc độ tăng trưởng tiền gửi vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng:
Tín dụng tăng trưởng bùng nổ vào năm 2009 cùng với gói hỗ trợ 4% lãi suất và chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN đã làm cho lãi suất trong nền kinh tế xuống mức khá thấp. Kết thúc năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây áp lực mạnh lên lạm phát.
Sang năm 2010, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 25%. Tăng trưởng tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2010 đã đạt 22.5%, thấp hơn nhiều so với mức 33.29% cùng kỳ năm trước nhưng cũng là mức rất cao. Đáng chú ý là tín dụng bằng ngoại tệ tăng 52.6%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 14.6%. Dự kiến tăng trưởng cả năm sẽ đạt mức 27%, và tăng trưởng cung tiền cũng dự kiến đạt 25%, vượt mục tiêu đặt ra đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng, cung tiền năm 2010 đã giảm so với những năm trước, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước khác. Tăng trưởng cung tiền cao đã tạo áp lực lớn lên lạm phát và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Trong khi đó, tăng trưởng tiền gửi đã chậm lại trong những tháng gần đây. Trong 10 tháng đầu năm 2010, dư nợ tiền gửi tăng mới chỉ đạt 22.8%. Tuy vậy, mức tăng này vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng, và là một diễn biến khá tích cực vì trong 3 năm gần đây tăng trưởng huy động thường thấp hơn so với cho vay.
Hiện tại, các ngân hàng đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn dù lãi suất huy động đã lên rất cao. Do vậy, các ngân hàng sẽ tiếp tục gặp nhiều trở ngại để đảm bảo những quy định của Thông tư 13.
2.2 Năm 2011
Tăng trưởng kinh tế năm 2011 thấp do xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn và chính sách kinh tế vĩ mô chặt chẽ nhằm kiểm chế lạm phát. Mặc dù tăng trưởng giảm nhưng lạm phát vẫn ở mức cao do chính sách tiền tệ thắt chặt chưa phát huy hết tác dụng và tâm lý kì vọng lạm phát chưa được ổn định.
Tăng trưởng GDP của năm 2011 là 5,89%, thấp hơn mức 6,78% của năm 2010 và thấp hơn nhiều mức tiềm năng 7,3% (Viện CL&CSTC) của nền kinh tế cũng như mức tăng trưởng 7,9% của các nước đang phát triển ở châu Á trong năm 2011. Tăng trưởng giảm sút chủ yếu do giảm sút của khu vực công nghiệp & xây dựng và dịch vụ, nhất là các ngành chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tín dụng: tài chính – tín dụng, xây dựng, kinh doanh tài sản & dịch vụ tư vấn
Nông, lâm nghiệp và thủy sản: Tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2011 là 4%, cao hơn nhiều mức 2,78% của năm 2010 và xấp xỉ mức tăng trưởng trước của thời kì trước khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản được sự đóng góp của cả ba ngành, cụ thể là nông nghiệp tăng trưởng 3,7% (so với mức 2,4% năm 2010), lâm nghiệp tăng trưởng 5,0% (so với mức 3,9% năm 2010) và thủy sản tăng trưởng 5,5% (so với mức 4,4% năm 2010). Nguyên nhân là nông nghiệp gặp điều kiện thuận lợi về thời tiết và giá hàng hóa thế giới. Theo dự tính của IMF, giá hàng hóa thế giới không kể dầu năm 2011 tăng 11%.
Xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu năm 2011 đạt 96,3 tỷ đô la Mỹ, tăng 33,3% so với năm 2010, cao hơn nhiều mức tăng 25,5% của 2010. Giá thế giới tăng là nguyên nhân chính giúp tăng xuất khẩu trong năm 2011. Chẳng hạn, trong mức tăng giá trị xuất khẩu, yếu tố giá đóng góp 94,4% đối với mặt hàng cà-phê, 91,2% đối với mặt hàng dầu thô và 87,7% đối với mặt hàng cao su.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 24,67 tỷ USD tăng lên về kim ngạch xuất khẩu của năm 2011 (so với năm 2010), nhóm hàng công nghiệp chế biến đóng góp 69,3% (tương ứng 17,11 tỷ USD). Trong mức tăng trên của nhóm hàng công nghiệp chế biến, các nhóm hàng điện thoại & linh kiện, dệt may và giày dép chiếm hơn 51,7% (tương ứng 8,84 tỷ USD). Do ba nhóm hàng trên chủ yếu được xuất sang Mỹ và Châu Âu, hai thị trường này có vai trò rất lớn đối với tăng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2011.
