MỤC LỤC THỜI KHÓA BIỂU HÀNG NGÀY ....................................... ............................. .......... 2 NỘI QUY KHÓA THIỀN ............................... .......... ......................................... .................... 3 HƯỚNG DẪN THIỀN VIPASSANĀ ................................... ...................... ............. 7 KIẾN THỨC CĂN BẢN VỀ THIỀN VIPASSANĀ .............. 7 ............................. 19 HƯỚNG DẪN CÁCH NGỒI THIỀN ............................. ................................... 33 HƯỚNG DẪN ĐI KINH HÀNH ...................................
HƯỚNG DẪN THIỀN TRONG SINH HOẠT ................. 37
TÓM LƯỢC CÁCH TRÌNH PHÁP ............................ ....... ............................. ........ 41 CUỘC PHỎNG VẤN THIỀN SƯ MAHĀSI SAYADAW ........ 44 ĐÔI NÉT VỀ THIỀN SƯ MAHĀSI SAYADAW .............. 44 CÁC CÂU HỎI TIÊU BIỂU VỀ THIỀN VIPASSANĀ ....... 48 .................................. ..... 90 PHÁP HÀNH THIỀN THA THỨ ....................................... .... .................................... ............... 90 PHÁP HÀNH THIỀN TÂM TỪ .........................
THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI ........................................... .................................. ......... 94 KINH TAM BẢO ( TÓM TÓM TẮT ) ........................................ .................... ...................... .. 98 ..................................................... 104 KINH RẢI TÂM TỪ .....................................................
1
THỜI KHÓA BIỂU HÀNG NGÀY 03:30 – 04:00
Thức dậy, vệ sinh cá nhân
04:00 – 04:30 Đi kinh hành 04:30 – 05:30
Ngồi thiền
05:30 – 07:00 Ăn sáng và sinh hoạt cá nhân 07:00 – 08:00
Xin giới, ngồi thiền
08:00 – 09:00 Đi kinh hành 09:00 – 10:00
Ngồi thiền
10:00 – 10:30
Vệ sinh thiền đường và xung quanh
10:30 – 13:30 Ăn trưa và sinh hoạt cá nhân 13:30 – 14:00 Đi kinh hành 14:00 – 15:00
Ngồi thiền
15:00 – 15:30 Đi kinh hành 15:30 – 16:30
Ngồi thiền
16:30 – 18:00
Uống nước và sinh hoạt cá nhân
18:00 – 19:00
Nghe pháp thoại
19:00 – 20:00 Đi kinh hành 20:00 – 20:30
Ngồi thiền
20:30 – 21:00
Rải tâm từ
Lưu ý: ý : Thờ i khóa bi ểu tu t ậ p có thể thay đổi tùy theo tính chất c ủa khóa thi ền và yêu c ầu c ủa Thi ền ền Sư. 2
NỘI QUY KHÓA THI ỀN Để đảm bảo sự lợi ích và tu tập tiến bộ của mình cũng như các thiền sinh khác, t ất cả các thiền sinh phải tuân thủ nghiêm túc theo nội quy khóa thi ền như sau:
ới luật G i ớ
N ền t ảng c ủa sự tu tu t ậ p là Sīla – Sīla – gi ớ ới luật hay đạo phát tri ển Samādhi – nh đức. Sīla tạo căn bản cho sự phát – đị nh tâm; và sự thanh thanh l ọc ọc tâm đạt đượ c nhờ ờ Paññā Paññā – – trí tuệ hay tuệ giác. Cho nên, quý vị Tỳ khưu, Sadi, Tỳ khưu Ni và Tu nữ phải nghiêm túc thọ trì giới luật của mình. Còn các thiền sinh khác phải triệt để giữ bát quan trai giới (tám giới).
ền Sư và Phương Pháp Tin ph ụ c Thi ền
Trong thời gian khóa thi ền, thiền sinh phải tuân theo mọi sự hướng dẫn tu tập của Thiền Sư. Đó là, tuân theo kỷ luật và hành thiền đúng như sự yêu cầu của Thiền Sư, không bỏ bớt một phần nào cũng như không thêm vào điều gì. Sự tin phục phải rõ ràng với sự hiểu biết, chứ không phải là sự phục tùng mù quáng. Ch ỉ với thái độ tín cẩn này, thiền sinh mới có thể tu t u tập chuyên cần và nỗ lực. Đặt niềm tin tr ọn vẹn vào Thiền Sư và phương pháp thiền là yếu tố quan tr ọng cho sự thành công khi thiền tập.
K hông hông Hành Hành The Theo Cá C ác Phương Pháp Khác
Thiền sinh chỉ chuyên chuyên tâm tu theo phương pháp thiền này. Còn tất cả những phương pháp thiền khác, kỹ thuật chữa bệnh hay luyện tập về tâm linh khác 3
cũng phải tạm ngưng để thực hành phương pháp thiền này một cách thuần khiết, tr ọn vẹn, chuẩn xác nhất.
S ự Im L ặng Thánh Thi ện
Mọi thiền sinh phải gi ữ Sự Im L ặng Thánh Thi ện trong suốt khóa thiền, nghĩa là sự im lặng của thân, khẩu, và ý. Mọi hình thức liên lạc với người đồng tu, bằng cử chỉ , ra dấu, ghi giấy, … đều không được cho phép. Nếu cần thiết, xin hãy nói ngắn gọn và cách xa nhau. Tuy nhiên, thiền sinh có thể nói chuyện với Thiền Sư và ban tổ chức khi thực sự cần thiết. Thiền sinh tuyệt đối không nên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thiền tập với nhau, nhất là không hướng dẫn các thiền sinh khác tu tập. Nếu có khó khăn, thắc mắc, thiền sinh nên gặp Thiền Sư hay ban tổ chức.
Thu Thúc L ục Căn
Việc thu thúc lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), hạn chế tối đa tiếp xúc với ngoại cảnh; tránh đánh giá, phê bình người khác, giúp cho thiền sinh yên tâm tu tập, các phiền não không khởi sinh. Do đó, khi đi, thiền sinh phải nhìn xuống khoảng 1 mét trước mặt; tránh nhìn, ngó đó, đây. Thiền sinh phải giữ thái độ là mình đang tu tập trong sự cô lập, luôn chánh niệm liên tục mọi lúc, mọi nơi.
Tu t ậ p ng hiêm túc theo thờ i k hóa bi ểu
Thiền sinh nên chuyên tâm thi ền tập theo thời khóa biểu; phải có mặt tại thiền đường, không được ở phòng để sinh hoạt cá nhân (tắm, giặt,…) trong giờ hành thiền; không làm những việc khác như nghe nhạc, xem phim, mở radio, chơi game, chụp ảnh, phục vụ, chăm sóc người bệnh… Thiền sinh cũng không nên 4
làm mình phân tâm b ằng cách đọc sách (ngay cả kinh điển), ghi chép, cũng như không được mang sách, báo, giấy bút vào khóa thiền để nhấn mạnh tính thực tế của phương pháp thiền này.
Nam và N ữ S ự Cách B i ệt g i ữa
Phải duy trì sự cách biệt hoàn toàn giữa nam và nữ. Những cặp vợ chồng hay người yêu, không được liên lạc với nhau dưới bất cứ hình thức nào trong khóa thiền. Điều này cũng áp dụng cho bạn bè và người thân trong cùng gia đình, …
Đụ ng Ch ạm Thân Thể
Vì bản chất cô lập của phương pháp thiền, nên trong suốt khóa, thiền sinh tránh mọi sự đụng chạm thân thể với người cùng phái hay khác phái.
Thuốc Lá
Vì sức khỏe và sự thoải mái cho tất cả thiền sinh, hút, nhai, ngửi thuốc lá đều bị cấm trong khóa thiền.
Th ự c Phẩm
Không thể nào làm thỏa mãn sở thích và nhu cầu của từng thiền sinh, nên thiền sinh vui lòng chấp nhận những món ăn đơn giản được phục vụ. Ban tổ chức cố gắng chuẩn bị những thực đơn bổ dưỡng và quân bình, thích hợp cho sự thực hành thiền. Thiền sinh cũng không được phép nhịn ăn.
Quần Áo
Quần áo nên giản dị, lịch sự, và thoải mái. Không nên mặc quần áo chật bó, mỏng manh, hở hang hoặc sặc sỡ (như quần soọc, váy ngắn, quần hoặc vớ bó, áo quá ngắn hoặc không có tay); Không được phép phơi nắng 5
hoặc để thân thể hở hang. Điều này quan trọng để tránh gây phân tâm cho người khác.
G i ữ v ệ s inh phòng và ti ế t ki ệm
Thiền sinh vui lòng giữ gìn, dọn dẹp phòng, nhà vệ sinh, thiền đường và khu vực tu tập sạch sẽ theo chỉ dẫn; sử dụng tiết kiệm điện, nước; khi ra khỏi phòng, nhà vệ sinh, nhớ tắt điện, khóa nước cẩn thận.
Liên L ạc v ới B ên Ng oài
Thiền sinh phải ở trong phạm vi trường thiền trong suốt khóa, chỉ được phép r ời trường thiền với sự đồng ý của Thiền Sư và ban tổ chức. Thiền sinh nên hạn chế tối đa việc liên lạc với bên ngoài bằng điện thoại, máy tính…. Điện thoại di động, máy tính, mọi thiết bị điện tử và các tài sản có giá tr ị khác nên được giao cho văn phòng giữ cho tới khi khóa thiền chấm dứt. Trong trường hợp khẩn cấp, thiền sinh hoặc thân nhân của thiền sinh có thể liên hệ với ban tổ chức.
Trình pháp
Theo lịch trình pháp, thiền sinh phải đến phòng trình pháp trước 10 phút. Thiền Sư sẽ giành thời gian khoảng 10 phút cho thiền sinh trình bày kinh nghi ệm hành thiền và giải đáp các câu hỏi thiết thực, liên quan đến việc thiền tập một cách ngắn gọn, súc tích.
Trên đây là những điề u l ệ nhằm đảm bảo cho t ất c ả các thi ền sinh tu t ậ p đượ c nhi ều l ợi l ạc và ti ến bộ nhanh chóng. Thi ền sinh nào không thật sự hành trì, không tuân theo nội quy, có thể đượ c yêu c ầu r ời khỏi thi ền vi ện và trong tương lai không đượ c nhận tr ở l ại. N ếu có các v ấn đề c ần thi ết, thi ền sinh có thể liên hệ v ới văn phòng hay ban tổ chứ c. 6
HƯỚNG D ẪN THI ỀN VIPASSANĀ ền Sư Sayadaw U Ja ṭ ila Thi
G i ới thi ệu
Tài liệu tiếng Việt này được dịch ra từ video tựa đề “Vipassanā Meditation Instructions by Sayadaw U Jaṭ ila”. Bản dịch này do Thiền viện Kyunpin thực hiện. Trong suốt bản dịch, danh từ Sư có nghĩa là Thiền Sư U Jaṭila (U Zatila)1. Để cho người xem dễ dàng thâu nhận được ý nghĩa của bài pháp thoại này, thiền viện Kyunpin đặc biệt chú tâm đến cả hai lời và ý của Sư trong Video khi d ịch tài liệu này ra tiếng Việt. Mọi thắc mắc, nếu có, xin liên hệ với Thiền Sư U Jaṭila, hay ban tổ chức thiền viện Kyunpin.
K i ến thức căn bản v ề Thi ền Vipassanā
Trước khi mở đầu buổi pháp thoại hôm nay, xin mọi người hãy cùng Sư niệm hồng danh Đức Phật: Namo
Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa
Hôm nay, Sư sẽ hướng dẫn các thiền sinh ở đây về phương pháp hành thiền Vipassanā hay thiền Satipaṭṭ hanā. Vipassanā và Satipaṭṭ hanā chỉ khác nhau trên danh t ừ, nhưng hoàn toàn giống nhau về ý nghĩa. Cũng có thể nói là kinh Satipaṭṭ hanā (T ứ Ni ệm X ứ) dạy thiền Vipassanā (Minh sát tuệ ). Mục đích của 1
“ Jaṭ ila” là tên Pāli, còn “Zatila” là tên trong hộ chiế u của Ngài. 7
thiền Vipassanā là phát triển chánh niệm, mà trong tiếng Anh, Sư hay gọi là Mindfulness. Vì thế, thiền Vipassanā còn được gọi là thiền chánh niệm. Bình thường trong cuộc sống hàng ngày, ngay trong giây phút hiện tại chúng ta đang sống, chúng ta ít có chánh niệm nên cuộc sống của mình đầy phiền não. Vì lý do này, hôm nay, Sư sẽ hướng dẫn quý vị thực hành thiền Vipassanā cho đúng để vun bồi chánh niệm trong từng giây phút, mang l ại an vui và hạnh phúc trong cu ộc sống hàng ngày. Hầu hết, chúng ta ai cũng nghĩ là thiền Vipassanā r ất khó thực hành. Tuy nhiên, nếu hiểu rõ nguyên tắc của thiền Vipassanā thì chúng ta thiền không mấy khó khăn. Trước tiên, thiền sinh phải hiểu và nắm vững những nguyên tắc căn bản của thiền Vipassanā. Hành thiền Vipassanā hay Satipaṭṭ hanā nghĩa là thiền sinh phải thường xuyên, liên tục và chuyên chú quan sát, ghi nhận bất cứ điều gì đang xảy ra trong thân và tâm c ủa mình, ngay khi chúng xu ất hiện. Tại sao chúng ta phải quan sát, ghi nhận những điều này? Bởi vì thông thường chúng ta chẳng thật sự hay biết cái gì đang xảy ra trong thân và tâm c ủa mình; do đó, ta bị chúng gây phiền não mà không bi ết. Vì vậy, để cuộc sống được bình an và hạnh phúc hơn, thiền sinh cần phải thường xuyên quan sát, ghi nh ận và theo dõi chúng để thực sự hiểu bản chất của thân và tâm của mình. Vậy bản chất thật sự của thân và tâm là gì? Vì ảnh hưởng của 4 yếu tố như thời tiết, thức ăn, nghiệp lực và tâm thức, thân thể chúng ta thay đổi liên tục. Thân của mình có lúc nóng, lạnh, mệt mỏi, khi thì khỏe 8
mạnh, đau đớn, tê nhức, ngứa ngáy hết chỗ này đến chỗ khác. Cũng có khi thiền sinh cảm thấy thân thể mạnh mẽ đầy năng lực, lúc khác lại mệt mỏi yếu đuối. Tâm của mình cũng vậy; bình thường, tâm thích suy nghĩ điều này, điều nọ, hết chuyện quá khứ đến chuyện tương lai, lúc vui, lúc buồn, khi thì sân hận, lúc thì an lạc và để mặc cho những tập khí tham, sân, si sẵn có trong tâm thêu dệt, bày vẽ. Khi hành thiền Vipassanā, chúng ta phải kịp thời quan sát, ghi nh ận những điều thiện hay bất thiện, tốt hay xấu, ngay khi chúng nảy sinh trong tâm. Khi tâm thiện phát sinh, chúng ta hoan h ỉ , phát tâm cúng dường hay bố thí, nghiêm trì gi ới hạnh, hay muốn thiền tập. Lúc khác, khi tâm bất thiện phát sanh, chúng ta l ại nóng giận, bực bội, ray r ức, bất an. Khi tham lam hay mong cầu phát sanh, tâm của mình nghĩ ngợi lung tung, tính toán hết điều này đến điều khác. Cho nên, chúng ta phải cẩn thận ghi nhận hay quan sát nh ững gì đang xảy ra trong tâm của mình, ngay lúc chúng phát sanh, để đừng cho chúng lôi cuốn mình vào phiền não. Khổ thay, khi hành thiền Vipassanā, nhiều thiền sinh chỉ cầu mong sao thân tâm được an lạc trong lúc ngồi thiền. Vì vậy, trong lúc thiền tập, nếu thấy cảm giác khó chịu trong thân như đau nhức chỗ này, ngứa ngáy chỗ kia, tê cứng chỗ nọ. Khi cảm thấy đầu và người nặng nề, thiền sinh không thấy hứng thú chút nào. Nói một cách khác, khi kinh nghi ệm những tr ạng thái này, thiền sinh không hiểu r ằng chúng do tập khí tham, sân, si sẵn có của mình gây ra. Thay vì chuyên chú quan sát, ghi nh ận chúng, theo dõi chúng, để làm chúng yếu đi, thiền sinh lại sợ hãi tránh né chúng. 9
Đúng ra, khi hành thiền Vipassanā chúng ta phải quan sát, ghi nhận các sự kiện này ngay khi chúng xảy ra trong thân của mình. Bản chất cố hữu của thân khiến mình cảm thấy nóng, lạnh, tê cứng, nặng nề, đau nhức, ngứa ngáy, nhẹ nhàng, thoải mái hay mệt mỏi. Tương tự như vậy, tâm của mình khi thì nghĩ đến điều thiện, khi thì nghĩ đến điều bất thiện. Nhiệm vụ c ủa thiền sinh là phải kịp thời chánh niệm, chuyên chú quan sát, ghi nhận chúng ngay khi chúng đang xảy ra, mà không chọn lựa đề mục theo ý của mình trong khi hành thi ền. Như thế, khi thiền tập, chúng ta chỉ cần biết cách quan sát, ghi nhận bất cứ điều gì xảy ra trong thân và tâm của mình ngay khi chúng xuất hiện. Quan sát, ghi nhận ở đây có nghĩa là thuần túy quan sát, ghi nhận bằng tâm, mà không phân tích hay phán đoán. Cũng không nên cố gắng kiểm soát tâm, bắt tâm phải làm điều này, điều nọ theo ý mình. Cũng chớ bực bội, khi tâm cứ tự ý hoạt động, không theo ý của mình. Nếu chúng ta nắm vững những nguyên tắc này thì sự thiền tập của mình sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu khi ta cảm thấy buồn ngủ, tâm phóng đi hết chỗ này đến chỗ nọ, nghĩ chuyện quá khứ, tương lai; hay thân cứ đau hết chỗ này đến chỗ kia, rồi chúng ta tr ở nên bực mình, không muốn ngồi thiền nữa, đứng lên đi làm việc khác, thì khi đó, chúng ta không hành thiền Vipassanā đúng đắn. Thiền sinh phải luôn nhớ r ằng điều cần thiết khi hành thiền là phải có một sự quyết tâm mạnh mẽ. Chúng ta phải quyết tâm ngồi suốt 1 giờ, dù cho thân có bị đau nhức, khó chịu đến đâu hay tâm cứ phóng đi lung tung cách mấy. Thật ra, những cảm giác khó chịu trong thân và tâm, hay chính 10
sự phóng tâm đều là những đề mục hành thiền. Nếu mỗi ngày khi ngồi thiền, với sự quyết tâm mạnh mẽ như vậy thì chỉ trong vài giờ hay vài ngày, thiền sinh sẽ phát triển chánh niệm và chánh định của mình. Trong thiền Vipassanā , chánh niệm và chánh định đi liền với nhau; trong tiếng Anh, Sư hay dùng danh từ Mindfulness-Concentration . Khi liên tục quan sát, ghi nhận phồng xẹp hay bất cứ đề mục nào đang xảy ra, từ khi nó bắt đầu đến khi nó chấm dứt, là chúng ta đang thực tập chánh niệm; và khi tâm an tr ụ trên đề mục đó, không phóng đi nơi khác là chúng ta đang phát triển chánh định. Một khi chánh niệm và chánh định bắt đầu vững vàng, việc thiền tập của thiền sinh sẽ ngày càng thêm dễ dàng và càng có nhi ều tiến bộ.
Phương pháp thiền mà chúng ta th ực tập ở đây hoàn toàn dựa trên lời dạy của Đức Phật trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭ hanā ). Theo phương pháp này, để phát triển chánh niệm và chánh định, chúng ta phải ngồi thiền mỗi lần 1 giờ, đi kinh hành 1 giờ, và chúng ta phải duy trì chánh niệm trong mọi hoạt động hàng ngày như khi ăn, khi uống, khi vệ sinh, khi tắm r ửa…. Chúng ta phải thực tập chánh niệm liên tục trong mọi oai nghi, ở mọi thời, mọi chốn, chứ không phải chỉ trong lúc ngồi thiền hay đi kinh hành mà thôi. Mục đích của mình là huấn luyện tâm làm sao cho tự nó lúc nào cũng liên tục chánh niệm. Trong kinh Đại Niệm Xứ (Maha Satipaṭṭ hanā Sutta), Đức Phật dạy r ất rõ ràng về 4 đối tượng quán niệm của thiền Vipassanā , đó là niệm Thân (Kayanupassanā), niệm Thọ (Vedanā-nupassanā ), niệm Tâm (Citt ā-nupassanā ), và niệm Pháp (Dhammā11
nupassanā). Mục đích của mình khi hành thi ền Vipassanā là phát triển chánh niệm đủ mạnh để có thể quán niệm, hay biết bất cứ đối tượng nào nổi bật nhất đang xảy ra lúc đó.
Thân của mình được cấu tạo chỉ bởi 4 yếu tố: Đất (Pathavi ), Nước ( Āpo), Lửa (Tejo), và Gió (Vāyo). Khi hành thiền, nếu kinh nghiệm được những yếu tố này, và chánh niệm, chuyên chú quan sát, ghi nh ận chúng là chúng ta đang quán Thân. Có khi, chúng ta cảm thấy thân thể nóng r ực hay lạnh ngắt, tê cứng hay đau nhức; một phần của thân hay toàn thân n ặng trĩu, ngứa ngáy ngoài da hay t ận trong xương tủy; cũng có lúc, thân mình nhẹ nhàng, thoải mái, có lúc nặng nề mệt mỏi. Chúng ta có thể kinh nghiệm thân tâm tràn đầy sự thanh tịnh, hỷ lạc hay bực bội, bức r ức, khó chịu. Những cảm thọ này có thể là lạc th ọ (Sukkha Vedanā), hoặc khổ thọ (Dukkha Vedanā). Những khi khác, chúng ta kinh nghiệm một loại cảm thọ không vui cũng không buồn, không khó chịu cũng không dễ chịu, đó là xả thọ (Upekkhā Vedanā). Khi chánh niệm, thuần túy quan sát, ghi nhận các cảm giác này, đó là chúng ta đang quán Thọ. Bất cứ cảm giác gì xảy ra trong khi thiền tập, chúng ta cứ chuyên chú quan sát, ghi nh ận chúng ngay lúc chúng xảy ra.
Chúng sanh ai cũng có sẵn tâm thiện (Kusala), và tâm bất thiện ( Akusala). Phàm nhân (Puthujjana) có nhiều tâm bất thiện hơn là tâm thiện. Vì vậy, khi chúng ta thiền tập, các cảm xúc bức r ức trong tâm hay thường xuyên xuất hiện nhiều hơn là sự bình an, hỷ lạc. Khi chánh niệm quan sát, ghi nh ận các cảm xúc 12
này, đó là chúng ta đang quán Tâm. Khi tiếp xúc với thế giới xung quanh và chánh ni ệm, thuần túy quan sát, ghi nhận sự thấy, nghe, ngửi, nếm, và xúc chạm của thân với vật thể xung quanh, đó là lúc chúng ta đang quán Pháp. Dù đề mục thuộc v ề Thân, Thọ, Tâm, hay Pháp, công vi ệc c ủa mình là phải k ị p thờ i chánh ni ệm, thuần túy quan sát, ghi nhận các đề mục này, ngay khi chúng xuất hi ện, càng sít sao và liên t ục càng t ốt, mà không phân tích, không phán đoán. Lúc ngồi thiền, thiền sinh nên cố gắng đừng thay đổi thế ngồi, sửa đổi chân tay, hay vươn vai, ưởn ngực khi khó chịu mà hãy ngồi thoải mái, để hơi thở tự nhiên, nhắm mắt, hướng tâm đến nơi bụng ngay dưới r ốn, r ồi quan sát, ghi nhận sự chuyển động ở nơi này khi thở vào hay thở ra. Sư nhắc l ại là khi Sư nói bụng, là phần bụng ngay dướ i r ốn. Khi Sư nói để hơi thở t ự nhiên là để cho thân t ự nhiên thở . Sự chuy ển động nơi bụng, hay phồng x ẹp, là đề mục chính để chúng ta quan sát, ghi nhận trong khi ng ồi thi ền. Khi Sư nói phồng x ẹ p là sự chuy ển động c ủa gió nơi bụng. Cũng như khi Sư nói quan sát ( Observe) là ý Sư muốn nói đến sự liên t ục ghi nhận đề mục bằng tâm chứ không phải bằng mắt hay sờ bằng tay.
