HUYỀ N KHÔNG PHI TINH TINH – NAM NAM PHONG (HUYỀ N KHÔNG LÝ SỐ). Huyền không phi tinh là một trong các hệ phái của Phong thủy Huyền không, Huyền không phi tinh đượ c phổ biến r ộng rãi hiện nay căn cứ vào việc phối hợ p Cửu tinh Lạc thư và phương vị của Hậu thiên bát quái. Lạc Thư vốn là Thiên văn chi dụng nên khi k ết hợ p vớ i Hậu thiên bát quái s ẽ hình thành nên s ự phân bố thiên khí trên phương vị Hậu thiên bát quái, do Lạc Thư là phản ánh thiên thời, hay nói đúng hơn là thờ i gian nên hệ thống phân bố thiên khí trên phương vị Hậu thiên bát quái này sẽ không cố định mà biến đổi theo thờ i gian. Từ thời Tưởng Công(Tưởng Đại Hồng), đến nay Huyền không phi tinh đã phát triể n mạnh mẽ, hiện nay tại cái nôi của hệ phái này là đất nướ c Trung Quốc đã chính thức hình thành 6 phái Phi tinh đó là: Vô Thường phái, Điề n Nam phái, Chiết Giang phái, phái và Trung Châu phái. M ỗi phái có lý luận và sở đắ Tô Châu phái, Tương Sở phái ở đắc riêng, tuy nhiên đều có điể m chung: + Lấy An tinh pháp làm ch ủ yếu, bài tinh bàn trên 9 cung, mỗi cung bao gồm 3 tinh: Vận tinh-Hướ ng ng tinh-Sơn tinh. + Khi lập hướ ng ng nếu kiêm quá một độ số nhất định(thườ ng ng từ 3 đến 4,5 độ) thì sẽ sử dụng Thế quái để lập Sơn bàn và Hướ ng ng bàn. ..... Trong thực tế Huyền không phi tinh đã cho thấ y sự ứng nghiệm, tuy nhiên sự ứng nghiệm ch ưa thật sự thuyết phục. Vớ i những ngườ i nghiên cứu nhiều về Phi tinh sẽ thấy có những băn khoăn đối vớ i lý luận của chính nó, các vấn đề mà cho đến nay chưa đượ c giải đáp thỏa đáng như: - L ậ p tinh bàn b àn sẽ có những bàn giống nhau, như vận 8 này tọa Tý hướ ng ng Ngọ và tọa Quý hướng Đinh thì tinh bàn như nhau, theo lý thì cát hung cũng như nhau nhưng trên thực tế cát hung khác hẳn nhau dù các điều kiện khác như nhau? vấn đề gì ở đây? - Khi kiêm hướ ng ng dùng Thế quái để lậ p bàn thì nhiều trườ ng ng hợ p hiến thành hung mặc dù đã bố trí đúng cách? vấn đề gì ở đây? ở đây? - Vì sao vận 1 chính thần lại là Khảm linh thần lại là Ly, vận 2 chính thần là Khôn linh thần là Cấn mà không phải là vị trí khác? - Định phương hướng để l ập tinh bàn thì dùng 24 sơn, nhưng khi lậ p tinh bàn thì ch ỉ dùng có 8 cung(không k ể trung cung), tại sao lại như vậy? 1
và còn hàng loạt câu hỏi vẫn chưa có đáp án thỏa đáng.....
Như vậy Huyền không phi tinh là không đáng tin cậ y? Hoàn toàn không phải vậy. Sự tồn tại và phát tri ển mấy trăm năm nay đã chứ ng minh r ằng h ệ phái này không phải không đáng tin, chẳng qua do sự công khai hệ phái này cho r ộng rãi mọi ngườ i chỉ là một vài nét cọ trên bức tranh mà thôi, chỉ những người đượ c chọn để chân truyền thực thụ mớ i có thể nắm đượ c toàn bộ bức tranh. Trong Lục phái bên trên đến nay Nam Phong đã khẳng định đượ c 3 phái mật truyền ờ để lọt ra bên ngoài đó là: những tinh túy cho truyền nhân của mình mà không bao giờ để Vô Thường phái, Trung Châu phái và Điề n Nam phái, riêng 3 phái còn l ại thì không đủ cơ sở để sở để xét họ có mật truyền hay kiến thức môn phái chỉ có vậy.
Tưởng Công(Tưởng Đại H ồng), Chương Công(Chương Trọng Sơn -Vô Thườ ng), ng), Sái Công(Sái Mân Sơn-Trung Châu), Tri ệu Công(Triệu Liên Thành) là nh ững ngườ i nắm giữ bí quyết cao nhất của Huyền không phi tinh, trong đó Tưở ng ng Công là xuất sắc nhất. Họ truyền bá học thuật của mình ra cho đờ i,i, bên cạnh đó đề cao một vài quyển cổ thư(chủ yếu là các quyển Thanh Nang) và vi ết cả vài quyển r ất khó hiểu. Mọi học thuật đượ c truyền bá của họ chỉ là căn bản mà thôi, từ đây ngườ i có duyên và tận tâm tận lực nghiên cứu cổ thư sẽ có thể thấu hiểu những bí mật ẩn giấu trong đó. Nói tóm lại cái học thuật truyền thế c ủa họ chính là chìa khóa để mở bí bí mật n ằm trong các cổ thư. Thờ i gian qua, gạt bỏ vô vàn sách vở và và ý kiến làm mình mê mu ội, Nam Phong đã bước đượ c vào huyền cơ, hôm nay dùng mộ t số trong đó để mở cánh cửa Huyền không Phi tinh, lộ thiên cơ vì mong những điề u tốt đẹp hơn cho mọi ngườ i.i. Biết điều này là tự gây nghiệ p cho mình. R ất ất mong ngườ i s ử d ụng để t ạo phúc, đừng l ợ i d ụng để gây họa cho ngườ i.i. Bao gồm: Sự thực về Thế quái ca quyết Khở i Tam nguyên 9 tinh, dụng Nhị nguyên 8 vận
Đại Thư Hùng Sự thực về Sơn tinh trong Tinh bàn Nhị thậ p tứ sơn Áo ngữ An tinh pháp a. Bài vận bàn 2
b. Bài hướ ng bàn c. Bài sơn và bài long bàn Huyền không Tam đại quái
Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh 24 cung vị Hướ ng bàn hợp Tam đại quái và Nguyên vận định Tài lộc suy vượ ng Sơn bàn hợp Bài long định Nhân đinh suy vượ ng Chủ khách luận đắc thất- Ngũ hành thống 9 tinh Chính thần Linh thần và Chiếu thần
Ngườ i học Huyền không phi tinh cho đế n nay, dù ở Trung Châu phái, Vô Thườ ng phái, Tương Sở phái, Chiết Giang Thượng ngu phái, Điề n Nam phái hay Tô Châu phái nói chung sở đắc được An tinh pháp, còn Bài long pháp và Thu sơn xuấ t sát pháp thì các phái bất đồng, đây tạm không nói đến. Đố i vớ i An tinh pháp thì h ầu như thống nhất, bao gồm cách lậ p bàn Hạ quái ai tinh và bàn Thế quái ai tinh, mặc dù bàn Thế quái ai tinh có s ự lựa chọn kiêm hướ ng ít nhiều khác nhau(phái 3 độ thì lậ p th ế quái, phái 4,5 độ thì lậ p th ế quái…) nhưng tựu trung đều th ống nhất cách lậ p bàn là sử dụng ca quyết sau(gọi là thế quái ca quyết): "TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nh ất lộ hành, NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn, CÀN, HỢI, THÌN, TỐ N, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh, DẬU, TÂN, SỬ U, CẤ N, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân, DẦ N, NGỌ, CANH, ĐINH thượ ng, Hữu Bật tứ tinh lâm, Bản sơn tinh tác chủ, phiên hướ ng tr ục hào hành,
Liêm Trinh quy ngũ vị, chư tinh thuậ n, nghịch luân, Hung, cát tùy thờ i chuyển, Tham-Phụ bất đồng luận, Tiện hữu tiên hiền quyết, không vị k ỵ lưu thần,
Phiên hướ ng phi lâm bính, thủy khẩu bất nghi đinh, Vận thế tinh bất cát, họa khở i chí diệt môn, 3
Vận vượ ng tinh cách hợ p, bách phúc hựu thiên trinh,
Suy, vượng đa bằ ng thủy, quyền hành giả tại tinh, Thủy kiêm tinh cộng đoán, diệu dụng cánh thông linh."
Ở đây tôi không nói chi tiết về cách bài bàn Hạ quái(chính hướ ng) và bàn Thế quái(kiêm hướ ng), các thứ đó đã có sẵn ở trên diễn đàn này. Tôi chỉ bàn về thực chất của Thế quái. Ca quyết thế quái bên trên th ực chất chính là “Triề u nghênh thủy lộ khở i Tham ai tinh nhất pháp” của Huyền không đại quái Liên Thành phái, khẩu quyết như sau: Tý khở i bản cung nghịch hành, Tốn Càn Càn Tốn thuận hành , Ngọ Mão Dậu tham Tốn nghịch luân , Khôn Cấn khí Ngọ hành thuận . Nhâm Canh Bính khở i Tuất thuận , Sửu Mùi Canh thượ ng nghịch luân , Thìn Tuất Tuất Thìn giai nghịch hành , Giáp khở i Mùi cung thuận ứng .
Ất Tân Đinh khở i Tị nghịch , Hợ i Tị Tị Hợ i thuận hành ,
Thân dương Quý âm khở i bản cung , Dần khở i Ất hề đại thuận . Chú thích giải khẩu quyết: Tý khở i tham lang ở tại bản cung nghịch hành: tại Tý an Tham, tại Càn an Cự, tại Dậu an Lộc, tại Khôn an Văn, Liêm nhậ p trung cung, t ại Ngọ an Vũ, tại Tốn an Phá, tại Mão an Phụ, tại Cấn an Bật.