Nhập khẩu năm 2011 đạt 105,8 tỷ đô la Mỹ, tăng 24,7% so với cùng năm trước, cao hơn mức tăng 20,1% của năm 2010. Nhập khẩu tăng cũng chủ yếu do tăng giá hàng hóa thế giới. Chẳng hạn, trong mức tăng giá trị nhập khẩu, yếu tố giá đóng góp 82% đối với mặt hàng xăng dầu, 77,4% đối với mặt hàng chất dẻo; mặt hàng sắt thép mặc dù giảm 20,8% về lượng nhập khẩu nhưng do giá tăng nên giá trị nhập khẩu vẫn tăng 1,9%. Tính riêng các nhóm hàng nhập khẩu có thống kê về lượng thì yếu tố tăng giá đóng góp đến 97,8% trong tăng kim ngạch nhập khẩu.
Nhờ tình hình xuất khẩu khả quan, nhập siêu 2011 chỉ ở mức 9,5 tỷ đô-la Mỹ giảm 24,6% so với năm 2010. Như vậy, tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu của năm 2011 chỉ là 9,9%, so với mức 17,5% của năm 2010 và tiếp tục xu hướng giảm kể từ năm 2007
Cán cân thanh toán: Do nhập siêu trong năm 2011 được cải thiện cùng với lượng kiều hối dự kiến đạt mức 9 tỷ USD nên có thể thâm hụt cán cân vãng lai sẽ giảm so với năm 2010. Nhờ đó năm 2011 có thể thặng dư 3,1 tỷ USD, cải thiện đáng kể so với mức thâm hụt 8,9 tỷ USD và 1,8 tỷ USD của năm 2010 và 2011.
Thị trường ngoại hối: So với năm 2010, tỷ giá nhìn chung được duy trì ổn định hơn trong năm 2011 nhờ những biện pháp quản lý thị trường, kinh doanh thu đổi ngoại tệ cũng như những thuận lợi về cán cân thanh toán. Sau lần điều chỉnh tăng 9,3% vào tháng 2/2011, đến cuối năm 2011 tỷ giá liên ngân hàng chỉ tăng 0,7%, thấp hơn so với tăng 5,5% của năm 2010. Thị trường ngoại hối tiếp tục giữ ổn định trong tháng 1/2012.
Lạm phát: Trong báo cáo tháng 10/2011, CP đã đánh giá lạm phát có xu hướng giảm dần từ tháng 5 và dự báo lạm phát cả nước ở mức 18%.
2.3 Năm 2012
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: cả năm 2012 đạt 5,03% (tính theo giá 1994) tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000.
Số liệu của Tổng cục Thống kê công bố vào cuối tháng 12 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP của VN năm 2012 là 5,03%. Mặc dù đã có sự cải thiện qua từng quý nhưng vẫn thấp hơn so với chỉ tiêu 5,5% mà Chính phủ đặt ra trước đó cho cả năm 2012, đồng thời cũng thấp hơn mức 5,89% của năm 2011 và là một trong những mức tăng trưởng GDP thấp nhất của VN kể từ năm 2000.
Trong năm 2012, kim ngạch xuất khẩu đạt 114,6 tỉ USD, tăng 18,3% so với năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 42,3 tỉ USD, tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 72,3 tỉ USD, tăng 31,2%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2012 đạt 114,3 tỉ USD, tăng 7,1% so với năm trước. Mức tăng kim ngạch nhập khẩu năm nay đạt thấp nhất kể từ năm 2002 trở lại đây (Không tính đến năm 2009).
Năm 2012 xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên VN xuất siêu hàng hóa kể từ năm 1993. Trong năm chỉ có ba tháng nhập siêu ở mức thấp, các tháng còn lại đều xuất siêu, đặc biệt là các tháng cuối năm.
Nguyên nhân chủ yếu do suy giảm của sản xuất và tiêu dùng trong nước nên nhập khẩu tăng thấp hơn nhiều so với xuất khẩu. Đáng chú ý là xuất siêu hàng hóa chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức xuất siêu đạt gần 12 tỉ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược lại, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỉ USD.