Đừng lo sợ nếu thiền sinh thấy có lúc thân mình lắc lư, quay qua, quay lại, giựt mạnh, bị đẩy về trước hay ra sau, hay bị nghiêng qua một bên…. Khi cảm thấy đau hay tê quá, không thể tiếp tục ngồi yên được nữa, thiền sinh mới thay đổi thế ngồi một chút cho bớt khó chịu. Tuy nhiên, càng í t thay đổi càng tốt, và thiền sinh nhớ phải chậm rãi thay đổi thế ngồi một cách chánh niệm. Tương tự như vậy, khi thân bị nghiêng tới 13
trước, ra sau, hay qua m ột bên mà không chịu được nữa, thiền sinh hãy chậm rãi, chánh niệm điều chỉ nh thân về đúng tư thế như cũ. Quan tr ọng nhất là trong suốt 1 giờ ngồi thiền, thiền sinh cố gắng giữ chánh niệm liên tục trên đề mục, và đừng mở mắt ra xem thân mình có thật sự bị gì không. Ngay cả lúc thay đổi thế ngồi, thiền sinh cũng đừng mở mắt. Điều r ất quan tr ọng là chúng ta phải cố gắng giữ sao cho chánh niệm và chánh định của mình liên tục, không bị đứt đoạn trong suốt 1 giờ, càng liên tục càng tốt, càng sít sao càng tốt. Điều này r ất cần thiết để phát triển chánh niệm và chánh định của mình, để chúng ngày càng thêm v ững mạnh. Vì vậy, trong suốt 1 giờ ngồi thiền, chúng ta phải cố gắng nhắm mắt, hai tay để yên, giữ thân và đầu ngay ngắn nhưng thoải mái, và đừng lo lắng khi thân bị đau, bị lắc lư, bị giựt, bị đẩy, hay bị nghiêng. Nếu kiên trì thực tập theo lời hướng dẫn này, việc thiền tập của thiền sinh sẽ tiến bộ nhanh chóng. Khi ngồi thiền, thiền sinh phải quan sát, ghi nh ận đề mục chính, đó là sự chuyển động phồng xẹp ở bụng. Chúng ta phải quan sát, ghi nh ận sự phồng xẹp này. Tuy cố gắng để tâm nơi bụng, nhưng có người vẫn chưa ghi nhận được phồng xẹp, hay phồng xẹp chưa rõ ràng. Đó là vì sự chú tâm nơi bụng chưa đủ sít sao và liên tục nên chánh niệm không đủ mạnh để thấy chuyển động này. Trong giai đoạn đầu, để dễ dàng theo dõi sự chuyển động nơi bụng, chúng ta có thể niệm thầm trong miệng “ phồng-phồng, x ẹ p-x ẹ p” ngay khi các chuyển động này đang xảy ra. Chúng ta phải niệm mỗi chuyển động ngay từ khi nó bắt đầu cho đến 14
khi nó chấm dứt, và phải niệm liên tục mà không cần phải niệm ra tiếng. Và khi chánh niệm bắt đầu phát triển, sự ghi nhận phồng xẹp bắt đầu dễ dàng thì thiền sinh không cần phải niệm thầm bằng miệng nữa, mà chỉ cần kiên trì chú tâm ghi nh ận sự chuyển động. Sự chú tâm tự động ghi nhận phồng xẹp cũng được gọi là niệm bằng tâm. Điều quan tr ọng là tâm chúng ta phải ghi nhận, quan sát chuyển động này càng sít sao càng tốt, càng liên tục càng tốt, càng thường xuyên càng tốt. Khi quan sát chuyển động nơi bụng, thiền sinh sẽ thấy sự phồng xẹp này khác nhau tùy người, tùy lúc, và tùy theo trình độ thiền tập. Những ai đã thực tập tốt có thể kinh nghiệm được nhiều tr ạng thái phồng xẹp khác nhau và thấy chúng thay đổi liên tục. Cho nên, tuy chúng ta g ọi chuyển động nơi bụng là phồng xẹp nhưng trong thực tế, chuyển động này có nhiều hình dáng và tư thế khác nhau. Chuyển động có khi nhanh, khi chậm, có khi mạnh, khi yếu, khi nhẹ nhàng, khi nặng nề, khi đi theo hướng này, khi quẹo qua hướng nọ. Chuyển động có thể phồng lên xẹp xuống giống như khi ta để tay trên bụng, có khi nó đi lên đi xuống theo chiều dọc, có khi đi qua đi lại theo chiều ngang, có khi từ trái qua phải hay từ phải qua trái; cũng có khi nó đi theo vòng cung hay vòng xoắn; cũng có khi nó đi vòng vo không theo m ột tr ật tự nào. Nó cũng có thể thay đổi hình dáng, lộ trình, và sự mạnh yếu ngay trong một chuyển động ngắn ngủi. Công vi ệc c ủa thi ền sinh là phải chánh ni ệm r ốt ráo, liên t ục quan sát, ghi nhận bất c ứ chuy ển động nào đang xảy ra, và ngay lúc nó đang xảy ra. 15
Mục đích của sự quan sát chuyển động nơi bụng là để giúp chúng ta hiểu được bản chất thật sự của thân mình. Khi quan sát sự chuyển động nơi bụng, chúng ta không những thấy những gì xảy ra ở bụng mà cũng đồng thời cảm nhận được những hiện tượng khác đang xảy ra trong toàn thân. Thi ền sinh chỉ cần kiên trì, tinh tấn quan sát, ghi nh ận chuyển động nơi bụng. Hơn thế nữa, khi thiền tập tiến bộ, thiền sinh sẽ thấy được bản chất của tâm với nhiều tr ạng thái khác nhau. Khi thiền tập càng tiến bộ, thiền sinh càng thấy các tr ạng thái của tâm mình rõ ràng hơn.
Đức Phật dạy mọi tr ạng thái trong thân và tâm của chúng ta sinh r ồi diệt liên tục và nhanh chóng vô cùng. Chúng ta chưa kinh nghiệm được điều đó vì mình chưa thực tập đầy đủ. Cũng như, khi chúng ta nhìn dòng sông, dòng sông dường như đứng yên, nhưng khi nhìn kỹ hơn, gần hơn, chúng ta sẽ thấy dòng sông đang trôi chảy không ngừng. Khi quan sát thân và tâm của mình, chúng ta cũng cảm nhận tương tự như vậy. Dòng tâm của mình trôi chảy, sinh diệt không ngừng trong mỗi phút giây. Tâm ghi nhận, các cảm giác trong thân và sự chuyển động nơi bụng cũng thay đổi không ngừng. Tuy nhiên, các thiền sinh mới bắt đầu có thể chưa thấy được sự thay đổi của chuyển động nơi bụng hay sự thay đổi trong tâm. Thiền sinh đừng nên lo lắng mà chỉ cần chuyên cần, tinh tấn, nhẫn nại quan sát chuyển động nơi bụng, hay phồng xẹp càng nhiều càng tốt. Khi chánh niệm và chánh định đủ mạnh, chúng ta sẽ tự nhiên thấy phồng xẹp ngày càng rõ ràng và thay đổi liên tục và r ất nhanh. Hơn thế nữa, chúng ta cũng 16
sẽ thấy các cảm giác xảy ra khắp nơi trong thân, và chúng cũng thay đổi không ngừng. Nói một cách khác, khi chánh niệm và chánh định đủ mạnh, chúng ta sẽ ghi nhận được nhiều đề mục khác nhau xảy ra trong thân, và bất cứ đề mục gì chúng ta ghi nh ận cũng thay đổi r ất nhanh và liên tục. Không phải chỉ có thân thay đổi mà tâm cũng thay đổi. Vì thế, trong khi thiền tập, thiền sinh sẽ thấy các đề mục mà mình đang quan sát trong thân và tâm thay đổi liên tục, nhanh chóng, không thể kiểm soát hay điều khiển được. Khi ghi nhận được sự thay đổi liên tục của các đề mục xảy ra trong thân và tâm, th ấy chúng đến r ồi đi, không có cái gì tồn tại lâu dài, thiền sinh kinh nghiệm được tính chất Vô thườ ng ( Aniccā ) của thân và tâm. Lại nữa, trong khi ghi nh ận đề mục, thiền sinh thấy r ằng các hiện tượng xảy ra trong thân và tâm chẳng hứng thú hay phù hợp với sự mong cầu của mình chút nào, khi đó, thiền sinh đang kinh nghiệm được tính chất Bất toại nguy ện (Dukkha) của thân và tâm. Thiền sinh cũng sẽ thấy r ằng mình không thể kiểm soát được đề mục nào sẽ đến, đến lúc nào hay ở lại bao lâu; như vậy, thiền sinh đang kinh nghiệm được tính chất Vô ngã (Anatt ā ) của thân và tâm. Chỉ khi nào tự mình kinh nghiệm được tính chất V ô thườ ng, Bất toại nguy ện, và Vô ngã của thân và tâm này, chúng ta mới từ bỏ được Tham ái (Taṇhā ). Taṇhā là tập khí ô nhiễm (Kilesa) tạo ra Ái d ục . Chính vì tập khí tham ái này mà ái dục tự nó phát sanh trong tâm mình khi chúng ta tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Và cũng chỉ khi nào tự mình kinh nghiệm được tính chất Vô thườ ng, Bất toại nguy ện 17
và Vô ngã, chúng ta mới từ bỏ được tập khí Ngã mạn ( Māna ). Cũng chính vì tập khí hay Kilesa ngã mạn này mà Tà ki ến phát sanh cho r ằng mình là chủ nhân của thân và tâm này, mình có th ể sai khiến chúng theo ý mình. Đức Phật dạy r ằng cái mà chúng ta g ọi là Ta hay Tôi thực ra chỉ gồm có 2 phần, đó là Thân ( Rūpa ) và Tâm ( Nāma ). Nói r ộng hơn, Đức Phật cũng dạy r ằng mỗi người chúng ta chỉ là một tập hợp của 5 yếu tố (Ngũ uẩn), đó là Sắc, Thọ, Tưở ng, Hành và Thứ c . Sắc là Thân; Thọ, Tưở ng, Hành, Thứ c thuộc v ề Tâm. Ngũ uẩn tự nó làm việc khi hội đủ nhân duyên, chúng ta không thể kiểm soát hay sai khiến chúng theo ý mình. Nói tóm lại, chỉ khi nào thật sự tự mình kinh nghiệm được tính chất Vô thườ ng, Bất toại nguy ện và Vô ngã của thân và tâm, chúng ta mới có thể giảm bớt hay từ bỏ hai tập khí (ô nhiễm): Tham ái và Ngã mạn. Chúng ta kinh nghi ệm được tính chất Vô thườ ng, Bất toại nguy ện và Vô ngã này là nhờ việc tự mình kinh nghiệm được bản chất thật sự của thân và tâm, đó là sự thay đổi liên tục của chúng. Một khi đã từ bỏ được hai tập khí Tham ái và Ngã mạn này, việc thiền tập của chúng ta đã tiến m ột bước đáng kể, và từ đây mọi việc sẽ dễ dàng trôi chảy hơn.
Đó là lý do tại sao Sư nói hành thiền Vipassanā là quan sát thân và tâm c ủa mình. Một khi thiền tập tiến bộ, chúng ta sẽ thấy các hiện tượng trong thân và tâm của mình thay đổi liên tục trong từng giây phút. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu mới hành thiền, chúng ta chưa kinh nghiệm được sự thay đổi này và cũng đừng mong cầu điều đó. Công vi ệc c ủa thi ền sinh chỉ đơn gi ản là kiên trì chánh ni ệm, chú tâm theo dõi sự chuy ển 18
động nơi bụng khi ng ồi thi ền; kiên trì chánh ni ệm, chú tâm theo di mi bướ c chân khi đi kinh hành; cũng như kiên trì chánh ni ệm chú tâm ghi nhận mi hoạt động trong mọi sinh hoạt hàng ngày . Một khi chánh niệm và chánh định vững vàng, thiền sinh sẽ tự nhiên kinh nghiệm được sự thay đổi liên tục của thân và tâm, và thật sự hưởng được lợi ích của việc thiền tập.
Hướ ng d ẫ n cách ng ồi thi ền
Quán thân
Bây giờ, Sư sẽ hướng dẫn các thiền sinh cách ngồi thiền. Trước tiên, Sư sẽ dùng những bức tranh này để trình bày cách ngồi thiền, và sau đó Sư sẽ ngồi thiền cho quý vị xem.
Trước khi ngồi thiền, chúng ta sẽ đứng như người đàn ông trong bức tranh. Chúng ta thấy người này đứng thoải mái, hai bàn tay khoan thai n ắm lại với nhau ở phía trước. Khi đang đứng trong tư thế này, chúng ta phải ghi nhận r ằng mình “đang đứng, đang đứ ng ”. Điều quan tr ọng là mình phải ghi nhận tư thế đứng bằng tâm, chứ không phải bằng mắt. Rồi chúng 19
ta từ từ đi đến chỗ mình ngồi thiền. Trong khi đi, chúng ta phải chánh niệm ghi nhận “trái, phải, trái, phải”. Khi đến trước tọa cụ ngồi thiền, thiền sinh đừng ngồi hay quỳ xuống ngay, mà phải chánh niệm ghi nhận “đứ ng, đứ ng ” trước khi ngồi hay quỳ xuống. Khi ngồi hay quỳ xuống, thiền sinh phải chánh niệm ghi nhận các cử động của mình như thân từ từ hạ xuống, hai chân co lại, có các cảm giác gì đó trong thân. Để đảnh lễ Đức Phật trước khi ngồi thiền, chúng ta chánh ni ệm, nhẹ nhàng chấp tay, chậm rãi đưa hai bàn tay lên trước trán, khoan thai cúi mình xu ống cho đến khi đầu chạm sàn nhà, r ồi từ từ nhấc người lên (làm như thế 3 l ần).
Sau khi đảnh lễ xong, chúng ta ngồi thiền như người đàn ông trong bức tranh này. Người này ngồi xếp bằng trong tư thế bán già với chân phải để trên chân trái. Thiền sinh cũng có thể ngồi xếp bằng theo kiểu người Miến Điện với chân phải và chân trái không gác lên nhau mà chân ngoài, chân trong song song v ới nhau. Thiền sinh không bắt buộc phải ng ồi trong tư thế kiết già. Sau đó, thiền sinh giữ cho đầu và thân ngay ngắn nhưng thoải mái, r ồi từ từ nhắm mắt lại. Như thế, chúng ta phải chánh niệm quan sát, ghi nhận mọi cử động như khi đưa tay lên, khi chấp tay lại, ngay cả khi nhắm mắt lại. Sau khi nhắm mắt, chúng ta ngồi ngay ngắn, thoải mái, để hơi thở tự nhiên, chánh niệm hướng tâm về bụng, r ồi chú tâm quan sát, ghi nhận b ất cứ chuyển động nào đang xảy ra ở b ụng. Khi Sư nói bụng ( trong ti ếng Anh g ọi là abdomen), nghĩa là Sư muốn nói đến phần bụng ngay dưới r ốn. Cũng như khi Sư nói để hơi thở t ự nhiên, nghĩa là để thân mình thở t ự nhiên, đừ ng ép nó thở mạnh hơn hay yếu hơn. 20
Thân mình lúc nào cũng thở tự nhiên. Khi hấp tấp hay lo sợ, hơi thở mạnh; khi an lạc hay bình an, hơi thở nhẹ nhàng. Thiền sinh sẽ c ảm thấy bụng phồng lên khi hơi thở vào; hãy chánh niệm ghi nhận trong tâm “ phồng, phồng ”. Tương tự, khi hơi thở ra, thiền sinh sẽ cảm thấy bụng xẹp xuống; hãy chánh ni ệm ghi nhận “ x ẹ p, x ẹ p”. Nếu muốn, thiền sinh có thể niệm thầm “ phồng x ẹ p, phồng x ẹ p”. Chúng ta phải liên tục ghi nhận mỗi chuyển động phồng hay xẹp ngay từ lúc nó bắt đầu cho đến khi nó chấm dứt; đừng theo hơi thở từ lỗ mũi xuống bụng, mà chỉ cần để tâm tại phần bụng ngay dưới r ốn. Một lần nữa, Sư nhắc l ại, thi ền sinh phải để hơi thở t ự nhiên, khi thân thở vào, c ảm thấy bụng phồng lên, hãy ghi nhận hay ni ệm “phồng”; khi thân thở ra, c ảm thấy b ụng x ẹ p xuống, hãy ghi nhận hay ni ệm “xẹp”. Thi ền sinh đừng chú tâm vào l mũi, cũng đừ ng chạy theo hơi thở t ừ mũi xuống ng ực đến bụng, mà chỉ c ần chú tâm bụng ngay dướ i r ốn, và ghi nhận “phồng x ẹ p, phồng x ẹp” . Vài thiền sinh có thể ghi nhận được sự phồng xẹp khá rõ ràng, nhưng một số thiền sinh khác thì chưa ghi nhận được chuyển động nào, hay chỉ ghi nhận được một cách yếu ớt, r ời r ạc. Tuy nhiên, quý vị nhớ đừng làm thêm điều gì khác, như cố ý thở mạnh hơn hay nhanh hơn cho phồng xẹp dễ ghi nhận hơn, hay liên tục để tay trên bụng. Thiền sinh phải hiểu r ằng khi chưa ghi nhận được chuyển động nơi bụng hay thấy chuyển động yếu ớt, là vì tâm của mình chưa chịu hướng về bụng đủ lâu và liên tục, hay chánh niệm chưa đủ mạnh. Thiền sinh chỉ cần kiên nhẫn, kiên trì giữ tâm ở bụng. Khi tâm phóng đi hay suy nghĩ, mình 21
chỉ cần nhẫn nại kéo nó về. Nó đi nữa, mình lại kiên nhẫn kéo nó về. Điều này r ất quan tr ọng. Nếu kiên trì thực tập, chúng ta sẽ thấy chánh niệm và chánh định của mình ngày càng m ạnh hơn, và khi nó đủ mạnh thì chúng ta sẽ tự nhiên thấy phồng xẹp, hay sự chuyển động của bụng. Chỉ giản dị như vậy! Một số thiền sinh khác lại chỉ mong được thấy phồng xẹp rõ ràng ngay theo s ự hiểu biết thô sơ về phồng xẹp của mình. Cho nên, khi họ chưa thấy phồng xẹp hay thấy phồng xẹp yếu ớt, r ời r ạc, hay không đúng với ước muốn, họ tr ở nên chán nản. Nói một cách khác, họ đang mong cầu một điều gì khác, họ không hiểu nguyên tắc, họ không thật sự hành thiền Vipassanā. Nếu họ cứ mong cầu, r ồi bất mãn như thế, thì họ không thể nào chú tâm liên tục vào nơi bụng, mà nếu không giữ tâm nơi bụng liên tục được thì không làm sao thấy được phồng xẹp. Kết quả là họ tr ở nên buồn bực, m ệt mỏi, chán nản, m ất t ự tin, r ồi tr ở nên giải đãi. Đó là lý do tại sao thiền sinh cần phải nắm vững nguyên tắc căn bản khi hành thiền: dù thấy chuyển động phồng xẹp mạnh hay yếu, rõ ràng hay r ời r ạc, hay chưa thấy chuyển động, chúng ta chỉ cần tiếp tục kiên trì chú tâm thuần túy, ghi nhận b ất cứ điều gì đang xảy ra nơi bụng.
Sư nhắc l ại một l ần nữa, tuy Sư dùng danh từ phồng x ẹ p cho d ễ hi ểu, nhưng trong thự c t ế sự chuy ển động nơi bụng không phải lúc nào cũng là phồng x ẹ p gi ống như khi quý vị để tay trên bụng. Tùy theo trình độ thi ền t ậ p c ủa mình, mi thiền sinh sẽ kinh nghi ệm sự chuy ển động nơi bụng một cách khác nhau. Thi ền sinh 22
thự c t ậ p lâu có thể kinh nghi ệm r ất nhi ều tr ạng thái chuy ển động hay phồng x ẹp khác nhau, chúng thay đổi liên t ục, và chúng r ất khác v ới nhữ ng gì họ hi ểu v ề phồng x ẹp lúc ban đầu. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu, chúng ta r ất có thể chỉ mới thấy một tr ạng thái phồng xẹp nào đó, và nó cứ lặp đi lặp lại. Bất cứ tr ạng thái phồng xẹp loại nào, mạnh hay yếu, nhanh hay chậm, thay đổi hay không, chúng ta chỉ cần chánh niệm chú tâm, kiên trì ghi nhận nó, bám chặt vào nó, mà đừng mong cầu, đừng so sánh, đừng phán đoán.
Theo kinh Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭ hanā ), khi hành thiền Vipassanā, thiền sinh phải chánh niệm quán sát, ghi nhận bất kỳ đề mục gì nổi bật nhất đang xảy ra trong 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, hay Pháp. Tuy nhiên, trong khi thự c hành thi ền Vipassanā theo phương pháp này, và trong giai đoạn này, thi ền sinh đừ ng bận tâm v ề quán Thọ, quán Tâm hay quán Pháp, mà chỉ c ần chú tâm quán thân, l ấy chuy ển động phồng x ẹp làm đề mục chính. Khi chúng ta hiểu đúng phương pháp, nắm vững nguyên tắc, và kiên trì thiền tập theo lời hướng dẫn, thì việc thiền tập tiến bộ, khi đó, quý vị sẽ thấy phồng xẹp rõ ràng, cũng sẽ tự nhiên, đồng thời ghi nhận được những đề mục khác cùng sanh kh ởi trong các đối tượng quán Thọ, quán Tâm và quán Pháp. Nói một cách ngắn gọn, phồng xẹp chỉ là phương tiện giúp thiền sinh dùng để quán thân, và khi cửa quán Thân đã mở thì các cửa quán Thọ, quán Tâm, quán Pháp cũng cùng được mở. Trong giai đoạn này, nếu thiền sinh cứ lăng xăng quán đối tượng này r ồi nhảy qua quán đối tượng nọ, thì phồng xẹp cũng 23
không sao thấy rõ được, chứ đừng nói chi quán Thọ, quán Tâm, hay quán Pháp. Chỉ giản dị như vậy!
Quán tâm
Do đó, Sư cứ luôn nhắc thiền sinh là chỉ cần chánh niệm kiên trì ghi nhận chuyển động phồng xẹp thật cẩn th ận. Một khi thiền t ập tiến b ộ, thiền sinh cũng sẽ tự nhiên thấy được tâm mình. Làm sao thi ền sinh bi ết mình thấy đượ c tâm c ủa mình? Thỉ nh thoảng, trong khi đang ghi nhận phồng xẹp, tâm phóng đi nơi khác mà mình không bi ết. Đến khi ý thức được r ằng mình đang suy nghĩ, đang tính toán chuyện tương lai, đang nhớ chuyện quá khứ, đó là lúc tâm mình không còn quan sát phồng xẹp hay quán thân nữa. Lúc đó, nếu chúng ta chánh ni ệm ghi nhận, quan sát sự suy nghĩ, tính toán, nhớ chuyện quá khứ là chúng ta đang quán tâm; hay nói cách khác, tâm ta tự động đổi từ quán thân qua quán tâm. Khi chánh ni ệm càng phát triển, thiền sinh sẽ ý thức sự phóng tâm càng mau lẹ và thấy tâm mình ngày càng nhiều. Khi sự suy nghĩ, tính toán hay phóng tâm đang x ảy ra, thi ền sinh có 2 cách x ử lý :
-
Thứ nhất, thiền sinh có thể kiên trì quan sát, ghi nhận sự phóng tâm, suy nghĩ hay tính toán cho đến khi nó biến mất, r ồi tr ở về đề mục phồng xẹp.
- Nếu quán sát một lúc lâu mà những đề mục này không biến mất hay cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, thiền sinh hãy quay về với đề mục phồng xẹp. Khi sự thiền tập vững vàng, thiền sinh sẽ khám phá ra r ằng lúc chánh ni ệm và chánh định đủ mạnh, khi thấy phồng xẹp rõ ràng thì sự suy nghĩ, phóng tâm hay 24
tính toán ngày càng ít x ảy ra. Nói một cách khác, khi thấy tâm mình cứ suy nghĩ, tính toán, phóng đi nơi này nơi nọ, đó là lúc chúng ta không thật sự chú tâm vào đề mục phồng xẹp. Do đó, chúng ta phải cố gắng chánh niệm chú tâm vào nơi bụng nhiều hơn. Cũng có khi chúng ta vừa mới ghi nhận sự phóng tâm hay suy nghĩ thì nó đã biến mất. Trong trường hợp này, chúng ta không cần bận tâm về nó, mà cứ tiếp tục quan sát phồng xẹp.
Quán thọ
Bây giờ, Sư sẽ nói đến các đề mục phụ khác liên quan đến quán thọ và quán pháp mà thiền sinh sẽ gặp phải trong khi quý vị đang theo dõi phồng xẹp. Trong khi ngồi thiền, đang cố gắng theo dõi phồng xẹp, chúng ta có thể cảm thấy toàn thân hay m ột phần trong thân phát nóng, l ạnh, tê, cứng, đau, nhức, vọp bẻ, hay nặng trĩu; có khi cảm thấy thân mình lắc lư, đẩy qua, đưa lại, bị nghẹt thở, hay bị giựt…. Chúng ta gọi các cảm giác này là đề mục phụ, để phân biệt với đề mục chính là phồng xẹp hay chuyển động nơi bụng. Khi những đề mục phụ không rõ ràng, thiền sinh chỉ cần ghi nhận chúng, r ồi tiếp tục kiên trì chú tâm vào đề mục phồng xẹp. Tuy nhiên, nếu cảm thấy sự nóng, lạnh, đau, nhức, tê, cứng, ngứa, hoặc khó chịu rõ ràng hơn sự phồng xẹp khiến mình không thể chú tâm vào phồng xẹp được, thì quý vị có thể chánh niệm quan sát, ghi nhận các đề mục phụ này. Khi quan sát chúng, cũng có 2 cách để ứng phó. Chúng ta có th ể chánh niệm và kiên trì quan sát chúng cho đến khi chúng bi ến mất. Nhưng nếu chúng cứ tiếp tục khá lâu mà không bi ến 25
mất, hay cứ lặp đi lặp lại, chúng ta có thể quay lại quan sát đề mục chính phồng xẹp. Như thế, trong lúc ngồi thiền, thiền sinh sẽ kinh nghiệm nhiều cảm thọ kỳ lạ khác nhau; Có khi, mình th ấy mình nghẹt thở, có khi toàn thân tê cứng, nhức nhối chỗ này, chỗ nọ. Đừng hoảng sợ và cũng đừng mở mắt ra xem thân thể mình có ra sao không! Chúng ta cứ chánh niệm, kiên trì, chú tâm quan sát, ghi nhận những cảm thọ này. Sở dĩ, các cảm thọ này xảy ra là vì sự chú tâm của chúng ta vào phồng xẹp chưa được vững vàng lắm, nên tâm mình mới có thể đồng thời thấy sự chuyển động của gió ở những nơi khác trong thân. Sự chuyển động của gió tạo ra các cảm thọ này. Có khi chúng ta cảm thấy đau nơi ngực, khó chịu trên đầu, các chuyển động quặn thắc đi lên, đi xuống, từ bụng lên ngực, từ ngực xuống bụng, toàn thân cứng đơ, hay bị nghẹt thở. Không có gì nguy hi ểm cả! Thiền sinh không có bệnh gì cả.
Đây chỉ là những kinh nghiệm thiền tập đương nhiên xảy ra, và cần thiết cho sự tiến bộ. Thật ra, những chuyển động và cảm thọ này lúc nào cũng hiện diện trong thân của mình, mà chúng ta không thường xuyên hay biết. Còn bây giờ, nhờ chánh niệm nên chúng ta mới ghi nhận được chúng. Nói một cách khác, khi chánh niệm bắt đầu phát triển nhưng chưa đủ mạnh để vượt qua các cảm giác này, chúng ta cứ yên tâm thiền tập, không có gì phải lo sợ. Sư nhắc l ại một l ần nữ a là vì chánh ni ệm chưa đượ c v ữn g vàng l ắm nên tâm chúng ta chưa an trụ liên t ục trên chuy ển động phồng x ẹ p ở bụng đượ c, và do 26
đó, chúng ta mớ i c ảm thấy chuy ển động c ủa gió ở những nơi khác nhau trong thân . Kinh điển Pā ḷ i có nói đến 6 loại gió. Một loại gió mà quý vị hay nghe đến là Ānāpāna, hay gió đi qua lỗ mũi. Một loại gió khác đi từ bụng lên ngực gọi là Uddhangamā. Gió đi từ ngực xuống bụng gọi là Adhogamā. Một loại gió khác ở tại bụng, ngay dưới r ốn. Một loại gió khác ở trong các bộ phận của thân như tim hay gan. Và một loại gió khác nữa di chuyển khắp nơi trong thân. Khi quan sát ph ồng xẹp, chúng ta quan sát chuyển động của gió ở trong bụng, ngay nơi dưới r ốn. Vì vậy, chúng ta phải chánh niệm kiên trì giữ tâm ngay tại đây. Nếu sự chú tâm của mình ở nơi bụng không đủ mạnh, phồng xẹp ở bụng sẽ yếu ớt và r ời r ạc, chúng ta sẽ cảm nhận chuyển động của gió ở nhiều nơi khác trong thân rõ ràng hơn phồng xẹp. Ngược lại, khi chánh niệm vững vàng, chúng ta sẽ thấy phồng xẹp rõ ràng hơn. Trong khi ngồi thiền, có người th ấy chuyển động của gió ở trên ngực; có người thấy nó ở cổ, lại có khi thấy nó ở trán hay mắt; lúc thấy nó ở trên đầu, lúc thấy ở cánh tay, khi thấy ở đùi, hay ở bàn chân. Nếu thiền sinh cứ chạy theo những cảm thọ này, từ nơi này đến nơi khác, thì chánh niệm và chánh định không thể nào phát triển cho đủ mạnh được. Cho nên, thiền sinh chỉ cần kiên trì chú tâm vào phồng xẹp.
Sư nhắc l ại mục đích của thi ền Vipassanā là để thấy đượ c bản chất thật sự c ủa thân và tâm mình. Bản chất đó là thân và tâm luôn thay đổ i liên t ục không ng ừn g. Muốn thấy được điều đ ó, thi ền sinh phải có 27
chánh ni ệm và chánh định đủ mạnh. Thiền sinh phải hiểu r ằng trong khi hành thi ền, nếu thấy thân mình lắc lư, đẩy qua, đưa lại, hay cứ mở mắt là vì sự chú tâm của mình trên đề mục chính phồng xẹp chưa được vững vàng. Đó cũng là lý do thiền sinh thấy những đề mục phụ khác như ngực bị đau, tê, hay nghẹt thở. Cho nên khi ngồi thiền, thiền sinh phải cố gắng chánh niệm chú tâm quan sát, ghi nh ận đề mục chính phồng xẹp nơi bụng. Nhờ sự kiên trì này mà chánh niệm, chánh định ngày càng mạnh hơn, thiền sinh thấy phồng xẹp ngày càng rõ hơn, và những cảm th ọ khó chịu s ẽ t ừ từ ít dần, r ồi không còn nữa.
Quán pháp
Cũng trong khi ngồi thiền, có người thấy trong tâm mình hiện lên hình ảnh người này, người nọ, hay cảnh đồi núi sông hồ, màu sắc, hình ảnh Đức Phật, mây bay trên tr ời, bộ xương người, hay thân mình nằm chết…; Lúc khác thì thiền sinh nghe như có ai gọi mình hay nói chuyện với mình, hay nghe ti ếng người nói văng vẳng đâu đây. Có người thì ngửi thấy mùi hương lạ, hay nếm thấy vị gì trong miệng, hay cảm thấy như có ai đụng mình. Khi kinh nghi ệm những đề mục phụ này, thiền sinh cũng có thể quan sát, ghi nhận chúng ngay khi chúng xảy ra, r ồi quay về đề mục chính. Thiền sinh cứ yên tâm thiền tập, đừng thích thú với nó, cũng đừng lo sợ nó. T ại sao các đề mục thấy, nghe, ng ửi , nếm, xúc chạm này c ứ l ặp đi lặ p l ại hoài? Đó là vì sự chú tâm của mình trên đề mục chính phồng xẹp chưa đủ mạnh. Thiền sinh phải kiên trì chánh niệm thuần túy, ghi nhận phồng xẹp từng giây, từng phút, và mỗi khi tâm phóng 28
đi nơi khác thì chỉ cần kiên nhẫn kéo nó tr ở về. Điều này r ất cần thiết để phát triển chánh niệm và chánh định ngày càng m ạnh hơn. Một khi chánh niệm và chánh định đủ mạnh, quý vị sẽ thấy phồng xẹp ngày càng rõ ràng hơn và những đề mục phụ như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ ngày càng ít dần, và nếu có xuất hiện thì không ở lâu và không lặp đi lặp lại. Thế nên, nếu chúng ta còn sợ đau, sợ nóng, sợ lạnh, sợ tê, sợ nhức, sợ bị vọp bẻ, sợ hình ảnh, hay sợ bất kỳ kinh nghiệm gì xảy ra trong khi ngồi thiền, thì mình sẽ mất nhiều thời gian lắm mới tiến bộ. Ngược lại, nếu chúng ta hiểu nguyên tắc hành thiền, kiên trì chú tâm ghi nhận đề mục khi nó xuất hiện, không hoảng sợ, cũng không mong cầu, thì mình có thể bắt đầu kinh nghiệm được các tuệ minh sát trong vòng vài ngày hay vài tuần. Còn nếu mình không làm đúng theo lời hướng dẫn, không tin vào phương pháp, không kiên trì, thiếu nhẫn nại, thì dù chúng ta có thi ền tập 5 năm, 10 năm, hay 20 năm cũng không có kết quả gì đáng kể. Tóm l ại, để thi ền t ậ p mau có k ết quả, thi ền sinh phải hi ểu đúng phương pháp, nắm v ữn g nguyên t ắc, r ồi kiên trì thi ền t ập đúng theo lời hướ ng d ẫn. Chỉ gi ản d ị như vậy! Khi chúng ta thi ền tập là chúng ta luyện thân và tâm của mình. Cho nên nếu quý vị còn sợ chết, sợ đau, hay hoảng sợ khi kinh nghiệm những điều mới lạ xảy ra trong thân và tâm, thì vi ệc thiền tập sẽ khó tiến bộ lắm. Trong khi ngồi thiền, nếu thấy thân cứng ngắc, không cử động được, không có cảm giác gì, hay thấy nghẹt thở, đau nhức, ngứa ngáy, hay quặn thắc trong 29
bụng, quý vị chớ hoảng sợ cho r ằng mình bị bệnh, r ồi đi tìm thuốc để uống, hay xin đi gặp bác sĩ, hay xin nghỉ thiền t ập vài hôm. Thật ra, trong kinh điển, Đức Phật ví mình như là một thầy thuốc đại tài (Maha-Bhisaka), vì phương pháp của ngài có thể chữa tuyệt nh ững chứng bệnh trong thân và tâm của mình. Thế nên, nếu chúng ta tin vào Đức Phật, tin vào lời dạy của ngài, thì chúng ta phải có một sự quyết tâm mạnh mẽ mà đừng hoảng sợ khi kinh nghiệm những sự khó chịu lúc hành thiền.
Thay vào đó, chúng ta phải kiên trì quan sát, ghi nhận bất cứ điều gì xảy ra trong thân và tâm c ủa mình, dù nó có khó chịu đến đâu, để giữ cho chánh ni ệm và chánh định được liên tục, và ngày càng mạnh mẽ. Thiền sinh đừng thay đổi điều gì để làm cho mình b ớt đau hay dễ chịu hơn, vì như vậy chánh niệm và chánh định sẽ bị gián đoạn, không liên tục. Nếu thiền sinh làm được điều này thì tuệ minh sát sẽ phát triển mau lẹ, trí tuệ hiểu biết Vipassanā ngày càng rõ ràng hơn, hành thiền càng đúng hơn và càng có nhiều tiến bộ hơn.
Sư nhắc l ại một l ần nữ a công vi ệc chính c ủa thi ền sinh là kiên trì chú tâm quan sát, ghi nhận sự chuy ển động phồng x ẹ p ở bụng, ngay ch dướ i r ốn, càng sít sao càng t ốt, càng liên t ục càng t ốt, dù khó ch ịu đến đâu, và tránh đừ ng mong c ầu, đừ ng phán đoán. Một khi chánh niệm và chánh định đủ mạnh, tâm mình cũng sẽ tự nó quan sát và ghi nh ận được bất cứ đề mục nào khác hiện ra trong thân và tâm. Nói m ột cách khác, lúc thiền sinh thấy phồng xẹp được rõ ràng là lúc việc thiền tập đang tiến bộ và nếu kiên trì, sẽ tiến 30
xa hơn nữa, và đến một lúc nào đó, Sư sẽ không cần các thiền sinh trình pháp v ề phồng xẹp của mình nữa.
Sư nhắc l ại một l ần nữa là trong giai đoạn đầ u, khi ng ồi thi ền, thi ền sinh phải kiên trì, tinh t ấn quan sát đề mục chính là chuy ển động phồng x ẹp nơi bụng. Khi thi ền t ậ p ti ến bộ, thi ền sinh có thể quan sát các đề mục phụ khác nếu các đề mục phụ này nổi bật hay rõ ràng hơn phồng x ẹ p. Các đề mục phụ có thể là phóng tâm, suy nghĩ, đau, ngứa, tê cứng, nóng, lạnh; hay thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm. Khi những đề mục phụ này biến mất, hay sau một lúc mà nó không chịu đi, thì thiền sinh quay về với đề mục chính phồng xẹp. Mỗi thời thiền, thiền sinh phải ngồi ít nhất 1 giờ. Hết thời ngồi thiền, thiền sinh không được mở mắt ra ngay, mà phải chánh niệm khi mở mắt. Ngay cả lúc nghe tiếng chuông hay đồng hồ, thiền sinh cũng phải ghi nhận “nghe, nghe”, và phải chánh niệm ghi nhận tác ý muốn mở mắt, mở tay, và đứng dậy. Lúc đứng lên, thiền sinh phải chánh niệm ghi nhận “đứ ng lên, đứ ng lên”. Nói một cách khác, thiền sinh phải chánh niệm ghi nhận tất cả mọi cử động trong thân và tác ý trong tâm, càng nhiều càng tốt, càng chặt chẽ càng tốt. Đây là phương pháp thiền tập mà thiền sinh cần phải làm theo, không có cách nào khác. Bây gi ờ, Sư sẽ ng ồi thi ền cho quý v ị xem:
Từ chỗ này, Sư sẽ chậm rãi đi đến chỗ ngồi thiền. Đến nơi, Sư không ngồi xuống ngay mà đứng yên một lúc. Từ từ, Sư quỳ xuống, chậm rãi chấp hai tay đưa lên trước trán. Sư đảnh lễ Đức Ph ật 3 lần. Mỗi lần đảnh lễ, đầu, hai bàn tay, hai cùi chỏ của Sư đều chạm sàn nhà, r ồi Sư chậm rãi kéo người lên. Đảnh lễ 31
xong, Sư chậm rãi ngồi trên tọa cụ, hai chân bắt chéo. Kế đến, Sư chậm rãi đưa cả hai tay lên nhẹ nhàng lấy kính đeo mắt ra, để kính trên sàn nhà tr ước mặt mình. Nhẹ nhàng, Sư điều chỉnh thân hình và đầu cho thẳng thắn, để hai bàn tay ngửa và chồng lên nhau, bàn tay để trên chân. Rồi Sư chậm rãi nhắm mắt, để hơi thở tự nhiên, thân hình thoải mái, theo dõi sự chuyển động nơi bụng. Sau khi ngồi thiền xong, Sư sẽ từ t ừ mở m ắt ra, chậm rãi mở hai bàn tay ra, đặt bàn tay trên đầu gối. Chậm rãi và nhẹ nhàng, Sư dùng hai tay cầm kính đeo mắt lên, đeo kính vào. Khi đảnh lễ Đức Phật, chúng ta phải làm trong chánh niệm và ý thức từng cử động của mình. Không cần phải cố ý làm thật chậm! vì khi cố ý làm chậm như vậy, chúng ta có thể không thật sự chánh niệm, mà chỉ điều khiển các động tác của mình. Trong thiền Vipassanā không có điều khiển, mà chỉ thuần túy ghi nhận. Chúng ta chỉ cần chậm rãi, tự nhiên, và chánh niệm là được. Điều quan tr ọng là khi đảnh lễ, chúng ta phải chánh niệm ghi nhận từng động tác của mình ngay khi nó đang xảy ra, chứ không phải là suy nghĩ về nó trước khi nó xảy ra, hay ghi nhận nó sau khi nó đã xảy ra r ồi. Sau khi đảnh lễ xong, chúng ta ngồi xuống trong tư thế ngồi thiền thích hợp với mình. Nếu cần tháo kính đeo mắt ra, quý vị phải chậm rãi dùng hai tay nh ẹ nhàng tháo kính ra, và chánh ni ệm ghi nhận từng cử động của hai bàn tay, r ồi nhẹ nhàng sửa thân mình và đầu cho ngay ngắn, nhưng thoải mái, chánh niệm nhắm mắt lại, hướng tâm về bụng nơi dưới r ốn, để hơi thở tự nhiên. Khi hơi thở đi vào, cảm thấy bụng phồng lên, thiền sinh niệm thầm trong tâm 32
“ phồng ”. Khi hơi thở đi ra, cảm thấy bụng xẹp xuống, thiền sinh niệm thầm trong tâm “ x ẹ p”. Như Sư đã giảng giải ở trước, thiền sinh chỉ cần chú tâm kiên trì ghi nhận phồng, xẹp càng chặt chẽ càng tốt, càng liên tục càng tốt, mà không lý luận hay phân tích. Khi nghe tiếng chuông hay đồng hồ chấm dứt thời thiền, chúng ta phải kịp thời ghi nhận hay niệm thầm trong tâm “nghe, ng he”, sau đó cố gắng ghi nhận tác ý muốn mở mắt, r ồi mới từ từ chánh niệm mở mắt. Khi mang kính đeo mắt vào, chúng ta cũng phải làm chậm rãi nhẹ nhàng và chánh ni ệm ghi nhận từng cử động của hai bàn tay. Khi giơ tay lên, chúng ta phải chánh niệm ghi nhận động tác này. Khi có tác ý muốn đứng lên, chúng ta phải kịp thời ghi nhận tác ý đứng lên và từng cử động trong khi đứng lên và niệm trong tâm “đứng lên, đứ ng lên”. Khi đứng thẳng người, hãy niệm “đứng, đứ ng ”, và ghi nhận tác ý trước khi bước đi. Thi ền Vipassanā đòi hỏi thi ền sinh phải c ố g ắng chánh ni ệm ghi nhận, quan sát t ừn g c ử động, càng liên t ục càng t ốt, càng sít sao càng t ốt, và ngay khi nó đang x ảy ra.
Hướ ng d ẫn đi kinh hành
Sau khi ngồi thiền xong, quý vị đi kinh hành 1 giờ. Từ chỗ ngồi đến chỗ đi kinh hành, quý vị phải đi chậm rãi, chánh ni ệm ghi nhận “chân phải bướ c, chân trái bướ c ”. Khi đi, quý vị có thể chắp hai tay lại để ở phía trước bụng hay sau lung, mắt nhìn xuống đất khoảng 1 mét trước mặt. Bây gi ờ, Sư sẽ đi kinh hành cho quý vị xem: 33
Từ tư thế ngồi, Sư sẽ chậm rãi, nhẹ nhàng chống một tay xuống sàn nhà để nh ổm người d ậy; sau đó, Sư chống hai tay vào hai đầu gối nhẹ nhàng đẩy người thẳng lên. Sư nhẹ nhàng kéo lại y áo cho ngay thẳng, r ồi đứng yên một chút, cánh tay thòng xuống, hai bàn tay chắp lại với nhau ở phía trước, r ồi chậm rãi quay người, bước đến chỗ đi kinh hành. Sư đi từng bước một, mỗi bước hay đạp rõ ràng, không quá ch ậm. Khi một bàn chân ch ạm đất hoàn toàn, bàn chân kia mới dở lên.
Khi đi kinh hành, Sư bước chậm rãi hơn lúc đi bình thường, nhưng không quá chậm. Thân và đầu thẳng nhưng thoải mái. Tay vẫn chắp vào nhau và mắt nhìn xuống. Hết đoạn đường kinh hành, Sư chậm rãi dừng lại, đứng yên một lúc; từ từ xoay lại, đứng yên một lúc, r ồi bắt đầu chậm rãi bước đi trở lại. Sư đi chậm rãi, mỗi bước rõ ràng. Đoạn đường đi kinh hành dài khoảng 10 đến 20 bước là đủ. Khi đi kinh hành 1 giờ, thiền sinh nên chia thời gian ra làm 3 phần: Trong 20 phút đầu, chúng ta ghi nhận “chân phải bước, chân trái bướ c ”. Chúng ta phải ghi nhận mỗi cử động ngay từ khi nó bắt đầu cho đến khi nó chấm dứt. Thiền sinh phải nhớ là chánh niệm ghi nhận bằng tâm, chứ không phải nhìn bằng mắt. Trong 20 phút tiếp theo, thiền sinh ghi nhận “chân phải d ở đạ p, chân trái d ở - đạ p” . Trong 20 phút cuối cùng, thiền sinh ghi nhận “ chân phải d ở - bướ c - đạ p, chân trái d ở - bướ c - đạ p” . Trước khi bắt đầu đi, thiền sinh phải ghi nhận thân mình đang đứng, niệm “đứng, đứ ng ”. Khi đi kinh hành, điều quan tr ọng là mình phải tránh đừ ng ki ểm soát 34
bước đi, cũng đừng điều khi ển bước đi theo ý mình mà chỉ c ần đi như khi đi bình thường, nhưng chậm hơn một chút, r ồi chánh ni ệm ghi nhận mi cử động c ủa bàn chân. Sư nhắc một l ần nữ a, quý v ị không đượ c điều khi ển bước đi, mà chỉ chánh ni ệm, thuần túy ghi nhận mi bước đi của mình. Khi đi đến cuối đoạn đường kinh hành, quý vị đừng quay người lại ngay mà hãy đứng yên một lúc, nhưng không quá lâu, ghi nhận “đứng, đứ ng ”. Rồi quý vị chậm rãi quay người lại, trong khi quay ghi nh ận “quay, quay ”. Quay xong, quý vị đừng đi ngay, hãy đứng yên một lúc, ghi nhận “đứng, đứ ng ” và cảm nhận những gì đang xảy ra trong toàn thân. Nếu không thấy có cảm giác gì thì chỉ ghi nhận “đứng, đứ ng ”. Hãy nhớ là ghi nhận bằng tâm, chứ không phải nhìn bằng mắt! Đừ ng tìm ki ếm một cái gì đặc bi ệt, mà chỉ ghi nhận cái gì x ảy ra! Trong khi đi, nếu tâm phóng chạy vì suy nghĩ, thấy, nghe, hay ngửi,…., hãy chánh niệm kéo tâm về việc đi kinh hành. Nếu quý vị thấy chân trái đạp xuống chưa xong mà chân phải đã dở lên r ồi, là vì ngay trong lúc đó, mình không thật sự có chánh niệm. Và khi ý thức là mình vừa m ới thất niệm, thì ngay lúc đó, quý vị có chánh niệm tr ở lại. Chỉ giản dị như vậy! Trong vòng 20 phút thứ nhì, quý vị theo dõi bước đi sâu sắc hơn và niệm “d ở - đạ p”. Khi bàn chân ph ải dở lên, ta ghi nhận “d ở” ; khi bàn chân phải đạp xuống, ta ghi nhận “đạ p”. Tương tự như vậy, khi bàn chân trái d ở, ta ghi nhận “d ở” ; khi bàn chân trái đạp, ta ghi nhận “đạ p”. Khi dở bàn chân, quý vị đừng tìm kiếm cái gì đặc biệt mà chỉ ghi nhận là bàn 35
chân đang nhấc lên. Tương tự như vậy, khi đạp bàn chân, chỉ cần ghi nhận là bàn chân đang đạp. Khi chánh niệm và chánh định tiến bộ, quý vị sẽ thấy mỗi cái dở hay đạp ngày càng rõ ràng và nhi ều chi tiết hơn. Cho nên, khi đi kinh hành, chúng ta chỉ cần chú tâm ghi nhận bước đi của mình. Khi đến hết đoạn đường kinh hành, mình dừng lại một lúc, nhưng không lâu lắm, ghi nhận “đứng, đứ ng ”, rồi chậm rãi quay người lại, trong khi quay người ghi nhận “quay, quay ”. Khi đi kinh hành, chúng ta ph ải chánh niệm chờ cho cả một bàn chân hoàn toàn ch ạm xuống đất trước khi dở bàn chân kia. Khi d ở bàn chân trái lên, mình phải chờ cho đến khi bàn chân này bước tới xong, r ồi cả bàn chân chạm xuống đất trước khi mình dở bàn chân phải lên. Sau đó, chúng ta mới dở bàn chân phải lên, chờ cho đến khi bàn chân bước tới xong, r ồi cả bàn chân chạm xuống đất trước khi mình dở bàn chân trái lên. Nói thì dài dòng, nhưng trong thực tế bước chân chuyển động chậm rãi nhưng liên tục. Trong khi đi, nếu chúng ta kiên trì quan sát, ghi nhận từng cử động của bàn chân, chánh ni ệm và chánh định sẽ phát triển nhanh chóng. Đừ ng tìm ki ếm một điều gì hay một c ảm thọ nào mà chỉ thuần túy ghi nhận bàn chân đang dở lên, bàn chân đang đạ p xuống! Và nếu trong khi đi nếu có cảm thọ nào nổi lên trong thân, hay suy nghĩ nào xảy ra trong tâm, hay nghe m ột âm thanh gì…, thì quý vị chỉ cần ghi nhận chúng r ồi quay về bước chân. Khi đến cuối đoạn đường kinh hành, chúng ta dừng lại, niệm “đứng, đứ ng ” và khi quay người, niệm “quay, quay ”. 36
Bây giờ, Sư hướng dẫn kinh hành với 3 động tác: d ở - bướ c - đạ p. Khi đi kinh hành d ở - bướ c - đạ p, quý vị nên đi chậm hơn hai cách đi kinh hành trước. Khi đi, quý vị phải chú tâm ghi nhận mỗi cử động của bàn chân: Khi bàn chân d ở lên, ta phải kịp thời ghi nhận “d ở” ; khi bàn chân đẩy tới trước, ta phải kịp thời ghi nhận “bướ c” ; khi bàn chân đạp xuống đất, ta phải kịp thời ghi nhận “đạ p”. Phải ghi nhận mi cử động d ở bướ c - đạ p ngay t ừ khi nó bắt đầu cho đến khi nó chấm d ứt , càng sít sao càng t ốt, càng liên t ục càng t ốt! Điều quan tr ọng là phải chánh ni ệm ghi nhận bằng tâm, chứ không phải nhìn bằng mắt, cũng không tưởng tượ ng bướ c chân. Khi đến cu ối đoạn đường kinh hành, quý vị dừng lại một chút, ghi nhận “đứng, đứ ng ” trước khi chậm rãi quay người.
Đến đây, Sư đã hướng dẫn xong phần đi kinh hành. Bây giờ, Sư sẽ hướng dẫn quý vị cách phát triển chánh niệm trong các sinh ho ạt hàng ngày. Hướ ng d ẫ n thi ền trong s inh hoạt Thiền sinh hãy theo dõi c ử chỉ của Sư khi Sư đi từ đây ra đến bàn ăn và trong lúc Sư đang ăn. Từ đây, Sư sẽ chậm rãi đi đến cửa. Khi tới cửa, Sư dừng lại, không mở cửa ngay. Sau đó, Sư mới nhẹ nhàng giơ tay chạm vào cửa, chậm rãi đẩy nó qua một bên. Sau khi mở cửa xong, Sư bỏ tay xuống, chậm rãi bước ra bên ngoài.
Đến bàn ăn, Sư không ngồi vào ghế ngay mà đứng yên một chút, r ồi mới chậm rãi kéo cái khăn ngồi từ vai xuống, nhẹ nhàng mở khăn ra, chậm rãi tr ải khăn lên ghế. Sư chậm rãi ngồi vào ghế, sửa cho người 37
ngay thẳng nhưng thoải mái. Đồ ăn đã có sẵn trong đĩa nên Sư sẽ chậm rãi cầm cái muỗng lên, múc thức ăn từ trong đĩa, chậm rãi đưa thức ăn vào miệng. Rồi Sư nhẹ nhàng để tay cầm muỗng xuống. Sư chậm rãi ăn, mắt không nhìn nơi này, nơi nọ. Ăn xong một miếng, Sư lại chậm rãi múc một muỗng thức ăn khác, chậm rãi đưa thức ăn vào miệng, r ồi để tay xuống.
Tương tự như vậy, khi đi vào phòng ăn, thiền sinh cũng phải chánh niệm ghi nhận mỗi bước chân của mình. Khi lấy thức ăn, quý vị phải cố gắng ghi nhận mỗi cử động, mỗi tác ý, càng nhiều càng tốt. Khi đến bàn, quý vị đừng ngồi xuống ngay mà phải chánh niệm khi kéo ghế, khi ngồi xuống. Khi thấy hay ngửi mùi thức ăn trên bàn, quý vị phải kịp thời ghi nhận “thấy, thấy ” hay “ng ửi , ng ửi ” . Nếu có tác ý muốn ăn ngay, hãy ghi nhận “ muốn ăn, muốn ăn”. Khi gặp món ăn ngon làm quý vị thèm, hãy ghi nhận “thèm, thèm”. Khi gặp món ăn không thích, hãy ghi nhận “không thích”. Khi lấy thức ăn bỏ vào miệng, quý vị ph ải chánh niệm ch ậm rãi giơ tay ra, cầm cái muỗng, đưa muỗng lên, múc thức ăn ở trong đĩa, đưa muỗng vào miệng. Khi nhai, quý vị phải ghi nhận “nhai, nhai ”. Khi nuốt, quý vị phải ghi nhận “ nuốt, nuốt ”. Nói thì dài dòng nhưng các cử động và tác ý này xảy ra r ất nhanh và liên tục. Trong khi nhai và nu ốt, thiền sinh đừng khua tay hay khuấy th ức ăn trong đĩa, hay làm một động tác gì khác mà chỉ chú tâm đến sự nhai, nuốt và ghi nhận mùi vị thức ăn. Thiền sinh có thể đặt cái muỗng trên bàn hay trong bình bát của mình và buông tay ra khỏi cái 38
muỗng khi nhai và nuốt. Sau khi nhai nu ốt xong một miếng ăn, thiền sinh lại chánh niệm chậm rãi múc một muỗng thức ăn khác đưa vào miệng, r ồi l ại đặt bàn tay xuống, chậm rãi chánh niệm “nhai, nuốt ”. Quả thật, r ất khó mà ghi nhận hết tất cả mọi động tác và tác ý trong khi ăn. Tuy nhiên, thi ền sinh phải c ố g ắng chánh ni ệm ghi nhận mi cử động trong thân và tác ý trong tâm, càng nhi ều càng t ốt, càng liên t ục càng t ốt. Thiền sinh phải ghi nhận khi múc thức ăn, khi mở miệng ra, khi bỏ thức ăn vào miệng, khi nhai, khi nuốt. Nhất là khi gặp món ăn ngon hay hợp khẩu vị, thiền sinh sẽ có tác ý muốn nhai nhanh, nuốt nhanh để ăn miếng tiếp; khi đó, thiền sinh phải cố gắng chánh niệm ghi nhận tác ý này, hay động tác nhai nhanh và nuốt nhanh này. Nếu khi gặp món ăn ngon, thiền sinh thấy mình ăn nhanh, ăn nhiều thì phải ý thức r ằng lúc đó có thể mình không thật sự chánh niệm.
Tương tự như vậy, thiền sinh phải tập chánh niệm trong các hoạt động hàng ngày như khi đi từ phòng đến thiền đường, từ thiền đường về phòng, khi tắm, khi giặt quấn áo, khi đi nhà vệ sinh, khi đóng cửa, khi mở cửa, khi phơi quần áo, ngay cả khi co tay, khi duỗi chân, khi tháo dép ra, khi mang dép vào, khi uống nước…. Thi ền sinh phải c ố g ắng chánh ni ệm trong bất c ứ hoạt động gì, trong mọi oai nghi, bất c ứ nơi nào, và bất c ứ lúc nào, tr ừ khi đang ngủ. Nói một cách khác, thi ền sinh phải thự c t ậ p chánh ni ệm t ừ khi thứ c d ậy t ừ sáng sớm, cho đến khi ban đêm đi ngủ. Khi bi ết mình v ừa quên ghi nhận, hay thất ni ệm, là ngay trong lúc đó mình có chánh ni ệm tr ở l ại. Chúng ta c ần phải c ố g ắng 39
chánh ni ệm trên đề mục càng chặt chẽ càng t ốt, càng liên t ục càng t ốt, càng thườ ng xuyên càng t ốt.
Nếu chúng ta kiên trì t ập chánh niệm trong khi ăn hay trong những sinh hoạt tương tự hàng ngày đúng theo lời hướng dẫn, thì chánh niệm của mình sẽ nhanh chóng phát tri ển. Một khi chánh niệm và chánh định vững vàng, chúng ta sẽ thấy việc đi kinh hành, ngồi thiền của mình ngày càng d ễ dàng hơn. Chúng ta cũng sẽ dễ dàng bắt vào đề mục khi đi kinh hành hay ngồi thiền. Và ngược lại, khi chúng ta th ấy được phồng xẹp rõ ràng, liên tục, thì chánh niệm trong các sinh ho ạt hàng ngày cũng sẽ tự nhiên dễ dàng hơn. Nói một cách khác: ngồi thiền, kinh hành và chánh ni ệm hàng ngày hỗ tr ợ mật thiết lẫn nhau. Nói một cách khác, khi tâm chánh niệm tự động ghi nhận đề mục, ngày càng sít sao và liên t ục, thì chánh định cũng ngày càng mạnh, và việc thiền tập của quý vị cũng sẽ ngày càng tiến bộ, và tiến bộ nhanh chóng hơn. Cũng có thể nói một cách khác, quý vị đang gặt hái kết quả của thiền Vipassanā, đang hưởng được lợi ích của thiền Vipassanā.
Đến đây, Sư xin chấm dứt bài pháp thoại hôm nay. Sư hy vọng các thiền sinh ở đây hiểu và nắm vững nguyên tắc thiền Vipassanā để thực tập cho đúng nhằm mang lại sự lợi ích cho chính bản thân mình. Cầu mong cho tất cả thiền sinh tu tập theo phương pháp Vipassanā này, hay tại thiền viện này, tinh tấn thiền tập, sớm đạt được kết quả và kinh nghiệm được Niết bàn trong ngày v ị lai. Sadhu ! Sadhu ! Sadhu ! 40
TÓM LƯỢC CÁCH TRÌNH PHÁP Thi ền Sư Sayadaw U Pandita 1. Tất cả những gì diễn ra trong thời gian hành thiền đều phải được diễn tả tuần tự như sau:
a) Ðối tượng xuất hiện b) Ghi nhận c) Quán sát Hãy trình bày các diễn biến tuần tự trước sau, khởi đầu là đề mục chính, đó là chuyển động phồng xẹp của bụng. Chẳng hạn như: Khi bụng phồng lên, "Tôi ghi nhận: phồng và quán sát sự căng thẳng, sức ép và sự rung chuyển...". Khi bụng xẹp xuống, "Tôi ghi nhận: xẹp và quán sát sự dãn ra, sự bẹp xuống, sự căng cứng giảm dần. " 2. Diễn tả cho biết: thiền sinh đã nhận biết ngay tức khắc đề mục và đã quán sát liên tục đề mục như thế nào? Chẳng hạn như: "Tôi chỉ nhận biết sự phồng xẹp sau khi chúng đã đi và tôi chỉ nhận biết độ một hay hai phồng xẹp thì bị phóng tâm ", hoặc "T ôi nhận biết được đề mục ngay khi chúng xảy ra và tôi có thể quán sát liên tục từ hai mươi đến ba mươi phồng xẹp rồi tâm phóng đi nơi khác ." Cần phải diễn tả đề mục chính một cách rõ ràng, đơn giản, chính xác và đầy đủ chi tiết. Sau khi đã trình bày đầy đủ đề mục chính, thiền sinh mới trình bày đề mục phụ mà thiền sinh đã ghi nhận và hiểu biết rõ ràng trong lúc ngồi thiền. 41
3. Diễn tả đề mục phụ mà thiền sinh đã quán sát, ghi nhận và hiểu biết một cách rõ ràng. Chẳng hạn như: Các cảm giác trên cơ thể như đau, ngứa, ..., sự suy nghĩ, liên tưởng, ý kiến, dự tính, hồi tưởng, nhớ chuyện đã qua, ..., hay các trạng thái tâm như giận, buồn, hoan hỉ, vui vẻ, thoải mái, tự hào...
a) Ðề mục xuất hiện: "Ðau nơi đầu gối..." b) Thiền sinh đã ghi nhận như thế nào? "Tôi ghi nhận: đau, đau". c) Thiền sinh quán sát cái gì? "Tôi quán sát sự đau nhói". d) Ðề mục diễn ra như thế nào? "Ðau nhói chuyển sang đau cứng" . e) Tiếp đó thiền sinh làm gì? "Tôi ghi nhận: cứng, cứng" . f) Thiền sinh quán sát gì? "Tôi quán sát sự cứng đang rung chậm. g) Rồi chuyện gì diễn ra? "Khi tôi ghi nhận thì sự đau cứng giảm dần". h) Tiếp đó thiền sinh làm gì? "Tôi trở về với chuyển động phồng xẹp của bụng". i) Khi tâm rời khỏi đề mục "Thoạt đầu tôi không nhận biết để ghi nhận, nhưng khi tôi nhận biết mình đang phóng tâm tôi liền ghi nhận phóng tâm. Rồi thì sự phóng tâm biến mất, tôi bèn trở về với chuyển động phồng xẹp của bụng". Thiền sinh phải trình bày toàn thể tiến trình của mỗi đề mục phụ. 4. Sau khi trình bày về việc ngồi thiền , thiền s inh phải trình với Thiền Sư về việc đi kinh hành. Trước tiên phải diễn tả đề mục chính của sự đi: dở , bước, đạp. Chẳng hạn như: 42
Trong khi đi, lúc chân dở lên tôi ghi nhận dở , và quán sát như thế này, thế này... Trong khi bước, tôi ghi nhận bước, và quán sát như thế này, thế này... Trong khi đạp chân xuống, tôi ghi nhận đạp, và quán sát như thế này, thế này... Tôi theo di và ghi nhận liên tục từ mười đến mười lăm phút thì tâm bị phóng đi. Tôi bị phóng tâm bởi hình ảnh hay tiếng động . Thiền sinh phải trình bày toàn thể tiến trình của mỗi đề mục phụ trong khi đi: -
a) Khi bị phóng tâm, tôi ghi nhận được ngay. b) Khi ghi nhận phóng tâm, thì sự suy nghĩ biến mất dần và biến mất. c) Rồi tôi quán sát dở, bước đạp trở lại. Cách trình bày những kinh nghiệm trong lúc hành thiền này giúp ích rất nhiều cho thiền sinh. Nhờ vậy, tâm thiền sinh hướng đến đề mục và theo dõi khắn khít trên các diễn biến của thân-tâm. Bất kỳ những gì thiền sinh kinh nghiệm được trong lúc hành thiền đều phải được trình bày với Thiền Sư, dù đó là trạng thái hoan hỉ của tâm định, những cảm xúc, cảm giác khó chịu, hay những chướng ngại to lớn đi nữa. Lợi ích lớn lao nhất của lối trình pháp này là giúp thiền sinh chú tâm trực tiếp trên những diễn biến trong lúc hành thiền, chứ không để tâm lạc khỏi đề mục, suy nghĩ đến những gì đang xảy ra. Phương pháp này giúp cho việc trình pháp được dễ dàng, giúp cho chánh niệm mạnh mẽ và khiến thiền sinh có sự hiểu biết rõ ràng chính xác trong lúc hành thiền. 43
CUỘC PHỎNG V Ấ N THI ỀN SƯ MAHĀSI SAYADAW ền Sư Tharmanay Kyaw Thi
ĐÔI NÉT VỀ THI ỀN SƯ MAHĀSI SAYADAW
Trước khi tr ở thành một vị Thiền Sư hàng đầu, Trưởng Lão Mahāsi Sayadaw đã từng là một học giả đa văn và bậc thầy của kinh điển Pāli. Sinh ra trong một huyện lỵ ở vùng thôn quê, năm lên sáu ngài đã bắt đầu đi học trong một ngôi trường thuộc tu viện địa phương nơi làng quê của ngài, và năm mười hai tuổi ngài được thọ giới làm Sadi. Ngài tr ở thành một vị Tỳ Kheo khi vừa đến tuổi hai mươi, tuổi sớm nhất có thể được để thọ cụ túc giới (thọ đầy đủ giới luật của một người xuất gia), với pháp danh Sobhana (đây là tên do chùa hay tu vi ện đặt khi thọ c ụ túc, còn Mahāsi Sayadaw chỉ là một tướ c hi ệu tôn kính, tuy nhiên qua tên này, ngài đã trở HT. Thi ền Sư Mahāsi nên nổi ti ếng khắ p mọi nơi ). Trong những năm sau đó ngài đã theo đuổi những nghiên cứu cao hơn về Phật học và cổ ngữPāli, đạt đến những danh hiệu cao nhất trong học tập và đã 44
cống hiến một thời gian cho việc giảng dạy những đề tài này. Tuy nhiên, m ột ngày kia, ở tuổi hai mươi tám, ngài cảm thấy có một nhu cầu bức thiết muốn chuyển từ lĩnh vực hiểu biết và trình bày có tính tri th ức sang lĩnh vực thực hành triệt để. Vì vậy, mang theo những vật dụng cần thiết của một tăng sĩ du phương (chủ yếu là tam y và bình bát - những vật bất ly thân của một vị Tỳ Kheo. Tam y gồm có: Y tăng già lê, y vai trái, và y hạ; bình bát để đi khất thực), ngài r ời tu viện nổi tiếng, nơi ngài đã được dạy dỗ, và lên đường, giống như một trong những vị đệ tử buổi đầu của Đức Phật, đi tìm một bậc thầy (Thiền Sư) có thể dạy cho ngài một phương pháp rõ ràng và hi ệu quả để thực hành thiền.
Ngài đã được diện kiến Trưởng Lão Mingun Jetawan Sayadaw (U Nārada Mahāthera, 18681955), được thừa nhận như người khai sáng ra cách sự đổi mới cho phù hợp với thời đại hiện nay về kỹ thuật Tứ Niệm Xứ cổ điển nhằm thực hành thiền Minh sát, hay Vipassanā. Về sự kiện này, ở đây chúng tôi có thể trích dẫn những gì Trưởng Lão Nyānaponika đã viết trong The Heart of Buddhist Meditation (Tr ọng Tâm Thi ền Phật Giáo) như sau: Vào đầu thế kỷ này một vị sư Miến Điện, tên là U Nārada, có khuynh hướng muốn thực chứng những l ời dạy của Đức Phật mà ngài đã học, tha thiết đi tìm một hệ thống thiền đưa ra được một lối vào tr ực tiếp Mục Đích Cao Thượng, không vướng víu thêm gì nữa cả. Lang thang khắp xứ sở, ngài gặp r ất nhiều người được xem là đã hành thiền thật nghiêm túc, nhưng không ai cho ngài được một sự chỉ dẫn nào thoả mãn. Trên bước đường tìm kiếm, đến những hang thiền nổi tiếng 45
trong vùng đồi núi của Sagaing ở thượng Miến, ngài gặp một vị sư mà người ta đồn là đã bước vào những Thánh Đạo cao thượng (tức đã đắc các đạo quả) ở đây sự giải thoát cuối cùng là bảo đảm. Khi Trưởng Lão U Nārada đặt ra những Câu hỏi cho vị này, ngài đã hỏi ngược lại: “ T ại sao ông l ại đi tìm (chân lý) ngoài lờ i d ạy c ủa bậc Đạo Sư? Chẳng phải Satipaṭṭ hāna, Con Đườ ng Độc Nhất, đã đượ c Ngài ( Đứ c Phật) công bố đó sao?” U Nārada đón nhận lời chỉ dẫn này. Nghiên cứu lại kinh điển và những bản Chú giải theo truyền thống, suy xét sâu xa trên đó, và bước vào thực hành một cách năng nổ, cuối cùng ngài đã đi đến chỗ thấu triệt những đặc tính của nó. Những kết quả đạt được trong thực hành đã làm cho ngài tin chắc r ằng ngài đã khám phá ra cái ngài đang đi tìm: một phương pháp tu tập tâm rõ ràng và hiệu quả để đạt đến sự chứng ngộ cao nhất. Từ kinh nghiệm riêng của mình, ngài đã phát triển những nguyên tắc và những chi tiết của pháp hành tạo thành căn bản hướng dẫn cho những ai theo đường lối tu tập của ngài dù như những đệ tử tr ực tiếp hay gián tiếp… Ngài viên tịch ngày 18 tháng 3 năm 1955, ở tuổi 87. Nhiều người tin r ằng ngài đã đạt đến s ự giải thoát cuối cùng (Quả vị A-la-hán).
Dưới sự hướng dẫn của bậc thầy tài ba này, Mahāsi Sayadaw đã hành thiền tích cực dựa trên bốn nền tảng chánh niệm (Tứ Niệm Xứ), bắt đầu với quán thân, và đạt được những tiến bộ đáng kể. Sau này, không xao lãng việc thực hành Vipassanā, ngài quay lại những nghiên cứu Phật học và những hoạt động giảng dạy của mình như trước, và ngày càng được 46
công nhận như một học giả danh tiếng nhất. Năm 1941, tức mười tám năm sau ngày thọ cụ túc, ngài quyết định tr ở về quê của ngài, nơi đây ngài cư trú trong một tu viện địa phương và bắt đầu dạy các khóa thiền Vipassanā, thực hành theo hệ thống, trên căn bản của kinh Tứ Niệm Xứ. Nhiều người, tại gia cũng như xuất gia, đã đến với những khóa thiền này và gặt hái được nhiều lợi ích từ sự hướng dẫn của ngài. Chẳng bao lâu, ngài n ổi tiếng khắp đất nước như một bậc thầy r ất hiệu quả về thiền Vipassanā. Thực vậy, Ngài nổi tiếng đến nỗi, năm 1949 - một thời gian ngắn sau ngày độc lập của Miến Điện - U Nu, thủ tướng của nước này, đã thỉ nh cầu Trưởng lão Mahāsi Sayadaw trở về Rangoon (thủ đô Miến Điện) để dạy những khóa thiền tích cực tại Thathana Yeiktha, tr ụ sở Trung ương của Hội Phật Giáo Quốc Gia. Từ đó, cho đến khi ngài viên tịch ở tuổi bảy mươi tám, năm 1982, nhiều ngàn người đã học thiền Minh sát tại trung tâm Rangoon này (c ho đến năm 1973, hơn 15.000 thiền sinh đã tham dự ở đó), và hàng trăm ngàn người đã được chỉ dẫn trong hơn một trăm trung tâm thiền địa phương khắp nước Miến, dưới sự hướng dẫn của các vị thầy đã được chính Trưởng lão Mahāsi huấn luyện. Tương tự như thế ở các trung tâm thiền ngoài Miến Điện như Sri Lanka, Ấn Độ, Thái lan. Trong việc nhìn nhận những thành tựu nổi bật của ngài như một học giả, một vị thầy và một bậc Thiền Sư, Mahāsi Sayadaw đã được chỉ định vào vị trí chính yếu của “Người Hỏi” (tức người làm nhiệm vụ đặt ra những Câu hỏi liên quan đến Tam Tạng Kinh Điển và 47
Chú giải, theo thể thức giống như các cuộc kết tập kinh điển (KTKĐ) kể từ thời Đức Phật. Như vậy vai trò của ngài ở đây tương đương với vai trò của Đại Trưởng Lão Ca-diếp trong cuộc KTKĐ lần thứ nhất. Và Người Tr ả Lời là Trưởng Lão Tam Tạng Bhaddanta Vicittasārā Bhivaṁsa. ND) tại Đại Hội Phật Giáo lần Thứ Sáu (Kết Tập Tam Tạng L ần Th ứ Sáu) tổ ch ức t ại Rangoon từ năm 1954 đến 1956 nhân k ỷ niệm 2.500 năm Phật lịch. Người Hỏi đóng một vai trò cực kỳ quan tr ọng trong Đại Hội Kết Tập Kinh Điển, vì chính ngài là người nêu ra những Câu hỏi có thực chất hay những Câu hỏi có hình thức có thể xem như thích hợp trong trình tự kiểm xét lại toàn bộ Tam tạng kinh điển mà tại mỗi cuộc kết tập đã thực hiện.
CÁC CÂU HỎI TIÊU BIỂU VỀ THIỀN VIPASSANĀ
Câu hỏi 1: Kính bạch Ngài Mahāsi Sayadaw, khi mớ i bắt đầu thự c hành pháp Satipa ṭṭhāna Vipassanā Ngài có ni ềm tin tr ọn v ẹn nơi (Minh sát T ứ Ni ệm X ứ ), pháp hành này không?
Không, thực lòng mà nói tôi không có. Lúc đầu tôi không có niềm tin mấy nơi pháp hành Vipassanā. Vì thế, tôi không trách bất cứ người nào về điều này trước khi họ bắt đầu thực hành thiền Minh sát. Đó cũng chỉ là vì họ có ít hay không có kinh nghi ệm gì về nó mà thôi. Năm 1931 khi tôi mới chỉ có tám hạ (tuổi hạ c ủa ngườ i xuất gia tính t ừ lúc thọ c ụ túc gi ới ) , trước sự tò mò và mơ hồ của tôi, Thiền Sư Miṅgun Jetawan Sayadawji dạy r ằng: Khi đi ghi nhớ đang đi (Chữ ghi nhớ hay ghi nhận (note) dùng ở đây trong nghĩa của t ừ “ Sati” là ni ệm mà theo gi ải thích c ủa ngài Mahāsi mục đích là để 48
hay bi ết các hi ện tượng đang thự c sự x ảy ra t ừ sát-na này đến sát-na khác, xem Câu hỏi 37); khi đứ ng ghi nhớ đang đứ ng; khi ng ồi ghi nhớ đang ngồi; khi nằm ghi nhớ đang nằm; khi co (tay chân) ghi nhớ đ ang co; khi dui (tay chân) ghi nhớ đang dui; khi ăn ghi nhớ đang ăn… Tôi lấy làm bối r ối bởi sự thật là ở đây không có đối tượng để quan sát trong nghĩa cùng tột ( pháp chân đế), như là danh và sắc, và tính chất vô thường, khổ, vô ngã của chúng.
Nhưng tôi cũng dành cho nó một sự lưu tâm nào đó và nghĩ: “Cách ngài Sayadaw d ạy thật l ạ lùng làm sao” , Tôi chắc chắn “ngài là bậc đa văn, và đang dạ y t ừ kinh nghi ệm riêng c ủa ngài .” Đối với tôi có lẽ còn quá sớm để quyết định xem nó là hay hay d ở trước khi tự thân tôi thực hành nó. Tôi đã khởi sự thực hành với ngài như vậy. Câu hỏi 2: B ạch ngài, chúng con tin là ngài đã đạt đượ c sự ti ế n bộ r ất nhanh trong pháp hành c ủa ngài, khơi dậy đượ c hế t tu ệ Minh sát này đế n tuệ Minh sát khác, có phải v ậ y không, thưa ngài?
Không, Tôi không tiến nhanh như vậy đâu. Thực sự, ba hoặc bốn tuần lễ sau khi khởi sự thực hành tôi vẫn không hiểu hết được pháp hành bởi vì tôi chưa vận dụng đủ nỗ lực. Tuy nhiên, một số thiền sinh ở đây, mặc dù pháp hành có v ẻ mới lạ đối với họ, đã khéo léo phát tri ển đủ định và niệm sau một tuần hoặc hơn, để thấy được vô thường, khổ và không thực thể hay vô ngã tới một mức độ nào đó. Phần tôi, sau một tháng hoặc khoảng hơn một tháng tôi vẫn không thể đạt được một tiến bộ đáng lưu ý nào trong pháp hành này, nói gì đến bốn hay năm ngày. 49
Thực sự lúc đó việc thực hành của tôi vẫn không tiến triển gì cả. Điều này là do đức tin nơi pháp hành của tôi không đủ mạnh, và tôi không vận dụng tinh tấn đầy đủ lắm. Ở điểm này, hoài nghi hay còn g ọi là Vicikicchā, thường thường cản tr ở không cho tuệ Minh sát và Đạo - Quả (Magga - Phala) xảy ra. Vì thế, điều r ất quan tr ọng là phải loại tr ừ hoài nghi ấy. Nhưng, tôi đã phí hết cả thì giờ của mình do lầm hoài nghi đó là sự phân tích hữu ích. Tôi nghĩ rằng việc người ta quan sát các đối tượng như đang đi, đang co, đang duỗi, .... chẳng qua chỉ là cách thực hành theo khái ni ệm chế định, chứ không phải theo chân nghĩa pháp hay chân đế. Có lẽ ngài Sayadaw đã dạy tôi cách này như một luyện tập cơ bản, sau đó ngài sẽ dạy cho tôi cách làm thế nào để phân biệt gi ữa danh (tâm) và sắc (thân), .... Nhưng về sau, trong lúc đang tiếp tục với pháp hành này tôi tự nhiên nhận ra: “Trời! Đây không chỉ là một sự luyện tập cơ bản, mà ghi nhớ các hoạt động thân tâm, như đang đi, đang co, đang duỗi, .... cũng còn là cách thực hành ở những giai đoạn cao hơn nữa. Đây là tất cả cái mà tôi cần để quan sát. Không còn gì khác nữa. Câu hỏi 3: B ạch Ngài, có ph ải ngài đã khở i xướ ng cách quan sát s ự “phồng - x ẹ p' ở bụng khi thở ?
Không, tôi không ph ải l à người khởi xướng cách quan sát 'phồng - x ẹ p' . Thực sự chính Đức Phật đã khởi xướng nó vì Ngài d ạy quan sát Vāyo-dhātu, tức quan sát phong đại hay yếu t ố gió gồm trong năm uẩn. Sự phồng - xẹp là do phong đại tạo thành.