Tương tự: Tốn tham lang khở i ở càn thuận hành: Càn Tham, Tý C ự, Cấn Lộc, Mão Văn, Liêm quy trung cung, Tốn Vũ… 4
Càn khở i tham lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ… Ngọ Mão Dậu kh ở i tham lang ở t ốn nghịch hành: Tốn Tham, Mão Cự, C ấn L ộc, Tý Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ, Dậ u Phá, Khôn Phụ, Ngọ Bật Khôn Cấn khở i tham lang ở ngọ thuận hành: Ngọ Tham, Khôn Cự, Dậu Lộc, Càn Văn, Liêm quy trung, Tý Vũ, Cấn Phá… Nhâm Canh Bính khở i tham lang ở tuất thuận hành: Tuất Tham, Nhâm Cự, Sửu Lộc, Giáp Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ, Bính Phá, Mùi Phụ , Canh Bật. Sửu Mùi khở i tham lang ở canh nghịch hành: Canh Tham, Mùi Cự, Bính Lộc, Thìn Văn, Liêm quy trung, Giáp Vũ, Sửu Phá… Thìn khở i tham lang ở tuất nghịch hành: Tuất Tham, Canh Cự, Mùi Lộc, Bính Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ… Tuất khở i tham lang ở thìn nghịch hành: Thìn Tham, Giáp Cự, Sửu Lộc, Nhâm Văn, Liêm quy trung, Tuất Vũ… Giáp khở i tham lang ở bản cung thuận hành: Giáp Tham…
Ất Tân Đinh khở i tham lang ở t ị ngh ịch hành: Tị Tham, Ất Cự, Dần Lộc, Quý Văn, Liêm quy trung, Hợi Vũ, Tân Phá, Thân Phụ, Đinh Bậ t. Hợ i khở i tham lang ở tị thuận hành: Tị Tham, Đinh Cự, Thân Lộc, Tân Văn, Liêm quy trung, Hợi Vũ… Tị khở i tham lang ở hợ i thuận hành: Hợ i Tham, Quý Cự, Dần Lộc, Ất Văn, Liêm quy trung, Tị Vũ… Thân khở i tham lang ở bản cung thuận hành: Thân Tham… Quý khở i tham lang ở bản cung nghịch hành: Quý Tham… Dần khở i tham lang ở ất thuận hành: Ất Tham, Tị Cự, Đinh Lộc, Thân Văn, Liêm quy trung, Tân Vũ, Hợ i Phá, Quý Phụ, Dần Bật Xế p lại toàn bộ sẽ thấy các sơn ai tinh lần lượt được như sau: Tý Quý Giáp Thân: Tham lang Nhâm Mão Ất Mùi Khôn: Cự môn 5
Càn Hợ i Thìn Tốn Tị Tuất: Vũ khúc Dậu Tân Sửu Cấn Bính: Phá quân Dần Ngọ Canh Đinh: Hữu bật Vừa trùng khớ p vớ i Thế quái ca quyết của Huyền không phi tinh bên trên. Hay nói đúng hơn thế quái ca quyết của Huyền không phi tinh là Ai tinh tri ều nghênh thủy lộ khở i Tham lang pháp t ại sơn đó. Sâu xa hơn đây là phép đị nh long thủy tương phùng của Tiên thiên pháp để xem nơi đất đó có thể lậ p thôn, tr ấn, nhà ở đượ c hay không, lấy lai long tại vùng đó khởi Tham lang pháp này để xem thủy của vùng đó có phả i là sinh vượ ng hay không, có hợ p vớ i long tại nơi đó thành Long Thủy tương phùng không. Phép bài là theo vòng tròn lần lượ t qua từng quái, Liêm trinh(sao 5) luôn nhậ p trung cung để chế ngự 8 phương Long Thủy. Phép Ai tinh này là dùng cho Không gian. Ví dụ đến một nơi hình thế sơn thủy đẹ p, thấy Lai long đến từ Càn, sơn khở i đỉnh ở Càn hình tròn cao to, thủy t ại Tốn ch ầu về, định Long thủy tương phùng của vùng đó, khở i tham lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ, Tý Phá, Cấn Phụ, Mão Bật. Như vậy Càn là Vũ ứng với sơn hình tròn cao to, thủy Tham lang chầu về, đây chính là đậi đị a có thể kiến lậ p thôn xóm... Nếu để ý k ỹ thì phép ai tinh này 8 cung luôn luôn là các c ặ p s ố đối diện nhau là các cặ p số của Hà đồ: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, không thể khác, nếu khác tức là bài sai tinh bàn. Vì sao lại v ậy? Do bản ch ất c ủa th ủy là phải dùng Tiên thiên để lu ận đoán, do đó trong Địa Lí Băng Hả i có một câu r ất có giá tr ị là: "Hậu thiên Lai long, Tiên thiên Hướng", nghĩa của câu này cao thâm nhưng hầ u h ết l ại b ị người đọc xem nhẹ, tôi không giải thích sâu điều này vì nó không thuộc chủ đề này. An tinh pháp của Phi tinh thì bản chất là theo hành độ của Lường thiên xích, đây là một điều cần phải ghi tâm, nếu không sẽ sai lầm. Phép Ai tinh theo Lườ ng thiên xích là dùng cho Thờ i gian. Thế quái ca quyết bên trên xuất pháp từ phép bài Tham lang quyết pháp theo vòng tròn(không gian), như vậ y không phù hợp để dùng vào An tinh pháp của Huyền không phi tinh.
PHI TINH DO ĐÓ CHỈ LẬP BẰ NG TINH BÀN HẠ QUÁI, khi kiêm ngoài 7 độ thì tạ p loạn không dùng đượ c, không lập đượ c tinh bàn mà thôi, không dùng th ế quái để lậ p tinh bàn vì thực chất không ứng nghiệm. (Do một số mục liên quan nhau nên Nam Phong bổ sung thêm một số vấn đề) Khở i Tam nguyên 9 tinh, dụng Nhị nguyên 8 vận:
6
Lạc thư bàn là số c ủa Thiên vận, tiên thiên số c ủa thiên vận đối đãi nhau là bí quyế t hình thành nguyên vận:
Dương giao âm, âm tái giao dương, 9 cung đối đãi, 9 tinh phân minh, mỗ i cung hợ p số là 20, 9 cung là 180, tự nhiên mà hình thành Tam nguyên 9 tinh 180 năm, đề u là từ 9 tinh số đối đãi mà ra. Trên đồ hinh hai vòng ngoài là dương giao âm, hai vòng trong là âm giao dương. Mỗi v ận l ấy số nguyên vận nhậ p trung thuận phi, đây là thước đo củ a thờ i gian, thờ i gian chỉ đi tớ i mà không lùi lại, đó là cái lẽ nguyên vận tinh luôn là thuận phi. 9 tinh ở tình huống này không phải là thứ tự Tham 1, Cự 2... mà chính là đạ o lý sinh thành, 1 sinh 1 thành(1 sinh 6 thành, 2 sinh 7 thành, 3 sinh 8 thành, 4 sinh 9 thành), 5 là cái giớ i hạn giữa sinh số và thành số. Tam nguyên cửu tinh 180 năm, mỗ i một cung hợ p số đều là 20 nên mỗi tiểu vận là 20 năm, vận 5 ký thác nơi vận 4 và 6, cái này áo ngữ đã ghi rõ trong câu quyết “Tố n Thìn Hợ i tận thị vũ khúc vị”, vừa là nói Ai tinh vừa là nói cái phép dùng của 5. 10 năm đầu của 5 tính theo vận 4, 10 năm sau của 5 tính theo vận 6. Cổ quyết Huyền không đã khẳng định đ iều này: "nhất nhị tam hề cửu bát thất ,
sơn tình thuỷ ý lưỡng tương hợ p . thất bát cửu hề nhất nhị tam ,
sơn tình thuỷ ý lưỡng tương quan . ngũ kiêm càn tốn lưỡ ng biên suy , khảm li kí vị bát thần quy . tốn vị thuộc thiên thuỷ thâu địa ,
càn cung liên đị a thâu thiên thuỷ ." Thời gian trướ c Nam Phong có từng giải thích quyết này nhưng chỉ giải thích ở mức hiểu từ, cao hơn nữa các câu này nói nguyên lý hình thành Tam nguyên cửu vận và Nhị nguyên bát vận.
Như vậy khở i Tam nguyên cửu tinh, dụng Nhị nguyên bát vận như sau: Vận 1: Khảm quản vận 20 năm 7
Vận 2: Khôn quản vận 20 năm Vận 3: Chấn quản vận 20 năm Vận 4: Tốn quản vận 30 năm Vận 6: Càn quản vận 30 năm Vận 7: Đoài quản vận 20 năm Vận 8: Cấn quản vận 20 năm Vận 9: Ly quản vận 20 năm Mỗi một cục thế lại tùy theo sơn hướng và đương vận mà sơn hướ ng tinh có thuận phi và nghịch phi, đây là thước đo của không gian, không gian thì có trướ c có sau, có trên có dướ i, có trái có ph ải, cũng gọi là lục hư, đây là cái lẽ mà sơn hướ ng tinh có thuận phi và nghịch phi.
Đại Thư hùng Thế nhân hay nói Thìn Tu ất là nơi giao giới âm dương, lạ i có thuyết nói Tý Ngọ là nơi phân âm dương. Thự c ra lời nói nào cũng đúng, chỉ là dùng trong ngữ cảnh nào mà thôi.
Thái dương tuần hoàn nghịch hành, khở i t ừ cung Tuất mà đi nghịch đế n D ậu, Thân, Mùi… đến Hợ i là xong một vòng tuần hoàn một năm, gọi là Thái dương quá cung, mỗi tháng 1 cung, hành độ 1 năm 12 cung là trọ n vẹn. Niên độ thì lại tuần hoàn thuận hành theo 4 mùa Xuân H ạ Thu Đông, khở i từ cung Dần, đến Mão, Thìn, Tị… đến Sửu là xong một năm, gọi là niên cung hành độ , mỗi tháng hành 1 cung, hành độ 1 năm 12 cung là trọ n vẹn. Khở i t ừ Tuất nghịch hành và khở i từ Dần thuận hành thì sẽ giao nhau lần 1 tại Ngọ và lần 2 tại Tý. 2 vòng này th ực ra chính là Tiên thiên Hỏa Thủy hành độ trong năm. Tiên thiên hỏa hành độ từ Dần mà đi, hỏa tính nóng bốc lên nên đi theo chiề u thuận, Dần do đó là nơi khở i của hỏa tiên thiên nhậ p dụng thành hỏa hậu thiên, do đó mà Trườ ng sinh hỏa khở i tại Dần, đến Ngọ giao cùng vòng tiên thiên thủy lần 1 nên là nơi cực vượ ng của Hỏa, do đó mà Đế vượ ng của Hỏa tại Ngọ, đến Tuất là nơi khở i phát của vòng tiên thiên thủy nên hỏa đã kiệt, do đó mà Tuất là nơi Mộ của Hỏa. Tiên thiên Thủy theo hành độ của Tuất, tuy khở i từ Tuất nhưng thực tính từ Thân. Vì sao? Nhất dương sinh t ại Tý, quẻ là Địa lôi phục, nhị dương sinh tại Sửu, quẻ là Địa 8
tr ạch lâm, Tam dương sinh tạ i Dần, quẻ là Địa thiên thái, nơi tam dương thành mớ i thực là nơi khở i c ủa h ỏa tiên thiên bên trên. Cũng vậy nơi tam âm thành mớ i th ực là nơi khở i c ủa th ủy tiên thiên. Nhất âm sinh tại Ng ọ, qu ẻ là Thiên phong cấu, Nhị âm sinh tại Mùi, quẻ là thiên sơn độn, tam âm sinh tại Thân, quẻ là Thiên địa bĩ. Thủy tính lạnh tr ầm nên đi theo chiều nghịch, Thân do đó là nơi khở i của thủy tiên thiên nhậ p dụng thành thủy hậu thiên, do đó mà Trườ ng sinh thủy khở i tại Thân, đến Tý giao cùng vòng tiên thiên hỏa lần 2 nên là nơi cực vượ ng của Thủy, do đó mà Đế vượ ng của thủy tại Tý, đến Thìn là nơi khởi đối xung của vòng tiên thiên thủy nên thủy đã kiệt, do đó mà Thìn là nơi Mộ của Thủy.
Xem sơn xuyên vạn v ật, địa khí hình thành nên núi non hùng vĩ, thả o mộc bách cốc vươn thẳng lên tr ời nghênh đón thiên khí. Thiên khí hạ giáng ứng cùng địa khí hình thành nên sông hồ uốn khúc, núi đến đâu nước theo đến đó. Cái thâm thúy củ a thiên địa giao thái chính là vậy. Trên là Đại thư hùng chi phối vạn vật, hình thành Xuân Hạ Thu Đông, âm dương đắ p đổi tuần hoàn không dứt, một năm khí vận là ở đây, ngàn năm khí vận cũng là đây. Sự thực về Sơn tinh trong Tinh bàn Trên tinh bàn Huyền không phi tinh bao gồm: vận bàn-hướ ng bàn-sơn bàn, trong đó vận tinh bàn là cơ sở để lập hướng bàn và sơn bàn. Các phái phi tinh đề u thống nhất quan điểm hướng bàn và hướ ng tinh quản tài lộc suy vượng. Riêng sơn bàn và sơn tinh thì 5 phái cho r ằng quản nhân đinh suy vượ ng, riêng Trung Châu thì lại cho r ằng sơn bàn và sơn tinh có liên quan đến nhân đinh nhưng không thự c là yếu t ố qu ản sự suy vượ ng của nhân đinh, sơn bàn và hướ ng bàn là yếu tố cần thiết khi luận nhân đinh suy vượ ng chứ không phải yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định quản nhân đinh chính là Bài long bí quyết. Có sự khác biệt này giữa Trung Châu và 5 phái còn l ại do xuất phát từ lý luận của phái này cho r ằng Bài long quyết thuộc tiên thiên, lập hướ ng thuộc hậu thiên. Tiên thiên là dương, hậ u thiên là âm. Huyền không phong thuỷ r ất tr ọng âm dương tương ứ ng. Thanh nang kinh viết “âm dương tương ứ ng, phúc lộc vĩnh trinh; âm dương tương thừ a, hoạ cữu chủng môn” . Đây là nguyên văn củ a Trung Châu phái, như vậ y phái này cho r ằng y ếu t ố quyết định suy vượ ng c ủa nhân đinh(và cả tài lộc) chính là tiên thiên, t ừ tiên thiên bài long pháp mà quy ết định hướ ng cát là hậu thiên. Thực ra đây là đoạ n lý luận không rõ ràng(cũng có thể Nam Phong chưa hiểu thấu đáo thâm ý bên trong). Nếu căn cứ vào 2 phép dùng của Ai tinh bên trên thì sẽ th ấy mọi th ứ đượ c lý giải hết sức dễ dàng: Huyền không phi tinh sau khi l ậ p vận bàn, căn cứ vào vận bàn này mà lập hướng bàn và sơn bàn. Hướ ng bàn chủ tài lộc, lấy thủy 9
làm căn cứ để lu ận, thủy vốn thuộc tiên thiên, hướng động cũng thuộ c tiên thiên nên dùng phương vị Lường thiên xích để lập bàn vì Lườ ng thiên xích phản ánh thiên vận và chủ về thờ i gian biến đổi. Sơn bàn liên quan nhân đinh, lấy sơn làm căn cứ để luận, sơn vốn thuộc hậu thiên, tọa tĩnh cũng thuộc hậu thiên nên dùng phương vị 8 quái Hậu thiên bài theo vòng tròn để lậ p bàn vì 8 quái Hậu thiên phản ánh địa vận và chủ v ề không gian. Điều này đã được Địa Lí Băng Hả i vi ết “Hậu thiên lai long Tiên thiên hướng”, Nguyên Không Pháp Giám viết “Nộ i tầng Tiên thiên chủ thủy, ngoại tầng Hậu thiên chủ khí, long sơn” “Thiên vận ở trên chủ động dùng để tiêu thủy, địa tr ấn ở dướ i chủ tĩnh dùng để cách long lậ p huyệt”, Tam Tinh Long Quyết vi ết “Tiên thiên luận thủy, hướ ng. Hậu thiên định long, huyệt” Như vậy thì rõ ràng sơn bàn trong tinh bàn Huyề n không phi tinh hiện nay cũng áp dụng phương vị Lường thiên xích để bài như hướ ng bàn thực sự không phải yếu tố quyết định quản nhân đinh suy vượng. Điều này ai đã từ ng thực nghiệm nhiều và đối chiếu ắt có biết, có băn khoăn nhưng vì sách vở viết như vậy nên chẳng dám nghi ngờ . Thực ch ất ngườ i khá thành thạo Huyền không phi tinh và hay sử d ụng nhiều s ẽ xem tr ọng hướng tinh hơn sơn tinh, và trong đoán nghiệm cũng hay dùng hướ ng tinh chứ ít dùng sơn tinh, và thự c tế hướ ng tinh ứng nghiệm chuẩn xác, sơn tinh thì khá mơ hồ, những ngườ i hiểu điều này thực đã có căn duyên vớ i Phong thủy, sơn tinh quả thực ít ứng nghiệm do nó chỉ là phần phụ chứ không phải quyết định quản nhân đinh suy vượ ng. Như vậy thì sơn bàn và cụ thể là sơn tinh tại sơn làm gì? Nam Nữ gặ p nhau mà thành chồng vợ , từ đó sinh con cái, nuôi dưỡ ng tốt thì con cái nên người, nuôi dưỡ ng không tốt thì con cái hư hỏng, SƠN BÀN VÀ SƠN TINH TẠI SƠN LÀ CÁI QUYẾ T ĐỊNH CON CÁI ĐƯỢC NUÔI DƯỠ NG TỐT(SƠN TINH SINH VƯỢ NG) HAY KHÔNG TỐT(SƠN TINH SUY TỬ ), VIỆC CHỒ NG VỢ CÓ CON CÁI HAY KHÔNG LẠI ĐƯỢC QUYẾT ĐỊ NH Ở BÀI LONG, NHƯ VẬY CHO DÙ SƠN TINH SINH VƯỢ NG MÀ BÀI LONG HUNG(TỨ C KHÔNG CON CÁI) THÌ CÓ Ý NGHĨA GÌ? “Thư dự Hùng giao hội hợ p Nguyên không Hùng dự Thư Nguyên không quái nội thôi”
Như vậy Sơn bàn và sơn tinh sinh vượ ng thực ra là cái túi, là cái “tàng phong tụ khí” để nhân đinh sinh vượng, sơn bàn và sơn tinh suy tử là “tán khí” làm nhân đinh suy. Cái yếu tố quyết định sinh tử của nhân đinh chính là Phép ai tinh trên vòng Hậ u thiên quái, vòng chu thiên Xuân Hạ Thu Đông tuần hoàn mãi mãi. Sơn bàn và Ai tinh theo vòng chu thiên là hai yếu tố không thể tách r ờ i nhau, chúng liên quan mật thiết vớ i 10
nhau, hỗ tr ợ và bổ sung cho nhau. Hợp hai điều này để luận mới đẩy đủ cho việc định suy vượng nhân đinh. (Phần sau Nam Phong sẽ nói rõ hơn về s ự k ết h ợ p hai yếu t ố này trong tinh bàn Phi tinh 24 sơn) Nhị thậ p tứ sơn Áo ngữ An tinh pháp.
Như vậy đến đây cho thấy Huyền không phi tinh th ực chất chỉ có một phương thức lậ p tinh bàn mà thôi(bàn Hạ quái, không dùng Thế quái). Ngườ i học Huyền không phi tinh đã hiể u s ự ứng nghiệm của môn này nhưng khi tìm hiểu sâu thì đế n một lúc nào đó sẽ cảm th ấy trong lý luận của phái này còn có một số vấn đề khiến họ phân vân. Một trong những vấn đề lớ n nhất đó là: trong một quái 3 sơn thì lúc nào cũng có 2 sơn đồng âm dương vớ i nhau có cùng một tinh bàn như nhau, như tọa Tý hướ ng Ngọ, tọa Quý hướng Đinh, tọ a Cấn hướ ng Khôn, tọa Khôn hướ ng Cấn... Theo tinh bàn(không bàn về loan đầu) thì các sơn hướng này cát hung như nhau, tuy nhiên thự c tế có phải như vậy không? Hoàn toàn không như nhau. Điều này làm ngườ i học lo lắng và đặt nghi vấn: liệu Huyền không phi tinh có ph ải là chân pháp của phong thủy? Nghi vấn này hoàn toàn có cơ sở và chính đáng. Tôi từ khi rõ phép Ai tinh của Áo ngữ đã cẩn thận đọc nhiều lần sách này và Bảo chiếu, qua đó đã hiểu rõ phép Ai tinh c ủa Áo ngữ là sự chỉ dẫn cách Ai tinh, tuân thủ luật của Ai tinh này có thể dùng không phải chỉ một phép Ai tinh. Căn bản có 2 cách mà cổ thư gọi là: Cửu tinh cửu cung ai tinh và Bát cung chưở ng quyết ai tinh. Từ đây xem xét đã hiểu rõ Tinh bàn huyền không phi tinh cho các sơn đồng âm dương như đã nói ở trên thì cát hung th ực sự khác nhau, không phải như nhau. Tưởng Công đã hiểu rõ điều này nhưng không bao giờ nói rõ, dấu nó ở trong phần chú thích sách Áo ngữ và Bảo chiếu trong quyển Địa lí biện chính của mình, Khương Diêu một đờ i theo thầy(Tưởng Đại Hồng) nhưng cũng không đắc đượ c chân quyết. Chương Công(Chương Trọng Sơn) trong âm dương nhị tr ạch đoán nghiệm cũng không hề đề cập đến điều này dù ông biết rõ nó. Triệu Công(Triệu Liên Thành) cũng rõ điề u này nhưng điên đảo th ế nhân bằng thông căn quyế t 8 quái(Nhâm thông Thìn, Quý thông Tị…)... ngẫm lại các tôn sư đó thật không phải cố tình dấu giếm, chẳng qua lo ngườ i đờ i hám lợ i hám danh mà làm x ằng bậy nên ẩn dấu bí quyết trong câu ch ữ của các kinh văn phong thủy, ngườ i thật tâm cầu và thận tr ọng cuối cùng sẽ ngộ đượ c những cái bí ẩn đó và khi đó sẽ không sợ sai nhầm vì muốn hiểu đượ c bắt buộc phải tôi luyện kiến thức về Tiên Hậu thiên tâm pháp ở một mức cao. Ngoài ra những ai đã nắm khá rõ về Tam đại quái nếu biết cách k ết hợ p vớ i tinh bàn huyền không phi tinh
11
bài theo cách này sẽ thấy uy lực thật sự của nó, đó chính là Đại-Tiểu huyền không hợ p nhất. Áo ngữ Huyền không Phi tinh pháp(tiểu huyền không) Từ sách Áo ngữ và chú thích của Tưởng Công mà tôi rõ đượ c phép Ai tinh này nên chính thức dùng tên gọi Ão ngữ Huyền không phi tinh. Phép bài tinh bàn này tinh vi hơn phép của Thẩm Thị r ất nhiều(Thẩm Thị công bố đầu tiên nên gọi như vậy cho xứng công của họ Thẩm), từ đây thay đổi gần như toàn bộ nền tảng của Phi tinh. 1. Bài vận bàn Vận tinh nhậ p trung thuận phi 9 cung làm l ệ, như vận 8 thì 8 nhậ p trung phi động 9 cung như sau 7---3---5 6---8---1 2---4---9 Theo vận bàn làm lệ bên trên, bài vận bàn trên 24 sơn, tinh ở quái nào sẽ trú đóng tại cả 3 sơn đó, như vận bàn bên trên thì 7 đóng tạ i quái Tốn nên cả 3 sơn Thìn Tốn T ị đều là 7, như sau:
Bài hướ ng bàn: Lấy sao vận tại hướ ng nhập trung, căn cứ vào âm dương của sơn sao vận đó tại đị a bàn mà thuận phi hay nghịch phi qua 24 sơn, mỗi vòng 8 sơn(và cả trung cung nửa là 9) k ết thúc thì lấy số k ết thúc làm số khởi đầu vòng tiế p theo.
Dương Thuận phi thì theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân, Thiên-Nhân-Địa, Nhân-ĐịaThiên; Âm Nghịch phi thì theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, Thiên-Địa- Nhân, Địa-Nhân-Thiên. Lấy nhà vận 8 tọa Tân hướ ng Ất 104 độ làm ví dụ: Tại hướ ng sao vận là 6, vận tinh 6 ứng với sơn Nhân tại đị a bàn là Hợi, là dương nên thuận phi theo thứ tự Nhân-Địa-Thiên, lấy sao 6 nhậ p trung thuận phi, 7 đến Hợ i, 8 đến Tân, 9 đến Dần, 1 đến Đinh, 2 đến Quý, 3 đến Thân, 4 đến Ất, 5 đến Tỵ, là hết vòng ai Nhân quái. Sao 5 hồi trung cung bắt đầu vòng Địa: 6 đế n Tuất, 7 đến Canh, 8 đến Sửu, 9 đến Bính, 1 đến Nhâm, 2 đến Mùi, 3 đến Giáp, 4 đế n Thìn, là hết vòng ai Đị a quái.
12
Sao 4 hồi trung cung bắt đầu vòng Thiên: 5 đến Càn, 6 đế n Dậu, 7 đến Cấn, 8 đến Ngọ, 9 đến Tý, 1 đến Khôn, 2 đến Mão, 3 đế n Tốn. Vòng trong là vận bàn vận 8, vòng ngoài là hướng bàn hướ ng Ất
Như vậy sao đầu hướ ng l ần lượ t theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân là 3-2-4, vận 8 nhà tọa Tân hướ ng Ất mở c ửa chính tại Ất thì suy, t ại Mão thì tài lộc r ất x ấu, riêng tại Giáp khã dĩ dùng đượ c do 3 hợ p cùng vận 8 là hợ p s ố c ủa Hà đồ, n ếu không mở t ại Giáp đượ c mà phải dùng Ất(do nhà dài nên cung Ất chiếm tr ọn đầu hướ ng) thì phải dùng cách bổ cứu, tuy nhiên không thể luận riêng Hướ ng bàn mà phải k ết hợp toàn bàn để luận, do đó phần này Nam Phong chỉ dẫn lậ p bàn mà thôi, phần sau sẽ luận sâu về cách cục khi đã lậ p hoàn chỉnh Tinh bàn. Bài sơn và bài long bàn: Bài sơn bàn Lấy sao vận t ại tọa nhập trung, căn cứ vào âm dương của sơn sao vận đó tại đị a bàn mà thuận phi hay nghịch phi qua 24 sơn, mỗi vòng 8 sơn(và cả trung cung nửa là 9) k ết thúc thì lấy số k ết thúc làm số khởi đầu vòng tiế p theo.
Dương Thuận phi thì theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân, Thiên-Nhân-Địa, Nhân-ĐịaThiên; Âm Nghịch phi thì theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, Thiên-Địa- Nhân, Địa-Nhân-Thiên. Vẫn dùng nhà tọa Tân hướ ng Ất 104 độ bên trên, ví dụ có ngã ba đườ ng tại Tý, như vậy xem như thủ y khẩu tại Tý. Lai khí đến từ Tý. Tại sơn sao vận là 1, vận tinh 1 ứng với sơn Nhân tại địa bàn là Quý, là âm nên nghịch phi theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, lấy sao 1 nhậ p trung thu ận phi, 9 đến Hợ i, 8 đến Tân, 7 đến Dần, 6 đến Đinh, 5 đến Quý, 4 đến Thân, 3 đến Ất, 2 đến Tỵ, là hết vòng ai Nhân quái. Sao 2 hồi trung cung bắt đầu vòng Thiên: 1 đến Càn, 9 đế n Dậu, 8 đến Cấn, 7 đến Ngọ, 6 đến Tý, 5 đến Khôn, 4 đến Mão, 3 đế n Tốn. Sao 3 hồi trung cung bắt đầu vòng Địa: 2 đế n Tuất, 1 đến Canh, 9 đến Sửu, 8 đến Bính, 7 đến Nhâm, 6 đến Mùi, 5 đến Giáp, 4 đế n Thìn, là hết vòng ai Đị a quái. Bài long bàn
13
- 24 sơn chia làm 12 cung vị, 2 sơn mộ t cung vị: Tý Quý, Sửu C ấn, D ần Giáp, Mão Ất, Thìn Tốn, Tị Bính, Ngọ Đinh, Mùi Khôn, Thân Canh, Dậu Tân, Tuất Càn, Hợ i Nhâm. - 12 địa chi là âm: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợ i, thuận bài 12 cung vị. - 8 can và 4 duy quái là dương: Giáp Canh Nhâm Bính Ất Tân Đinh Quý Càn Khôn Cấn Tốn, nghịch bài 12 cung vị. - Phép bài lần lượ t sắ p theo thứ tự: Thuận bài: Phá quân, Hữu bật, Liêm trinh,
Phá quân, Vũ khúc, Tham l ang, Phá quân, Tả phụ, Văn khúc, Phá quân, Cự môn, Lộc tồn Nghịch bài: Phá quân, Lộc tồn, Cự môn,
Phá quân, Văn khúc, Tả phụ Phá quân, Tham lang, Vũ khúc Phá quân, Liêm trinh, Hữu bật. - Cát long: Hữu bật, Tham lang, Vũ khúc, Cự môn, Tả phụ. Còn lại là hung long, tuy nhiên đây chỉ là đại ướ c, trong từng trườ ng hợ p cụ thể cát hung long sẽ cụ thể hơn.
(Đây cũng chính là Bài long pháp củ a Trung Châu, tuy nhiên v ề bản chất có khác chút ít, cái này thu ộc Tiên Thiên tâm pháp nên Nam Phong không gi ải thích sâu ở mục này) Theo ví dụ trên, lai khí đế n từ Tý, âm nên thuận bài: Tý Quý: Phá quân, Sửu Cấn: Hữu bật, Dần Giáp: Liêm trinh... Vòng trong là Vận bàn, vòng k ế đó là hướ ng Ất bàn, vòng k ế là sơn Tân bàn, vòng ngoài cùng là bài long bàn.
Như vậy tọa sơn theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân là 1-9-8. 14
Bài long Phá quân long đến đầu hướng, Phá quân long đế n tọa sơn. Tại vận 8 Phá quân long là hung long lại tr ấn ngay đầu hướ ng và tọa sơn nên xấu. Tại tọa sơn các sơn tinh đều là sinh vượ ng 1-9-8, tại phương Tân và Dậ u(sao 8 và 9) nên phong bế để tàng giữ sinh vượ ng khí, tại phương Canh(sao 1) lại cần nên tr ống thoáng hoặc mở cửa để Xuất sát, bở i vì sao 1 tuy là tiến khí nhưng lại khắc sát vận 8 và l ại khiến Phá quân long đầu hướ ng b ị sinh xuất(Kim sinh Thủy), Phương Dậu và Tân phong bế để tàng khí chính là "THU SƠN", phương Canh trố ng thoáng và mở cửa để hóa sát chính là "XUẤT SÁT". Thu sơn xuất sát tại sơn(đầu hướ ng thì cách dùng khác) của Áo Ngữ Huyền Không Phi tinh chính là cái này. Tuy nhiên Phá quân long l ại ở đầu hướ ng nên cho dù thực hiện phong bế Dậu Tân, khai mở Canh thì cũng chỉ bình an, không thể sinh vượ ng do Phá quân long t ại vận 8 là hung long. Trong 12 cung vị cát long chỉ có 5 mà hung long lại đến 7, như vậy thì sao? Thực ra trong bài long pháp khởi 4 Phá quân đi đầ u là có lý do của nó, nếu bài long thực sự gặ p Phá quân ngay tại đầu hướ ng mà ở vận 7(đương vận Phá quân) hoặc vận 2(7-2 sinh thành nguyên vận số, không phải Hà đồ số, cái này Nam Phong sẽ nói rõ trong phần Linh thần, chính thần và chiếu th ần) thì lại tr ở thành cát long, các vận khác nếu muốn dùng Phá quân long "chuyển họa vi tường đại cát xương" thì phải dụng cả 4 Phá quân cùng lúc. Như trườ ng hợ p này phong bế Ngọ Đinh, Tý Quý, Mão Ất, Dậu Tân. 4 phương Phá quân không đương vận đượ c phong bế tức "hóa sát vi quyền", chuyển họa thành phúc. Nếu không đủ điều kiện làm được như trên, chỉ phong bế đượ c 2 hoặc 3 phương thì bạ i r ất nhanh không gì cứu vãn được, đây là mộ t trong những bí mật của Áo Ngữ Phi tinh, các bạn phải lưu tâm cho kỹ .
Như vậy cơ bản mà nói thì khai chính môn tại Giáp, Phong bế Dậu Tân, Ngọ Đinh, Tý Quý, Mão Ất, mở cửa sau tại Canh thì tài lộc được khá, nhân đinh bình an. (Phần sau sẽ luận sâu hơn về cục thế này bằng Tam đại quái-Tam nguyên vận) Huyền không Tam đại quái:
Tam đại quái là linh h ồn của Huyền không nhưng ngườ i hiểu đượ c nó thì lại r ất ít và hầu như đều giấu đi không nói rõ. Từ Dương, Tằng, Tưởng Công chưa ai thự c sự công khai Tam đại quái, nói về nó sách Biện chính của Đái Công có các đồ hình bát quái phân tam quái, bát quái phân nh ị quái, bát quái thống nhất quái, tuy nhiên l ờ i giải nghĩa hết sức mơ hồ, đồ hình thì mù mịt; Mộng Giác Sơn Nhân trong quyể n Hoàng Kim Đỉnh cũng chỉ nói thoáng qua; Địa Lý Băng Hải cũng có đề cập nhưng không giải thích nên người đọ c qua gần như không để tâm tìm hiểu; Nguyên Không
15
Pháp Giám thì Tằng Hoài Ngọc có nêu tại Tiên thiên nguyên vận đồ nhưng cũng không nói rõ. Xem qua các sách thì chỉ có Thiên Ngọc kinh viết “Nhị thậ p t ứ long quản Tam quái, mạc dữ thời sư thoại”(24 long quản Tam quái, điề u này có mấy thầy phong thủy hiểu được). Tưởng Công(Tưởng Đại Hồng) chú trong sách Đị a lý biện chính của mình mở đầu viết về Thiên Ngọc Kinh như sau: “Thiên Ngọ c nội truyện, tức là Thanh Nang Áo Ngữ Ai tinh Ngũ hành…”. Như vậy rõ ràng Thiên Ngọc gi ải thích nhiều th ứ cho Thanh Nang Áo Ngữ.
Tam đại quái sơ giải: Tam đại quái là Giang đông nhấ t quái 1-4-7; Giang tây nhất quái 3-6-9; Nam Bắc nhất quái 2-5-8. Tại H ậu thiên phương vị thì nhất quái 1-4-7: Khảm Tốn Đoài; nhấ t quái 3-6-9: Chấn Càn Ly; nhất quái 2-5-8: Khôn Trung Cấn. Tại phương vị 24 sơn thì 8 thần Thiên nguyên Tý Ngọ Mão Dậu Càn Khôn Cấn Tốn là nhất quái 1-4-7; 8 th ần Nhân nguyên Quý Ất Đinh Tân Dần Thân Tị Hợ i là nhất quái 3-6-9; 8 thần Địa nguyên Giáp Canh Nhâm Bính Thìn Tuất Sửu Mùi là nhất quái 2-5-8. Tại nguyên vận thì 1-4-7 là thượ ng nguyên; 2-5-8 là trung nguyên; 3-6-9 là h ạ nguyên. Tại quái vị thì 1-4-7 quản Nhâm Tý Quý Thìn T ốn Tị Canh Dậu Tân; 2-5-8 quản Mùi Khôn Thân Trung cung Sửu Cấn Dần; 3-6-9 quản Giáp Mão Ất Tuất Càn Hợ i Bính Ngọ Đinh.
Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh 24 cung vị: Ngũ hành vố n là chủ tể chi phối tất cả, v ạn vật sinh thành hoại diệt không ngoài sự biến đổi của Ngũ hành. Các Thánh nhân xưa từ “ngẩng xem thiên văn, cúi xét địa lý” đã rõ cái huyền diệu của Ngũ hành, thế nhưng để người đờ i có thể hiểu, có thể học nên đã lấy Bắc đẩu Cửu tinh bao gồm 9 sao: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân, Tả phụ, Hữu bật làm cái dùng để rõ phép biến hóa của Ngũ hành, kinh văn viết “Ngũ tinh phố i xuất Cửu tinh danh” là lẽ đó. Mặc dù đã rõ Cửu tinh nhưng cái lý biế n hóa của nó chỉ có thể hiểu thông qua Tam đại quái. Thanh Nang Áo Ngữ mở đầu viết: “Khôn Nhâm Ất Cự môn tòng đầu xuất 16
Cấn Bính Tân vị vị thị Phá quân Tốn Thìn Hợ i tận thị Vũ khúc vị Giáp Quý Thân Tham lang nhất lộ hành”
Đây là phép Ai tinh chân chính của Dương Công, về sau có thêm 4 câu n ữa như sau: “Tý Mùi Mão tam sơn Lộc tồn đáo Càn Tuất Tỵ Văn khúc quái nội khở i Dần Canh Đinh Phụ tinh tùng thử luân Ngọ Dậu Sửu Bật tinh quái nội tẩu” 4 câu sau này không biết ai công khai nhưng chắc chắn là Tôn sư Phong thủy mớ i có thể hiểu 8 câu này và mong muốn truyền l ại h ậu thế, lấy đó lưu tâm ngườ i học về s ự quan tr ọng của Tam đại quái. Tiếc r ằng nhiều người đã hiể u sai và dùng sai, nhiều chi phái l ấy đây làm vòng Ai tinh của 24 sơn, thật hết sức sai lầm. 4 câu đầu là chỉ d ẫn Ai tinh. 8 câu thì l ại là sự chỉ dẫn Tam đại quái và sự suy vượ ng của 9 tinh theo nguyên vận: xét Khảm quái 3 sơn:
Nhâm sơn là Cự môn Tý sơn là Lộc tồn Quý sơn là Tham lang xét Tốn quái 3 sơn:
Thìn sơn là Vũ khúc Tốn sơn là Vũ khúc(thự c chất chính là Liêm trinh) Tị sơn là Văn khúc
Xét Đoài quái 3 sơn: Canh sơn là Tả phụ Dậu sơn là Hữu bật
Tân sơn là Phá quân 17
Nhất quái 1-4-7 Khảm-Tốn-Đoài có 9 tinh bài liệt đầy đủ và không trùng l ắ p: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật xét Chấn quái 3 sơn:
Giáp sơn là Tham lang Mão sơn là Lộc tồn Ất sơn là Cự môn xét Càn quái 3 sơn: Tuất sơn là Văn khúc
Càn sơn là Văn khúc(thự c chất là Liêm trinh) Hợi sơn là Vũ khúc
xét Ly quái 3 sơn: Bính sơn là Phá quân Ngọ sơn là Hữu bật
Đinh sơn là Tả phụ Nhất quái 3-6-9 Chấn-Càn-Ly có 9 tinh bài li ệt đầy đủ và không trùng l ắ p: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
xét Khôn quái 3 sơn: Mùi sơn là Lộc tồn Khôn sơn là Cự môn Thân sơn là Tham lang xét Cấn quái 3 sơn: Sửu sơn là Hữu bật Cấn sơn là Phá quân Dần sơn là Tả phụ
Trung cung Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc cùng tại đó(điề u này nếu liên hệ 3 nguyên 9 vận biến thành 2 nguyên 8 vận sẽ hiểu) 18
Nhất quái 2-5-8 Khôn-Trung-Cấn có 9 tinh bài li ệt đầy đủ và không trùng lắ p: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
Như vậy nhất quái 1-4-7 thống 9 tinh, nhất quái 3-6-9 thống 9 tinh và nhất quái 2-5-8 cũng thống 9 tinh. Xét về nguyên vận thì tại vận 1 do Khảm quản, tinh là Tham Cự Lộc; vận 2 do Khôn quản tinh là Tham Cự Lộc; vận 3 do Chấn quản tinh cũng là Tham Cự Lộc. Trong thượ ng nguyên vận này Tham Cự Lộc chính là Tam cát tinh c ủa nguyên vận. Tại vận 4 do Tốn quản, tinh là Văn Liêm Vũ; tạ i vận 6 do Càn quản, tinh cũng là Văn Liêm Vũ. Trong trung nguyên vận này Văn Liêm Vũ chính là Tam c át tinh của nguyên vận. Tại vận 7 do Đoài quản, tinh là Phá Phụ Bật; vận 8 do Cấn quản tinh là Phá Phụ Bật; vận 9 do Ly quản tinh cũng là Phá Phụ Bật. Trong hạ nguyên vận thì Phá Phụ Bật chính là Tam cát tinh của nguyên vận.
Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh trên 24 cung vị, định suy vượ ng 3 nguyên 9 vận, 2 nguyên 8 vận. Lấy đó mà suy lường sơn thủy vượ ng hợ p hay suy bại, lấy đó mà đị nh cục phát lúc nào và không phát lúc nào, l ấy đó mà xem sơn thủy tương giao hay khắc sát… hầ u hết dùng cho Âm tr ạch. Một ví dụ về sự k ỳ lạ của Tam đại quái-Bí quyết nhận long thủy lập hướ ng của Huyền không:
Kinh văn hay viế t r ằng: “cục cục không ngoài 2-5-8, long hướ ng thủy không ngoài 25-8 là tương hợp, ngoài thì không tương hợp” là sao? Như lai long ở Khảm, lai thủy ở Tốn, lậ p huyệt thế nào? Lấy khảm 1 nhậ p trung nghịch phi: 2---6---4 3---1---8 7---5---9
Như vậy long Khảm là 5, thủy Tốn là 2, hướ ng thì phải 8 tức Đoài, lậ p huyệt tọa Mão hướng Đoài, Khảm Tốn Đoài, Long Thủy Hướ ng không phải 1-4-7 nhất quái sao? Không phải tất cả đều là 2-5-8 hay sao? Thêm ví dụ lai long ở Càn, thủy t ại Chấn, lậ p huyệt thế nào? Lấy Càn 6 nhậ p trung nghịch phi: 7---2---9 19
8---6---4 3---1---5
Như vậy long Càn là 5, thủy Chấn là 8, hướ ng thì phải 2 tức là Ly, lậ p huyệt tọa Khảm hướ ng Ly, Chấn Càn Ly, Thủy Long Hướ ng không phải 3-6-9 nhất quái sao? Không phải tất cả đều là 2-5-8 hay sao? 48 cục thế Long Hướ ng Thủy đúng phép đều không ngoài Tam đại quái(24 sơn, thuận 1 cục, nghịch 1 cục thành 48 chính cục), đều không ngoài 2-5-8 đả o bài pháp. Đây mớ i là chân chính dụng pháp Tam đại quái của Dương Công, các cục thế đều tọa 5 cả, không ngoài con số 5 này, từ đây mớ i là Long Thủy tương phùng. Nhầm lẫn con số 5 này là Ngũ hoàng hung tinh nên phái nói gặ p 5 thì tốt, phái cho gặ p 5 thì xấu, cãi loạn cả lên. Các bạn có thể khảo sát các mộ huyệt xưa, các đình chùa lớ n sẽ thấy phần nhiều hợ p với Tam đại quái Long-Hướ ng-Thủy như trên, đương nhiên trong âm trạ ch ngoài phép này ra còn Khảm Ly giao cấu và Tiên Hậu thiên lập hướ ng pháp(Hậu thiên lai long Tiên thiên hướng) là hai phép định long nhận thủy lập hướ ng r ất quan tr ọng nửa, tuy nhiên xét về mức độ thì Tam đại quái bao trùm hơn. Nam Phong trích lờ i chú giải của Tưởng Đại Hồng một đoạn của Thiên Ngọc Kinh để nói về Tam đại quái Long Thủy Hướ ng bên trên:
Càn sơn Càn hướ ng thuỷ triều Càn Càn phong xuất tr ạng nguyên
Mão sơn mão hướ ng mão nguyên thuỷ Sậu phú thạch sùng bỉ Ngọ sơn ngọ hướ ng ngọ lai đườ ng
Đại tướ ng tr ị biên cương Khôn sơn khôn hướ ng khôn thuỷ lưu Phú quý vĩnh vô hưu Đó là Huyền không đại quái pháp hướ ng thủy kiêm thu, cử 4 sơn làm lệ, k ỳ dư đều thuần thanh trong quẻ nội, sơn ở trong quẻ Càn là hướ ng quẻ nội cung Càn, mà thu nướ c quẻ nội cung Càn, tức long hướ ng thủy 3 điều đều quy sinh vượ ng vậy.
20
Đây không phải thuyết hồi long cố tổ, hoặc nói tr ạng nguyên hoặc nói đại tướ ng, hoặc nói chợt giàu, đều cử làm ý là vậy không nên câu chấ p .
Trên là một trong những bí mật sâu kín của Huyền không. Tam đại quái biến hóa thiên hình vạn tr ạng, không thể diễn tả hết trong đôi ba bài viết, và cũng để không r ối các bạn đọc, Nam Phong chốt lại các vấn đề cơ bản cần nhớ về Tam đại quái trướ c khi đi tiế p các phần sau: Nhất quái 1-4-7: Khảm Tốn Đoài; nhất quái 3-6-9: Chấn Càn Ly; nhất quái 2-5-8: Khôn Trung Cấn. Thiên nguyên Tý Ngọ Mão Dậu Càn Khôn Cấn Tốn là nhất quái 1-4-7; Nhân nguyên Quý Ất Đinh Tân Dần Thân Tị Hợ i là nhất quái 3-6-9;
Địa nguyên Giáp Canh Nhâm Bính Thìn Tuất Sửu Mùi là nhất quái 2-5-8. Hướ ng bàn hợp Tam đại quái và Nguyên vận định Tài lộc suy vượ ng: Ứ ng dụng Tam đại quái vào Huyền không Phi tinh là một bí mật, đòi hỏi sự thấu hiểu r ất rõ về Tam đại quái nếu không thì phúc chưa đế n mà họa l ại đến r ất nhanh. Thiên Ngọc kinh viết: "Thức đắc phụ mẫu tam ban quái, Tiện thị chân thần lộ Bắc đẩu thất tinh khứ đã kiế p, Ly cung yếu tương hợ p" Nhiều người đã giải thích 2 câu này nhưng Huyền cơ bên trong vẫ n còn ẩn giấu, kinh văn đã nói rất rõ muốn hiểu đượ c "Bắc Đẩu th ất tinh", "Ly cung tương hợ p" thì ph ải hiểu thấu Tam quái, hiểu Tam quái thì chân thần tất nhiên sẽ lộ. Lấy bàn nhà Hướ ng Ất 104 độ bên trên:
Vòng đỏ là hướ ng tinh. Ở mức căn bản thì chúng ta s ẽ tìm nơi hướng tinh sinh vượng để bài thủy, khai môn, lộ... để làm vượ ng thủy, đó là các nơi có hướng tinh 8, 9 và 1. Đó là các sơn: Tân Ngọ Sửu Bính Tý Dần Đinh Khôn Nhâm. Do là hướ ng Ất Nhân nguyên nên ưu tiên các sơn đồ ng Nhân nguyên: Tân Dần Đinh. 21
Nhân nguyên khả kiêm dùng Thiên nguyên nên ưu tiên kế tiếp các sơn Thiên nguyên: Ngọ Tý Khôn.
Riêng các sơn Địa nguyên thì miễn cưỡ ng có thể dùng nhưng tác dụng không nhiều. Ở mức cao hơn mộ t chút thì Khai chính môn tại Giáp(như bài trước đã nói):
Giáp địa nguyên nên ưu tiên dùng các sơn Đị a nguyên: Bính Sửu Nhâm, trong đó Sửu là đắc dụng nhất do là Thành môn c ủa Giáp, k ế đó là Bính do tương sinh cùng Tam bích mộc, sau cùng là Nhâm cũng tương s inh cùng Tam bích mộc. Có thể dùng thêm các sơn Nhân nguyên vì nhà vẫn là hướ ng Ất, trong đó Ngọ và Tý đắc dụng còn Khôn thì yếu hơn.
Các sơn Thiên nguyên miễn cưỡ ng dùng thì tác dụng cũng không đượ c bao nhiêu. Ở mức cao hơn dùng Tam đại quái và Nguyên vận: Ất v ốn thuộc quái Chấn, h ợp cùng Đinh thuộc quái Ly và Hợ i thuộc quái Càn thành nhất quái 3-6-9. Tại vận 8 thuộc Hạ nguyên thì Nhân nguyên vượ ng, 7-8-9 vượ ng.
Tuy nhiên các sao hướ ng tại Ất Đinh Hợ i lại là 4-1-7, thuộc về nhất quái Thiên nguyên vượ ng tại thượ ng nguyên suy tại hạ nguyên, như vậy thì hợ p số 4-1-7 này mặc dù là đồng nguyên nhưng suy không thể dùng. Xem tại cung Giáp có số là 3, tương ứng hai cung của nhất quái 3-6-9 là Bính có tinh là 9 và Tuất có tinh là 6, 3-6-9 lại là bộ số của Nhân nguyên, như vậy Giáp mặc dù là cung Địa nguyên nhưng khã dùng, khai môn tạ i Giáp, hợ p cùng việc khai môn(hoặc bài thủy, lộ...) tại Bính và Tuất, trong đó lấy Bính làm chủ thì đượ c cục thế vượ ng tài. Lưu ý rằng 3 cung này phải tr ống thoáng mớ i có thể thông khí và vượ ng tài toàn bàn.
Cũng là hợ p số 3-6-9 như tại bộ ba sơn Tốn Tý Dậu thì lại không thể dùng bở i vì tuy Tốn cũng là tinh 3, Tý cũng là tinh 9 nhưng Tố n lại xuất quái so với hướ ng Ất, đây là điều quan tr ọng cần ghi nhớ . Nếu có thể mở được đại môn tại Tốn và thông khí tại Tý Dậu thì cũng dùng được nhưng vượng khí không được lâu dài "nhượ c bằng tá khố phú hoàn bần, tự khố lạc trường xuân", đồ mượ n dùng(Tốn ngoài quái Chấn) thì sớ m muộn cũng phải tr ả lại, chỉ có đồ của chính mình(Giáp trong quái Chấn) mớ i lâu dài. Còn sao 8 đương vận sao không nói đến? như tại Sửu là 8, trung là 5, Mùi là 2(đườ ng màu xanh trên hình), là b ộ số 2-5-8 lại ở ngay Địa nguyên quái, đắ c nguyên vận, đắc 22
quái sao lại không dùng? Đó là vì nó lọ t ở trung cung nên không th ể dùng. Trung cung chưở ng quản 8 phương, không thể l ấy mà dùng, nếu dùng thì hỏng trung cung, tức hỏng khí toàn bàn, phải hết sức lưy ý điều này. Thiên Ngọc Kinh: "Thức đắc phụ mẫu tam ban quái, Tiện thị chân thần lộ"
Đó là bài Tam đại quái thông khí pháp bên trên thì suy c ục có thể biến thành vượ ng cục. Nói "chân thần lộ" chính là như vậy. "Bắc đẩu thất tinh khứ đã kiế p, Ly cung yếu tương hợ p" Bắc Đẩu lấy 7 bước lùi tinh mà đế m(khứ là lùi), cửu tinh 9 8 7 6 5 4 3 2 1 đế m lùi 7 bước chính là Tam đại quái. 1 lùi 7 thành 4, 4 lùi 7 thành 7, 7 lùi 7 thành 1. 2 lùi 7 thành 5, 5 lùi 7 thành 8, 8 lùi 7 thành 2 3 lùi 7 thành 6, 6 lùi 7 thành 9, 9 lùi 7 thành 3
"Đã kiếp" chính là cướ p khí, 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9 tùy nguyên tùy vận mà dùng khã dĩ thông đoạt khí, đây mớ i chính là cướ p khí thật sự, không phải cướp khí như song tinh đáo hướ ng của các phái khác. Hình tam giác này ứng dụng r ất lớn, phương Tây dùng nó làm r ất nhiều thứ. Tam Hợ p chính thống là đây, Huyền không chính thống là đây, Tứ đại cục chính thống là đây... tất cả đều quy về Tam đại quái. "Ly cung" chính là r ời bản cung như hướ ng Ất bên trên mà lại dùng Giáp, "yếu tương hợ p" chính là cần hợp sinh vượ ng nguyên vận, trườ ng hợp "ly cung" xa quá như bên trên nếu dùng qua đến Tốn thì "yếu tương hợ p" cần được đặc biệt xem tr ọng.
Đến đây các bạn thực nghiệm nhiều lần có thể áp dụng Tam đại quái và Nguyên vận phối hợ p v ới Hướng bàn đượ c r ồi. Tam đại quái không phải chỉ có thể, tuy nhiên vì mức độ khó của nó nên Nam Phong chỉ dẫn đến mức này mà thôi, đủ để hóa sát vi quyền. Riêng việc sinh khắc ngũ hành, đị a bàn các thứ thì các bạn đã học Huyền không phi tinh hẳn biết áp dụng, Nam Phong không nói thêm vì rườ m rà và dài quá. Sơn bàn hợp Bài long định Nhân đinh suy vượ ng: Cần ph ải nói rõ về phép này âm tr ạch và dương trạch có cách dùng khác nhau. Phần này Nam Phong nói về Dương trạch. Dùng tinh bàn tọa Tân hướ ng Ất bên trên, vòng chữ xanh là sơn tinh, vòng ngoài cùng là bài long 12 tinh: 23
Tọa Tân sơn tinh 8, hướ ng Ất sơn tinh 3.
Đầu hướng bài long Phá quân trú đóng, Phá quân Kim tr ang tại hướng thượ ng gặ p sơn tinh 3 bích Mộ c, 3 bích Mộc gặ p Phá quân Kim kh ắc, đó là khắc nhập, Kinh văn viết "bát thủy nhập linh đường", Tưởng Công chú thích đó là "linh thầ n trang tại hướng thượ ng khắc nhập", sơn tinh 3 đượ c khắc nhậ p nên toàn thu Phá quân đầu hướng. Sơn tại hướ ng cát. Tọa sơn bài long Phá quân trú đóng, Phá quân Kim trang tạ i tọa sơn gặp sơn tinh 8 bach Thổ, 8 bạch Thổ gặ p Phá quân Kim là sinh xu ất, Thổ sinh Kim. Kinh văn viết "nhượ c ngộ chính thần chính vị trang", Tưở ng Công chú thích đó là chính thần trang tại tọa sơn sinh nhậ p tọa sơn, tuy nhiên 8 bạch Thổ không đượ c sinh nhậ p mà lại sinh xuất nên không thu đượ c Phá quân tại tọa sơn. Sơn tại tọa vì thế không cát.
Như vậy sơn tại hướng cát nhưng tại t ọa không cát(do là đương lệnh vượ ng tinh nên dù sinh xuất cũng không hung, chỉ là không cát, có nghĩa là sơn tinh 8 tạ i Tân vô lực). Như vậ y h ợ p cách thì nhà tọa Tân hướ ng Ất 104 độ khai chính môn tại Giáp, tại Ất phong bế và bài các vật nặng hoặc phía bên ngoài nhà phương Ất bài sơn để vượ ng sơn tại đây, lại cần phải phong bế 4 vị trí Phá quân để chuyển Phá quân từ hung thành cát(đã nói bên trên). Bình thườ ng tọa Tân hướ ng Ất vận này song tinh 8 đến tọa sơn, nhiều ngườ i hay dụng bài sơn, bài thủ y tại t ọa sơn để vượ ng tài lộc và nhân đinh. T uy nhiên vớ i cách cục như ví dụ này đã cho thấy rõ hai sao 8 tại tọa sơn cái thì vô lự c, cái lại không phải hay. trong khi đó đôi sao 3(hướ ng tinh 3 tại Giáp, sơn tinh 3 tạ i Ất) ở nơi đầu hướ ng lại tỏ ra hiệu quả. Đây là sự khác biệt hoàn toàn vớ i Huyền không phi tinh hiện nay hay dùng, nh ững ngườ i dùng Huyền không phi tinh hiện nay khi bố trí cho cục Tân Ất vận 8 h ẳn phải nhận thấy r ất ít có hiệu quả mà không lý giải được, tương tự cho Đinh Quý, Thìn Tuất, Sửu Mùi. Sự k ỳ diệu của Lập hướ ng kiêm thu
Đây là bí mật lập hướ ng kiêm hay không kiêm c ủa Áo ngữ Huyền không Phi tinh. Như tọa Tân hướ ng Ất 104 độ bên trên thì đầu hướ ng Bài long khắc nh ập sơn tinh 3 là cát nhưng tọa sơn lạ i sinh xuất sơn tinh 8 nên không cát. Nế u có thể xoay một chút lập hướng 110 độ thì đầu hướng bài long Phá quân kiêm Vũ khúc khắ c nhập cho sơn tinh 3 kiêm sơn tinh 4(tạ i Ất và Thìn). Tại tọa sơn thì bài long Phá quân kiêm Cự môn Thổ tỷ hòa cùng sơn tinh 8 và 2(tạ i Tân và Tuất) nên tr ở thành cát. Tại sao lại tỷ hòa trong khi có Phá quân Kim? do 3 thổ trùng trùng nên Phá quân thành vô lực. 24
Như vậy nếu xoay một chút thành 110 độ thì mọi thứ sẽ khác hẳn. Phần này Nam Phong viết ngắn gọn vậy thôi, nhưng rất quan tr ọng trong việc Quyền nghi lập hướ ng, các bạn suy ngẫm nhiều cục thế tất sẽ tự rõ. Chủ khách luận đắc thất- Ngũ hành thống 9 tinh Tại sơn thì sơn tinh là chủ, hướ ng tinh là khách, vận tinh bổ tr ợ Tại hướng thì hướ ng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vậ n tinh bổ tr ợ Tại các sơn khác thì dụ ng thủy thì hướ ng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận tinh bổ tr ợ . Dụng sơn thì sơn tinh là chủ, hướ ng tinh là khách, vận tinh bổ tr ợ . Lấy ví dụ tọa Tân hướ ng Ất 104 độ bên trên: Tại hướng, hướng thì hướng tinh 4 cùng sơn tinh 3 đề u là Mộc nên tỷ hòa, hướ ng tinh đắc vị, hướng tinh đã đắ c vị thì không cần luận đến tr ợ tinh(vận tinh). Tại sơn, sơn tinh 8 hướ ng tinh 8 cùng là Th ổ nên tỷ hòa, sơn tinh đắc vị, sơn tinh đã đắc vị thì không cần luận đến tr ợ tinh(vận tinh). Nhà khai chính môn tại Giáp, dụng thủy nên lấy hướ ng tinh làm chủ, hướ ng tinh tại Giáp là 3 Mộc, sơn tinh là 5 Thổ . Mộc khắc Thổ là chủ khinh khách nên dù có đắ c vị nhưng chỉ trung bình mà thôi. Phối dùng Tam đại quái 3 phương Giáp Bính Tuấ t, dùng thủy nên hướ ng tinh làm chủ. Tại Giáp đã luận như trên; Tại Bính hướ ng tinh 9 Hỏa, sơn tinh 8 Thổ, Hỏa sinh Thổ là sinh xuất nên khách khinh chủ, hướng tinh không đắ c vị, luận đến vận tinh bổ tr ợ là 3 Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Bính là đất vượ ng Hỏa mà không vượ ng Thổ, 9 Hỏa lại đượ c 3 Mộc bổ tr ợ nên dù sinh xuất v ẫn dùng đượ c; T ại Tuất hướ ng tinh 6 Kim, sơn tinh 2 Thổ. Sơn tinh sinh hướ ng tinh là cát.
Như vậ y trong phối dùng bộ Tam đại quái này thì đắc vị và phát huy đượ c tác dụng. Nếu dùng bộ Tam đại quái tại Tý Tốn Dậu thì không thể đắc vị do t ại Tý và Dậu 6-9 khắc sát ác liệt mà tr ợ tinh 4(tại Tý) và 1(tại Dậu) đều không giúp ít đượ c gì. "Chủ nhân hữu l ễ khách tôn tr ọng, khách tại Tây hề ch ủ t ại Đông". Dụng 9 tinh đắ c thất phải xét đến Ngũ hành. Nhớ nhé. Chính thần-Linh thần và Chiếu thần
Dương thuận Âm nghịch, Dương động mà Âm tĩnh vố n là cái lẽ tự nhiên. Chính thần tĩnh tại, Linh thần luôn động. 25
9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ, 9 tinh vốn tự có dương có âm, không phải cố định 1 3 7 9 là dương, 2 4 6 8 là âm. Âm Dương củ a 9 tinh khéo dùng mớ i là diệu, mỗi một tinh nhậ p trung có thuận và nghịch 2 đườ ng riêng biệt. Chỉ s ự bi ến đổi c ủa thờ i gian là Nghịch, chỉ sự động tĩnh của không gian là Thuận. Chính thần
Thái dương quá cung hành độ một năm khở i từ Tuất đi nghịch Dậu, Thân... về lại Tuất là Thái dương quá cung đủ 1 năm. Quan niệ m này cho thấy Địa(địa cầu) tĩnh. 9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ tinh như Thái dương vậy, hành độ nghịch phi, nơi Ngũ hoàng trú đóng chính là Chính thầ n vị. Vận 1: 1 nhậ p trung ngh ịch phi, 2 đến Tốn, 3 đến Chấn, 4 đến Khôn, 5 đến Khảm. Khảm là chính thần vận 1. Vận 2: 2 nhậ p trung nghịch phi, 3 đến T ốn, 4 đến Chấn, 5 đến Khôn. Khôn là chính thần vận 2. Vận 3: 3 nhậ p trung nghịch phi, 4 đế n Tốn, 5 đến Chấn. Chấn là chính thần vận 3. Tuần tự như vậy ta có Chính thần vị các vận: 1 Khảm, 2 Khôn, 3 Chấn, 4 Tốn, 6 Càn, 7 Đoài, 8 Cấ n, 9 Ly, 10 năm đầ u vận 5 tại Tốn, 10 năm sau vận 5 tại Càn. Linh thần
Hành độ Xuân Hạ Thu Đông một năm khở i từ Dần đi thuận đến Mão, Thìn, Tị... về lại Dần là hết một năm. Xuân Hạ Thu Đông thực là chuyển động của Địa(địa cầu) quanh Thiên(mặt tr ời, Thái dươ ng). Quan niệm này cho thấy Địa động. 9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ tinh, hành độ thuận phi, nơi Ngũ hoàng trú đóng chính là Linh thần vị. Vận 1: 1 nhậ p trung thuận phi, 2 đến Càn, 3 đến Đoài, 4 đến Cấn, 5 đến Ly. Ly là Linh thần vị. Vận 2: 2 nhậ p trung thu ận phi, 3 đến Càn, 4 đến Đoài, 5 đế n C ấn, C ấn là Linh thần vị. Tuần tự như vậy ta có Linh thần vị các vận: 1 Ly, 2 Cấn, 3 Đoài, 4 Càn, 6 Tố n, 7 Chấn, 8 Khôn, 9 Khảm, 10 năm đầu vận 5 tại Càn, 10 năm sau vận 5 tại Tốn. 26
Phương vị chữ Xanh là Chính thần Phươ ng vị chữ Đỏ là Linh thần Chính thần Linh thần t ự nhiên có phép an bài, không ph ải cách luận đối cung Chính thần là Linh thần một cách khiên cưỡ ng. Chính thần Linh thần thực sự là 2 khí thuận nghịch của 9 tinh, sao 5 vốn là chủ 9 tinh, nơi nó đến nếu nghịch là Chính, nếu thuận là Linh. Chiếu thần Các sách viết về Chiếu thần đều nói lấy Hà đồ số vớ i vận tinh làm Chiếu thần, như vận 1 lấy 6 làm chiếu thần, hợ p số 1-6 Hà đồ; như vận 8 lấy 3 làm chiếu thần, hợ p số 8-3 Hà đồ... cũng tạ m chấ p nhận, nhưng vì sao phương Chiế u thần cần thủy, lộ, động khí thì lại bế tắc, không giải thích đượ c. Chính thần vốn là âm, tĩnh tạ i. Quản vận số thời gian lưu chuyển nên cần dương tương phối. Phương Linh thầ n vốn không thể tương phối do 2 khí Cửu tinh thuận nghịch không cùng đườ ng nên không phối đượ c. 9 tinh thì khở i thủy tại 1 và chung cuộc tại 9. Nguyên vận 3 nguyên 9 vận(123456789) thực dùng là 2 nguyên 8 vận(12346789). Thượ ng nguyên 1234 thì lấy chung số(9) làm Chiếu thần. Hạ nguyên 6789 thì l ấy khở i thủy số(1) làm Chiếu thần. Đây là do 2 khí Tiên thiên Khảm Ly giao nhau mà thành, thượ ng nguyên khở i Ly, hạ nguyên khở i Khảm. - Vận 1 nhậ p trung nghịch phi: 2 Tốn, 3 Chấn, 4 Khôn, 5 Khảm, 6 Ly, 7 C ấn, 8 Đoài, 9 Càn. 5 Khảm là Chính thần, 9 Càn là Chiếu thần. - Vận 2 nhậ p trung nghịch phi: 3 Tốn, 4 Chấn, 5 Khôn, 6 Khảm, 7 Ly, 8 C ấn, 9 Đoài, 1 Càn. 5 Khôn là Chính thần, 9 Đoài là Chiế u thần. - Vận 3 nhậ p trung nghịch phi: 4 Tốn, 5 Chấn, 6 Khôn, 7 Khảm, 8 Ly, 9 C ấn, 1 Đoài, 2 Càn. 5 Chấn là Chính thần, 9 Cấn là Chiếu thần. - Vận 4 nhậ p trung nghịch phi: 5 Tốn, 6 Chấn, 7 Khôn, 8 Khảm, 9 Ly, 1 C ấn, 2 Đoài, 3 Càn. 5 Tốn là Chính thần, 9 Ly là Chi ếu thần. - Vận 6 nhậ p trung nghịch phi: 7 Tốn, 8 Chấn, 9 Khôn, 1 Khảm, 2 Ly, 3 C ấn, 4 Đoài, 5 Càn. 5 Càn là Chính thần, 1 Khảm là Chiếu thần. - Vận 7 nhậ p trung nghịch phi: 8 Tốn, 9 Chấn, 1 Khôn, 2 Khảm, 3 Ly, 4 C ấn, 5 Đoài, 6 Càn. 5 Đoài là Chính thần, 1 Khôn là Chiếu thần. 27
- Vận 8 nhậ p trung nghịch phi: 9 Tốn, 1 Chấn, 2 Khôn, 3 Khảm, 4 Ly, 5 C ấn, 6 Đoài, 7 Càn. 5 Cấn là Chính thần, 1 Chấn là Chiếu thần. - Vận 9 nhậ p trung nghịch phi: 1 Tốn, 2 Chấn, 3 Khôn, 4 Khảm, 5 Ly, 6 C ấn, 7 Đoài, 8 Càn. 5 Ly là Chính th ần, 1 Tốn là Chiếu thần. "Khảm Ly nhị khí quán Càn Khôn". Chính thần là âm tĩnh tại, phối cùng Chiếu th ần là dương nên tất nhiên Chiếu thần là động, cần thủy, lộ, động khí. Đây là cái lẽ tự nhiên của Âm Dương giao cấu, động tĩnh tương hợ p. Phép làm nhà nếu phù hợ p Linh-Chính-Chiếu thần, tức nơi phương Chính thần thì sơn vượ ng lại có sơn, nơi linh thần và chiếu th ần thì thủy vượ ng lại có thủy lộ thì tốc phát r ất nhanh, nếu ngượ c lại phương Chính thần hướng tinh vượ ng mà lại có thủy, lộ... nơi phương Linh thần, Chiếu thần sơn tinh vượ ng mà lại có thực sơn thì đó là "Thượng sơn Hạ thủy", trong cái cát có cái hung, nếu sơn tán thủy loạn thì đại hung. Cần đặc biệt lưu ý. Lờ i k ết
Đây tuy chưa phải là toàn bộ Áo ngữ Huyền không Phi tinh nhưng là nhữ ng cái tinh túy nhất. Nam Phong đã lự a ch ọn và cân nhắc k ỹ lưỡng trước khi đưa lên diễn đàn. Ngõ hầu giúp các bạn ít nhiều trong việc tìm một nơi ở tốt hoặc cải tạo những chổ chưa phù hợ p hiện nay của ngôi nhà sao cho đượ c tốt hơn. Đến đây thì phần kiến thức Huyền không Phi tinh 6 phái dường như không còn lạ i được bao nhiêu. Tuy nhiên đố i vớ i các bạn mớ i học về Huyền không thì đó lại là bướ c khởi đầu r ất tốt cho việc học về Phong thủy Huyền không. Cảm ơn rất nhiều những l ờ i ẩn giấu c ủa c ổ thư và ẩn nghĩa của Tưởng Công đã giúp Nam Phong hoàn thành Huyền không Phi tinh. Nhâm Dần nguyệt, Nhâm Thìn niên.
28