Tính từ đầu năm đến nay, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành và 4 lần giảm trần lãi suất huy động. Theo đó, lãi suất cho vay ra tương đối ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức trần lãi suất được cố định ở 13% đối với các khoản vay ngắn hạn.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tổng phương tiện thanh toán (M2) đến 20/11/2012 ước tăng 15,33% so với tháng 12/2011. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng 15,98%. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế (bao gồm cả đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác) ước tăng 4,15% so với cuối năm 2011. Trong những năm trước, tăng trưởng tín dụng quá nóng đã dẫn đến nợ xấu tăng cao như hiện nay và hệ thống ngân hàng phải chịu rủi ro đổ vỡ. Năm nay các ngân hàng gần như đã phải quay về thế 'phòng thủ' khi đưa ra một đồng vốn thì phải đi kèm với đó là kiểm soát chất lượng tín dụng.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011, giảm mạnh so với tốc độ tăng những năm trước.
Vốn đầu tư từ NSNN giải ngân năm 2012 ước đạt 205 nghìn tỉ đồng, bằng 98,8% kế hoạch năm và tăng 15% so với năm 2011.
2.4 Năm 2013
Tăng trưởng đạt mức 5,42% trong năm 2013, chỉ nhỉnh hơn 2012 (5,25%) và 2009 (5,40%). Nằm dưới ngưỡng trung bình 7% của giai đoạn trước khủng hoảng, đến cuối năm 2012 thì tăng trưởng vẫn thấp hơn mức tiềm năng
Tốc độ tăng trưởng tương phản lớn giữa khu vực linh hoạt nhất là dịch vụ và chế biến chế tạo so với khu vực trì trệ nhấ t là nông nghiệp và khai khoáng.. Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục là bệ đỡ của tăng trưởng kinh tế khi duy trì tốc độ tăng trên %/năm trong sáu năm trở lại (dù vẫn th p hơn mức 8% của giai đoạn trư c suy giảm kinh tế).
Nằm trong xu hướng đi xuống dài hơn kể từ 2005, tăng trưởng của công nghiệp-xây dựng suy giảm năm thứ 3 liên tiếp, còn 5,43% trong 2013, nhưng trong đó thì chế biến chế tạo (+7,44%) tăng nhanh hơn so với xây dựng (5,83%) và khai khoáng (-0,2%). Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng xấp xỉ năm 2012 (2,67%) là một dấu hiệu cho thấy tiềm năng tăng trưởng đang cạn kiệt và năng suát của ngành (chủ yếu là trồng trọt) gần như không tăng. Về tổng thể, năng suất chung của cả nền kinh tế đã tăng chậm lại do tăng trưởng GDP thấp hơn trước, trong lúc lực lượng lao động duy trì mức tăng trung bình 2% một năm.
Bảng 1 thể hiện sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong 10 năm trở lại đặc trưng bởi sự thu hẹp về tỷ trọng GDP của nông nghiệp và sự tăng lên tương ứng trong 2 lĩnh vực còn lại. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp giảm từ 20% vào năm 2004 xuống 18,4% vào năm 2013, trong khi tỷ trọng của công nghiệp-xây dựng tăng lên 38,3% GDP và tỷ trọng của dịch vụ 43,3%. Đáng chú ý là sự thay đổi cơ cấu nói trên không nhất quán mà có sự điều chỉnh theo hướng ngược lại trong năm 2008 và 2011, khi công nghiệp và dịch vụ giảm tăng trưởng, còn nông nghiệp tăng cao cùng với lạm phát giá nông sản
Đà tăng của giá hàng hoá và dịch vụ trong năm 2013 chậm hơn so với các năm 2008, 2010, 2011 và tương đương v i giai đoạn lạm phát vừa phải từ 2005 đến 2007. Tuy nhiên, lạm phát thấp trong năm 2013 không đi liền với tốc độ tăng trưởng trên 7% như giai đoạn trước. Tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CP) đạt mức bình quân 6,60% tính theo năm. Đây là mức thấp nhất trong 4 năm gần đây và chỉ cao hơn năm 2009 (5,9%) trong 8 năm gần nhất. Dù chịu ảnh hưởng từ thay đổi giá hàng hoá cơ bản và dịch vụ công, tỷ lệ lạm phát cả năm tương đối thấp do thiếu lực kéo từ phía cầu, ở cả hai nhóm lạm phát lõi và ngoài lõi.