50
Mới đầu, một số người đã chất vấn cách quan sát sự phồng - xẹp của bụng này. Tuy nhiên, do bạn bè khuyến khích, sau đó họ đã thử và hiểu được giá tr ị của nó nhiều đến độ thậm chí họ đã chỉ trích lại những kẻ ưa bới lông tìm vết trước đây. Tôi chắc chắn r ằng người nào thử r ồi cũng sẽ hiểu được giá tr ị của nó từ kinh nghiệm cá nhân của mình, cũng giống như việc nếm đường người nào cũng có thể tr ực tiếp hiểu vị ngọt của nó từ kinh nghiệm riêng của mình. Câu hỏi 4: Li ệu có thể ghi nh ận một đối tượ ng sau khi nó đã xả y ra một khoảnh khắc (sát-na) đượ c không?
Không, tất nhiên không th ể được. Mặc dù bạn có thể mua thiếu một món gì r ồi sẽ tr ả tiền sau được, song trong trường hợp của Minh sát không cho phép mua thiếu. Vì thế, bạn phải ghi nhận một đối tượng ngay sát-na nó xảy ra để khỏi bị dính mắc vào nó. Câu hỏi 5: S ẽ không hại gì cho sứ c khoẻ nế u một
ngườ i thự c hành quá tích c ực chứ ?
Trong kinh điển Pāli có nói: “kāye ca jīvite ca anapekkhātaṃ upaṭṭ hapeti - (thự c hành) không quan tâm đến mạng sống và chân tay c ủa mình.” Điều này khích lệ người ta thực hành với sức tinh tấn của đấng trượng phu, ngay cả phải hy sinh mạng sống và chân tay của mình. Một số người có thể nghĩ: “Thự c hành sao mà khủng khi ếp đến thế! ” Thật sự là, không người nào thực hành tích cực mà chết cả, và thậm chí nó cũng không làm tổn h ại đến s ức khoẻ của họ. Th ực t ế, có nhiều bằng chứng cho thấy r ằng một số người đã chữa khỏi những chứng bệnh kinh niên nhờ thực hành thiền này. 51
Câu hỏi 6: B ạch ngài, trong vi ệc th ự c hành thi ền ế t phải gán nhãn hay g ọi tên một Minh sát có c ần thi ế đối tượng, như là ‘phồ ng x ẹp’ ẹp’ .... không?
Những cái tên, dù chúng được gọi bằng thuật ngữ hay ngôn ngữ thông thường, cũng đều là khái niệm hay chế định, và không quan tr ọng lắm. Cái được xem là quan tr ọng nhất ở đây là làm sao hay biết được về hiện tượng có liên quan trong m ột đối tượng như „trạng thái phồng và xẹp của bụng khi thở.‟ Thực ra, chỉ hay biết được đối tượng, hoàn toàn không g ọi tên, cũng đã đáp ứng được yêu cầu r ồi. Tuy nhiên, không gán nhãn hay g ọi tên thì lại khó có thể biết được tr ọn vẹn đối tượng một cách chính xác. Lại nữa, nó sẽ không dễ dàng cho thi ền sinh khi trình bày kinh nghi ệm của mình cho Thiền Sư, hoặc không dễ cho vị thầy khi đưa ra lời khuyên cho thi ền sinh (yogi). Đó là lý do vì sao người hành thiền được hướng dẫn nên gán nhãn, g ọi tên một đối tượng khi họ ghi nhận nó. Ngay cả như thế, việc sử dụng thuật ngữ cho hết mọi đối tượng mà một thiền sinh gặp cũng sẽ là khó. Vì lẽ đó tôi hướng dẫn thiền sinh dùng ngôn ngữ thông thường như „phồng, xẹp‟ khi họ thực hành. ế n Câu hỏi 7: B ạch ngài, ngài có luôn luôn khuy ế khích thi ền sinh gọi tên một đối tượ ng ng không?
Không, không ph ải lúc nào cũng gọi tên. Có những lúc bạn thấy các đối tượng xuất hiện cho bạn nhanh đến nỗi bạn không có thì gi ờ đâu mà gán nhãn hay gọi tên từng mỗi đối tượng. Lúc đó bạn phải chạy theo cho kịp đối tượng bằng cách chỉ hay hay biết chúng từ sát-na này đến sát-na khác, không g ọi tên. 52
Thiền sinh cũng có thể biết bốn hay năm đối tượng một lúc, dù chỉ gán nhãn được một trong số những đối tượng ấy. Đừng lo lắng về chuyện đó. Như thế cũng đã đáp ứng được yêu cầu của bạn r ồi. Nếu bạn cố gắng gán nhãn hết mọi đối tượng đang xuất hiện, r ất có thể bạn sẽ bị kiệt sức sớm. Vấn đề là phải hay biết cẩn thận về các đối tượng, nghĩa là hay biết n dưới dạng các đặc tính của chúng (nóng, l ạnh, c ứ ứng, g, mềm, chuy ển ng, khổ, vô ển động, co, gi ản…, ản…, vô thườ ng, ngã). Trong trường hợp này, bạn cũng có thể ghi nhận các đối tượng xuất hiện ngang qua sáu căn từ sát-na này đến sát-na khác thay vì ghi nh ận theo cách thông thường. Câu hỏi 8: B ạch ngài, nế u không gán nhãn hay ống như phồng, x ẹ p, gọi tên một đối tượ ng ng thi ền, gi ống
ợi không? ngồi, đứ ng, ng, đi, nằm v.v... thì có gì b ấ t l ợ
Tất nhiên là có, có m ột số bất lợi trong việc không gán nhãn m ột đối tượng thiền, đó là sự trùng hợp, không chính xác c ủa tâm và đối tượng thiền, sự hay biết hời hợt, giảm thiểu tinh tấn, .... ẹp’ Câu hỏi 9: B ạch ngài, nhờ ghi ghi nh ận ‘phồng, x ẹp’ ngườ i hành thi ền gi ữ đượ ữ đượ c sự quân ữa đị nh quân bình gi ữa nh và ấn như thế nào? tinh t ấn nào?
Ghi nhận „phồng và xẹp‟ không đòi hỏi phải có quá nhiều định vì nó không ph ải là một loại đối tượng đơn điệu, cũng không cần thiết phải nhiệt tâm thái quá vì chỉ có hai loại đối tượng để ghi nhận. Như vậy sự quân bình có th ể được duy trì giữa định và tinh t ấn. Câu hỏi 10: B ạch ngài, mục đích cho việc luân phiên ngồi một gi ờ và trong pháp ờ và đi kinh hành một gi ờ ờ trong 53
hành này là gì? (Thờ i khoá hàng ngày t ại Trung Tâm Thi ền ngồi và đi xen kẽ .) ền Mahāsi bao gồm các gi ờ ờ ng
Đi kinh hành nhiều có khuynh hướng khơi dậy tinh tấn nhiều hơn, nhưng ít định, và có th ể làm tổn hại đến sức khoẻ. Vì thế, thiền sinh được sắp xếp ngồi và đi xen kẽ nhau mỗi thời một tiếng. Nhờ vậy họ có thể giữ được sự quân bình gi ữa định và tinh tấn. Câu hỏi 11: B ạch ngài, nế u một thi ền sinh ghi nhận hay bi ế ‘phồng và x ẹp’, ẹp’, có phải họ ch ỉ hay ế t duy nhấ t chính cái bụng đang phồng và x ẹ p thôi?
Quả thực đúng như vậy, lúc mới đầu thực hành, thiền sinh chỉ đơn giản hay biết về chính cái b ụng (đang phồng và xẹp) thôi. Không có v ấn đề gì trong đó cả. Dĩ nhiên, sự giác ngộ đạo quả magga phala không phải là chuyện trông đợi lúc ban đầu. Ngay cả Tuệ thứ nhất phân biệt giữa danh - sắc (Nāma-rūpa pariccheda ñāṇa) cũng không thể nào đạt đến. Buổi đầu thực hành, thiền sinh phải làm việc để tránh các chướng ngại (năm triền cái, đặc biệt là những ý nghĩ lang thang hay phóng tâm) b ằng cách ghi nh ận chúng thật sít sao. Chỉ khi khi các triền cái được tránh xa trong m ột thời gian dài bằng vikkhambhana (Vikkhambhana hay tr ấn phục là một trong ba cách đoạn tr ừ phiền não trong tu tập gồm: Tr ấn phục đoạn tr ừ (vikkhambhanapahāna), đoạn tr ừ bằng tâm thiền; nhất thời đoạn tr ừ (Tadaṅgapahāna) nghĩa là đoạn tr ừ bằng cách đối tr ị; và Tuyệt diệt đoạn tr ừ (Samucchedapahāna ) nghĩa là đoạn tr ừ bằng Đạo Quả). Khi đó, tâm thoát khỏi chúng và thiền sinh mới bắt đầu kinh nghiệm được hiện tượng thực liên quan đến s ự „phồng và xẹp‟, như là sự 54
cứng, căng, rung động, v.v…, ngoài cái bụng bình thường. Câu hỏi 12: B ạch ngài, khối lượng phướ c báu puñña, hay công đứ c t ối đa mà ngườ i ta có thể tích lu ỹ do thự c hành thi ền Minh sát là th ế nào?
Nếu tính một sát-na ghi nhận có hiệu lực trong mỗi giây. Như vậy có 60 sát-na trong m ột phút, 3.600 sát-na trong một giờ, và 72.000 sát-na trong m ột ngày, ngoại tr ừ bốn giờ ngủ. Đây quả là một khối phước báu khổng lồ! Câu hỏi 13: B ạch ngài, thi ền sinh nên làm gì trong trườ ng h ợ p th ấ y vi ệc quan sát sự ‘phồng và x ẹp’ quá d ễ hoặc có một khoảng hở d ễ thấ y gi ữ a chúng?
Trường hợp đang ở oai nghi ng ồi, thiền sinh thêm vào sự 'phồng, xẹp' chữ „ngồi‟ nữa và ghi nhận ba đối tượng: phồng, xẹp, ngồi; phồng, xẹp, ngồi. Thiền sinh phải hay biết về sự „ngồi‟ theo cùng cách như 'phồng, xẹp'. Ngay cả khi một khoảng hở được thấy ở giữa, thiền sinh chỉ cần thêm vào một điểm xúc chạm nổi bật nhất, và ghi nhận bốn đối tượng: „phồng, xẹp, ngồi, chạm‟. Khi nằm, ghi nhận theo cách tương tự: „phồng, xẹp, nằm, chạm‟, hay „phồng, nằm, xẹp, nằm‟. Câu hỏi 14: B ạch ngài, phải mấ t bao lâu một thi ền sinh mớ i hoàn t ất ti ế n bộ c ủa mình v ề các tuệ Minh sát?
Điều đó còn tuỳ. Chỉ một vài người có thể mô tả sự hoàn thành các tuệ Minh sát của h ọ trong vòng một tuần lễ hoặc khoảng đó, trong khi hầu hết mọi người thường đề cập đến sự hoàn tất các tuệ Minh sát của họ sau một tháng rưỡi, hoặc hai tháng. Tuy nhiên, có s ố 55
người phải mất ba hoặc bốn tháng mới hoàn tất được nó. Dù thế nào đi nữa, nếu một người thực hành một cách nghiêm túc như đã được chỉ dẫn, họ có thể mô tả thành tựu của mình trong một tháng hoặc khoảng một tháng. Đó là lý do vì sao một thiền sinh điển hình ở đây được khuyến khích nên thực hành trong ít nhất một tháng. Câu hỏi 15: B ạch ngài, r ất có thể phải mấ t bao lâu một thi ền sinh mới đat đế n mức độ tuệ gọi là
Udayabbaya ñāṇa - tuệ sanh di ệt (tuệ thấ y sự sanh và di ệt c ủa các hi ện tượ ng danh và s ắc)?
Hầu hết mọi người, nếu họ thực hành chăm chỉ , có thể mất một tuần hoặc khoảng một tuần để đạt đến tuệ Minh sát này. Tuy nhiên, một vài người ngoại lệ, chỉ một hoặc hai trong số một trăm người, có thể hoàn tất tuệ này trong vòng ba ho ặc bốn ngày. Song cũng có số người phải mất mươi mười lăm ngày để đạt đến nó vì tinh tấn không đầy đủ, hoặc khả năng tâm linh yếu. Cũng có những người không thể đạt đến được thậm chí sau cả tháng hoặc hơn do sự khiếm khuyết nào đó. Dẫu sao, một thiền sinh bình thường vẫn hy vọng hoàn tất tuệ này trong vòng m ột tuần ho ặc khoảng một tu ần, nếu họ làm việc một cách chuyên cần. Câu hỏi 16: B ạch ngài, một thi ền sinh phải làm gì để thấ y các hi ện tượ ng (danh và sắc) một cách rõ ràng?
Ban đêm, chẳng hạn, người ta không thể thấy được vật gì một cách rõ ràng. Nhưng nếu họ dùng đèn pin, mọi vật có thể được thấy rõ trong vùng ánh sáng ấy. Theo cách tương tự, định có thể được so sánh với ánh sáng, qua đó người ta có thể thấy các hiện tượng 56
một cách rõ ràng: tính cách sanh và di ệt, sự căng thẳng, cứng đơ và chuyển động .... Câu hỏi 17: B ạch ngài, có nh ấ t thi ế t không chấ p nhận điều gì mà mình chưa kinh nghi ệm?
Sẽ là không thực tiễn nếu bạn chỉ chấp nhận những kinh nghiệm đã kinh qua. Nói cách khác, không có lý do gì để không tin nơi thực tại phi kinh nghi ệm. Mặc dù bạn không thể thấy một vật gì đó với mắt tr ần của bạn, nhưng nó có thể được th ấy qua một ống kính phóng đại hay kính viễn vọng. Mặc dù bạn chưa từng sống ở một số vùng nào đó trên thế giới, thì cũng là điều hợp lý để bạn tin nơi điều mà những người đã từng sống ở đó nói. Tất nhiên, chúng ta phải chấp nhận những khám phá của các nhà du hành vũ trụ mặc dù chúng ta chưa từng đi ra ngoài không gian. Quy luật của Pháp - dhamma, r ất là vi tế. Lý do người ta không thể kinh nghiệm được nó, có thể là do sự khiếm khuyết nơi khả năng tâm linh và nỗ lực tinh tấn, hoặc những cản tr ở của Kamma, Kilesa, vipāka, Vītikkama và Ariyūpavāda (Kamma (Nghiệp) ở đây muốn nói đến ngũ nghịch đại t ội: giết mẹ, giết cha, giết một vị Alahán, làm cho Đức Phật bị thương, hoặc gây chia r ẽ Tăng chúng. Kilesa (Phiền não) muốn nói đến tà kiến cho r ằng không có nghiệp và quả của nghiệp.
Vipāka (Quả) ở đây có nghĩa là khiếm khuyết bẩm sinh về khả năng tâm linh. Vītikkama (Vi phạm) ở đây có nghĩa một hoạt động đi ngược lại với thẩm quyền của Đức Phật, đó là vi phạm giới luật. Ariyūpavāda (Phỉ báng bậc Thánh) muốn nói tới sự sỉ vả, báng bổ các bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, r ất thường tuệ Minh sát không chứng được ở đây là do yếu tinh 57
tấn và định. Vì thế, nếu bạn không thực hành tích cực như những người khác, bạn không thể trông đợi chứng đắc một điều gì như những người khác được. Câu hỏi 18: B ạch ngài, vì sao ngài hướ ng d ẫn các thi ền sinh ở đây khở i sự công vi ệc thự c hành c ủa họ v ớ i vi ệc ghi nhận 'phồng, x ẹ p'?
Nếu bạn ghi nhận một đối tượng quá đa dạng, hoặc quá vi tế, sẽ phải mất thời gian để phát triển định, trong khi nếu bạn quan sát một đối tượng rõ r ệt và giới hạn thì định có thể được khơi dậy nhanh hơn. Đó là lý do vì sao chúng tôi hướng dẫn các thiền sinh ở đây bắt đầu công việc thực hành của họ với việc quan sát bụng biểu thị đặc tính bằng sự căng cứng, sức ép, rung động, được xem là đồng nhất với vāyo-dhātu hay yếu tố gió. Câu hỏi 19: B ạch ngài, li ệu có thể phát sinh tuệ Minh sát do quan sát các đối tượng như 'đi' hay 'phả i bước, trái bướ c', v ốn đượ c mọi ngườ i bi ế t theo l ối thông thường đượ c không?
Bạn biết pháp hành niệm hơi thở, Anāpāna, quan sát hơi thở vào-và-hơi thở ra. Đối tượng, 'sự thở vào và sự thở ra' dường như không được quan sát, như nó vẫn được mọi người biết theo lối thông thường. Nhưng không ai dám chỉ trích điều đó.
Tương tự, nếu bạn phê bình r ằng niệm, định và tuệ Minh sát không thể nào phát triển được bằng cách ghi nhận 'phải, trái', mà người ta so sánh với việc hu ấn luyện quân sự, sẽ là không hợp lý. Việc huấn luyện quân sự là nhằm vào mục đích thể thao hay sức khỏe, trong khi việc ghi nhận được 58
dùng để phát triển niệm, định, và tuệ Minh sát. Nếu bạn bác bỏ phần thực hành này, điều đó cũng có nghĩa là bạn bác bỏ lời dạy của Đức Phật. Câu hỏi 20: B ạch ngài, vì mục đích gì ngài hướ ng d ẫn chúng con hoạt động một cách r ấ t chậm rãi như vậ y?
Chỉ khi bạn hoạt động môt cách chậm rãi thì định, niệm, và tuệ Minh sát mới có thể theo kịp các đối tượng. Đó là lý do vì sao bạn phải bắt đầu việc thực hành của mình bằng cách làm mọi việc một cách chậm rãi và chánh niệm. Thực sự, lúc ban đầu, nếu bạn làm mọi việc nhanh quá, niệm hay sự hay biết của bạn không thể nào theo kịp. Câu hỏi 21: B ạch ngài, vì sao những người đắc thi ền (jhāna) không thể khám phá ra thân, tâm này là vô
thườ ng, .… dù họ chứng đượ c các t ầng thi ền?
Bởi vì họ không quan sát các hi ện tượng tâm và vật lý, vốn thực sự nổi bật trong từng khoảnh khắc họ đi, đứng, ngồi, thấy, nghe v.v...,do đó mà họ không thể khám phá ra được thân tâm này là vô thường, .... Câu hỏi 22: B ạch ngài, đị nh hay ni ệm c ủa chúng ta có t ạo ra sự khác bi ệt gì trong kinh nghi ệm c ủa chúng ta v ề cái đau?
Khi định và niệm(sự hay biết) của bạn chưa đủ mạnh, bạn sẽ thấy cái đau gia tăng trong khi bạn ghi nhận sự đau đớn, căng cứng, hay nóng bức. Nhưng nếu bạn cứ tiếp tục ghi nhận cái đau với sự kiên trì và nhẫn nại. Cái đau thường tan đi khi định và niệm đủ mạnh. Có khi, trong lúc bạn đang ghi nhận cái đau, bạn có thể thấy nó biến mất tại chỗ. Loại đau như vậy có thể không còn quay tr ở lại. 59
Câu hỏi 23: B ạch ngài, li ệu chúng con có th ể chứ ng đượ c Đạo, Quả trong thờ i buổ i này không?
Tại sao không? Giả sử, nếu bạn có một công thức để bào chế một loại thuốc nào đó, bạn có thể chế thuốc và dùng nó để chữa bệnh của bạn. Theo cách tương tự, lời dạy của Đức Phật, giống như một công thức, có sẵn, và bạn cũng có các Ba-la-mật, Vì thế, tất cả cái bạn c ần làm là đưa nó vào thực hành. Bạn ch ắc chắn sẽ đạt đến Đạo Quả. Hãy ghi nhớ điều đó trong tâm bạn. Hơn nữa, không có bản kinh Pāli nào nói rằng ngày nay người ta không thể giác ngộ. Thực tế, kinh thậm chí còn nói r ằng ngày nay người ta có thể tr ở thành một bậc A-la-hán với Tam Minh (Te-vijjā). Alahán Tam Minh (Tevijjo) là b ậc thánh lậu tận có được ba minh khi giác ng ộ, đó là Túc mạng minh, Sanh tử minh và Lậu tận minh.) Ngay cả Chú giải về Tạng Luật (Vinaya) cũng nói, đến mức tối thiểu ngày nay người ta vẫn có thể tr ở thành bậc Thánh Anahàm (Anāgāmī), bậc thánh thứ ba trong Tứ quả Thanh văn. Nguồn tham khảo đáng tin cậy nhất xin trích dẫn ở đây là: “Ime ca subhadda bhikkhu samma vihareyyum, suñño l oko arahantehi assa, “Oh Subhadda” . Đức Phật nói: “Bao lâu còn có những vị T ỳ Kheo thực hành một cách chân chánh, thế gian này sẽ không bao gi ờ r ỗng không (vắng bóng) các b ậc A-la-hán.” Chúng ta thấy, ngày nay cũng có những người thực hành đúng cách dưới sự hướng dẫn khéo léo của các bậc Thiền Sư. Vì thế, tôi tin chắc, thế gian không r ỗng không các bậc thánh nhân kể cả các bậc A-lahán, ngay cả hiện nay. 60
Câu hỏi 24: B ạch ngài, ngài có th ể mô t ả kinh nghi ệm giác ngộ đạo quả c ủa một ngườ i gi ống như thế nào đượ c không?
Tr ạng thái tâm của một người thay đổi một cách phi thường và đột ngột khi họ chứng ngộ Đạo Quả. Người ấy cảm thấy như thể mình vừa mới tái sanh. Đức tin của họ phát triển một cách rõ r ệt dẫn đến sự hỷ lạc, ngây ngất và hạnh phúc tột độ. Đôi khi, những tr ạng thái tâm này xảy ra nhiều đến nỗi họ không thể thể nhập sâu vào đối tượng giống như trước được nữa mặc dù họ vẫn tập trung sự chú ý vào chúng hàng gi ờ hay hàng ngày sau. Tuy nhiên, những tr ạng thái tâm như vậy có khuynh hướng dịu lại, và người ấy có thể tiến triển tốt tr ở lại trong pháp hành. Đối với một số người, họ có thể cảm thấy r ất thanh thản; hoặc rõ ràng không muốn hành; hoặc dường như đã thoả mãn với những gì họ vừa thành tựu, và có lẽ do đó mà họ không có ý định thành tựu cao hơn nữa. Câu hỏi 25: B ạch ngài, đố i v ớ i những người đa văn học r ộng có đúng là kiế n thứ c ấ y t ạo thành một chướ ng ngại cho ti ế n bộ trong vi ệc thự c hành c ủa họ không (sở tri chướ ng)?
Không, sẽ không hợp khi nói như vậy. Kiến thức của một người không thể nào là chướng ngại cho việc thực hành. Như bạn biết, một vị sư rất đa văn tên là Poṭṭhila đã trở thành bậc A-la-hán sớm hơn thay vì trễ hơn, nhờ thực hành dưới sự hướng dẫn của một vị sadi tr ẻ. Xét điều này, rõ ràng chúng ta thấy r ằng sự giáo dục hay kiến thức của một người không thể nào là một chướng ngại đối với tiến bộ trong việc thực hành 61
Đúng ra mà nói, những chướng ngại thực sự nằm ở chỗ kiêu hãnh với sự giáo dục hay kiến thức của mình, có ít hay không có niềm tin nơi pháp hành, hoài nghi, không tuân th ủ nghiêm ngặt sự hướng dẫn của người thầy, thiếu sức tinh tấn của đấng trượng phu v.v... Đó là những chướng ngại đích thực cho sự phát triển định và tuệ Minh sát. Câu hỏi 26: B ạch ngài, có sự khác bi ệt nào gi ữa những ngườ i hành thi ền và ngườ i không hành thi ền khi c ả hai phải đương đầu v ớ i bệnh đau?
Tất nhiên là có. Người không hành thiền chỉ có thể nhớ đến việc thọ trì giới, nghe kinh Paritta-kinh b ảo hộ (đem lại an lành), đến việc cúng dường y áo, thực phẩm,... Thật là tội nghiệp, họ chỉ có thể thực hiện được việc bố thí và giữ giới như vậy thôi! Còn thiền sinh, họ nhớ đến việc hành thiền ở mức cao hơn cho đến khi họ được giác ngộ nhờ ghi nhận thường tr ực chính cái đau của họ từ sát-na này sang sát-na khác. Câu hỏi 27: B ạch ngài, có loại đau hay khó chị u có, chúng nào thuộc v ề t ự thân pháp hành không? N ếu con phải đương đầ u v ới nó như thế nào?
Có, bạn có thể c ảm nghiệm m ột vài loại cảm thọ khó chịu như ngứa ngáy, nóng bức, đau đớn, nhức nhối, nặng nề, cứng đơ, v.v... khi sự tập trung hay định của bạn tr ở nên r ất mạnh. Một khi bạn ngưng hành, những cảm thọ nầy có chiều hướng biến mất. Song, chúng có thể tái xuất hiện nếu bạn thực hành tr ở lại.Vì thế, đây không phải là một chứng bệnh hay ốm đau gì cả, mà chỉ là cảm thọ khổ (khó chịu) thuộc về pháp hành. Đừng lo lắng. Nếu bạn c ứ ti ếp tục ghi nhận, cuối cùng r ồi nó sẽ tan đi. 62
Câu hỏi 28: B ạch ngài, khi s ự phồng và x ẹ p mờ nhạt đi chúng con phả i ghi nhận cái gì?
Khi sự phồng, xẹp mờ nhạt (không thể ghi nhận được nữa) bạn phải ghi nhận: "ngồi, chạm", hay "nằm, chạm". Bạn có thể thay đổi những điểm xúc chạm. Chẳng hạn, bạn ghi nhận "ngồi,chạm" chú ý tới một điểm xúc chạm trên chân phải, và r ồi ghi nhận "ngồi, chạm" tập trung vào điểm xúc chạm trên chân trái. Như vậy, bạn có thể chuyển hướng sự chú ý của bạn từ một điểm xúc chạm này đến một điểm xúc chạm khác. Hoặc, b ạn có thể chuyển hướng sự chú ý của bạn đến bốn, năm, hay sáu điểm xúc chạm xen kẽ nhau. Câu hỏi 29: B ạch ngài, chúng ta c ứ kiên trì thự c hành không c ần (làm cho) các Ba-la-m ật đủ sứ c mạnh cho sự giác ngộ Đạo Quả sao?
Nếu bạn không thực hành, các Ba-la-mật (Pāramī) của bạn không cách nào có thể thành tựu được. Nói khác hơn, cho dù balamât của bạn đã được tích lũy đầy đủ, nếu không thực hành bạn cũng không giác ngộ được. Ngược lại, nếu bạn thực hành, bạn sẽ tạo được Ba-la-mật, và điều này sẽ giúp bạn kinh nghiệm Niết-bàn sớm hơn. Nếu Ba-la-mật của bạn đã được phát triển đầy đủ, bạn sẽ giác ngộ ngay trong kiếp hiện tại này. Bằng không, ít nhất nó cũng góp phần như hạt giống cho sự giác ngộ trong tương lai Câu hỏi 30: B ạch ngài, ngài có th ể mô t ả một người mà ngài tin là đã kinh nghiệ m Ni ế t-bàn không?
Được chứ. Trong số những người đầu tiên thực hành dưới sự hướng dẫn của tôi, người em họ của tôi gọi là U Pho Chon đã gây ấn tượng nhất. Khi ông đạt 63
đến giai đoạn Bhaṇga ñāṇa ( Tuệ di ệt - c ấp độ thứ năm c ủa tuệ Minh sát ), ông bắt đầu thấy cây cối hay con người ta thay đổi liên tục. Ông nghĩ chắc có một cái gì đó trục tr ặc với cái nhìn của mình r ồi bởi vì theo ông được học từ một vị thầy thì mọi vật như cây cối, củi gỗ, tr ụ, đá, thân người v.v…, kéo dài trong một giai đoạn thích hợp, trong khi các hiện tượng vật lý do tâm hay do nghiệp gây ra (Sắc do tâm sanh, và sắc do nghiệp kamma sanh), sẽ diệt liền sau khi chúng sanh lên. Ngược lại, ở đây ông thấy mọi vật trôi chảy liên tục. Vì thế, ông đến tôi để hỏi chừng xem cái nhìn của ông có gì sai không. Tôi khuy ến khích ông r ằng không có gì sai với cái nhìn của ông cả, mà đó là Tuệ diệt - bhaṇga ñāṇa, cấp độ thứ năm của tuệ Minh sát, Tuệ này đã giúp ông thấy mọi vật diệt ngay tức thời. Sau một vài ngày, ông đã mô tả thật rõ ràng kinh nghiệm của ông về Niết-bàn, sự diệt của tâm và thân hay danh và sắc. Câu hỏi 31: B ạch ngài, sự mô t ả Ni ế t-bàn do những người mà ngài tin đã đạt đế n là như thế nào?
Một số mô tả về Niết-bàn do những người, theo tôi tin, đã chứng ngộ thực sự, là như sau: Tôi thấy các đối tượ ng và tâm ghi nhận(hay tâm chánh ni ệm) đột nhiên ng ừn g l ại. Tôi thấy r ằng các đối tượ ng và tâm chánh ni ệm b ị c ắt đứ t gi ống như một sợ i dây leo b ị chặt đứ t v ậy. Tôi thấy các đối tượ ng và tâm chánh ni ệm rơi xuống như thể tôi không còn c ầm đượ c chúng nữ a. Tôi thấy các đối tượ ng và tâm ghi nhận rơi xuống thình lình gi ống như vất xuống một gánh nặng v ậy. 64
Tôi c ảm thấy như thể tôi đã thoát khỏi các đối tượ ng và tâm ghi nhận. Tôi phát hi ện ra r ằng các đối tượ ng và tâm ghi nhận đột nhiên ng ừn g l ại gi ống như một ng ọn nến b ị thổi t ắt. Tôi c ảm thấy như thể tôi đã rờ i khỏi các đối tượ ng và tâm ghi nhận, gi ống như thoát ra khỏi bóng t ối đi vào ánh sáng vậy. Tôi c ảm thấy r ằng tôi đã thoát khỏi đối tượ ng và tâm ghi nhận, như thể tôi v ừa t ừ ch t ối tăm vào nơi sáng sủa. Tôi thấy c ả đối tượ ng l ẫn tâm ghi nhận chìm xuống như thể chúng b ị dìm vào nướ c v ậy. Tôi khám phá ra r ằng c ả đối tượ ng l ẫn tâm ghi nhận đột nhiên d ừn g l ại gi ống như một v ận động viên chạy nướ c rút b ị đẩy l ại t ừ phía trướ c v ậy. Tôi thấy c ả đối tượ ng l ẫn tâm ghi nhận đột nhiên bi ến mất. Câu hỏi 32: B ạch ngài, li ệu đó có phả i là sự chứ ng ngộ v ề vô thườ ng, chẳng hạn như khi chúng ta thấ y một cái bình đấ t b ể , hay s ự chứ ng ngộ v ề khổ như khi chúng ta b ị đau đớ n do một cái gai đâm vào thị t?
Đôi lúc, bạn nh ận ra tính chất vô thường khi bạn thấy một cái bình đất bể, hay nhận ra khổ khi bạn có một cái đau do bị gai đâm vào thịt. Thực sự đó chỉ là tri kiến về vô thường theo quy ước, loại trí vốn không thể giúp bạn thực chứng vô ngã trong nghĩa tối hậu. Ngược lại, sự thực chứng vô thường xảy ra khi bạn thấy các hiện tượng hay các pháp hi ện tại đang sanh và diệt, và sự thực chứng về khổ xảy ra khi bạn thấy 65
các hiện tượng ấy bị hành hạ bởi sự thay đổi (vô thường) liên tục. Chỉ khi ỉ khi đó, bạn mới có thể thực chứng vô ngã trong nghĩa tối hậu. Câu hỏi 33: B ạch ngài, Ngài có th ể mô t ả cho ết chúng con ph ải nhận ra vô ngã như thế chúng con bi ế nào trong nghĩa tố i hậu?
Một s ố người tin r ằng sự thực chứng vô ngã xảy ra nếu như một lúc nào đó bạn mất cảm giác về hình dáng của thân mình bằng cách mường tượng s ắc thân này như những phân t ử. Thực ra, thực chứng vô ngã không phải là bạn đơn thuần mất đi cảm giác về tính r ắn chắc hay hình dáng của thân thể do thực hành bất cứ cách nào. Mà chính vì bạn đang kinh nghiệm một cách rõ ràng cái tâm bi ết, và sự đồng nhất nó với cái “Tôi” hay tự ngã.
Điều này tương tự như các vị Phạm thiên gọi là Arūpa Brahma (Phạm thiên vô sắc là các chúng sanh khi ở ci ngườ i tu t ậ p thi ền vô sắc, sau khi ch ết sanh lên cõi tr ờ ời vô sắc, ở ở đây đây họ không có sắc thân v ật lý như con ngườ i)i), không có sắc thân vật lý, nhưng vẫn ỉ đơn lầm chấp tâm họ là cái “Tôi” hay tự ngã. Vì thế, chỉ đơn thuần mất cảm giác về hình thể r ắn ch ắc thôi thì không thể xem như đó là sự thực chứng vô ngã được. Chỉ khi bạn quan sát tâm và thân (danh - s ắc) ngay sát-na chúng x ảy ra, và thấy chúng sanh và di ệt liên tục theo tự nhiên của chúng, không có quy ền lực của bất kỳ ai can thiệp vào, bạn mới thực sự thực chứng vô ngã trong nghĩa tối hậu. Câu hỏi 34: B ạch ngài, chúng con ph ải làm thế nào để th thự c chứ ng ng tính vô thườ ng ng c ủa tâm và thân? 66
Nếu bạn theo dõi tâm và thân t ừ sát-na này đến sát-na khác, bạn chắc chắn sẽ kinh nghiệm những đặc tính thực của các hiện tượng, và thấy chúng sanh lên và diệt tức thì. Câu hỏi 35: B ạch ngài, có th ự c r ằng do chứ ng ng ngộ vô thườ n g, người ta cũng hiể u khổ và và vô ngã một ự nhiên cách t ự nhiên không?
Đúng, quả thực là vậy. Bất cứ cái gì vô thường đều được xem là khổ, và đồng thời cũng là vô ngã. Thực ra trong nghĩa tối hậu chúng là năm uẩn cấu thành các hiện tượng tâm-vật lý mặc dù chúng có những tên gọi khác nhau. Câu hỏi 36: B ạch ngài, có s ố ngườ không ố ngườ i nói, sẽ không hợ p lý nế u một v ị Thi ền ền Sư không thể xác nhận r ằng thi ền sinh này, thi ền sinh nọ trong số nh nh ữ ng ng thi ền sinh ủa ông đã trở thành bậc thánh Tu-đà-hoàn c ủa (Sotāpanna). Điều đó có thự c không?
Đúng vậy, điều đó có thể đúng theo quan điểm của họ, song nó l ại r ất thích hợp đối với truyền thống Phật giáo - Sāsana, một vị Thiền Sư không thể xác nhận, r ằng ằng người như vậy, như vậy trong số những thiền sinh của ông đã trở thành bậc Tu-đà-hoàn. Đức Phật là người duy nhất trong địa vị này, để xác nhận sự giác ngộ của một người nào đó, như là Sotāpanna (bậc Tu-đà-hoàn), Sakadāgāmi (bậc Tư -đàhàm), Anāgāmi (bậc A-na-hàm), hay Arahant (bậc A-lahán). Ngay cả Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) cũng không bao bao giờ xác nhận theo cách đó. Vì thế, chúng tôi cũng không làm điều này. Đây là cách thích hợp trong truyền thống Sāsana. 67
ế t phải phân tích hay Câu hỏi 37: Có nh ấ t thi ế nhận d ạng tâm (danh), v ật chấ t (sắc) và tính ch ấ t vô thườ ng, ời đồn không? ng,… của chúng theo kinh điể n hay l ời
Có số người nghĩ rằng chỉ quan sát sự khởi sanh của tâm và thân (danh - s ắc) ngay sát-na chúng xảy ra thôi thì chưa đủ để đưa đến tri kiến Minh sát. Chỉ có phân tích danh và s ắc cũng như phân tích tính chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng mới có thể thoả mãn yêu cầu ấy. Thực sự, phân tích không ph ải là kinh nghiệm riêng của một người, mà tri kiến sách vở hay tri kiến do nghe đồn ấy cũng giống như học thuộc lòng một điều gì đó. Vì thế, tri kiến ấy không đem lại hiệu quả. Chỉ khi người ta quan sát danh và s ắc từ sát-na này đến sát-na khác, họ mới có thể có được tri kiến Minh sát dựa trên kinh nghi ệm cá nhân của họ. Chẳng hạn, nếu bạn cứ để mắt trông vào c ổng làng, chắc chắn bạn sẽ thấy kẻ ra người vô, như vậy bạn không cần ph ải xem xét theo kinh điển hay lời đồn làm gì. Giả sử, bạn đem dựng đứng một tấm gương sáng bên lề đường, thì tự nhiên nó s ẽ phản chiếu hình ảnh của bất kỳ người nào hay bất kỳ vật gì đi qua. Theo cách ấy, nếu bạn quan sát b ất cứ cái gì bạn kinh nghiệm qua sáu căn (của bạn), các đặc tính thực của hiện tượng tự nhiên cũng sẽ rõ ràng cho b ạn vậy thôi. Câu hỏi 38: Làm th ế nào nào Tôn gi ả Tissa đã chấ m ứt đượ c sự ự đau đau đớ n t ừ ừ v ết c ắn c ủa một con c ọ p? d ứt v ế
Ở đây câu hỏi được nêu ra, làm thế nào để chấm dứt được sự đau đớn từ vết cắn của một con cọp. Trong câu chuyện về Tôn giả Tissa, người đã chắc chắn hoàn thành ph ạm h ạnh c ủa mình bằng cách đập nát bắp đùi, Chú giải nói r ằng ằng ngài đã chấm dứt sự 68
đau đớn và suy xét đến giới đức trong sạch của mình khởi lên hỷ và định, .... Xét theo Chú giải thì rõ ràng là ngài đã chấm dứt cái đau trước, và suy xét đến giới đức sau. Điều này hợp với định nghĩa của Chú giải về đoạn, Dukkha-domanassānaṃ atthaṅgamāya (con đường độc nh ất để vượt qua sự đau đớn [của thân] và sầu muộn [của tâm]), thật hợp lý để cho r ằng chính nhờ chánh niệm mà ngài đã chấm đứt được sự đau đớn do vết cắn của một con cọp. Đối với một người hành thiền, họ có thể cảm nhận được cái đau hay sự tổn thương bình thường đang tan dần đi khi họ ghi nhận nó cẩn thận. Đây là sự quan sát giúp cho m ột thiền sinh chấm dứt cái đau. Tuy nhiên, sau một lúc cái đau vẫn có thể khởi lên tr ở lại nếu định và tuệ Minh sát chưa đủ thành thục. Đó là cách dừng lại cái đau hợp theo từ, Vikkhambhana (tr ấn phục hay loại tr ừ lâu dài [bằng tâm thiền]). Khi định của Minh sát đã đủ thành thục, cái đau có thể đươc đoạn tr ừ. Đó là lý do vì sao Đức Phật, với sự tr ợ giúp của Vipassanā, đã có thể chế ngự được chứng bệnh tr ầm kha mà ngài ph ải chịu trong suốt mùa hạ cuối cùng. Thực sự, người ta cũng có thể cho r ằng cái đau được loại tr ừ nhờ đơn thuần suy xét đến giới đức của ngài. Tuy nhiên, câu chuy ện nhằm chứng minh là Vipassanā có thể giúp người ta loại tr ừ cái đau, và Vì thế, sẽ hợp lý hơn khi đưa ra kết luận r ằng cái đau do vết cắn của con cọp gây ra đã được loại tr ừ bằng Vedanā-nupassanā Satipaṭṭhāna, tức là bằng Thọ quán niệm xứ. Câu hỏi 39: Li ệu có thể hoàn thành Minh sát Vipassanā, chỉ nhờ đọc hay nghe không? 69
Không thực hành để thực chứng Tứ Thánh Đế, đức tin của m ột người nơi các lễ nghi và tín điều được xem như Sīla-vata-parāmāsa (chấp thủ giới hay tà kiến về pháp hành). Ngày nay, m ột số người dạy r ằng chỉ cần học thuộc lòng những đặc tính của tâm và thân (danh - sắc) là có thể đưa đến sự hoàn thành đời sống tâm linh r ồi. Ý họ muốn nói ở đây là không cần thực hành Vipassanā hay giữ giới người ta cũng được giải thoát nhờ học pháp. Vì thế, chúng ta cần phải xét xem đức tin của họ có thoát khỏi tà kiến về pháp hành (sīlavata-parāmāsa) hay không. Theo ý kiến của tôi, đức tin của họ phải được kể trong sīla-vata-parāmāsa, tà kiến về pháp hành, vì nó không liên quan gì đến giới, định và tuệ cả. Câu hỏi 40: Có thể thự c hành thi ền Minh sát mà không c ần hoàn t ất sự thanh t ịnh tâm trước qua đị nh c ủa bậc thi ền đượ c không?
Có người dạy r ằng chỉ nên hành thi ền Vipassanā với tâm đã hoàn toàn thanh tịnh qua định của bậc thiền (tức phải đắc một bậc thiền nào đó trước). Nếu không thì, họ nói, không thể hoàn thành việc Minh sát được. Đó chẳng qua chỉ là chủ nghĩa cực đoan. Thực ra, Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga) nói rõ r ằng chuẩn bị định ( parikamma-samādhi, trong thiền Minh sát thì g ọi là sát-na đị nh) là vừa đủ để hành Minh sát cho đến A-la-hán Thánh Quả (sự giác ngộ viên mãn) vì nó thanh t ịnh tâm khỏi các triền cái. Còn trong các bản Kinh như Mahā-satipatthāna (Đại Niệm Xứ) Đức Phật đề cập một cách minh bạch r ằng người ta có thể đạt đến A-la-hán, sự giác ngộ cao tột nhất, bằng sát na định bằng cách quán tứ oai nghi - đi, đứng, ngồi, 70
nằm,... Trong Anusati Sutta - Kinh Tuỳ Niệm (Anussati Sutta, A.II.235), một bài kinh thuộc Tăng Chi Kinh, Đức Phật có nói, một người có thể tr ở thành bậc A-la-hán qua định (Đị nh do tu t ập các đề mục tuỳ ni ệm ân Đứ c Phật , Pháp, Tăng, .... c ần phải hi ểu là c ận đị nh. Còn giai đoạn trước đị nh này g ọi là chuẩn b ị đị nh. Xem thêm chi ti ết trong Bi ết và Thấy trang 181) được tu tập bằng cách quán nh ững ân đức của Phật.
Cũng trong Chú giải về Sampajjaññapabba, phần nói về tỉnh giác có nói rõ ràng là người ta có thể đề khởi định bằng cách quán những ân đức của Phật hoặc Tăng, và rồi quan sát chính(tâm) định ấy đang sanh và diệt cho đến khi đắc A-la-hán quả. Câu hỏi 41: Sát na đị nh (khaṇika samādhi) có giúp phát tri ển Vipassanā đượ c không?
Hãy nhớ r ằng Thanh Tịnh Đạo đã đề cập minh bạch trong Dhātu-manasikāra-pabba là: do quán t ứ đại, hay quan sát bốn yếu tố căn bản (đất, nước, lửa, gió) ngay sát-na chúng xảy ra, người hành thiền sẽ khơi dậy sát na định loại tr ừ tạm thời các triền cái. Còn Mahā-tika hay phụ Chú giải của bộ Visuddhimagga nói r ằng, thực ra nó không phải chuẩn bị định vì không có định thuộc các bậc thiền (jhānic) cho nó dẫn đến.
Tuy nhiên, nó được xem như vậy theo lối ẩn dụ gọi là Sadisu-pacara, nghĩa là nó tương tự với bậc thiền thực sự dưới dạng khả năng loại tr ừ các triền cái của nó. Định như vậy gọi là sát-na định hay nhất thời định (khaṇka samādhi) trong trường hợp của thiền Minh sát. Đó là lý do vì sao tôi luôn luôn gọi nó là Vipassanā Khaṇika Samādhi (sát-na định Minh sát). Có số người, không thể hiểu được điều này, đã lý luận 71
r ằng sát-na định không thể giúp đưa đến Minh sát được, vì nếu nó làm được như vậy, những người hành thiền ắt hẳn có thể tạo ra tuệ Minh sát. Tôi đồng ý với họ về điểm này, nếu các thiền sinh đã tu tập định đủ mạnh để thoát khỏi các triền cái, do quan sát các hi ện tượng tâm-vật lý hiện tại hợp với tinh thần kinh Đại Niệm Xứ (Mahā-sāti-paṭṭhāna Sutta). Trong thực tế, rõ ràng là định được đề khởi bằng cách suy luận, xét đoán, hay phân tích những con số thống kê mà thiền sinh đã học thuộc lòng, không cách nào thoát kh ỏi năm triền cái, và r ằng thực sự họ cũng hoàn toàn không quan sát tâm và thân hay danh -sắc hiện tại. Vì thế, những người ưa thích lý luận này hẳn phải là những người có ít hay không có ki ến thức về cách tiến hành Minh sát thực sự. Trong Thanh T ịnh Đạo, sát-na định được nói đến như Khaṇika Cittekaggatā, tức sát-na tâm nhất cảnh tánh, và trong phụ Chú giải của bộ luận, sự định nghĩa được đưa ra là Khaṇa-matta-thitiko samādhi, tức định kéo dài từ sát-na này đến sát-na khác. Dựa trên căn bản của Chú giải và phụ Chú giải của Thanh Tịnh Đạo này, tôi gọi nôm na nó là sát-na định - Khaṇika samādhi, loại định thường được gọi theo lối ẩn dụ là cận định (Upacāra Samādhi).
Tuy nhiên cũng không nên lúng túng nếu gọi như thế không hợp. Định khởi lên ở sát-na chánh niệm được gọi là Khaṇika Samādhi, tức định kéo dài từng mỗi sát-na thiền sinh quan sát. Không có sát-na định này, thiền Minh sát không thể tu tập được. Vì thế, nhất thiết phải có sự định tâm đủ mạnh như vậy cho tuệ Minh sát. Đối với các thiền sinh thực hành thuần Minh sát (thuần quán thiền sinh) không dựa vào bậc thiền 72
(jhāna), sát-na định này là định dẫn thiền sinh đến sự chứng ngộ Đạo Quả (Magga Phala). Thiền Minh sát không quan sát m ột đối tượng duy nhất, thay vào đó nó đòi hỏi phải có sự quan sát các đối tượng từ sát-na này đến sát-na khác. Dù đối tượng thay đổi tâm vẫn có thể khéo tập trung trên chúng t ừ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác. Điểm này có lẽ r ất sáng tỏ đối với những thiền sinh đã thực hành một cách hiệu quả. Câu hỏi 42: Li ệu vi ệc một thi ền sinh phải x ử sự
như thể mình là m ột người đang bệ nh làm mọi vi ệc một cách ch ậm ch ạ p, t ừ t ốn , nhẹ nhàng có quan tr ọng không?
Một thiền sinh phải xử sự như mù dù họ có mắt sáng; như điếc dù họ có tai thính; như câm dù có thể họ là người nói r ất hay, như yếu ớt dù họ cảm thấy r ất khỏe. Điều này được đề cập trong Trưởng Lão Tăng Kệ (Thera Gāthā) và trong Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Pañha) như sau: “Cakkhumassa yathā andho, sotavā badhiro yathā. Paññāvassa yathā mugo, bālavā dubbalorivā. Atha atthe samuppanne, sayetha matasayikaṃ.”
Dịch: Mặc dù có mắt sáng, cư xử như thể ta bị mù, (Điều đó có nghĩa là người hành thiền không chú ý tới bất cứ cái gì ngoài đối tượng thiền). Dù có thính giác tốt, cư xử như thể ta bị điếc. Mặc dù có đủ trí tuệ để nói, cư xử như thể ta bị câm. Mặc dù khỏe mạnh, cư xử như thể ta yếu ớt. Trong trường hợp mục đích đòi hỏi phải bất động, cư xử như thể ta là một xác chết, nằm im không cục cựa. Nói chung, thiền sinh phải xử sự như thể mình là người tàn tật yếu ớt. Người trong 73
tình tr ạng khỏe mạnh bình thường sẽ đứng dậy một cách dễ dàng, nhanh nh ẹn và tức thời. Đối với người tàn tật yếu ớt thì không làm được như vậy, mà họ đứng dậy một cách chậm chạp, nhẹ nhàng. Trường h ợp của người bị đau lưng cũng vậy, họ đi đứng một cách nhẹ nhàng sợ lưng bị tổn thương và sẽ gây ra đau đớn. Với người hành thiền cũng phải như vậy. Họ nên thay đổi oai nghi một cách chậm chạp và nhẹ nhàng; chỉ khi đó chánh niệm, định và tuệ Minh sát của họ mới tiến triển tốt đẹp. Do đó, hãy bắt đầu với những chuyển động từ từ, nhẹ nhàng. Khi đứng, thiền sinh phải đứng một cách nhẹ nhàng giống như một người tàn tật, đồng thời ghi nhận 'đứng, đứng'. Ngoài ra, mặc dù có mắt sáng để thấy, thiền sinh phải làm như mình không thấy. Tương tự khi tai nghe. Trong lúc hành thi ền, thiền sinh chỉ quan tâm tới việc ghi nhận. Những gì bạn thấy và nghe không phải là chuyện quan tâm. Vì thế, bất luận điều gì lạ lùng hay đáng kinh ngạc thiền sinh phải làm như thể không thấy hay không nghe, mà ch ỉ ghi nhận một cách thận tr ọng. Khi cử động thân thể, thiền sinh phải làm các động tác một cách từ từ như thể thiền sinh là một người tàn tật yếu đuối, nhẹ nhàng cử động chân tay, co hay du ỗi chúng, cúi đầu hoặc ngửng đầu, .... Câu hỏi 43: vi ệc quan sát sự phồng và x ẹ p c ủa bụng có phù h ợ p v ớ i l ờ i d ạ y c ủa Đứ c Phật không?
Đối tượng phồng và xẹp của bụng được bao gồm trong các hiện tượng vật lý, và cũng nằm trong sắc uẩn (rūpa-kkhandha). Dưới dạng Mười hai xứ ( X ứ Ayatana - ch tâm thứ c khở i sanh: 1. Nhãn x ứ; 2. Nhĩ x ứ; 3. T ỷ x ứ; 4. Thi ệt x ứ; 5. Thân x ứ; 6. Ý x ứ; 7. Sắc 74
x ứ; 8. Thinh x ứ; 9. Hương xứ ; 10. V ị x ứ; 11. Xúc x ứ; 12. Pháp x ứ) , nó được kể trong Xúc xứ (photthabbayatana).
Còn về Giới (Dhātu), nó là Xúc gi ới (Photthabbadhātu) trong số Mười tám giới (Gi ới - Dhātu: 1. Nhãn gi ới ; 2. Sắc gi ới ; 3. Nhãn thứ c gi ới; 4. Nhĩ giớ i; 5. Thinh gi ới; 6. Nhĩ thứ c gi ới ; 7. T ỷ gi ới; 8. Hương giớ i; 9. T ỷ thứ c gi ới ; 10. Thi ệt gi ới ; 11. V ị gi ới ; 12. Thi ệt thứ c gi ới ; 13. Thân gi ới ; 14. Xúc gi ới ; 15 Thân thứ c gi ới ; 16. Ý gi ới ; 17. Pháp gi ới ; 18. Ý thứ c gi ới ) . Trong Tứ đại, nó được gồm trong phong đại hay yếu tố gió. Dưới dạng Tứ Thánh Đế, nó được nói là Khổ Đế (Dukkha sacca), tức sự thực của khổ.
Như vậy, tr ong nghĩa tối hậu, đối tượng phồng và xẹp của bụng này nằm dưới Sắc uẩn (Rūpakkhandha), Xúc xứ (Photthabba yatana), Phong đại (Vāyo Dhātu), và Khổ đế (Dukkha Sacca), được xem như đủ điều kiện làm một đối tượng cho Vipassana (Minh sát) để nhận thức Tam Tướng vô thường, khổ và vô ngã, theo lời dạy của Đức Phật. Câu hỏi 44: Quan sát s ự 'phồng, x ẹ p', co và duỗ i (chân tay), …. phải chăng chỉ là tri ki ế n theo chế đị nh, chứ không phải sự thự c cùng t ột?
Những nhận xét đại loại như thế này thường do những người chưa bao giờ thực hành một cách triệt để đưa ra: nếu người ta ghi nhận „co và duỗi‟, nó sẽ đưa đến cái nhìn hão huy ền về hình thù hay tướng của cánh tay; còn ghi nhận „phải bước, trái bước‟ sẽ làm phát sinh tri kiến theo khái niệm về tướng r ắn chắc của chân đang di chuyển trong một tư cách vụng về; quan sát sự phồng và xẹp sẽ khơi dậy sự tưởng tượng về 75
hình tướng của bụng. Những nhận xét của họ có thể hơi đúng đối với những người mới thực hành. Tuy nhiên, sẽ là không đúng khi nói rằng lúc nào cũng chỉ có tri kiến theo khái niệm xảy ra. Lúc mới bắt đầu thực hành, có lúc tri kiến theo khái ni ệm xảy ra, và có lúc (trí) hay biết về sự thực cùng tột giống như (biết) sự chuyển động hay rung động cũng nảy sinh. Lại nữa một số vị thầy hướng dẫn quan sát chỉ sự chyển động mà thôi. Tuy nhiên, đối với người mới bắt đầu hành thiền, quan sát sự chuyển động duy nhất là điều không thể. Lúc ban đầu, người hành thiền không thể nào tránh được sự hiểu biết theo khái niệm. Người ta có thể phát triển cái biết (trí tuệ) bằng cách dùng sự hiểu biết theo khái niệm, và ngôn ngữ hàng ngày. Chính Đức Phật cũng dùng ngôn ngữ hàng ngày để dạy đạo: “khi đi, biết đi”; “co, biết co”, “duỗi, biết duỗi”, v.v... Đức Phật không dùng ngôn ng ữ cùng tột hay chân đế để giảng dạy như „Hãy biết tr ạng thái căng cứng‟, „Hãy biết sự chuyển động‟, v.v... Mặc dù người hành thiền dùng ngôn ng ữ hàng ngày như co, duỗi, .... họ chắc chắn sẽ biết được những đặc tính thực, chẳng hạn như sự căng cứng, chuyển động, .... ngoài hình tướng hay hình thù r ắn chắc, khi định và niệm của họ tr ở nên thành thục. Câu hỏi 45: N ế u chúng ta c ứ duy trì vi ệc quan sát cái đau, sự nóng bứ c hay tê c ứn g mà không ch ị u thay đổ i oai nghi li ền, thì thự c sự đó có phải là t ự ép xác hay khổ hạnh (Atta-kilamatha-nuyoga) không?
Có người bảo tôi một vị thiền sư cư sĩ kia nói r ằng nếu bạn có cái đau, nóng bức hay sự tê cứng do ở trong một tư thế (oai nghi) nào đó quá lâu, bạn nên 76
thay đổi oai nghi. Nếu không, đó sẽ là một loại pháp hành khổ hạnh. Thực ra quan điểm đó không có căn cứ, và chú tr ọng quá nhiều đến “lợi ích tỉnh giác”, Satthakasampajañña, tức suy xét xem điều gì có lợi (Có bốn lo ại t ỉ nh giác: 1. Satthakasampajañña - Lợ i ích t ỉnh giác; 2. Sappāyasampajañña - Thuận l ợi t ỉn h giác; 4. 3. Gocārasampajañña – Hành x ứ t ỉn h giác; Asammohasampajañña – Bất mê t ỉ nh giác ). Khi bạn thực hành thiền chỉ và thiền Minh sát, chủ yếu là phải có Khantī -saṃvara, nghĩa là tự chế, hay phòng hộ với sự tr ợ giúp của pháp kham nhẫn (Saṃvara hay phòng hộ có năm cách: 1. Pāṭ imokkha Saṃvara – phòng hộ bằng gi ới bổn Ba la đề mộc xoa; 2. Sati Saṃvara – phòng hộ bằng ni ệm; 3. Ñāṇa Saṃvara – phòng hộ bằng trí tuệ; 4. Khanti Saṃvara – phòng hộ bằng kham nhẫn; 5. Viriya Saṃvara – phòng hộ bằng tinh t ấn. Xem thêm trong Đoạn Tr ừ Lậu Hoặc ). Chỉ khi bạn duy trì việc thực hành với pháp kham nhẫn, tức kham nhẫn chịu đựng cái đau, .... ngoại tr ừ trường hợp không thể chịu đựng nổi, thì định và tuệ mới phát sanh. Ngược lại, nếu bạn thường xuyên thay đổi oai nghi, sẽ không còn lại chỗ nào cho định và tuệ Minh sát nữa. Mọi người, nếu đã từng hành một cách nghiêm túc, đều biết rõ điều đó. Vì thế, bạn nên thực hành với pháp kham nhẫn cho đến mức có thể, đừng thay đổi oai nghi thường xuyên quá. Đó đích thực là phòng hộ bằng kham nhẫn - Khantī -saṃvara, chứ hoàn toàn không phải là khổ hạnh, hay ép xác gì cả, bởi vì một sự nhẫn nại như vậy không cố ý tự làm khổ mình, mà chỉ giúp cho người hành thiền phát triển khả năng kham nhẫn phòng hộ, chánh niệm, định và tuệ Minh sát 77
mà thôi. Thực sự, Đức Phật muốn người hành thiền duy trì việc thực hành một cách không khoan nhượng hơn là cứ thay đổi oai nghi của mình cho đến khi hoàn thành A-la-hán Thánh đạo ngay tại chỗ ấy. Điều này được nói đến trong "Đại Kinh Rừng Sừng Bò" - Mahā Gosinga Suttaṃ (Trung Bộ I): Giả sử, nếu người hành thiền ngồi tư thế ngồi kiết già, hạ quyết tâm, "Ta sẽ không đứng dậy khỏi thế ngồi kiết gìa này cho đến khi loại tr ừ tâm khỏi tham, và đoạn tận hết mọi tâm phiền não.", thời người này được chấp nhận như một người làm chói sáng khu r ừng Gosinga.
Do đó, những ai dạy r ằng nếu một người thực hành kham nhẫn với các cảm thọ khổ, thì giống như ép xác khổ hạnh, là đang xúc phạm những người hành thiền dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, và làm hỏng giáo Pháp của Ngài. Hơn nữa, họ còn hủy diệt viễn cảnh của những người hành thiền đang cố gắng hoàn thành định và tuệ Minh sát. Trong Kinh nói đến Khanti-Saṃvara – Phòng hộ bằng kham nhẫn: “Này các Tỳ kheo, trong giáo Pháp này, một v ị T ỳ kheo có như lý tác ý (suy xét chân chánh) tu t ậ p kham nhẫn v ới l ạnh, nóng, đói, khát, ruồi, mui, gió, sứ c nóng mặt tr ời , r ắn, rít, bò c ạ p, và nhữ ng l ời mắng nhi ếc sỉ v ả. Thậm chí v ị ấy còn phải kham nhẫn v ới những đau đớ n v ề thể xác hoặc nhữ ng bệnh hoạn gay g ắt, nghi ệt ngã, khủng khi ế p và chết ngườ i. Này các T ỳ kheo, đối v ới một v ị T ỳ kheo như vậy, nhữ ng phi ền não tàn hại và làm cho đau đớ n không còn x ảy ra nữ a. V ị ấy có thể vượ t qua nhữ ng phi ền não như thế v ới sự tr ợ giúp c ủa pháp kham nhẫn và ch ị u đựng.” (Majjhimā I,113) 78
Đoạn văn vừa đề cập ở trên, nằm trong bài kinh gọi là Kinh Tất Cả các Lậu Hoặc (Sabbāsava Sutta), ở đây Đức Phật đã chỉ dẫn người hành thiền phải chịu đựng ngay cả với cái đau chết người. Điều đó cần phải ghi nhớ trong tâm. Thêm n ữa, trong Chú giải, có một số câu chuyện giống như câu chuyện của Trưởng lão Lomasanaga, người đã không từ bỏ quyết tâm, mà dành hết thời gian của mình vào việc thực hành giữa tr ời trong suốt giai đoạn Antara-ratthaka. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai tháng cuối cùng của một năm, và được xem như là thời kỳ lạnh nhất. Thậm chí có cả tuyết. Vì thế, bạn không nên thay đổi oai nghi do cái đau vừa phải như tê cứng, nóng bức, hay đau nhức. Bạn nên duy trì việc quan sát và kham nh ẫn với quyết tâm không thay đổi oai nghi. Nếu có thể, thậm chí bạn nên cứ tiếp tục thực hành bất kể đến mạng sống. Nhờ làm như vậy bạn có thể tạo ra Kham nh ẫn phòng hộ, tuệ Minh sát và định. Nếu cái đau không thể chịu đựng nổi, thì bạn nên thay đổi oai nghi bằng cách ghi nh ận sự thay đổi này thật cẩn thận để cho chánh niêm, định và tuệ Minh sát không bị đánh động. Có số người giải thích Atta-kilamatha (tự hành xác) theo cách trái ngược lại với giáo Pháp c ủa Đức Phật. Theo họ, thực hành là một hình thức tự hành xác. Sự giải thích như vậy rõ ràng là ngược lại với lời dạy của Đức Phật, vì thậm chí Ngài còn dạy chúng ta thực hành không màng đến mạng sống và chân tay. “Dù chỉ còn l ại da và xương, dù máu thị t ta có khô c ạn, ta sẽ không ng ừn g thực hành cho đến khi hoàn thành sự giác ng ộ Đạo Quả ta mong muốn”. Đức Phật nói 79
chúng ta nên quyết tâm kiên định và tiếp tục thực hành một cách không khoan nhượng. Do đó, một sự thực hành tích cực như thế không thể nói là ép xác Attakilamatha vì nó giúp người hành thiền tạo ra định và tuệ Minh sát. Nói gì đến hành thiền, ngay như việc giữ giới, người ta cũng phải chịu khó chịu khổ ở một mức nào đó, song không thể bảo như thế là hành khổ hạnh ép xác vì nó giúp cho định và tuệ Minh sát phát triển. Chẳng hạn, khi giữ bát quan trai gi ới hay thập giới, người ta phải nhịn ăn vào buổi chiều, điều này có thể làm khó chịu, đặc biệt đối với những người còn tr ẻ. Tuy nhiên, không thể nói đó là hành xác vì nó hỗ tr ợ cho việc hoàn thành gi ới của một người.
Dĩ nhiên, đối với một số người, đầu tư nỗ lực cho việc giữ giới không sát sanh, .... là r ất khó, song Đức Phật tán dương nỗ lực này như „hiện tại khổ, tương lai lạc‟ trong Đại Kinh Pháp hành – Mahādhamma-dayada, Mūla paṇnāsa (M. I) như sau:
“Ở đây, này các Tỳ kheo, có ngườ i v ới khổ v ới ưu, từ bỏ sát sanh, và do duyên t ừ bỏ sát sanh c ảm thọ khổ ưu (đối v ới 9 gi ới còn l ại cũng vậy). V ị ấy sau khi thân hoại mạng chung, nhất đị nh sanh vào thi ện thú, thiên gi ới, ci đờ i này. Này các T ỳ kheo, thự c hành mườ i gi ới như thế đượ c g ọi là, „hiện t ại khổ; tương lai quả báo l ạc.‟” Vì thế, một pháp hành không nên xem là tự hành xác khi nó giúp người ta trau dồi giới đức, thiền định và tuệ Minh sát, vì đó là Trung Đạo, Majjhimā-paṭipadā. Trái lại nếu một pháp hành không liên quan đến giới, định và tuệ, dĩ nhiên, pháp hành đó phải được xem như tự hành xác. 80
Câu hỏi 46: Có thự c r ằng vi ệc quan sát các c ảm thọ l ạc sẽ làm phát sanh d ục l ạc, trong khi chánh ni ệm trên các c ảm thọ khổ là đ ồng nhấ t v ớ i t ự hành xác. N ếu v ậ y, phải chăng ng ườ i hành thi ền không quan sát gì hế t, ngoại tr ừ duy nhấ t c ảm thọ trung tính (thọ x ả )?
Ngay cả trong trường hợp của việc hành thiền Minh sát, có số người cũng nói một cách lạ lùng r ằng việc quan sát các cảm thọ lạc sẽ làm phát sanh d ục lạc, còn chánh niệm trên các cảm th ọ khổ là đồng nhất với tự hành xác. Do đó, người hành thiền không quan sát cả hai. Cảm thọ trung tính là cảm thọ duy nhất nên quán. Đó là một quan niệm sai lầm không có bằng chứng nào chứng minh được. Trong phần quán thọ của Kinh Đại Niệm Xứ - Mahāsatipaṭṭhāna Sutta, Đức Phật đã chỉ dẫn chúng ta một cách rõ ràng là ph ải quan sát tất cả mọi loại thọ, như sau: “Sukhaṃ vā vedanaṃ vedanaṃ vedayāmī’ ti pajānāti
vedayamāno
‘sukhaṃ
Dukkhaṃ vā vedanaṃ vedayamāno ‘dukkha ṃ vedanaṃ vedayāmī’ ti pajānāti”
Nghĩa là: Khi cảm giác một cảm thọ lạc, người hành thiền biết ta đang cảm giác một cảm thọ lạc. Khi cảm giác một cảm thọ khổ, người hành thiền biết ta đang cảm giác một cảm thọ khổ. Hơn nữa, có nhiều bài Kinh khác còn đưa ra những bằng chứng tương tự để chứng minh r ằng tất cả các loại thọ phải được ghi nhận như sau: “Yapidaṃ cakkhu- samphassa- paccayā uppajjhāti vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā. Tampi aniccanti yathā- bhūtaṃ pajānātī.” 81
Dịch: Duyên nhãn xúc, các th ọ, lạc, khổ, trung tính sanh, những thọ ấy phải được như thực quan sát là vô thường. Kết luận lại là bất cứ hiện tượng hay pháp nào nằm dưới năm thủ uẩn - Upādānakkhandha (năm uẩn vốn bị chấp thủ và tà kiến, xem đó là tôi, v.v…) đều có thể là một đối tượng để quan sát. học thông Câu hỏi 47: Gì là sự khác nhau gi ữa qua tưở ng (sañña) và ghi nh ận thông qua ni ệm (sati)?
Chính „tưởng‟ (sañña) ghi nhận các đối tượng giác quan để khắc sâu chúng vào trong trí nh ớ của một người, trong khi „niệm‟ (Sati ) chỉ hay biết về các đặc tính và Tam Tướng (vô thườ ng, khổ và vô ngã) của những đối tượng ấy, chứ không nhớ hay nhận thức những hình ảnh, .... của chúng. Tuy nhiên, chữ „sati ‟, hay niệm nghĩa đen của nó lại là nhớ, Vì thế, nó được giải thích như là “ghi nhận” cho phù hợp. Ghi nhận ở đây chỉ là sự quan sát tâm và thân hay danh và s ắc ngay sát-na chúng xảy ra để hay biết đúng như chúng thực sự là. Do đó, mặc dù về ngữ pháp hai chữ nghe có vẻ tương tự, song trên thực tế chúng lại khác nhau. Câu hỏi 48: Phải chăng đứ c B ồ Tát (Bodhisatta) đã đạt đế n giác ngộ t ối thượ ng nhờ quan sát hơi thở vô – ra (Anāpānā)?
Đức Phật – tương lai hay đức Bồ Tát lúc đó đã đề khởi Vipassana, bằng cách thấy các hiện tượng bên trong và bên ngoài trong toàn th ể vũ trụ (thân - tâm), đang sanh và diệt. Vì thế, Đức Phật nói: “Pañcannaṃ upādāna-kkhandhanaṃ udaya-yabbanupassī vihasiṃ” 82
“Ta đã dùng thờ i gian để quán năm thủ uẩn đang sanh và di ệt.” (Ở đây, năm thủ uẩn Upādānakkhandha, có nghĩa là Năm uẩ n b ị chấ p thủ và tà ki ến) Quan sát năm thủ uẩn đang sanh và diệt, Ngài khởi lên trí tuệ Minh sát, dần dần từng bước dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn qua việc đắc Tu-đà-hoàn Đạo (Sotāpannā Magga). Rồi Ngài lại thực hành Minh sát theo cách tương tự, và chứng nghiệm Niết-bàn qua Tư-đà-hàm Đạo (Sakadāgāmī Magga), tầng giác ngộ thứ hai. Một lần nữa Ngài tr ở lại với việc Minh sát, và chứng ngộ Niết-bàn qua A-na-hàm Đạo ( Anāgāmī Magga), tầng giác ngộ thứ ba. Và cuối cùng Ngài tr ở lại với Minh sát, và chứng đắc viên mãn Niết-bàn qua tầng giác ngộ cuối cùng, A-la-hán Đạo ( Arahanta Magga) còn gọi là Lâụ Tận (Tận diệt mọi phiền não lậu hoặc Asāvakkhaya), trở thành Phật, bậc Toàn giác. Câu hỏi 49: Li ệu có thể phát sanh tu ệ Minh sát do
đọc, “sanh và diệt” mà không quan sát danh và sắ c đang thự c sự sanh - di ệt không?
Thực sự không thể thấy vô thường, khổ và vô ngã mà không kinh nghi ệm những đặc tính thực của tâm và thân. Chẳng hạn, nếu bạn không thấy tia chớp ngay khoảnh khắc nó chớp lên, bạn không thể nào biết được tia chớp xuất hiện và biến mất như thế nào, có phải vậy không? Theo cách tương tự, bạn không thể thấy vô thường, khổ và vô ngã mà không quan sát tâm và thân ngay sát-na chúng xảy ra. Vì thế, kết luận đưa ra ở đây là người ta không thể phát sanh tuệ Minh sát thực vào tính chất vô thường, khổ và vô ngã, chỉ bằng cách đọc “sanh và diệt” mà không quan sát tâm và thân 83
đang thực sự sanh và diệt được. Đó là lý do vì sao người hành thiền phải ghi nhớ r ằng chỉ khi họ quan sát tâm và thân đang sanh diệt, và nhờ đó kinh nghiệm được tính chất vô thường, .... của chúng, thì đó mới là tuệ Minh sát thực. Câu hỏi 50: Li ệu có thể bi ết đượ c các hi ện tượ ng (các pháp) quá kh ứ , v ị lai, đúng như chúng là không?
Trong Anupada Sutta, Uparipa ṇṇāsa (Kinh Bất Đoạn, TB.III ), bài kinh đặc biệt đề cập r ằng trong trường hợp thực hành Minh sát của các vị đệ tử (ở đây nói về ngài Xá-lợi-phất), chỉ có các hiện tượng bên trong là quan tr ọng đối với việc thực hành, và những gì còn lại có thể được kinh nghiệm bằng cách phán đoán hay suy luận. Vì thế, điều quan tr ọng là phải hay biết các hiện tượng bên trong t ừ kinh nghiệm của chính mình. Trong số đó, các hiện tượng tương lai không thể kinh nghiệm như chúng thực sự là, bởi vì chúng vẫn chưa đi vào hiện hữu.
Đối với các hiện tượng quá khứ, chẳng hạn những hiện tượng trong các kiếp quá khứ không cách nào có thể kinh nghiệm chúng như thực được, mà chỉ nhờ suy luận hay phán đoán. Ngay cả trong kiếp sống này cũng vậy, không dễ gì kinh nghiệm các đối tượng đã gặp những năm, tháng, tuần hay ngày, trước. Thực sự ra, ngay cả các hiện tượng của giờ trước cũng đã khó mà kinh nghiệm trong nghĩa tối hậu, bởi vì ngay khi người bình thường thấy hay nghe một đối tượng thì họ liền xem đó như một con người, ngã hay tha, nam hay nữ. Vì thế, theo Bhaddeka-ratta Sutta (Kinh Bhaddekaratta) thì chúng ta phải khởi sự việc thực hành Minh sát của chúng ta bằng cách quan sát các hi ện tượng hiện 84
tại ngay sát-na chúng xảy ra. Và điều này cũng hợp với Kinh Niệm Xứ vốn dạy 'khi đi, biết đang đi', .... bạn phải khởi sự hành Minh sát với các đối tượng hiện tại như đi, đứng, ngồi, nằm, v.v... Sở dĩ có sự phức tạp ở đây là vì Kinh Vô Ngã Tướng (Anattā-lakkhaṇa Sutta) này bắt đầu với các hiện tượng quá khứ, do đó, người ta có thể lầm lẫn cho r ằng thiền sinh nên bắt đầu Minh sát với các hiện tượng quá khứ. Câu hỏi 51: Có nên thự c hành b ằng cách đọ c thầm và suy xét "thân này là vô thườ ng, thân này là vô thườ ng'' không?
Giả sử, bạn thực hành bằng cách đọc thầm và suy xét "Rūpaṃ Aniccaṃ, Rūpaṃ Aniccaṃ” (sắc là vô thường, sắc là vô thường), các thuật ngữ bạn dùng tất nhiên là đúng.Tuy nhiên, nếu bạn được hỏi đích xác bạn đang quán cái gì, hay sắc nào bạn muốn nói là vô thường, thì câu tr ả lời chắc sẽ chỉ là tên gọi suông mà thôi. Có r ất nhiều câu hỏi được nêu ra ở đây, chẳng hạn: bạn đang quán sắc nào, sắc quá khứ, sắc hiện tại, hay sắc tương lai; và đó là sắc bên ngoài hay bên trong. Câu tr ả lời tất sẽ mơ hồ. Giả sử, nếu đó là sắc bên trong, thì nó ở phần nào trong thân, ở đầu, mình, chân tay, da, thịt, ruột, gan hay ở phần nào khác? Câu tr ả lời không là gì ngoại tr ừ tên gọi hay danh xưng suông, và vô thường do suy nghĩ. Đó chẳng qua là nh ững gì bạn nghĩ tới nghĩ lui nhiều lần, cũng giống như tụng kinh chứ không có gì hơn. Câu hỏi 52: Vì sao ngườ i hành thi ền không đượ c chỉ d ẫn quán hơi thở vô và hơi thở ra? 85
Theo quan niệm của tôi, tôi đồng ý với điều cho r ằng có thể tu tập Vipassanā bằng cách quán hơi thở vô ra, cảm giác yếu tố gió hay Phong đại, và tâm ghi nhận liên quan trong đó. Tuy nhiên, trong Thanh Tịnh Đạo mười bốn phần quán thân (kāya-nupassanā) được chia ra làm 2 phần, Samātha và Vipassanā. Anāpānā (quán hơi thở) được sắp vào thiền chỉ (Samātha) như:
“Iriyāpatha-pabbaṃ catu- sampajjañā - pabbaṃ dhātu- manasikāra pabbanti imāni tīni vipassanā vāsena vuttanti - ānāpāna-pabbaṃ pana paṭ ikūlamanasikāra- pabbañca imānevettha dve samādhi vasena vuttanti.” (Visuddhi -magga I,p232) Dịch: “Ba phần như quán bốn oai nghi, bốn loại t ỉn h giác và bốn đại chủng (bốn y ếu t ố căn bản), đượ c d ạy dướ i d ạng thi ền Minh sát, trong khi chỉ có hai phần như quán hơi thở vô ra, và quán ba mươi hai thể trượ c d ạy dướ i d ạng thi ền chỉ .” Như trên đã đề cập, Thanh Tịnh Đạo rõ ràng sắp quán hơi thở (ānāpāna) như tu tập thiền chỉ hay thiền định. Nếu tôi hướng dẫn các thiền sinh quán hơi thở vô ra để phát triển Vipassanā, thì theo những gì Thanh Tịnh Đạo đã đề cập ở trên, tôi chắc chắn sẽ bị đổ lỗi là đang dạy thiền định, chứ không phải thiền Minh sát. Vì thế, hẳn là tôi không thể cứ khăng khăng nói ngược với Thanh Tịnh Đạo r ằng tôi đang dạy thiền Minh sát. Đó là lý do vì sao tôi không hướng dẫn người hành thiền thực hành quán hơi thở vô ra như thiền Minh sát. Tuy nhiên, tôi cũng cho phép người hành thiền quán hơi thở nếu anh ta hay cô ta nài n ỉ. Tôi chưa bao giờ bảo họ không được. 86
Có một điều cần phải ghi nhớ là: Thanh T ịnh Đạo, và Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidā Magga) đều nói rõ r ằng khi bạn thực hành quán hơi thở, tâm bạn phải t ập trung độc nhất vào lỗ mũi, chứ không theo hơi thở đi vào và đi ra. Mục đích là để đề khởi chuẩn bị định và định của bậc thiền (jhānic). Tuy nhiên, trong trường hợp của thiền Minh sát, đối tượng không giới hạn cho hiện tượng vật lý ở một nơi đặc biệt nào. Song, nếu tôi chỉ dẫn người hành thiền quan sát các hiện tượng khác như cảm giác xúc chạm hay tâm lang thang hoặc thấy, nghe, .... thì những chỉ dẫn của tôi sẽ ngược lại với hai bộ sách có thẩm quyền đã nói ở trên, và tôi cũng buộc ph ải bị chỉ trích về việc đó. Tôi hy vọng những câu tr ả lời này sẽ thỏa mãn được câu hỏi t ại sao tôi không hướng d ẫn người hành thiền th ực hành quán hơi thở để phát triển Minh sát. Câu hỏi 53: N ế u một ngườ i quan sát sự 'phồng, x ẹ p' có phải là tu t ập đị nh hay thi ền chỉ (Samātha) không?
Sự 'phồng, xẹp' được kể trong yếu tố gió hay phong đại gọi là Assasa-passasa, một trong sáu loại gió thuộc phong đại. Thực sự ra, sự 'phồng, xẹp' thuộc về bốn loại gió của phong đại là: Aṇga-maṇga-nusarivāyo (gió đi qua các phần của thân), Assasa-passasavāyo (hơi thở vô và hơi thở ra), Kucchisaya-vāyo (gió trong bao tử), và Yam-va-taṃ-va-vāyo (gió thông thường).
Đối tượng, sự 'phồng, xẹp', được kể trong hơi thở vô ra vì nó liên quan chính y ếu đến hơi thở, và thể hiện ra như kết quả của việc thở. Tuy vậy, tôi vẫn 87
không có ý muốn nói nó là ānāpāna - niệm hơi thở, vì trong trường hợp của thực hành niệm hơi thở, người hành thiền được hướng dẫn tập trung tâm trên hơi gió đi qua mũi và môi trên theo Vô Ngại Giải Đạo và Thanh Tịnh Đạo, .... Vì thế, quán 'phồng, xẹp' không phải là thực hành niệm hơi thở mặc dù người hành thiền cũng quan sát hơi thở vô ra nếu nó chuyển động trong bụng. Nhưng, khi ấy nó là Dhātu-vavaṭṭthāna (quán trên sự phân tích các giới hay tứ đại), bởi vì bất kỳ đại nào cũng có thể được quan sát để phát triển Vipassanā. Câu hỏi 54: Ngườ i hành thi ền có thấy vô thườ ng, khổ và vô ngã lúc m ớ i bắt đầu hành Minh sát không?
Cách thức một Quán thừa thiền sinh (Vipassanāyānika) hay một người thực hành Minh sát không có định của thiền chỉ , thực hành được giải thích như sau:
“Idhekacco pana vuttapakaram anuppadetvā pañcupadanak -khadhe vipassati. Ayaṃ vipassanā.”
samatham aniccadihi
Nghĩa là: Ở đây, trong Thánh Chúng này, một vị thực hành Vipassanā quan sát năm uẩn (các hiện tượng thân tâm) dưới dạng vô thường, khổ và vô ngã, mà không đề khởi thiền định. Đó được gọi là thuần quán. Như đã đề cập ở trên, một thiền sinh bắt đầu quán hay quan sát năm uẩn (các hiện tượng tâm và thân) dưới dạng vô thường, khổ và vô ngã, mà không đề khởi thiền định, tức không có cận định (Upacārasamādhi) và an chỉ định (Appanā samādhi). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là vị ấy thấy được vô thường, 88
.... ngay lúc bắt đầu thực hành. Bao lâu người hành thiền không tránh xa được các triền cái, ở đây là những ý nghĩ lang thang, họ không thể trông đợi kinh nghiệm các đặc tính thực của tâm và thân. Để tịnh hoá tâm khỏi các triền cái ấy, điều cần thiết là vị ấy phải phát triển nhất thời định (sát-na định) dựa trên Minh sát. Chỉ khi đó,vị ấy mới có thể hay biết về các đặc tính thực của tâm và thân, phát sanh tuệ Minh sát gọi là Danh sắc phân tích trí (Nāma-rūpa pariccheda-ñāṇa). Kế đến, tuệ này được theo sau lần lượt bởi các tuệ gọi là Tuệ phân biệt nhân quả (Paccaya-pariggahañāṇa), và Tuệ thẩm sát tam tướng - vô thường, khổ và vô ngã (Sammasana-ñāṇa). Vì sự giải thích chi tiết về điều này đã được nói đến trong Thanh Tịnh Đạo (Vissuddhi Magga), ở đây chúng tôi chỉ giải thích tóm tắt r ằng một người quan sát năm uẩn dưới dạng vô thường v.v…mà thôi. Ngược lại, nếu một thiền sinh thấy được vô thường, khổ và vô ngã ngay lúc b ắt đầu thực hành, điều đó sẽ trái ngược với sự giải thích của Thanh Tịnh Đạo.
Nó cũng ngược lại với cách tiến hành của Thất ị nh g ồm: 1. Gi ới t ị nh thanh tịnh (Bảy giai đoạn thanh t (Sīlavisuddhi) ; 2.Tâm tịnh (Cittavisuddhi ); 3. Kiến tịnh (Di ṭṭ hivisuddhi ); nghi tịnh 4. Đoạn (Kaṇkhāvitaraṇavisuddhi ); 5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh (Maggāmaggañā ṇadassanavisuddhi ); 6. Đạo tri kiến tịnh (Paṭ ipadāñaṇadassanavisuddhi ); 7. Tri kiến tịnh (Ñāṇadassanavissuddhi ). Vì thế, điều đó cần ph ải tin là không đúng sự thực.
89
PHÁP HÀNH THI ỀN THA THỨ VÀ THI ỀN TÂM TỪ Thi ền Sư Sayadaw U Sīlānanda 1. Pháp Hành Thi ền Tha Th ứ Khi hành Thiền Tha Thứ, thiền sinh chấp hai tay đọc 5 đến 10 lần : Vì l ầm l ạc và không minh mẫn nên con đã có hành động, l ời nói và ý nghĩ sai lầm làm thi ệt hại và gây ra đau khổ cho ngườ i khác, cho chúng sanh khác. Xin t ất c ả chúng sinh mở r ộng lòng t ừ bi và trí tuệ tha thứ cho con. Con xin thành thật tha thứ cho t ất c ả những ai đã có hành động, l ời nói và ý nghĩ sai lầm làm thi ệt hại và gây ra đau khổ cho con. Con xin thành thật tha thứ cho chính con và nguy ện t ừ nay v ề sau làm lành, lánh d ữ, gi ữ tâm ý trong sạch. 2. Pháp Hành Thi ền Tâm T ừ Sau khi hành Thiền Tha Thứ, thiền sinh có thể hành Thiền Tâm Từ như sau: a. R ải Tâm T ừ đến chúng sanh theo nơi chốn Thiền sinh có thể niệm thầm trong tâm vào khoảng 10 lần những câu sau đây: Nguy ện cho con thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. 90
Nguy ện cho t ất c ả chúng s anh trong nhà này thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ấ t c ả chúng s anh trong khu v ực này thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặ p chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ất c ả chúng sanh trong thành ph ố này thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặ p chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ất c ả chúng sanh trong đấ t nướ c này thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặ p chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ấ t c ả chúng sanh trên th ế g i ới thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ất c ả chúng sanh trong vũ trụ thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ấ t c ả chúng sanh thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh 91
t ị nh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. b. R ải Tâm T ừ qua t ừn g hạng ngườ i Thiền sinh có thể niệm thầm trong tâm vào khoảng 10 lần những câu sau đây: Nguy ện cho con thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho Th ầ y T ổ con thoát khỏi thù hận, có t đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, tĩnh l ặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho cha mẹ con thoát khỏi thù hận, có t đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, tĩnh l ặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho nh ững người trong gia đình thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho thân bằng quy ến thuộc con thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho bạn bè con thoát khỏi thù hận, có t đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, tĩnh l ặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ấ t c ả thi ền sinh thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh 92
t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho những ngườ i không quen bi ết con thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặ p chướ ng ng ại. Nguy ện cho nh ững ngườ i không có thi ện c ảm v ới con thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh ịnh, t tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ấ t c ả chúng sanh thoát khỏi thù hận, có đầy đủ sứ c khỏe, bình an, hạnh phúc, thanh t ịnh, tĩnh lặng, thân không bệnh t ật, tâm không phi ền não, hàng ngày an vui, không g ặp chướ ng ng ại. Nguy ện cho t ất c ả chúng sanh trong mườ i phương không oan trái l ẫn nhau, tránh khỏi các r ủi ro, tai hại, đượ c an vui và thành t ựu nhữ ng hạnh phúc, khi ến cho t ất c ả sự khổ não, kinh sợ và bệnh hoạn đều đượ c tiêu tan. L ợ i ích khi thự c hành Thi ền Tâm T ừ -
-
Ngủ an lành, không gặp ác mộng, Thức dậy an lành Được mọi người và phi nhân thương mến Được chư thiên bảo vệ Lửa, thuốc độc và vũ khí không làm hại được Dễ tập trung tâm ý Mặt mày trong sáng dễ mến Không bối r ối khi chết, và nếu Tâm từ được phát triển cao hơn sẽ được tái sanh về cõi Phạm Thiên. 93
THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI Vị Sư đọc phần truyền Tam quy và Bát giới, các thiền sinh cư sĩ đọc theo 3 lần: Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa Nam mô, tas sá, phá gá vá tô, á rá há tô, sam ma sam but thas sá. Chúng con xin hết lòng thành kính, làm lễ Đức Phá gá va đó, Ngài là bậc Á rá hăn cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần 1 lạy)
Phần Tam Quy (Vị Sư đọc trước, Phật tử đọc theo)
Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi. But thăn, sá rá năn, gach cha mí. Con đem hết lòng thành kính, xin quy y Phật. Dhammaṃ saranaṃ gacchāmi. Tham măn, sá rá năn, gach cha mí. Con đem hết lòng thành kính, xin quy y Pháp. Sanghaṃ saranaṃ gacchāmi. Xăng khăn sá rá năn gach cha mí. Con đem hết lòng thành kính, xin quy y Tăng. Dutiyampi, …. Đú tí dam pí, … Lần thứ nhì. Tatiyampi, .... Tá tí dam pí, … Lần thứ ba.
Sư truyền giới: Tisaraṇaggahanaṃ paripuṇṇaṃ Phép Quy Y Tam Bảo tròn đủ chỉ có bấy nhiêu. Thiền sinh: Āma bhante ! A má phành tê ! Dạ xin vâng. 94
Phần Bát Giới (Vị Sư đọc trước, Phật tử đọc theo)
1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhā -padaṃ samādiyāmi.
Pa na tí pa ta, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh. 2. Adinnādānā veramaṇī sikkhā- padaṃ samādiyāmi. Á đin na đa na, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp. veramaṇī sikkhā - padaṃ 3. Kāmesu-micchācārā samādiyāmi. Ka mê sú mich cha- chá ra, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà hạnh. 4. Musā-vādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Mú sa va đa, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối. 5. Surā-meraya-majjap- pamādaṭ -ṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Sú ra mê rá dá mach chap pá ma đat tha na, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say. 6. Vik ālabojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ví ka lá bô chá na, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.
95
7. Nacca-gī ta-v ādita-visukadassana māl ā-gandhavilepana-dhārana-mandana-vibhū sanaṭṭ hana
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Nát chá gi tá va đí tá ví su kas đát sá na, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn đàn, xem múa hát, nghe đàn kèn, trang điểm, thoa dầu thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. 8. Ucc ā sayana mahā sayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Út cha sá dá ná má ha sá dá na, vê rá má ni, sic kha pá đăn, sá ma đí da mí. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Sư
truyền giới : ‘‘Imāni aṭṭ ha sikkhā- padāni uposathasī lavasena imaňca ratti ṃ imaňca divasaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sammā rakkhitabbaṃ’’. Í ma ní át thá sít kha pá da ní ú po sá thá si lá vá sê ná í măng chá rát tim í măng chá đí vá săng sa thú kăng ká toa áp pá ma đê ná sám ma rắt khí táp băng Thiền sinh: Āma bhante ! A má phành tê ! Sư truyền giới: Chư thiện tín sau khi thọ trì Tam quy và Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, phải vâng giữ hành theo, cho được trong sạch trọn ngày nay, đêm nay và cho đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi. Thiền sinh: Dạ xin vâng. (lạy)* Sư truyền giới: “ Sīlena sugatiṃ yanti, Sīlena bhogasampadā ; Sīlena nibbutiṃ yanti, Tasmā sīlaṃ visodhaye” . Tất cả chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới. Tất cả chúng sanh được giàu sang cũng 96
nhờ giữ giới. Tất cả chúng sanh giải thoát, nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy, nên thiện tín (hoặc Chư thiện tín) phải ráng thọ trì giới luật cho được trong sạch đừng để lấm nhơ. Thiền sinh: Sādhu ! Sādhu ! Sādhu ! Sa thú ! Sa thú ! Lành thay! Phật tử đọc bài hồi hướng phước báu : Chư Thiên ngự trên hư không , Địa cầu thượng ngự r thông mọi điều , Long Vương thần lực có nhiều , Đồng xin hoan hỷ phước đều chúng con. H ộ trì Phật giáo Tăng bồi, Các bậc Thầy Tổ an vui lâu dài , Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai , Chúng sanh được hưởng phước dài bền lâu .
Chúng con vui thú đạo mầu , Tu hành tinh t ấn ngõ hầu vô sanh.
(Lạy)
Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây, xin hồi hướng đến thân bằng quy ến thuộc đã quá vãng, c ầu mong cho các v ị ấy siêu sanh v ề nơi nhàn c ảnh. Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây, xin cầu an đến thân bằng quy ến thuộc còn hi ện t ại , c ầu mong cho các v ị ấy hằng đượ c sự yên vui. Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây, hãy là mối duyên lành, để d ứt khỏi những điều ô nhi ễm, ng ủ ng ầm nơi tâm trong ngày vị lai. (Lạy) 97
KINH TAM B ẢO (TÓM T ẮT)
1. L Ễ BÁI PHẬT BẢO Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Ðức Bhagavā đó. Ngài là bậc Arahăng cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ng ộ, không thầy chỉ dạy. (đọc 3 lần, lạy 1 lạy).
2. BUDDHA GUṆA - ÂN ÐỨC PHẬT BẢO Itipiso Bhagavā: Arahaṃ, Sammā -sambuddho, Vijjācarana-sampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro, Purisadammasārathi, Satthā-devamanus-sānaṃ , Buddho, Bhagavāti. 1 - Arahaṃ ( Ứn g Cúng ): Ðức Thế Tôn hiệu Arahaṃ, bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi, nên tiền khiên tật, thân và khẩu của Ngài đều được tr ọn lành. 2 - Sammā-sambuddho (Chánh Bi ế n Tri): Ðức Thế Tôn hiệu Sammā Sambuddho, bởi Ngài đã thành bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy, không thầy chỉ dạy. 3 - Vijjācarana-sampanno (Minh H ạnh Túc): Ðức Thế Tôn hiệu Vijjācaranasampanno, bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác và 15 cái h ạnh. 4 - Sugato (Thi ện Th ệ ): Ðức Thế Tôn hiệu Sugato, bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt, Ðại Niết Bàn. 98
5 - Lokavidū (Thế Gian Gi ải): Ðức Thế Tôn hiệu Lokavidū , bởi Ngài đã thông suốt Tam Giới. 6 - Anuttaro (Vô Thượng Sĩ): Ðức Thế Tôn hiệu Anuttaro, bởi Ngài có đức hạnh không ai bì. 7 - Purisadammasārathi (Ðiều Ng ự Trượ n g Phu): Ðức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi, bởi Ngài là Đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ. 8 - Satthā-devamanus-sānaṃ (Thiên Nhơn Sư): Ðức Thế Tôn hiệu Satthādevama-nussānaṃ, bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại. 9 - Buddho (Ph ật): Ðức Thế Tôn hiệu Buddho, bởi Ngài Giác Ngộ lý Tứ Diệu Ðế, và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng bi ết. 10 -Bhagavāti (Thế Tôn ): Ðức Thế Tôn hiệu Bhagavā, bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới, tức là Ngài không còn luân h ồi lại nữa. (lạy)
3. DHAMMA GUṆA - ÂN ÐỨC PHÁP BẢO 1 - Svākkhāto Bhagavatā: Nghĩa là tam tạng Pháp Bảo của Ðức Thế Tôn, đã khẩu truyền y theo chánh pháp. 2 - Dhammo: là Pháp Thánh có 9 h ạng: "4 đạo, 4 quả và 1 Niết Bàn". 3 - S andi ṭṭ h iko: là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết ch ắc, bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý. 4 - Akāliko: là Pháp độ cho đắc quả không chờ ngày giờ, khi nào đắc đạo thì đắc quả không chậm tr ễ. 5 - E hipass iko: là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả r ồi, có thể ứng hóa cho kẻ khác biết được. 99
6 - Opanayiko: là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình, do nhờ phép Thiền Ðịnh. 7 - Paccattaṃ veditabbo viññū hīti: là Pháp mà các hàng trí tuệ, nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)
4. SAṄGHA GUṆA - ÂN ÐỨC TĂNG BẢO 1 - Suppa ṭ ipanno bhagavato sāva -kasaṅ g ho : Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu hành chín chắn y theo chánh pháp. 2 - Ujupa ṭ ipanno bhagavato sāva -kasaṅ g ho: Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu hành chín chắn y theo chánh Pháp. 3 - Ñayapa ṭ ipanno bhagavato sāva -kasaṅ g ho: Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết Bàn, là nơi an lạc d ứt kh ỏi các sự thống khổ. 4 - Sāmīcipa ṭ ipanno bhagavato sāva-kasaṅ g ho: Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu theo phép Giới Ðịnh Tuệ. 5 - Yadidaṃ cattāri purisa-yugāni: Tăng nếu đếm đôi thì có bốn bậc: Tăng đã đắc đạo cùng quả Tu Ðà Hoàn, Tăng đã đắc đạo cùng quả Tư Ðà Hàm, Tăng đã đắc đạo cùng quả A Na Hàm, Tăng đã đắc đạo cùng quả A La Hán. 6 - A ṭṭ ha puris a- puggalā: Tăng nếu đếm chiếc thì có tám bậc: Tăng đã đắc đạo Tu Ðà Hoàn, Tăng đã đắc quả Tu Ðà Hoàn, 100
Tăng đã đắc đạo Tư Ðà Hàm, Tăng đã đắc quả Tư Ðà Hàm, Tăng đã đắc đạo A Na Hàm, Tăng đã đắc quả A Na Hàm, Tăng đã đắc đạo A La Hán, Tăng đã đắc quả A La Hán, 7 - Esa Bhagavato sāvakasa ṅ g ho: Chư Tăng ấy là các bậc Thinh Văn Đệ tử Phật. 8 – Āhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng c ủa tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có giới hạnh. 9 – Pāhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài. 10 - Dakkhi ṇeyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng. 11 – Añjalikaranīyo: Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái. 12 - Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokas-sāti: Các Ngài là phước điền của chúng sanh không đâu bì kịp.
5. NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞ NG Thế Tôn l ời d ạy t ỏ tườ ng, Năm điều quán tưở ng phải thườ ng xét ra: Ta đây phải có sự già, Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn.
Ta đây bệnh t ật phải mang, Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành. 101
Ta đây sự chết sẵn dành, Thế nào tránh thoát t ử sanh đến k ỳ, Ta đây phải ch ị u phân ly, Nhân v ật quý mến ta đi biệt mà. Ta đi vớ i nghi ệ p c ủa ta, Dù cho t ốt x ấu t ạo ra t ự mình, Theo ta như bóng theo hình, Ta thọ quả báo phân mình k ết thành.
6. HỒI HƯỚNG PHƯỚC ĐẾN CHƯ THIÊN Aakāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā Devānāgā mahiddhikā Puññaṃ no anumodantu Ciraṃ rakkhantu 1. Sāsanaṃ 2. No garū 3. Ñātayo 4. Pānino 5. No sadā.
Chư Thiên ngự trên hư không, Đị a c ầu thượ ng ng ự rõ thông mọi điều, Long Vương thần l ực có nhi ều, Đồng xin hoan hỷ phước đều chúng con. H ộ trì Phật giáo Tăng bồi, Các bậc Thầy T ổ an vui lâu dài, Quy ến thuộc tránh khỏi nạn tai, Chúng sanh được hưởng phướ c dài bền lâu.
Chúng con vui thú đạo mầu, Tu hành tinh t ấn ngõ hầu vô sanh. (Lạy) 102
7. NGUYỆN GIẢI THOÁT Idaṃ no (vo) nātīnaṃ hontu sukhitā hontu nātayo (3 l ần)
Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây: 1. Xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy siêu sanh về nơi nhàn cảnh. 2. Xin cầu an đến thân bằng quyến thuộc còn hiện tại , cầu mong cho các vị ấy hằng được sự yên vui. Idaṃ vata me puñnñaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu ānagate kāle (Lạ y)
Do sự phước báo mà chúng con đã trong sạch làm đây, hãy là pháp duyên lành, để dứt khỏi những điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai. (Lạy)
103
METTĀ SUTTA (KINH R ẢI TÂM TỪ) Aham avero homi abyãpajjho homi anĩgho homi sukhĩ -attãnam pariharãmi
Mong cho tôi thoát khỏi:
Hận thù và hiểm nguy, Tâm nhiễm ô, phiền não, Thân đau khổ, đọa đày; Thân tâm được an lạc. Mama mãtãpitu ãcariya ca Mong cha mẹ, thầy tổ, nãtimittã ca sabrahmãCùng thân quyến, bạn bè carino ca Không hiểm nguy, thù hận, Averã hontu abyãpajjhã Tâm trí hết muộn phiền, hontu, anĩgha hontu Khổ thân không còn nữa, sukhĩ -attãnam pariharantu. An lạc cả thân tâm. Imasmim ãrãme sabbe Mong tất cả thiền sinh, yogino Không hiểm nguy, thù hận, averã hontu abyãpajjhã Tâm trí hết muộn phiền, hontu, anĩgha hontu Khổ thân không còn nữa, sukkhĩ -attãnam pariharantu. An lạc cả thân tâm. Imasmim ãrãme sabbe Mong toàn thể Tăng Ni, bhikkhu Cư sĩ nam và nữ, sãmanera ca upãsakaKhông hiểm nguy, thù hận, upasikãyo ca Tâm trí hết muộn phiền, averã hontu abyãpajjhã Khổ thân không còn nữa, hontu, anĩgha hontu An lạc cả thân tâm. sukkhĩ -attãnam pariharantu. Amhãkam catupaccayaMong cho các thí chủ, dãyakã Không hiểm nguy, thù hận, averã hontu abyãpajjha Tâm trí hết muộn phiền, hontu, Khổ thân không còn nữa, anĩgha hontu An lạc cả thân tâm. sukkhĩ -attãnam pariharantu 104
Amhãkam ãrakkha devatã Mong chư thiên hộ Pháp, imasmim vihãre Cư ngụ tại nơi này, imasmim ãvãse imasmim Không hiểm nguy, thù hận, ãrãme, ãrakkha devatã Tâm trí hết muộn phiền, averã hontu abyãpajjhã Khổ thân không còn nữa, hontu, anĩgha hontu An lạc cả thân tâm. sukkhĩ -attãnam pariharantu. Sabbe sattã sabbe pãnã Mong tất cả chúng sanh; Có thân và có tâm, sabbe bhũta sabbe puggalã sabbe attabhãvaGiới nam hay giới nữ; Bậc Thánh hay phàm nhân, pariyãpannã sabba itthiyo sabbe purisã Chư thiên hay loài người, sabbe ariyã sabbe anariyã Những ai không hạnh sabbe devã phúc, sabbe manussã sabbe Không hiểm nguy, thù hận, vinipãtikã. Tâm trí hết muộn phiền, averã hontu abyãpajjhã Khổ thân không còn nữa, hontu, anĩgha hontu An lạc cả thân tâm, sukkhĩ -attãnam pariharantu. Hết khổ đau cả thảy, Dukkhã muccantu Hạnh phúc không mất đi, Yatha-laddha-sampattito chúng sinh là chủ nhân; mavigacchantu Kamassakã Puratthimãya disãya pacchimãya disãya uttarãya disãya dakkhinãya disãya puratthimãya anudisãya pacchimãya anudisãya uttarãya anudisãya dakkhinãya anudisãya hetthimãya disãya uparimãya disãya Sabbe sattã sabbe pãnã
Nghiệp lực do mình tạo. Nơi hướng Đông, hướng Tây; Hướng Nam hay hướng Bắc; Hướng Tây - Bắc , Đông – Nam;
Hướng Tây - Nam, Đông Bắc ; Ở hướng dưới, hướng trên, Mong tất cả chúng sanh; có thân và có tâm,
Giới nam hay giới nữ; Bậc 105
sabbe bhũta Thánh hay phàm nhân, sabbe puggalã sabbe Chư thiên hay loài người, attabhãva-pariyãpannã Những ai không hạnh sabba itthiyo sabbe purisã phúc, sabbe ariyã sabbe anariyã Không hiểm nguy, thù hận, sabbe devã Tâm trí hết muộn phiền, sabbe manussã sabbe Khổ thân không còn nữa, vinipãtikã. An lạc cả thân tâm, averã hontu abyãpajjhã Hết khổ đau cả thảy, hontu, anĩgha hontu sukkhĩ -attãnam pariharantu. Hạnh phúc không mất đi, chúng sinh là chủ nhân, Dukkhã muccantu Nghiệp lực do mình tạo. Yatha-laddha-sampattito mavigacchantu, Kamassakã Uddham yãva bhavaggã ca Từ cảnh giới cao nhất; Đến cảnh giới thấp nhất, adho yãva avĩccito Toàn vũ trụ bao la, samantã cakkavãlesu Bất cứ chúng sinh nào; di ye sattã pathavĩ -carã chuyển trên mặt đất, Abyãpajjha niverã ca Mong thoát khổ thân tâm, niddukkhã ca nupaddavã Thoát hiểm nguy, thù hận.
Uddham yãva bhavaggã ca adho yãva avĩccito samantã cakkavãlesu ye sattã udakecarã abyãpajjha niverã ca niddukkhã ca nupaddavã Uddham yãva bhavaggã ca adho yãva avĩccito samantã cakkavãlesu ye sattã akãsecarã abyãpajjha niverã ca
Từ cảnh giới cao nhất; Đến cảnh giới thấp nhất, Toàn vũ trụ bao la, Bất cứ chúng sinh nào, Di chuyển trong dòng nước, Mong thoát khổ thân tâm, Thoát hiểm nguy, thù hận. Từ cảnh giới cao nhất; Đến cảnh giới thấp nhất, Toàn vũ trụ bao la; Bất cứ chúng sinh nào, Di chuyển trong hư không, Mong thoát khổ thân tâm, 106