Tổng đầu tư toàn xã hội năm 2013 chiếm 30,4% GDP, thu hẹp đáng kể từ mức trên 40% GDP nhiều năm trư c. Quy mô đầu tư trên GDP giảm đang giúp hạ nhiệt nền kinh tế, hạn chế mức độ lãng phí trong đầu tư nhưng cũng đồng thời kìm chế GDP khi mô hình tăng trưởng vẫn chủ yếu theo chiều rộng
Định hướng điều hành về lãi suất ít thay đổi trong năm 2013 khi lạm phát đã có dấu hiệu ổn định. Trong nửa đầu năm, lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn giảm 2 điểm phần trăm, còn tương ứng là 5% và 7%. Vào giữa năm, trần lãi su t huy động giảm còn 7% với kỳ hạn dưới 6 tháng, và lãi suất các kỳ hạn lớn hơn được thả nổi. Thực tế tại các NHTM có thanh khoản tốt thì lãi suất huy động ngắn hạn luôn thấp hơn trần lãi suất từ 1 đến 2 điểm phần trăm. Nỗi ám ảnh về lạm phát cao trong quá khứ đã giữ lãi suất thực dương trong nửa cuối năm. Dù lãi suất huy động tương đối thấp khiến gửi tiền càng trở nên bất lợi nhưng lượng tiền gửi tại hệ thống ngân hàng tăng tương đối cao, trong đó tiền gửi dân cư tăng 23,42% còn tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 22,35%.
Lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng thương mại
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Ở phía cho vay, lãi suất huy động và cho vay giảm 2 - 3% so với đầu năm, huy động vốn kỳ hạn dưới 12 tháng tối đa đạt 7,5%, trên 12 tháng tối đa đạt 8,5%. Lãi suất cho vay nông thôn ở mức 7-9%, vay sản xuất kinh doanh ở mức 10,5% cho các khoản vay mới. Biên lãi suất ròng khoảng 3% cho thấy các ngân hàng tiếp tục duy trì mức chênh tương đối cao để xử lý nợ xấu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng có phần chậm lại từ quý /2013, chịu ảnh hưởng một phần từ tốc độ mở rộng phát hành trái phiếu từ tháng 8. Tuy nhiên, đến hết năm, tăng trưởng tín dụng được công bố ở mức 12,51% so với cuối năm ngoái, một mức tăng bất thường. Xét cho cả năm, tốc độ gia tăng tín dụng chậm chạp phản ánh nền kinh tế còn tương đối yếu. Điểm tích cực từ tín dụng tăng chậm là tỷ lệ cho vay so với huy động trở về mức an toàn hơn đối với toàn hệ thống, từ khoảng hơn 100% xuống còn 93% trong năm 2013.
Với việc áp dụng quy chế điều hành thị trường mở (OMO) hợp lý hơn (hỗ trợ thanh khoản chủ động) cùng với quy định chặt chẽ hơn (yêu cầu trích lập dự phòng), thị trường liên ngân hàng có một năm tương đối trật tự . Lãi suất qua OMO giảm còn 5,5% từ tháng 7/2013 trong sự đồng bộ hoá với quyết định giảm lãi suất điều hành trong tháng 5 cũng khiến lãi suất liên ngân hàng khó leo thang trong nửa cuối năm. Tình trạng chung cả năm là dồi dào thanh khoản, căng thẳng không kéo dài lâu và không lan sang thị trường một (huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế) như một số năm trước. Giao dịch tập trung ở kỳ hạn qua đêm và 1 tuần.
2.5 Năm 2014
Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, đà tăng trưởng được phục hồi trong hầu hết các ngành, lĩnh vực là những điểm sáng của bức tranh kinh tế năm nay
Năm 2014 kết thúc với với tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ước tính tăng 5,98%. so với năm 2013. Mức tăng trưởng này cao hơn mục tiêu tăng 5,8% đề ra đầu năm của Quốc hội.
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,12%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%; khu vực dịch vụ chiếm 43,38% (cơ cấu tương ứng của năm 2013 là: 18,38%; 38,31% và 43,31%).
Như vậy, về cơ cấu quy mô nền kinh tế cả năm, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm có xu hướng giảm dần.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Về xuất nhập khẩu năm 2014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước ước đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, kim ngạch nhập ước đạt 148 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Như vậy, với việc xuất siêu 2 tỷ USD, năm 2014 trở thành năm thứ 3 liên tiếp có cán cân thương mại thặng dư, vượt chỉ tiêu đầu năm Quốc hội đặt ra với mức tăng khoảng 10% của kim ngạch xuất khẩu.
Đáng lưu ý, đó là đạt được mức xuất siêu trong năm 2014 phụ thuộc hoàn toàn vào khu vực doanh nghiệp có vốn FDI. Cụ thể, trong khi khu vực kinh tế trong nước nhập siêu hơn 15 tỷ USD thì khu vực FDI xuất siêu 17,1 tỷ USD.
Nguồn: Tổng cục Thống kê/Tổng cục Hải quan.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), năm 2014 đăng ký ước đạt 20,23 tỷ USD, bằng 93,5% so với cùng kỳ 2013 và tăng 19% so với kế hoạch năm 2014 (17 tỷ USD).
Tính đến ngày 15/12/2014, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 12,35 tỷ USD, tăng 7,4 % so với cùng kỳ năm 2013 và tăng 2,9% so với kế hoạch năm 2014.
Ngành công nghiệp chế biến là ngành thu hút vốn FDI mạnh nhất trong 2014, chiếm 71,6% tổng vốn đăng ký.
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài.
Sản xuất công nghiệp năm 2014 có dấu hiệu phục hồi, nhất là ngành công nghiệp chế biến chế tạo với tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp đã có sự chuyển biến rõ nét qua các quý.
Cụ thể, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) năm 2014 ước tính tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều mức tăng 5,9% của năm 2013.
Trong đó: quý I tăng 5,3%; quý II tăng 6,9%; quý III tăng 7,8% và quý IV tăng 10,1%.
Nếu loại trừ tháng Một (IIP tăng 27,5%) và tháng Hai (IIP giảm 15,1%).
IPP từ tháng 1-11 so với cùng kỳ 2013 và cả năm 2014 so 2013. Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Về tình hình thu – chi ngân sách:
Thu ngân sách năm nay cũng ước vượt dự toán năm khi con số đến giữa tháng 12 đạt 814.100 tỷ đồng, bằng 104% dự toán. Trong khi đó, chi ngân sách cùng kỳ ước đạt 968.500 tỷ đồng, bằng 96% dự toán năm. Ước tính, bội chi ngân sách năm nay là 154.400 tỷ đồng, bằng 5,7% GDP theo giá so sánh.
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Liên quan đến hoạt động ngân hàng, đến thời điểm 22/12/2014 cho thấy tổng phương tiện thanh toán tăng 15,99% so với tháng 12 năm 2013 (cùng kỳ năm 2013 tăng 16,13%).
Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,62% (cùng kỳ năm 2013 tăng 12,51%) còn huy động vốn tăng 15,76% (cùng kỳ năm 2013 tăng 17,23%).
Tại buổi họp báo thường kỳ tháng 12 của Ngân hàng Nhà nước, Phó thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết: Tăng trưởng tín dụng năm 2014 dự kiến đạt 13%. Như vậy, tính đến thời điểm này mức tăng trưởng tín dụng đã chính thức cán "đích" đặt ra từ đầu năm (chỉ tiêu 12-14%).
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Về nợ xấu, tính đến ngày 23/12/2014, VAMC cho biết đã mua được 123.000 tỷ đồng nợ xấu trong đó trong năm 2014 đã xử lý được hơn 4.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua bao gồm xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ, tổ chức đấu giá…
Kết luận
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Giá chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng thắt chặt tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế khó khăn. Còn tại Việt Nam, khủng hoảng tài chính tác động chậm hơn nhưng vẫn có những ảnh hưởng đặc biết là đến tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát.
Sau khủng hoảng tài chính, Châu Á vươn lên như một điểm sáng kinh tế. Các khu vực khác cũng có những dấu hiệu phục hồi. Kết quả trên là thành quả của những chính sách kinh tế nhằm hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính.
Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 đã cho Việt Nam những kinh nghiệm về việc phát triển thị trường tài chính. Qua đây, nền tài chính nước nhà còn non trẻ đã có được những bài học để tiếp tục phát triển.
Tài liệu tham khảo
Dữ liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam.
Dữ liệu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
WORLD ECONOMIC OUTLOOK Crisis and Recovery – IMF.
Kho dữ liệu IFS.
Lê Vân Anh, Tạp chi Khoa học ĐHQGHN, Khủng hoảng tài chính - mô hình lý thuyết và những nguy cơ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright