ii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................i MỤC LỤC.......................................................................................................................ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................................vi DANH MỤC BẢNG, BIỂU..........................................................................................vii DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ.................................................................................viii MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ.................................................................................6 1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU...........................................................................6 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về tuân thủ thuế............................6 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về tuân thủ thuế..............................13 1.1.2.1. Luận án tiến sĩ......................................................................................13 1.1.2.2. Đề tài nghiên cứu và Luận văn thạc sĩ.................................................17 1.1.2.3. Bài báo khoa học.................................................................................19 1.1.3. Nhận xét chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước đã công bố..........................................................................................25 1.2. KHOẢNG HỞ NGHIÊN CỨU VỀ TUÂN THỦ THUẾ Ở VIỆT NAM...........27 1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN.....................................................27 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ.......................................................................................................................... 29 2.1. KHÁI NIỆM TUÂN THỦ THUẾ.....................................................................29 2.2. PHÂN LOẠI TUÂN THỦ THUẾ......................................................................31 2.2.1. Căn cứ vào tính chất tuân thủ.....................................................................31 2.2.2. Căn cứ vào nội dung tuân thủ.....................................................................31 2.2.3. Căn cứ vào mức độ tuân thủ.......................................................................31 2.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ...................................................................33 2.3.1. Các tiêu chí đánh giá tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.......................33 2.3.1.1. Các tiêu chí định tính...........................................................................33 2.3.1.2. Các chỉ tiêu định lượng........................................................................34 2.3.2. Các phương pháp đo lường tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.............37 2.3.2.1. Phương pháp số liệu quản lý thuế........................................................37 2.3.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát...........................................................38 2.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ..............................................................................................................40 2.4.1. Chính sách, pháp luật thuế..........................................................................41 2.4.2. Hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế...................................................42 2.4.2.1. Thủ tục hành chính thuế.......................................................................42
iii 2.4.2.2. Nhóm nhân tố thuộc về các chức năng quản lý của cơ quan thuế........43 2.4.3. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế............49 2.4.4. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của cơ quan thuế...............................................50 2.4.5. Nhóm yếu tố thuộc về người nộp thuế........................................................50 2.4.6. Sự phát triển của hệ thống đại lý thuế.........................................................51 2.4.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội............................................................................52 2.5. KINH NGHIỆM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................................................................................................................................. 53 2.5.1. Kinh nghiệm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở một số nước trên thế giới..........................................................................................................53 2.5.1.1. Kinh nghiệm của Singapore.................................................................53 2.5.1.2. Kinh nghiệm của Vương quốc Anh.......................................................57 2.5.1.3. Kinh nghiệm của Australia...................................................................58 2.5.1.4. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ.....................................................................60 2.5.1.5. Kinh nghiệm của các quốc gia trong Hiệp hội nghiên cứu và quản lý thuế châu Á.......................................................................................................60 2.5.2. Các bài học đối với Việt Nam.....................................................................61 CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016..................................................................................63 3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016........63 3.2. THỰC TRẠNG TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016.........................................................................................67 3.2.1. Tổng quan về người nộp thuế ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016.....................67 3.2.2. Thực trạng tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam..........................70 3.2.2.1. Tuân thủ về đăng ký thuế......................................................................71 3.2.2.2. Tuân thủ về kê khai, tính thuế...............................................................74 3.2.2.3. Tuân thủ về nộp thuế............................................................................84 3.2.2.4. Tuân thủ các quy định khác về thuế.....................................................87 3.2.3. Đánh giá chung về thực trạng tuân thủ ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016.89 3.2.3.1. Những ưu điểm về tuân thủ thuế của người nộp thuế...........................89 3.2.3.2. Những hạn chế trong tuân thủ thuế của người nộp thuế......................93 3.3. THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016......................94 3.3.1. Thực trạng chính sách, pháp luật thuế và tác động đến tuân thủ thuế của người nộp thuế......................................................................................................94 3.3.1.1. Bổ sung, hoàn thiện Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành.................................................................................................................. 94 3.3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm về thuế...............97 3.3.1.3. Hoàn thiện các luật thuế......................................................................99
iv 3.3.2. Thực trạng các nhân tố về hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.................................................105 3.3.2.1. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế............................................................................105 3.3.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.......................................................109 3.3.3. Thực trạng trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế...............................129 3.3.4. Thực trạng cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế........................................................................132 3.3.5. Thực trạng các yếu tố về người nộp thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.............................................................................................135 3.3.6. Thực trạng sự phát triển của hệ thống đại lý thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế...............................................................................136 3.3.7. Thực trạng các yếu tố về tình hình kinh tế - xã hội và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế...............................................................................138 CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030..................140 4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025 VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ ............................................................................................................................... 140 4.2. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM.............................144 4.2.1. Quan điểm đề xuất giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam..................................................................................................144 4.2.1.1. Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế phải gắn với việc thực hiện Chiến lược cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế...........................................144 4.2.1.2. Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế hướng đến mục tiêu thực hiện nghiêm minh pháp luật thuế....................................................................145 4.2.1.3. Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế trên cơ sở đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế........................................................145 4.2.1.4. Nâng cao tính tuân thủ thuế là trách nhiệm chính của cơ quan thuế nhưng cũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.....................................145 4.2.1.5. Các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế phải có lộ trình phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam...........................................................................146 4.2.2. Định hướng xây dựng giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam.................................................................................146 4.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN 2030...148 4.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế..........................................................148
v 4.3.2. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế.............................156 4.3.3. Xây dựng chiến lược quản lý thuế dựa trên mức độ tuân thủ thuế............157 4.3.3.1.Vận dụng mô hình quản lý tuân thủ....................................................157 4.3.3.2. Tiến hành đánh giá mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế để phân nhóm tương ứng..............................................................................................158 4.3.3.3. Xây dựng chiến lược quản lý thuế tương ứng với các cấp độ tuân thủ thuế của người nộp thuế..................................................................................161 4.3.4. Tăng cường giám sát việc tuân thủ bằng cách mở rộng áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào quản lý thuế...........................................................................162 4.3.5. Hoàn thiện nhóm chỉ số đánh giá tuân thủ thuế của người nộp thuế trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế...............................................................167 4.3.6. Đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền, hỗ trợ nhằm thúc đẩy ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế........................................................................168 4.3.7. Quản lý tốt việc đăng ký, kê khai và nộp thuế của người nộp thuế...........170 4.3.8. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác kiểm tra, thanh tra thuế........172 4.3.9. Tăng cường công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế....................175 4.3.10. Các giải pháp khác..................................................................................176 4.3.10.1. Về cải cách tổ chức bộ máy..............................................................176 4.3.10.2. Bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng công chức thuế.............177 4.3.10.3. Tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển và quản lý tốt hoạt động của hệ thống đại lý thuế.............................................................................................178 4.4. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU KIỆN NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM......................................................................179 4.4.1. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật để đảm bảo đầy đủ tính nghiêm minh của pháp luật..............................................................................................179 4.4.2. Phát huy vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng xã hội đối với công tác quản lý thuế để nâng cao tính tuân thủ thuế. 179 4.4.3. Mở rộng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt............................181 4.4.4. Nâng cao tính liêm chính của toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước............182 4.4.5. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan dân cử đối với việc thực thi pháp luật nói chung, pháp luật thuế nói riêng.....................................................183 KẾT LUẬN...............................................................................................................185 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN........................................................................................................187 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................188 PHỤ LỤC.................................................................................................................. 193
1
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đảm bảo được sự tuân thủ tự nguyện của NNT là một trong những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với công tác hoạch định chính sách thuế và hoạt động thực thi pháp luật thuế. Khi NNT đã tự nguyện tuân thủ các quy định của pháp luật thuế thì chắc chắn chính sách pháp luật thuế sẽ được thực thi nghiêm túc. Qua đó, huy động được nguồn thu quan trọng cho NSNN, điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Tính tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở việc NNT hiểu biết và tuân thủ đầy đủ, đúng đắn, kịp thời các quy định của pháp luật thuế, thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ thuế của mình. Tuy nhiên, trong thực tế, do việc thực hiện nghĩa vụ thuế ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến những lợi ích vật chất của NNT nên họ không hoàn toàn tự nguyện trong tuân thủ thuế. Bên cạnh đó, nếu chính sách thuế quá phức tạp, khó hiểu, khó thực thi hoặc quá lỏng lẻo, tạo nhiều kẽ hở thì cũng tạo ra cơ hội cho các hành vi không tuân thủ thuế diễn ra. Vì những lý do trên, việc nâng cao tính tuân thủ của NNT luôn được coi là nội dung trọng yếu, yêu cầu cơ bản và là mục tiêu hàng đầu của công tác quản lý thuế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các nội dung về tuân thủ pháp luật nói chung, tuân thủ thuế nói riêng như khái niệm, nội dung, yêu cầu, tiêu thức đánh giá, các nhân tố ảnh hưởng, các điều kiện đảm bảo… trên góc độ lý thuyết cũng như vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia trong các giai đoạn nhất định là rất quan trọng, cả trên phương diện xây dựng chính sách thuế, các chiến lược và kế hoạch hoàn thiện hệ thống thuế, cũng như trên phương diện tổ chức quản lý thuế. Ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện thực hiện cơ chế NNT tự kê khai, tự nộp thuế và hiện đại hóa công tác quản lý thuế, việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá tính tuân thủ thuế của NNT để có những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế là hết sức quan trọng. Việc hoạch định chính sách thuế, cải cách quản lý thuế, xây dựng và thiết lập một cơ chế giám sát, quản lý hướng tới mục tiêu tuân thủ tự nguyện của NNT đang được đặt ra như một đòi hỏi tất yếu trong cơ chế quản lý thuế hiện đại. Điều này đặt ra yêu cầu phải làm sáng tỏ thêm về lý luận và thực tiễn tuân thủ thuế, đặc biệt phải đánh giá được mức độ tuân thủ thuế của NNT và đánh
2
giá được hiệu quả của hoạt động giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt Nam để cơ quan quản lý thuế thực hiện các biện pháp quản lý thuế có hiệu quả hơn. Hệ thống chính sách thuế và công tác quản lý thuế hiện hành của Việt Nam đã chú trọng đến mục tiêu nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Tuy nhiên, trong thực tế, mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam vẫn còn đang ở mức thấp, các hành vi vi phạm về thủ tục, kê khai sai hoặc gian lận thuế vẫn còn xảy ra ở nhiều địa phương trong cả nước. Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở mục tiêu chủ yếu, tổng quát đó, Luận án cần đạt được các mục tiêu cụ thể sau đây: - Tổng hợp, hệ thống hóa, phát triển và bổ sung cơ sở lý luận về tuân thủ thuế như: khái niệm, nội dung, tiêu thức đánh giá và các nhân tố ảnh đến tính tuân thủ thuế của NNT. - Phân tích, đánh giá thực trạng tuân thủ thuế của NNT; thực trạng các nhân tố tác động đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là tính tuân thủ thuế của NNT. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: Luận án nghiên cứu tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Hoạt động tuân thủ thuế của NNT bao gồm tuân thủ chính sách thuế nội địa, tuân thủ chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, Luận án chỉ tập trung vào tình hình tuân thủ thuế của NNT đối với các sắc thuế nội địa. Về nghiên cứu thực trạng, Luận án chỉ tập trung nghiên cứu tính tuân thủ thuế một cách tổng quát nhất và tính tuân thủ ở một số sắc thuế chủ yếu trong hệ thống thuế. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu thực trạng tuân thủ thuế của NNT, thực trạng quản lý thuế tác động đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam từ năm
3
2011 đến 2016. Các giải pháp đề xuất của Luận án chủ yếu tập trung trong giai đoạn 2017 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Với nội dung, mục tiêu và đối tượng, phạm vi nghiên cứu của mình, Luận án có ý nghĩa khoa học và thực tiễn như sau: * Ý nghĩa khoa học: Luận án nghiên cứu, phân tích và trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống các vấn đề lý luận về tính tuân thủ thuế của NNT. Luận án chỉ rõ các nội dung tuân thủ thuế của NNT, các tiêu thức đánh giá tính tuân thủ thuế, các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT. Bên cạnh đó, Luận án cũng tìm hiểu, xem xét, đối chiếu và rút ra những đánh giá về việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở một số quốc gia làm bài học kinh nghiệm trong điều kiện Việt Nam hiện nay và thời gian tới. * Ý nghĩa thực tiễn: Luận án phân tích một cách toàn diện về thực trạng tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2016. Luận án đã đánh giá thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2016 trên cả hai phương diện là những tác động tích cực, những tác động tiêu cực và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đó. Luận án cũng hệ thống hoá các quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện chính sách thuế và quản lý thuế ở Việt Nam thời gian tới. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian tới và các điều kiện cần thiết đảm bảo thực hiện thành công các giải pháp đó. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng quát là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng hợp, khảo sát, phân tích, đối chiếu, so sánh… Để đánh giá thực trạng tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam, NCS đã sử dụng 2 phương pháp là: (1) Đánh giá bằng số liệu quản lý thuế; và (2) Đánh giá qua điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi. Cụ thể như sau: Về số liệu quản lý thuế: Luận án sử dụng các số liệu, tài liệu, thông tin đã được Tổng cục Thuế và CQT các cấp công bố qua các báo cáo tổng kết, sơ kết,
4
thông tin báo chí, các thông tin số liệu được cung cấp bởi các cơ quan có chức năng liên quan như Trang Thông tin Chính phủ, Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…. Về số liệu, tài liệu qua điều tra, khảo sát: Luận án đã sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát để đánh giá thực trạng tuân thủ thuế và các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Cuộc khảo sát được tiến hành trên cơ sở đặt ra các câu hỏi, các nội dung đã chuẩn bị sẵn để các đối tượng được khảo sát cho ý kiến của mình bằng cách trả lời các câu hỏi trong phiếu khảo sát. Có 3 nhóm nội dung hỏi cơ bản là: (i) Nhóm câu hỏi nhằm đánh giá thực trạng mức độ tuân thủ thuế theo các tiêu chí đánh giá tuân thủ; (ii) Nhóm câu hỏi nhằm đánh giá thực trạng tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế; (iii) Nhóm câu hỏi để lấy thông tin về NNT. Có hai nhóm đối tượng được khảo sát: NNT và cán bộ công chức thuế. Đối với nhóm NNT, cuộc khảo sát đã thu được 535 phiếu trả lời của tất cả loại hình NNT. Bao gồm: Bảng 1: Thành phần NNT trả lời khảo sát TT Loại hình 1 Doanh nghiệp nhà nước Công ty TNHH có vốn nhà nước, công ty cổ phần có 2 vốn nhà nước 3 DN tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần 4 DN liên doanh hoặc DN 100% vốn nước ngoài 5 Hợp tác xã 6 Hộ kinh doanh cá thể 7 Cá nhân hành nghề độc lập 8 Cá nhân làm công ăn lương 9 Loại hình khác Tổng
Số lượng 63
Tỷ lệ % 11,8
64
12
116 60 50 47 45 71 19 535
21,7 11,2 9,3 8,8 8,4 13,3 3,6 100
Các DN được khảo sát được thành lập trong các năm từ 2001 đến 2016, các cá nhân có năm sinh từ 1964 đến 1990. Các DN hoạt động trong hầu hết các lĩnh với số lượng lao động cao nhất lên đến gần 20.000 người, mức vốn cao nhất lên đến 50.000 tỷ đồng; Mức doanh thu cao nhất của DN được khảo sát lên đến 30.000 tỷ đồng và có cả DN chưa có doanh thu vì mới được thành lập. Đối với nhóm công chức thuế, cuộc khảo sát đã nhận được 500 phiếu trả lời. Các công chức thuế trả lời làm hầu hết trong các bộ phận của CQT. Bao gồm:
5
Bảng 2: Thành phần cán bộ thuế trả lời khảo sát TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Bộ phận làm việc Lãnh đạo cục/chi cục thuế Tuyên truyền - Hỗ trợ NNT Quản lý kê khai và kế toán thuế Thanh tra/Kiểm tra thuế Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế Tổng hợp, nghiệp vụ, dự toán Tổ chức/Hành chính/Ấn chỉ/Tài vụ Pháp chế Kiểm tra nội bộ Đội thuế xã, phường, thị trấn Bộ phận khác Tổng
Số lượng Tỷ lệ % 50 10 44 8,8 44 8,8 42 8,4 45 9,0 62 12,4 44 8,8 42 8,4 37 7,4 46 9,2 44 8,8 500 100
Các câu trả lời được tập hợp theo từng nhóm và được sử dụng để minh họa thêm cho các phân tích, đánh giá, nhận xét của Luận án. 6. Kết cấu của Luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung Luận án được chia thành 4 chương, bao gồm: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Chương 2: Cơ sở lý luận về tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Chương 3: Thực trạng tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016. Chương 4: Giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
6
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ 1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về tuân thủ thuế Tuân thủ thuế luôn là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý quan tâm. Chính vì vậy, đã có không ít các công trình nghiên cứu ở nước ngoài tập trung xem xét các khía cạnh lý luận và thực tiễn của việc tuân thủ thuế. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau (được sắp xếp theo thứ tự thời gian): 1. Ann Dryden Witte (Wellesley University), Helen Tauchen (University of North Carolina) (1987): Tax compliance research: Model, Data and Methods. Công trình nghiên cứu, xem xét những vấn đề về mô hình, dữ liệu và phương pháp thúc đẩy tính tuân thủ thuế ở NNT. Về mô hình lý thuyết, công trình cho rằng, khi đưa ra các quyết định về báo cáo thuế, NNT thường tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình, trong đó cách thức đơn giản nhất là không khai thuế. Tần suất kiểm tra, mức độ xử phạt và cả tỷ lệ thuế suất đều có tác động mạnh đến hành vi tuân thủ thuế của NNT. Công trình cũng đã xây dựng mô hình nghiên cứu, đánh giá mối quan hệ giữa tần suất kiểm tra, mối quan hệ giữa CQT và NNT, lựa chọn đối tượng kiểm tra với mức độ tuân thủ thuế. Công trình cũng cho rằng, hầu hết dân chúng đều “có nguy cơ” không tuân thủ thuế. Để quản lý được hành vi tuân thủ thuế, CQT cần yêu cầu NNT cung cấp các báo cáo chi tiết về các hoạt động chịu thuế hàng năm, ngoài ra, người sử dụng lao động và những người khác cũng được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về thanh toán của họ cho NNT. Đồng thời, cần nghiên cứu kỹ các chi tiết liên quan đến dữ liệu tờ khai thuế và cách mà hệ thống thuế được quản lý [50]. 2. Andreoni J., Erard B. (1998): Tax compliance, Journal of Economic Literature, Vol XXXVI, pp818 - 860. Bài báo này đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế của Hiệp hội kinh tế Mỹ năm 1998. Bài viết đề cập đến các vấn đề về tuân thủ thuế. Trong đó, tác giả cho rằng việc tuân thủ thuế sẽ được thực thi tốt nhất khi sử dụng thuế thân. Đối với tất cả các quốc gia, việc quan sát, xem xét các đặc trưng của các mô hình không tuân thủ thuế để có phương pháp làm giảm thiểu sự không tuân thủ đó là một phương thức quan trọng. Trong đó, cần xem xét đầy đủ các khía cạnh của việc tuân thủ thuế
7
như các góc độ tài chính công, hội nhập kinh tế, lãi suất, lạm phát, quá trình thực thi pháp luật thuế, quá trình hình thành tổ chức, cung cấp lao động, quản trị tổ chức hay cả góc độ đạo đức… hoặc là sự kết hợp của tất cả các yếu tố đó. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra các góc độ khác nhau trong việc hạn chế sự không tuân thủ thuế. Trong đó, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng chính sách thuế với mức điều tiết hợp lý, vai trò của kiểm tra, thanh tra thuế… [49] 3. Cash Economy Task Force (1998): Improving Tax compliance in the cash economy, Australia Task office, Canberra. Công trình này đã đề xuất các biện pháp quan trọng để nâng cao sự tuân thủ thuế trong điều kiện nền kinh tế sử dụng hình thức thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt. Khi đó, cần áp dụng đồng thời các biện pháp như cung cấp dịch vụ hỗ trợ NNT cũng như các biện pháp cưỡng chế. Đó là việc khuyến khích sử dụng thẻ tín dụng, quay xổ số hóa đơn, ưu đãi các DN lưu giữ sổ sách kế toán tốt… Bên cạnh đó, cần tiến hành đồng thời các biện pháp tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong đối chiếu số liệu về đối tượng nộp thuế, theo vết các giao dịch qua từng nhà cung cấp, trao đổi thông tin với CQT nước ngoài… [54] 4. Braithwaite,V. (2001): A new approach to Tax compliance, Working paper, pp2-11, Centre for tax system integrity, the Australian National University, Canberra. Công trình này đã nghiên cứu một cách đầy đủ về tuân thủ thuế từ mối quan hệ giữa CQT với cộng đồng, các mô hình tuân thủ khác nhau và chiến lược quản lý của CQT theo các mô hình tuân thủ đó. Công trình đã đưa ra tháp tuân thủ, trong đó, số lượng NNT được chia thành 4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ và cơ quan quản lý thuế có các biện pháp tương ứng đối với từng nhóm NNT này để đảm bảo sự tuân thủ thuế tốt nhất. Trong mô hình tháp tuân thủ, khi NNT ở vị trí dưới cùng của các kim tự tháp, lúc này NNT và CQT có sự hợp tác, cam kết và tự điều chỉnh để thực thi các nội dung về thuế. Khi xung đột di chuyển lên các nấc trên của kim tự tháp, NNT mất đi sức mạnh thuyết phục đối với CQT và CQT dần chuyển sang chế độ yêu cầu mệnh lệnh và kiểm soát. Do đó, trong quản lý tuân thủ, việc phân loại, sắp xếp NNT theo các nhóm phụ thuộc vào mức độ tuân thủ của họ để thực thi các hành vi quản lý tương ứng là rất cần thiết. Mô hình trong công trình này đã trở thành một lý thuyết quản lý hiện đại đã được nhiều quốc gia vận dụng, đó là quản lý tuân thủ [53].
8
5. Tapan K. Sarker (AISA - PACIFIC TAX BULLETIN Vol. 9, No. 6 JUNE 2003, International Bureau of Fiscal Documentation): Improving Tax Compliance in Developing Countries via Self - Assessment Systems - What Could Bangladesh Learn from Japan? Công trình này cho rằng, hiện nay, mối quan tâm ngày càng tăng của các quốc gia trên toàn thế giới là làm thế nào để đơn giản hóa hệ thống kê khai thuế để khuyến khích tuân thủ tự nguyện, và nhiều quốc gia đã áp dụng hệ thống tự tính thuế (Self - Assessment Systems - SAS) như là một giải pháp. Công trình giới thiệu những nét chung và lợi ích của SAS. Trong đó, NNT tự kê khai và tự xác định nghĩa vụ thuế của mình. Trên cơ sở đó, CQT xem xét, lựa chọn đối tượng thanh tra thuế. SAS có các ưu điểm chính là: (i) SAS đảm bảo được tính hiệu quả hơn vì nó chỉ chọn các trường hợp đặc biệt để giám sát; (ii) SAS loại bỏ tính chất hành chính của hoạt động kê khai, tính thuế; (iii) SAS thúc đẩy việc nộp thuế đầy đủ và kịp thời hơn; và (iv) SAS giảm tham nhũng bằng cách giảm tiếp xúc với đối tượng nộp thuế. Công trình xem xét quá trình thực hiện SAS ở Bangladesh và Nhật Bản, trong đó, tập trung quá trình thực hiện SAS và công tác quản lý thuế của Nhật Bản. Theo nghiên cứu, mức độ tuân thủ thuế tại Nhật Bản là rất cao, và trong những năm gần đây, sự tuân thủ thuế của công ty đã được nhiều hơn 90%. Lý do chính của việc tuân thủ thuế cao ở Nhật Bản là do sự nỗ lực của Cục thuế quốc gia Nhật Bản (NTA). Ở Nhật Bản, SAS đã được giới thiệu vào năm 1947 đóng một vai trò quan trọng, vì trách nhiệm tính toán, báo cáo và nộp nghĩa vụ thuế là về NNT. Các biện pháp thực hiện bởi NTA nhằm thúc đẩy những nguyên tắc tuân thủ tự nguyện là: Quan hệ công chúng; giáo dục Thuế; tư vấn thuế; và hướng dẫn và kiểm tra. Đây được gọi là bốn trụ cột của tuân thủ thuế tại Nhật Bản. Quan hệ công chúng: Mục đích của quan hệ công chúng là xây dựng một môi trường có ý thức thuế không chỉ giữa NNT mà còn trong số công chúng bao gồm cả NNT tiềm ẩn, và có thể được phân loại như sự cần thiết để nhằm các mục tiêu sau: Tăng cường sự tuân thủ thuế; lan tỏa và nâng cao kiến thức của công chúng về thuế; cải thiện sự hiểu biết lẫn nhau, sự tin tưởng giữa NNT và CQT từ đó có được sự hiểu biết và hợp tác từ truyền thông đại chúng để quản lý thuế. Giáo dục Thuế: Là một phần của các hoạt động quan hệ công chúng, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhận thức về thuế. Một số bước thực hiện như sau: Phát hành sách giáo khoa bổ sung cho các mục đích giáo dục về thuế; các
9
lớp tiến hành về thuế; tài trợ các trường Trung học cuộc thi tiểu luận về các chủ đề về thuế; tiến hành hội thảo về tài chính công và kinh tế. Tư vấn thuế: Ở Nhật Bản, một nguyên tắc đặt ra là mỗi cán bộ thuế là một nhân viên tư vấn thuế để hỗ trợ NNT trong các vấn đề liên quan đến thuế và khuyến khích việc tự nguyện khai thuế chính xác và nộp thuế đầy đủ. Hướng dẫn và kiểm tra: Nhằm tăng cường sự tuân thủ tự nguyện của NNT. Kể từ khi hệ thống tự đánh giá được sử dụng rộng rãi, thanh tra, kiểm tra thuế đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tuân thủ tự nguyện. Ở Nhật Bản, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế tập trung vào những NNT đang bị nghi ngờ không báo cáo đầy đủ căn cứ tính thuế với số lượng lớn [59]. 6. James Alm (Department of Economics, Andrew Young School of Policy Studies, Georgia State University, Atlanta, GA 30303-3083, USA) và Michael McKee (Department of Economics, University of Tennessee, Knoxville, TN, USA) (2004): Tax compliance as coordination game, Journal of Economic Behavior & Organization, Vol. 54 (pp297 - 312) Bài viết công bố kết quả nghiên cứu, điều tra về thực trạng tuân thủ thuế của NNT trên cơ sở thực hiện phân tích kiểm tra đối với những đối tượng có một độ lệch nhất định giữa số liệu trên tờ khai thuế với số liệu trung bình của tất cả NNT khác. Tác giả của nghiên cứu này sử dụng các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm để điều tra hành vi tuân thủ được chọn để kiểm tra dựa trên độ lệch của tờ khai thuế của mỗi cá nhân từ các báo cáo trung bình của tất cả các NNT khác. Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng, các cá nhân cảm thấy rất khó khăn để đảm bảo sự cân bằng với số liệu bình quân khi họ thực hiện các hành vi không tuân thủ thuế. Do đó, việc xác định đối tượng, nội dung, mục tiêu kiểm tra thuế đối với các đối tượng này sẽ giúp phát hiện, ngăn chặn hành vi không tuân thủ và nâng cao hiệu quả kiểm tra thuế. Bên cạnh đó, bài viết đưa ra phương pháp, chương trình điều tra, kiểm tra thuế có điều kiện để xây dựng cơ sở dữ liệu cần thiết cho việc đánh giá mức độ tuân thủ. Sau đó, thực hiện so sánh, đánh giá, lựa chọn các nhóm NNT có sự sai lệch sửa số liệu trên báo cáo thuế với dữ liệu chung để thực hiện kiểm tra tính tuân thủ. Bài viết cũng nhấn mạnh đến việc kết hợp các cách thức quản lý như tuyên truyền, hỗ trợ, khuyến khích, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Tất các các nội dung quản lý đó được phối hợp với nhau sẽ vừa tạo điều kiện, khuyến khích đồng thời cũng tạo áp lực bắt buộc sự tuân thủ thuế của các chủ thể trong xã hội [55].
10
7. The Staff of the joint committee on taxation (January 27, 2005): Options to improve tax compliance and reform tax expenditures. Báo cáo này được chuẩn bị bởi các nhân viên của Ủy ban hỗn hợp về Thuế (The Staff of the Joint Committee on Taxation), trình bày các lựa chọn khác nhau để cải thiện sự tuân thủ thuế và chi phí thuế cải cách. Báo cáo mô tả và đưa một số đề xuất rằng sẽ làm giảm bớt khoảng cách về thuế bằng cách hạn chế các ưu đãi thuế, loại bỏ các kẽ hở về thuế ngoài ý muốn và xử lý các đối tượng không tuân thủ thuế hiện nay. Ngoài ra, báo cáo chứa các đề xuất để giảm sự không tuân thủ thuế theo những cách khác nhau. Một số đề xuất giải quyết vấn đề bằng cách đưa ra các yêu cầu về tuân thủ, rà soát các khía cạnh của pháp luật đã được chứng minh là kẽ hở tạo ra sự không tuân thủ đóng thuế, tăng hình phạt. Có đề xuất khác giải quyết vấn đề bằng cách đơn giản hóa pháp luật thuế hoặc sửa đổi pháp luật thuế theo hướng công bằng hơn [60]. 8. Pablo Serra (Đại học Chile, Santiago Chile) (2005): Performance Maesures in Tax administration: Chile as a case study. Bài viết cho rằng có bằng chứng thực nghiệm để kết luận việc tuân thủ tự nguyện của NNT được cải thiện khi quản lý thuế cung cấp một dịch vụ thuế tốt hơn [58]. 9. Lars P.Feld and Bruno S. Frey (Law & Policy, Vol. 29, No. 1, pp. 102-120, January 2007): Tax Compliance as the Result of a Psychological Tax Contract: The Role of Incentives and Responsive Regulation. Bài viết điều tra, phân tích việc tăng tính tuân thủ thuế của NNT khi xem xét hành vi nộp thuế như một hợp đồng giao dịch, trong đó cần áp dụng đầy đủ cơ chế khuyến khích và răn đe. NNT sẽ có các hành vi không tuân thủ khi các điều khoản hợp đồng quá phức tạp, không rõ ràng hoặc các điều khoản khuyến khích, răn đe không đủ lớn hay tần suất kiểm soát là quá ít. NNT sẽ sẵn sàng thành thật kê khai thuế nếu họ nhận thấy kết quả rõ ràng từ việc nộp thuế của họ, hơn nữa, sự thân thiện trong thực thi của NNT và của CQT cũng làm gia tăng tính tuân thủ thuế. Bài viết cũng nghiên cứu thực nghiệm tại Thụy Sĩ và Mỹ về tác động của nhận thức, cơ chế khuyến khích, các hình thức răn đe và kết quả sử dụng nguồn thu thuế. Từ đó, tính tuân thủ thuế sẽ được gia tăng khi trong hợp đồng giao dịch nói trên, các chủ thể có được lòng trung thành, có quan hệ tốt với các đối tác, có tinh thần thực thi... Quan điểm hợp đồng được thông qua trong bài viết này cho phép xem xét chặt chẽ về tác động của cảm xúc và thái độ cá nhân về việc tuân thủ thuế được nhấn mạnh trong các tài liệu tâm lý. Chiến lược chi phối của CQT để tiếp cận đối
11
tượng nộp thuế để tăng cường sự tuân thủ thuế của họ, trong khi cùng một lúc có thể phải nhờ đến biện pháp trừng phạt nếu chiến lược thất bại... [56] 10. Matthew Rablen - HM Revenue & Customs; Stephanie Clarke - HM Revenue & Customs) (October 2007): Enforcing Tax Compliance: Audit Probability versus Audit Effectiveness. Công trình nghiên cứu cho rằng, các cơ quan quản lý thuế của các quốc gia trên toàn thế giới có vấn đề quan trọng cần quan tâm là làm thế nào để tối đa hóa số thu về thuế trong phạm vi nguồn lực có hạn. Để giải quyết vấn đề đó, mục tiêu đặt ra là phải thúc đẩy tối đa sự tuân thủ thuế của NNT. Xét trong ngắn hạn, các cơ quan này có hai công cụ chính có thể sử dụng để tối đa hóa sự tuân thủ thuế, đó là xác suất thanh tra, kiểm tra thuế và hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế. Công trình đã tập trung điều tra, nghiên cứu sự cân bằng hay đánh đổi giữa số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế thực hiện (xác suất thanh tra, kiểm tra thuế) và kết quả của từng cuộc thanh tra, kiểm tra thuế trong việc phát hiện các hành vi không tuân thủ thuế (hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế). Cuộc điều tra đã đưa đến kết quả cho thấy rằng, tính hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế thấp là một cản trở lớn để NNT không tuân thủ thuế so với số lượng cuộc thanh tra, kiểm tra thuế. Do đó, cơ quan quản lý thuế nên chú trọng vào tính hiệu quả của các cuộc xác suất thanh tra, kiểm tra thuế của họ nhiều hơn. Từ đó, công trình đã giải thích sự suy giảm đáng kể xác suất thanh tra, kiểm tra thuế tại một số nước trong những thập kỷ gần đây. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, xác suất thanh tra, kiểm tra thuế mà Sở Thuế vụ Mỹ (Internal Revenue Service - IRS) thực hiện đối với các cá nhân đã giảm từ khoảng 2,5% đến 1% từ 1977 - 1986 (Dubin et al., 1990). Sự suy giảm tiếp tục qua hai mươi năm sau và xác suất thanh tra, kiểm tra thuế là dưới 0,15% vào năm 2001 (Dubin, 2007). Trong khi một số sụt giảm này có thể phản ánh sự tăng trưởng trong số lượng NNT và áp lực chi phí xác suất thanh tra, kiểm tra thuế của IRS, nhưng sự suy giảm này là phù hợp với kết quả nghiên cứu [57]. 11. B. Ravikumar và Yuzhe Zhang (Khoa Kinh tế, Đại học Iowa) (May 12, 2009): Optimal Auditing and Taxation in a Dynamic Model of Tax compliance Bài viết này nghiên cứu các hoạt động kiểm tra thuế nhằm tối ưu số thu thuế trong một mô hình thu nhập ẩn (Green, 1987) Đối tượng được xem xét là những NNT có thu nhập thấp (có thể có cả những người có thu nhập cao) nhưng không báo cáo thu nhập thực sự của mình để trốn thuế. Đối tượng nộp thuế có thu nhập thấp bước đầu chưa được kiểm tra, nhưng nếu thời hạn báo cáo thu nhập thấp đã vượt quá một ngưỡng nào đó, hoạt động kiểm tra thuế sẽ được thực hiện. Kiểm tra
12
thuế trở nên ít thường xuyên hơn nếu chi phí giám sát cao hơn hoặc nếu bất bình đẳng thu nhập thấp hơn. Lúc này, đối tượng NNT có thu nhập thấp được tạo thành hai nhóm. Trong nhóm kiểm tra, NNT được kiểm tra ngẫu nhiên. NNT có thể sẽ di chuyển qua lại giữa hai nhóm theo thời gian. Mức độ, tần suất kiểm tra sẽ thay đổi theo mức thu nhập được báo cáo. Trong mô hình động này, hoạt động kiểm tra theo thời gian và mức độ biến động của thu nhập sẽ là công cụ mạnh mẽ để đảm bảo tính tuân thủ thuế và tính tối ưu trong thực thi hệ thống thuế [52]. 12. Azrina Mohd Yusoft, Lai Minh Ling, Yap Bee Wah (Đại học kỹ thuật Mara, Malaysia) (2014): Tax non-compiliance among SMEs in Malaysia: tax audit evidence. Bài viết khẳng định thuế suất, quy mô DN và lĩnh vực hoạt động là nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của các DN nhỏ và vừa. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc không thanh kiểm tra thuế trong thời gian dài (5 năm) làm tăng nguy cơ không tuân thủ. Công khai hành vi gian lận thuế, số thuế trốn, mức phạt là một trong những đề xuất của nghiên cứu nhằm cải thiện sự tuân thủ của các DN nhỏ và vừa. Tuy nhiên, nghiên cứu này không đề cập đến mối quan hệ giữa mức phạt với sự tuân thủ của các DN nhỏ và vừa, điều mà một số nghiên cứu trước đó có những nhận định khác nhau. Chẳng hạn như, Allingham và Sandmo (1972) cho rằng mức phạt có ảnh hưởng tích cực đến sự tuân thủ. Ngược lại, Kamdar (1997) đã không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào ủng hộ quan điểm cho rằng tăng mức phạt sẽ làm giảm sự không tuân thủ [51]. Ngoài ra, có rất nhiều công trình khác ở nước ngoài nghiên cứu về tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế ở NNT. Đây là nguồn tài liệu rất bổ ích để nghiên cứu sinh tham khảo và kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài Luận án. Nhận xét về các công trình nghiên cứu nước ngoài: Tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT đã được nhiều nhà quản lý, nhà nghiên cứu ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Trong đó, nội dung được quan tâm nhiều nhất là việc xây dựng các mô hình lý thuyết về tuân thủ thuế, đánh giá mối quan hệ giữa hành vi tuân thủ thuế và công tác quản lý thuế nhất là công tác thanh tra, kiểm tra thuế (về cả tần suất, xác suất và hiệu quả thanh tra thuế). Đặc biệt, mô hình tháp tuân thủ đều được các công trình nêu trên nhắc tới và kế thừa trong việc thực nghiệm và đánh giá. Hầu hết các các công trình đều cho rằng, để thúc đẩy tính tuân thủ thuế của NNT, trước hết cần xác định rõ mức độ tuân thủ thuế của NNT, từ đó có các giải pháp quản lý phù hợp. Trong thanh tra, kiểm tra
13
thuế, với nguồn lực có hạn và trong bối cảnh số lượng NNT ngày càng nhiều, cần tập trung vào thanh tra trọng điểm, giảm tần suất thanh tra và nâng cao hiệu quả thanh tra. Bên cạnh đó, các nội dung khác cũng cần được thực thi để đảm bảo nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT như đơn giản hóa hệ thống thuế, tăng tính công khai và công bằng của chính sách thuế, thủ tục thuế; tăng giáo dục về thuế, tăng mức khuyến khích và răn đe trong tuân thủ thuế... 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về tuân thủ thuế Ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tuân thủ thuế nói chung và tuân thủ các sắc thuế cụ thể như: tuân thủ thuế thu nhập cá nhân, tuân thủ thuế TNDN trên phạm vi cả nước hoặc ở một tỉnh. Ngoài ra, còn có nhiều công trình khác dưới dạng Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ, Đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các bài báo đăng tạp chí khoa học… nghiên cứu đến vấn đề quản lý thuế, hoàn thiện hệ thống thuế, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Tiêu biểu là các công trình khoa học được trình bày dưới đây. 1.1.2.1. Luận án tiến sĩ 1. Lê Duy Thành (2007): Đổi mới quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. Luận án đã đề cập và phân tích những nội dung lý luận về quản lý thuế và tác động của hội nhập kinh tế đến quản lý thuế. Một trong những yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế là vừa đảm bảo nguồn thu NSNN, thực hiện được vai trò điều tiết kinh tế của thuế vừa đảm bảo thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, thông lệ chung trong quan hệ kinh tế quốc tế. Để thực hiện được mục tiêu đó, vấn đề quan trọng của quản lý thuế là phải nâng cao tính tuân thủ thuế tự nguyện của NNT. Trên cơ sở đó, luận án đã đề xuất các giải pháp quan trọng đối với quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, luận án chú trọng đến hiệu quả công tác quản lý thuế, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Để đảm bảo được hiệu quả quản lý thuế, việc thực hiện công tác quản lý thu thuế chính xác, đầy đủ, kịp thời, chống thất thu thuế, hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng không tuân thủ, gian lận, trốn thuế của NNT được coi là giải pháp cơ bản [24]. Nhìn chung, Luận án của NCS Lê Duy Thành đã nghiên cứu những nội dung lý luận và thực tiễn về quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập, đề xuất các giải pháp liên quan, trong đó có giải pháp về quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Do đó, những nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận án này sẽ là tài liệu tham khảo quý giá khi viết Luận án.
14
2. Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009): Hoàn thiện quản lý thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của DN (Nghiên cứu tình huống của Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Luận án được tác giả nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, đánh giá và tổng hợp những cơ sở lý thuyết, cơ sở kinh nghiệm và cơ sở thực tiễn cho những giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của các DN (nghiên cứu tình huống của địa bàn Hà Nội). Trong đó, Luận án đặt ra các mục tiêu cụ thể là: (1) Hệ thống hoá và làm rõ hơn cơ sở lý luận về sự tuân thủ thuế của DN, quản lý thu thuế của Nhà nước đối với DN; (2) Làm rõ thực trạng tuân thủ thuế của DN trên địa bàn Hà Nội, tình hình quản lý thu thuế trên địa bàn nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của DN; (3) Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản trong quản lý thu thuế đối với DN nhằm tăng cường sự tuân thủ của DN trên địa bàn trong giai đoạn tới. Với các mục tiêu đó, Luận án có đối tượng nghiên cứu là Quản lý thu thuế của Nhà nước đối với các DN (không bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) và phạm vi nghiên cứu là quản lý nhà nước đối với hoạt động thu thuế nội địa dưới sự quản lý của Tổng cục Thuế, Cục thuế Hà Nội và các chi cục thuế quận huyện, không bao gồm hoạt động quản lý các khoản thuế quan của cơ quan hải quan trong thời gian từ 2005 đến 2009. - Luận án đã hệ thống những công trình nghiên cứu về sự tuân thủ thuế và quản lý thu thuế của Nhà nước đối với DN của các tác giả nước ngoài và trong nước theo lôgíc nghiên cứu của luận án. Luận án xác định tuân thủ thuế là một khái niệm phức tạp và diễn ra theo mô hình các cấp độ tuân thủ và đã điều chỉnh mô hình các cấp độ tuân thủ thuế của DN cho phù hợp với các nước đang phát triển, đồng thời xác định 3 chỉ số đặc trưng cho từng cấp độ tuân thủ là tính tự nguyện, tính đầy đủ và đúng thời gian. - Luận án khẳng định khái niệm tuân thủ thuế không chỉ được phân tích theo cách tiếp cận kinh tế mà còn phải được phân tích theo cách tiếp cận tâm lý xã hội và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của DN phải theo cả hai cách tiếp cận này. Từ đó, luận án xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của DN ở các nước đang phát triển theo cách tiếp cận kinh tế và cách tiếp cận tâm lý xã hội. - Luận án đã xác định lại vị trí của DN và bản chất của quản lý thu thuế của Nhà nước. Đó là DN cần được đặt ở vị trí là khách hàng của CQT và quản lý thu thuế chính là quản lý sự nộp thuế của DN và đảm bảo sự tuân thủ thuế một cách tự
15
nguyện, đầy đủ và kịp thời. Tất cả những hoạt động của CQT đảm bảo DN tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế phải được xem là các dịch vụ phục vụ khách hàng. - Điều chỉnh mô hình tháp quản lý tuân thủ thuế cho phù hợp với đặc điểm tuân thủ của các DN ở các nước đang phát triển. Trong đó, luận án làm rõ bản chất mới của quản lý thu thuế cần được thể hiện đầy đủ trong các chiến lược quản lý sự nộp thuế đối với từng nhóm DN ở từng cấp độ tuân thủ thuế khác nhau. - Luận án đã làm rõ các đặc điểm riêng của các DN trên địa bàn Hà Nội để xác định về số lượng, về quy mô, về loại hình sở hữu, về ngành nghề, về tình hình sản xuất kinh doanh, về thực trạng và cơ cấu thu thuế từ DN vào NSNN. Những đặc điểm này là thông tin quan trọng để đánh giá được các yếu tố thuộc đặc điểm DN ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế. - Luận án phân tích và đánh giá sự tuân thủ thuế của các DN trên địa bàn Hà Nội theo mô hình tuân thủ thuế điều chỉnh. Trong đó, luận án đã thiết lập một hệ thống câu hỏi điều tra bao gồm 4 nhóm câu hỏi, mỗi nhóm đặc trưng cho mỗi cấp độ tuân thủ thuế của DN. Sau khi tiến hành khảo sát thực tế ý kiến của DN về sự tuân thủ thuế, tính toán điểm số trung bình cho mỗi cấp độ tuân thủ và xác định tỷ lệ DN ở mỗi cấp độ tuân thủ, luận án xác định được bức tranh tuân thủ thuế của các DN trên địa bàn Hà Nội và chứng minh cho mô hình các cấp độ tuân thủ thuế đã điều chỉnh. Và đặc trưng của 4 cấp độ tuân thủ thuế này được cụ thể hơn qua phân tích 3 chỉ số tự nguyện, đủ và đúng thời gian. Kết quả về thực trạng tuân thủ của các DN chính là những cơ sở để xác định các chiến lược quản lý thu thuế thích hợp cho mỗi nhóm DN ở các cấp độ tuân thủ khác nhau. - Luận án phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế của DN và đánh giá thực trạng quản lý thuế của Nhà nước đối với DN thông qua phân tích số liệu sơ cấp thu được từ điều tra các DN trên địa bàn. - Luận án đề xuất quan điểm và chiến lược quản lý thu thuế dựa trên cơ sở thực tế về cấp độ tuân thủ nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ, kịp thời và tự nguyện của các DN trên địa bàn. Trong đó, luận án làm rõ sự phân biệt các chiến lược quản lý sự nộp thuế khác nhau đối với các nhóm DN ở những cấp độ tuân thủ khác nhau. Luận án đã đề xuất các giải pháp chủ yếu và điều kiện thực thi các giải pháp này (theo các chức năng của quản lý thu thuế) để thực hiện các chiến lược quản lý theo từng cấp độ tuân thủ, đồng thời xác định tầm quan trọng của các giải pháp này theo tiêu chí cấp độ tuân thủ thuế của DN [28]. Có thể nói, Luận án nói trên đã nghiên cứu khá đầy đủ các nội dung lý luận về tuân thủ thuế, thực trạng tuân thủ thuế của các DN trên địa bàn Hà Nội giai đoạn
16
2005 - 2009 và đã đề xuất được các giải pháp cần thiết đối với việc hoàn thiện công tác quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của các DN ở Việt Nam. Các kết quả đạt được nêu trên của Luận án này là những tài liệu quý giá để nghiên cứu sinh kế thừa, tham khảo, vận dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài Luận án này. Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu và viết Luận án của Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Lệ Thúy, ở Việt Nam đang trong giai đoạn thí điểm và giai đoạn đầu áp dụng cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế, kỹ thuật quản lý rủi ro cũng chưa được áp dụng đầy đủ, ngoài ra quá trình hiện đại hóa quản lý thuế cũng mới được bắt đầu, chưa có các hoạt động tuân thủ như kê khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử, thực hiện hóa đơn điện tử… 3. Lưu Ngọc Thơ (2013): Quản lý thuế đối với DN lớn ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. Luận án đã sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý thuế đối với các DN lớn. Luận án cũng đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế đối với các DN lớn ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2012, chỉ ra các kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu. Trên cơ sở đó, Luận án đã đề xuất 2 nhóm giải pháp gồm nhóm giải pháp về hoàn thiện tổ chức bộ máy và sửa đổi Luật Quản lý thuế đối với DN lớn, nhóm giải pháp về tổ chức quản lý thu thuế đối với các DN lớn. Trong đó, nhóm giải pháp về tổ chức quản lý thu thuế đối với DN lớn được tác giả phân tích chi tiết, tập trung vào tất cả các nội dung quản lý nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý thuế đối với DN lớn. Trong các nội dung chính của nhóm giải pháp này, tác giả cũng đã đề xuất nhiều giải pháp cụ thể với mục tiêu là đảm bảo chính sách pháp luật thuế luôn được các DN lớn tuân thủ đầy đủ [27]. Do đó, một số nội dung của Luận án này có liên quan đến vấn đề đánh giá mức độ tuân thủ, thực thi các biện pháp quản lý nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của các DN lớn ở Việt Nam. 4. Nguyễn Xuân Thành (2014): Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra NNT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. Luận án đã sưu tầm, tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về thanh tra thuế và hiệu quả thanh tra thuế; nghiên cứu, tìm hiểu và trình bày một số kinh nghiệm của các nước về thực hiện hoạt động thanh tra thuế; thực trạng công tác thanh tra NNT và đánh giá hiệu quả của công tác này ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2012; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra thuế ở Việt Nam đến năm 2020. Các giải pháp Luận án đưa ra đã tập trung
17
vào các yếu tố trong các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra thuế như: tăng số lượng NNT được thanh tra, giảm chi phí thực hiện một cuộc thanh tra, nâng cao chất lượng thanh tra… [26]. Do hoạt động thanh tra thuế và hiệu quả hoạt động thanh tra thuế sẽ có tác động rất lớn đến mức độ tuân thủ thuế của NNT, nên những nội dung đánh giá về hiệu quả hoạt động thanh tra thuế trong Luận án này phản ánh được phần nào mức độ tuân thủ thuế của NNT. Đồng thời, các giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra thuế của Luận án này cũng sẽ có tác động mạnh mẽ làm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. 1.1.2.2. Đề tài nghiên cứu và Luận văn thạc sĩ 1. Nguyễn Chí Dũng (2009): Thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. Luận văn đã phân tích kiểm tra, thanh tra thuế dưới giác độ tuân thủ của NNT, nêu được một số vai trò của kiểm tra, thanh tra thuế đối với việc nâng cao tính tuân thủ của NNT. Tác giả đã đề cập các giải pháp điều kiện để nâng cao tính tuân thủ như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm tra, thanh tra thuế như tỷ lệ NNT tiến hành thanh tra, kiểm tra trong vòng một năm; tỷ lệ phần trăm độ chính xác tại khâu phân tích hồ sơ so với kết quả thanh tra [5]. 2. Phạm Văn Phong (2009): Nghiên cứu giải pháp nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT theo Luật Quản lý thuế hiện nay ở tỉnh Hoà Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện Tài chính. Luận văn đã nghiên cứu, trao đổi, bổ sung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thuế, tính tuân thủ thuế của NNT hiện nay. Đề tài đã cung cấp một số đặc điểm về tình hình tuân thủ thuế của NNT, thực trạng của quản lý thuế nhằm nâng cao sự tuân thủ thuế của NNT trên địa bàn tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2008. Đề tài cũng đề ra hệ thống giải pháp phù hợp thực tế quản lý thuế trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế và cải thiện tính tuân thủ thuế của NNT ở địa phương trong thời gian tới [19]. 3. Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội (2011): Giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt Nam, Chuyên đề nghiên cứu. Chuyên đề được nghiên cứu đã thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tuân thủ thuế như cơ sở lý luận của tuân thủ thuế, nội dung tuân thủ thuế, nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế. Chuyên
18
đề cũng đã đi sâu xem xét nội dung giám sát tính tuân thủ, chủ thể thực hiện giám sát tính tuân thủ thuế, cách thức thực hiện giám sát tính tuân thủ. - Nghiên cứu, đánh giá việc giám sát tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011; - Nghiên cứu kinh nghiệm giám sát tính tuân thủ thuế của một số nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; - Xây dựng các quan điểm, định hướng trong việc thiết lập cơ chế giám sát tính tuân thủ thuế có hiệu quả ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp thực hiện. Chuyên đề chủ yếu tập trung nghiên cứu các nội dung giám sát tuân thủ thuế của NNT từ phía của cơ quan quản lý thuế và từ các tổ chức, cá nhân có liên quan từ năm 2007 (kể từ khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực) đến năm 2011 và đề xuất các giải pháp đến năm 2020 [47]. Tuy nhiên, với góc độ một Chuyên đề nghiên cứu và chủ yếu xem xét trên góc độ giám sát sự tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam nên các nội dung lý luận và thực tiễn về tuân thủ thuế chưa được tập trung nghiên cứu thỏa đáng. Các giải pháp chủ yếu tập trung vào tăng cường hoạt động giám sát của CQT, của các tổ chức cá nhân có liên quan, các giải pháp gắn trực tiếp với mục đích nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam cũng chưa thực sự được chú trọng. Ngoài ra, điều kiện, bối cảnh cũng có những điểm khác biệt so với hiện tại. 4. Hồ Thị Đoan Thanh (2014): Quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu, hệ thống hóa những lý luận, tư tưởng về quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT trong điều kiện quản lý thuế hiện đại trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay. Luận văn cũng nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý thuế, tình hình tuân thủ thuế hiện nay của NNT ở Việt Nam nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng nhằm tìm ra nguyên nhân hạn chế của những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng của quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT trong thời gian từ 2008 đến 2012, Luận văn đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới [22].
19
1.1.2.3. Bài báo khoa học Tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu và đăng tải công trình nghiên cứu dưới dạng bài báo khoa học trong các kỷ yếu hội thảo, các tạp chí khoa học. Các công trình này đề cập rất nhiều khía cạnh của tuân thủ thuế như: Cơ sở lý luận của tuân thủ thuế; sự cần thiết nâng cao tính tuân thủ thuế; các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế; tuân thủ thuế với hiệu lực quản lý thuế; phương thức quản lý thuế đối với các nhóm NNT có mức độ tuân thủ thuế khác nhau; vai trò của CQT và cơ quan hải quan trong việc nâng cao tính tuân thủ thuế; tình hình tuân thủ thuế ở Việt Nam; các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế; hiện đại hóa quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế ở Việt Nam… Có thể liệt kê một số bài báo khoa học tiêu biểu liên quan đến nội dung nghiên cứu của Luận án, bao gồm: 1. PGS, TS Nguyễn Thị Thanh Hoài (2011): Một số vấn đề lý luận về tuân thủ thuế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết tập trung vào việc nêu và phân tích các quan niệm về tuân thủ thuế; Phương pháp đánh giá và đo lường mức độ tuân thủ thuế; các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế… Tuân thủ thuế theo OECD gồm Tuân thủ hành chính và Tuân thủ kỹ thuật; ở các nước Bắc Mỹ và nhiều quốc gia, tuân thủ thuế được xem xét theo tuân thủ trong nộp tờ khai thuế, tuân thủ trong khai báo thuế chính xác và tuân thủ trong nộp thuế... Phương pháp đo lường tuân thủ thuế bao gồm: phương pháp thống kê, phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tích báo cáo tài chính, phương pháp điều tra khảo sát... Có các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT là: nhóm yếu tố về tình hình kinh tế, xã hội; nhóm yếu tố về chính sách pháp luật nói chung và chính sách thuế nói riêng; nhóm yếu tố thuộc về quản lý của CQT và nhóm các yếu tố khác [10]. 2. PGS, TS Lê Xuân Trường (2011): Thúc đẩy tính tuân thủ thuế - Từ quan điểm cổ điển đến hiện đại và thực tiễn Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết tập trung vào phân tích các nội dung lý luận về Mô hình tâm lý hành vi phổ biến; Mô hình tuân thủ trong quản lý thuế. Sau đó, tập trung đánh giá về thực trạng vận dụng các mô hình lý thuyết về tuân thủ thuế ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị về thúc đẩy tuân thủ thuế ở Việt Nam như cần hoàn thiện phương pháp tính điểm để xác định mức độ rủi ro trong lựa chọn đối tượng thanh tra, để qua đó xác định chính xác xem NNT thuộc nhóm nào trong mô hình tuân thủ để bố trí kế hoạch thanh tra thuế phù hợp; hoàn thiện hệ thống dữ liệu thông tin về
20
NNT gắn với quá trình xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam; đa dạng hóa cách phân loại NNT trong đó tiêu chí trung tâm cần hướng đến là mức độ tuân thủ của NNT; nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là trình độ tin học cho đội ngũ cán bộ thuế... [38] 3. TS Lý Phương Duyên (2011): Nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT và tính hiệu lực trong quản lý thuế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết đã đi sâu phân tích các khía cạnh về tính hiệu lực của quản lý thuế, tính tuân thủ của NNT và đưa ra một số định hướng nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT trong các quốc gia mà tính tuân thủ còn chưa đạt đến 100%. Bài viết đưa ra một số giải pháp chủ yếu như cần thiết lập một cơ chế đăng ký thuế đơn giản cho các đối tượng nộp thuế và một cơ chế quản lý khoa học của CQT đối với những đối tượng đã được đăng ký thuế. Cần có một hệ thống chính sách đơn giản, công bằng và minh bạch, cơ chế thực hiện đơn giản và các dịch vụ cung cấp cho NNT (ví dụ như dịch vụ tư vấn, trả lời thắc mắc của CQT) đầy đủ. Đồng thời, chế độ xử phạt đối với những NNT đăng ký nhưng cố tình không kê khai thuế phải được thực hiện nghiêm minh và đủ mạnh. Tăng cường các biện pháp thanh tra, kiểm tra thuế và các quy định về xử phạt trong lĩnh vực thuế… [6] 4. TS Nguyễn Thị Minh Hằng (2011): Tính đơn giản, công khai, minh bạch của chính sách thuế đối với sự tuân thủ thuế tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết chỉ rõ, để nâng cao tính tuân thủ của NNT thì chính sách thuế phải rõ ràng, minh bạch; đơn giản hóa các thủ tục về thuế nhằm giảm bớt các chi phí tuân thủ cho NNT; bên cạnh đó NNT phải được tuyên truyền, hỗ trợ để nâng cao hiểu biết về pháp luật thuế và CQT có các biện pháp kiểm tra, giám sát hiểu quả để ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc các hành vi gian lận trốn thuế. Từ đó, bài viết đã phân tích, đánh giá tính đơn giản, công khai, minh bạch của chính sách thuế tại Việt Nam và đưa ra các định hướng hoàn thiện. Các định hướng chủ yếu là: giảm bớt sự phân biệt đối xử giữa các hoạt động kinh doanh; hợp lý hóa hệ thống ưu đãi hiện hành, các ưu đãi thuế phải phục vụ cho số ít các mục tiêu cụ thể hơn; nâng cao tính ổn định của chính sách; các điều khoản liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế phải được qui định chi tiết, rõ ràng, minh bạch; đơn giản hóa một số qui định, thủ tục về thuế… [7] 5. PGS, TS Nguyễn Thị Liên (2011): Tính tuân thủ của NNT và hiện đại hóa quản lý thuế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết đã phân tích và chỉ ra rằng, hiện đại hóa quản lý thuế và tính tuân thủ thuế của NNT có gắn bó chặt chẽ với nhau, nâng cao ý thức tự tuân thủ của NNT
21
có vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa quản lý thuế. Bài viết cũng cho rằng, việc nâng cao ý thức tự tuân thủ của NNT trong quá trình hiện đại hóa quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới môi trường quản lý thuế cũng như việc triển khai các biện pháp quản lý thuế hiện đại. Từ đó, bài viết đã đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao ý thức tự tuân thủ của NNT trong quá trình hiện đại hóa quản lý thuế như: CQT cần tăng cường phổ biến tuyên truyền cho NNT về những thay đổi của pháp luật thuế, thay đổi về cơ chế quản lý thuế; định hướng hoàn thiện hệ thống thuế cũng như mục tiêu của đổi mới quản lý thuế; sự cần thiết phải tiến hành hiện đại hóa quản lý thuế, những lợi ích mang lại cho CQT và NNT; hiện đại hoá hệ thống máy móc thiết bị, công nghệ hỗ trợ quản lý thuế tại CQT; CQT kết hợp với các cơ quan có liên quan cần rà soát để kịp thời khắc phục các lỗi và cải tiến phần mềm kê khai thuế, quản lý thuế theo hướng ngày càng đơn giản trong thao tác vận hành, chính xác và phù hợp với trình độ, khả năng của phần lớn các DN; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về DN; NNT phải có đủ điều kiện vật chất nhất định đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quản lý thuế; đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thuế và các nhân viên kế toán ở các DN cần được đào tạo, trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý thuế; tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế và khung pháp lý về hiện đại hoá quản lý thuế; cần có sự phối hợp đồng bộ giữa CQT và các cơ quan có liên quan trong quá trình hiện đại hoá quản lý thuế [16]. 6. ThS Nguyễn Thị Minh Hòa (2011): Nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT hướng tới quản lý tuân thủ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài báo khẳng định quản lý thuế hiện đại là phương pháp quản lý sử dụng nhiều kỹ thuật quản lý khác nhau (thủ tục thuế điện tử, quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ, hiện đại hóa công tác và kỹ thuật quản lý thuế) trong các khâu nghiệp vụ quản lý thuế của CQT nhằm mục tiêu nâng cao tính tuân thủ của NNT, tạo thuận lợi cho NNT, kiểm soát NNT, hướng tới quản lý tuân thủ. Và trên thực tế, hệ thống quản lý thu thuế ở Việt Nam được đánh giá là chưa mang lại nhiều hiệu quả, trong khi mức độ tuân thủ của NNT thấp. Do đó, tính tuân thủ tự nguyện của NNT đối với số thuế phải nộp là điều khó thực hiện. Từ đó, bài viết đã đề xuất cần thi ết lập một hệ thống cơ sở pháp lý hiệu quả; một loạt các chiến lược dịch vụ khách hàng phù hợp; đánh giá mức độ của NNT bao gồm việc kiểm tra, kiểm soát; cưỡng chế công nhận... để thực hiện quản lý tuân thủ nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế [9].
22
7. PGS, TS Nguyễn Thị Thương Huyền (2011): Giám sát kê khai thuế - Giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế trong mô hình quản lý thuế hiện đại, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Tác giả bài báo cho rằng, nguyên tắc quản lý tuân thủ sẽ được vận hành tốt trên cơ sở giám sát thuế hay nói một cách rõ hơn là giám sát việc tuân thủ thuế. Giám sát thuế tốt sẽ giảm thiểu rủi ro, giảm sai phạm và giảm gánh nặng cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Hiệu quả giám sát thuế phụ thuộc nhiều vào yếu tố kỹ năng, trình độ và yếu tố kỷ luật trong công việc của cán bộ thực hiện giám sát thuế. Từ đó, bài báo nêu rõ việc giám sát kê khai thuế phải được tổ chức và thực hiện theo một hệ thống thống nhất, đi từ thấp đến cao và bao gồm hai nội dung chính là giám sát đa tầng theo diện rộng và giám sát trọng điểm. Giám sát theo chiều rộng và giám sát trọng điểm được kết hợp với nhau sẽ trở thành một hệ thống không thể thiếu được trong toàn bộ mô hình quản lý theo chức năng. Giám sát thường xuyên và giám sát trọng điểm luôn là hai mặt của một vấn đề thống nhất. Tổ chức tốt các đơn vị (bộ phận) giám sát này sẽ có thể kiểm soát được phần lớn công việc của ngành Thuế và cũng sẽ giúp giảm “gánh nặng” cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế [14]. 8. TS Vương Thị Thu Hiền (2011): Phát triển dịch vụ thuế điện tử ở Việt Nam - Giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Bài viết đã nhận định rằng, việc phát triển dịch vụ thuế điện tử sẽ có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tính tuân thủ thuế. Sau khi phân tích thực trạng áp dụng dịch vụ thuế điện tử ở Việt Nam thời gian qua, bài viết đã đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ thuế điện tử ở Việt Nam hướng đến mục tiêu nâng cao tính tuân thủ thuế ở Việt Nam trong thời gian tới. Các giải pháp chính là: đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với hiện đại hoá công nghệ quản lý, đặc biệt là công nghệ thông tin, hình thành nền tài chính chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại; nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin hỗ trợ NNT; hoàn thiện cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin phục vụ cho dịch vụ thuế điện tử; phối kết hợp chặt chẽ với các nhà cung cấp dịch vụ chữ ký số để hỗ trợ quá trình điện tử hoá các thủ tục hành chính thuế, giảm dần và tiến tới thay thế phần lớn thủ tục giấy tờ trong thực hiện nghĩa vụ thuế; đào tạo đồng bộ cho cán bộ thuế và cán bộ quản lý cũng như các nhân viên kỹ thuật, bảo dưỡng để có thể đưa các thiết bị hiện đại vào hoạt động một cách hiệu quả, lâu dài; phát triển dịch vụ thuế điện tử thông qua các tổ chức trung gian; phối hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan để tiếp tục triển khai dịch vụ thuế điện tử có hiệu quả... [12]
23
9. TS Nguyễn Thị Kim Oanh (2011): Kiểm tra sau thông quan góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của DN, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính. Tác giả nhận định hoạt động kiểm tra sau thông quan hiện nay đã phát triển và khẳng định được vị thế đối với DN, giúp cho tính tuân thủ thuế của các đối tượng chấp hành tốt pháp luật vẫn được duy trì và ngăn chặn được mục đích gian lận thuế không đáng có của những đối tượng không tuân thủ thuế để từ đó nâng cao ý thức tuân thủ thuế của các đối tượng này. Tuy nhiên, xét về yêu cầu chung, hoạt động kiểm tra sau thông quan cần được tiếp tục hoàn thiện để nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của DN. Bài viết đã chỉ rõ, để kiểm tra sau thông quan Việt Nam phát huy tối đa vai trò nâng cao tính tuân thuế của DN, cần nâng cao hiệu quả kiểm tra cao hơn, đồng thời phải thực hiện đồng bộ các biện pháp để vượt qua các thách thức trước mắt. Các giải pháp cần thực hiện là: tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn bản kiểm tra sau thông quan; cải tiến quy trình kiểm tra sau thông quan một cách toàn diện hơn; xây dựng lực lượng kiểm tra sau thông quan theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; hoàn thiện việc xây dựng bộ cơ sở dữ liệu của ngành để phục vụ tốt hơn trong kiểm tra sau thông quan; xây dựng kế hoạch kiểm tra sau thông quan đối với các đối tượng được hưởng ưu đãi đặc biệt do lộ trình cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế và khu vực; thực hiện quản lý DN bằng hệ thống thông tin hiện đại; đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền và hỗ trợ DN trong việc nâng cao tính tuân thủ thuế... [18] 10. ThS Trần Huy Trường (2014): Quản lý rủi ro trong thanh tra thuế góp phần nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của DN, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, Thanh tra Tài chính. Bài viết làm rõ lý do phải quản lý rủi ro trong thanh tra thuế, như do nguồn nhân lực thực hiện thanh tra thuế còn hạn chế trong khi đối tượng cần thanh tra ngày càng gia tăng cả về số lượng, quy mô lẫn ngành nghề; Yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp thuế; Áp lực về kinh phí; Đặc thù công tác quản lý thuế có tính chất chuyên môn hóa ngày càng cao; Hiệu quả của việc áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra thuế; và xu thế chung quá trình hội nhập quốc tế về thuế. Việc áp dụng quản lý thuế theo rủi ro trong thanh tra thuế là hoàn toàn phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện để công tác quản lý thuế Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để việc phân tích rủi ro có thể đạt được kết quả tốt nhất, hạn chế được những rủi ro luôn tiềm tàng, cần phải xây dựng và thực hiện một quy trình quản lý hoàn thiện, thống nhất. Quy trình phân tích này bao gồm các bước như: Xác định được
24
loại rủi ro, đánh giá và xếp loại rủi ro, xử lý rủi ro, lập kế hoạch và thực hiện. Các bước phân tích rủi ro trong thanh tra thuế có mối quan hệ mật thiết với nhau và qua mỗi bước đều phải theo dõi, đánh giá, trao đổi thông tin, là cơ sở để thực hiện các bước tiếp theo. Việc thực hiện thanh tra thuế theo quản lý rủi ro này sẽ đảm bảo được hiệu quả của công tác thanh tra thuế trong phạm vi nguồn lực có hạn, từ đó thúc đẩy quá trình tuân thủ tự nguyện của DN trong thực hiện nghĩa vụ thuế [43]. 11. ThS Đặng Thị Bạch Vân (2014): Xoay quanh vấn đề NNT và tuân thủ thuế, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 16 (26), Tháng 05-06/2014. Bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ những biến số nào ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của NNT, NNT sẽ thay đổi như thế nào trước những sự thay đổi của các biến số đó. Bài viết đã chỉ ra các nhóm yếu tố tác động đến tuân thủ thuế bao gồm: Nhóm các yếu tố mang tính chất kinh tế (mức thu nhập thực tế, thuế suất, xác suất kiểm tra thuế và mức phạt đối với hành vi trốn thuế) và nhóm các yếu tố mang tính chất tâm lý - xã hội (nhận thức về tính công bằng, ý thức thuế). Bài viết cũng cho rằng, việc đo lường mức độ tuân thủ thuế có vẻ quan trọng hơn hẳn việc xác định các nhân tố tác động đến hành vi trốn thuế. Bởi vì một khi việc tuân thủ thuế của NNT được cải thiện theo hướng tăng cường tuân thủ tự nguyện, CQT sẽ giảm bớt áp lực trong việc rút ngắn khoảng cách thuế giữa số thuế thu được và số thuế đáng lẽ phát sinh thực tế. Việc xác định mức độ tuân thủ thực tế của NNT cũng phần nào giúp CQT xác định cách xử lý phù hợp (mô hình mức độ tuân thủ thuế) [46]. 12. TS Phan Thị Mỹ Dung và TS Lê Quốc Hiếu (2015): Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của các DN, Tạp chí Tài chính - Kỳ 2, số tháng 7/2015. Bài viết đã khẳng định: đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT để từ đó có cách ứng xử phù hợp, hiệu quả trong thực tiễn điều hành quản lý thuế là nhiệm vụ cốt lõi của cơ quan quản lý thuế. Bài báo tập trung nghiên cứu trên góc độ lý thuyết và các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước, thực hiện khảo sát hơn 474 người là các nhà quản lý của các DN và chủ hộ kinh doanh tại Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 11 năm 2014, từ đó, bài báo chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng và mức độ tác động của từng yếu tố đến sự tuân thủ thuế của NNT. Các yếu tố ảnh hưởng này được các tác giả bài báo sử dụng trong mô hình nghiên cứu và đánh giá bao gồm: Đặc điểm DN, ngành nghề kinh doanh của DN, chất lượng dịch vụ thuế, chất lượng quản trị công, cấu trúc hệ thống thuế, yếu tố về kinh tế, chuẩn mực xã hội.
25
Kết quả nghiên cứu là cơ sở thực tiễn góp phần giúp CQT hoàn thiện chính sách, pháp luật về thuế; tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho NNT trong việc thực hiện tuân thủ thuế. Thông qua nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra các hàm ý chính sách là: Các yếu tố mang tính đặc trưng do các hoạt động chính sách và nhà nước như cấu trúc hệ thống thuế, chất lượng quản trị công, chất lượng dịch vụ thuế được cải thiện sẽ thúc đẩy mức độ tuân thủ cao; nghiên cứu và xây dựng quy trình phối hợp quản lý thu nộp thuế giữa bốn ngành Thuế - Hải quan - Kho bạc - Tài chính, và dự án nộp thuế qua ngân hàng, góp phần giảm nhanh chi phí tuân thủ thuế và nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực thuế; xây dựng và phát triển một hệ thống phần mềm quản lý thuế thống nhất với nhiều cấu phần khác nhau phục vụ cho các chức năng quản lý thuế; tiếp tục mở rộng hình thức thu nộp thuế qua hệ thống ngân hàng thương mại, qua ATM. Đồng thời, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phối hợp thu NSNN với các ngân hàng thương mại [4]. Có thể nói, một số bài báo tiêu biểu trên đây được nghiên cứu xoay quanh vấn đề tuân thủ thuế và các giải pháp hướng đến nâng cao tính tuân thủ thuế. Đây là nguồn tài liệu cung cấp những kiến thức rất bổ ích cho Nghiên cứu sinh khi viết Luận án của mình. Tuy nhiên, với góc độ là các bài báo khoa học, các vấn đề được nghiên cứu và trình bày chưa có tính hệ thống và luận giải một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện những nội dung cần nghiên cứu của Luận án. Đấy chính là những vấn đề mà Luận án cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển cả về lý luận và thực tiễn các nội dung về tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian tới. Ngoài ra, còn một số đề tài, luận án, luận văn khác nghiên cứu các nội dung liên quan đến tính tuân thủ của NNT ở Việt Nam. Các công trình đó trong phạm vi, nội dung và mục tiêu nghiên cứu của mình ít nhiều có đề cập đến vấn đề nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình đó thường chỉ gói gọn trong một phạm vi nhỏ, chưa giải quyết vấn đề một cách toàn diện, nhất là trong bối cảnh áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro, cải cách thủ tục hành chính thuế như hiện nay. 1.1.3. Nhận xét chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước đã công bố Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài chủ yếu tập trung ở khía cạnh tuân thủ của NNT, nhất là thể hiện tháp tuân thủ và chiến lược quản lý NNT theo mức độ tuân thủ.
26
Các nghiên cứu nêu trên có các phạm vi, nội dung và mục tiêu nghiên cứu không đồng nhất với nhau nhưng đều có những mối liên hệ nhất định với nhau vì đều nghiên cứu đến các nội dung chính là lý luận về tuân thủ thuế, thực trạng tuân thủ thuế của NNT và các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Giữa các công trình này cũng có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của công trình trước ở các công trình sau để làm rõ hơn được các vấn đề nghiên cứu. Các công trình đã đề cập được ở các mức độ nhất định các nội dung lý luận về tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Các kết quả đạt được có thể chỉ ra bao gồm: - Các công trình đều cho rằng, đảm bảo tối đa sự tuân thủ thuế tự nguyện của NNT là mục tiêu cốt lõi của công tác quản lý thuế. Tính tuân thủ thuế của NNT có thể được đánh giá theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng đều xoay quanh các nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NNT đã được pháp luật thuế quy định, trong đó tập trung vào các vấn đề về đăng ký, kê khai, nộp thuế và tuân thủ các quyết định hành chính về thuế. - Các công trình nghiên cứu nêu trên cũng đã chỉ rõ các phương pháp đánh giá tính tuân thủ thuế của NNT và các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT. Trong đó, hiệu lực và hiệu quả quản lý thuế của Nhà nước được coi là nhân tố quan trọng nhất, tác động trực tiếp đến ý thức tuân thủ thuế của NNT. - Các công trình nêu trên khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng tuân thủ thuế ở Việt Nam được thực hiện theo các phạm vi không gian và thời gian khác nhau và đều cho rằng, tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, các hành vi gian lận, cố tình không tuân thủ vẫn còn nhiều, gây ảnh hưởng đến tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế, đến việc thực hiện các mục tiêu của chính sách thuế ở Việt Nam và cần có các giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong thời gian tới. - Trên cơ sở các nội dung phân tích nêu trên, các công trình nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp ở góc độ vĩ mô cũng như vi mô nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT nói chung, của NNT ở Việt Nam nói riêng. Các giải pháp được đề xuất chủ yếu tập trung hoàn thiện các quy định của pháp luật thuế, hướng tới tính đơn giản, rõ ràng, minh bạch; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế với từng nội dung quản lý thuế cụ thể; cải cách thủ tục hành chính về thuế nhằm tạo điều kiện tối đa cho NNT tuân thủ thuế, giảm thiểu chi phí tuân thủ thuế... Các công trình nghiên cứu nêu trên là những tài liệu tham khảo quan trọng để Luận án kế thừa, phát triển và bổ sung hoàn thiện cơ sở lý luận về tính tuân thủ thuế của NNT cũng như nghiên cứu nội dung này ở Việt Nam. 1.2. KHOẢNG HỞ NGHIÊN CỨU VỀ TUÂN THỦ THUẾ Ở VIỆT NAM
27
Như đã trình bày ở trên, mặc dù các công trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau đã đề cập khá toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Tuy nhiên, vẫn còn số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu liên quan đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Đây chính là khoảng hở cần tiếp tục nghiên cứu về tuân thủ thuế ở Việt Nam. Cụ thể là các vấn đề sau: Một là, chưa có cơ sở lý luận toàn diện về tuân thủ thuế trong cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế ở một nước đang phát triển. Chưa chỉ rõ khả năng vận dụng các phương pháp đánh giá tính tuân thủ thuế phù hợp nhất trong bối cảnh của một nước đang phát triển. Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ tuân thủ thuế chưa rõ ràng và chưa đầy đủ cần được tiếp tục bổ sung, phát triển và làm rõ thêm. Hai là, chưa đánh giá đầy đủ và toàn diện về thực trạng tuân thủ thuế và mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2016, đặc biệt trong bối cảnh áp dụng cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế và hiện đại hóa quản lý thuế. Ba là, chưa có công trình nào đề xuất có hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội những năm từ 2017 đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Chính vì vậy, trong nội dung, phạm vi nghiên cứu của mình, Luận án sẽ tập trung nghiên cứu và làm rõ thêm các nội dung nêu trên nhằm góp phần hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT trong bối cảnh áp dụng cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế ở các nước đáng phát triển; thực trạng tuân thủ thuế và quản lý nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2016; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. 1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của luận án và khoảng hở của đề tài nghiên cứu nói trên, câu hỏi nghiên cứu cơ bản, chủ yếu của Luận án là cần phải có những giải pháp nào để nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong thời gian tới. Trong đó, các câu hỏi cụ thể mà luận án cần tìm câu trả lời là: - Bản chất của tuân thủ thuế là gì? Đo lường mức độ tuân thủ thuế của NNT bằng tiêu chí nào và phương pháp nào? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế?
28
- Việt Nam có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm các nước để nâng cao tính tuân thủ của NNT trong điều kiện cụ thể của mình? - Thực trạng mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam như thế nào? Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam như thế nào? - Trong bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam những năm tới, cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần làm gì để nâng cao tính tuân thủ của NNT xét cả trên phương diện hoàn thiện hành lang pháp lý và tổ chức quản lý thuế của CQT? Cần những điều kiện gì để thực hiện những giải pháp đó?
29
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ 2.1. KHÁI NIỆM TUÂN THỦ THUẾ
Để tiếp cận khái niệm tuân thủ thuế, trước hết cần bắt đầu từ khái niệm tuân thủ. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa tuân thủ là “Giữ và làm đúng theo điều đã quy định” [35]. Từ tuân thủ trong tiếng Anh là “compliance” được định nghĩa là “Conforming to a rule, such as a specification, policy, standard or law”. Nghĩa là “Làm theo một quy tắc, một nguyên tắc, một quy định, chẳng hạn như một quy định, một chính sách, một chuẩn mực hoặc một luật lệ” [49]. Như vậy, có thể hiểu, tuân thủ thuế là việc thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật thuế. Tuân thủ thuế là hành vi bắt buộc đối với nhiều chủ thể khác nhau như cơ quan quản lý thuế, NNT, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế. Trong đó, sự tuân thủ thuế của NNT luôn là một vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở việc chấp hành đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc chấp hành các tiêu chí thời gian, mức độ chính xác trung thực và đầy đủ của các hoạt động đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ khác về thuế của NNT. Như vậy, tuân thủ thuế của NNT là việc NNT chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo đúng luật định, bao gồm các hoạt động đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế. Bất kỳ sự vi phạm nào xuất hiện ở một trong các khâu trên đều dẫn đến sự không tuân thủ ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, như thế nào là “làm đúng theo luật định” nếu như có cách hiểu, cách diễn đạt pháp luật thuế khác nhau giữa cơ quan quản lý thuế và NNT? Theo Hướng dẫn thực hành của tổ chức OECD về đo lường mức độ tuân thủ (2001), có một câu hỏi đã được đặt ra: “Mức độ tuân thủ được định nghĩa như thế nào - đó có phải là sự tuân thủ theo cách diễn giải luật thuế và cách áp dụng luật của CQT hay cách hiểu của NNT? Hay khái niệm này được định nghĩa theo một cách trung lập hơn?”. CQT thường coi cách diễn đạt luật thuế của NNT khác với cách diễn giải của họ là một bằng chứng của việc không tuân thủ, mà không tính đến rằng thực tế luật thuế - như thường thấy ở các nước đang phát triển - có thể thiếu tính thống nhất và minh bạch, hoặc trong luật có những quy định chưa rõ ràng và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù cách định nghĩa mức độ tuân thủ (hay không tuân thủ) vẫn còn được
30
tranh cãi nhiều nhưng những nguyên nhân của sự không tuân thủ và những lý do dẫn đến thất thoát nguồn thu lại tương đối rõ ràng về mặt lý thuyết. Trốn thuế là biểu hiện quan trọng nhất của sự không tuân thủ. Những biểu hiện hành vi này của NNT lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố có liên quan lẫn nhau, cả yếu tố thuộc về cơ quan thuế (tính hiệu quả của quản lý thuế, tính liêm chính và năng lực của công chức thuế…) lẫn yếu tố ngoài CQT (trách nhiệm giải trình trong chi tiêu công, tham nhũng, quy mô của nền kinh tế phi chính thức…). Tránh thuế cũng làm giảm nghĩa vụ thuế của NNT, nhưng tránh thuế không phải là hành vi vi phạm pháp luật thuế. Do vậy, có thể nói, tránh thuế không thuộc phạm trù không tuân thủ thuế. Như vậy, về mặt lý thuyết, việc trốn thuế và tránh thuế là khác nhau nhưng cả hai đều dẫn tới thất thoát nguồn thu, khiến hệ thống thuế trở nên kém công bằng và làm bóp méo sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường. Những NNT bị coi là trốn thuế khi họ sử dụng những cách thức phi pháp để không phải nộp đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình. Họ sẽ không kê khai, hoặc khai thiếu thu nhập, doanh thu hay tài sản của mình, trong khi lại khai quá lên những khoản chi phí được trừ hay những khoản được giảm trừ. Còn trong việc tránh thuế, NNT thường lợi dụng những khe hở của pháp luật thuế để tối thiểu hóa số thuế phải nộp. Tuy vậy, trong thực tế có một số trường hợp rất khó phân định rạch ròi giữa hành vi trốn thuế và tránh thuế. Đó chính là trường hợp quy định pháp luật thuế không rõ ràng có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong những trường hợp này nếu theo cách hiểu của người nộp thuế là không vi phạm nhưng theo cách hiểu của cơ quan thuế là vi phạm pháp luật. Việc không tuân thủ thuế gây thất thoát nguồn thu có tác hại nghiêm trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó tạo thêm nhiều khó khăn cho nền tài chính của các quốc gia và thiếu hụt nguồn tài lực để các quốc gia đó có thể đạt được các mục tiêu phát triển. Bên cạnh việc mất nguồn thu, hệ thống thuế có nguy cơ trở nên bị bóp méo nhiều hơn nữa, làm gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội. Ngược lại, nếu mức độ tuân thủ của NNT cao, làm giảm thất thoát sẽ có tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả quản lý thu của hệ thống thuế. Nó cho phép một quốc gia có thể thu được một số thuế nhất định mà không cần phải thường xuyên thay đổi chính sách thuế. Một chính sách thuế tương đối ổn định và toàn diện với mức thuế suất thấp sẽ góp phần tăng hiệu quả và hiệu suất trong hoạt động của CQT. Tóm lại, có thể hiểu tuân thủ thuế của NNT là việc NNT chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo đúng luật định, bao gồm các hoạt động đăng ký thuế, kê khai
31
thuế, tính thuế, nộp thuế và tuân thủ các yêu cầu khác về quản lý thuế theo quy định của pháp luật. 2.2. PHÂN LOẠI TUÂN THỦ THUẾ
Để xem xét và đánh giá mức độ tuân thủ của NNT, tùy theo mục đích nghiên cứu và vị trí nghiên cứu mà những người nghiên cứu sử dụng những tiêu chí khác nhau. Tùy theo tiêu chí phân loại mà tuân thủ thuế được phân chia thành những nhóm khác nhau. 2.2.1. Căn cứ vào tính chất tuân thủ Theo quan điểm của Trung tâm nghiên cứu chính sách và quản lý thuế của OECD [10], thì tính tuân thủ của NNT được chia thành 2 nhóm chính: - Tuân thủ hành chính (Administrative compliance): Là việc NNT tuân thủ các quy định hành chính về việc kê khai, nộp thuế đúng hạn. Thông thường, các quy định liên quan đến xác định hành vi tuân thủ quy định hành chính thường được thể hiện khá rõ ràng trong các văn bản luật. Việc xem xét, đánh giá tính tuân thủ các quy định hành chính của NNT thường đơn giản và rõ ràng hơn. - Tuân thủ kỹ thuật (Technical compliance): Là việc NNT thực hiện tính toán và nộp thuế đúng theo quy định tại các điều của Luật thuế. So với tuân thủ quy định hành chính, việc xác định tuân thủ kỹ thuật lại khá phức tạp vì khi các luật thuế quy định không rõ ràng và dễ hiểu thì việc xác định chính xác số thuế phải nộp sẽ gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, để đánh giá tính tuân thủ kỹ thuật, cần phải nắm bắt và có số liệu sát thực đối với hoạt động chịu thuế của NNT. 2.2.2. Căn cứ vào nội dung tuân thủ Căn cứ theo nội dung các nghĩa vụ thuế mà NNT phải tuân thủ thì tuân thủ thuế được phân loại thành: Tuân thủ trong việc đăng ký thuế; tuân thủ trong việc nộp hồ sơ khai thuế; tuân thủ trong việc báo cáo các thông tin đầy đủ và chính xác; tuân thủ trong việc nộp thuế. Nếu NNT không thực hiện bất kỳ một trong các nghĩa vụ này thì có thể coi là không tuân thủ thuế theo một nghĩa vụ cụ thể. Cách phân loại này là cơ sở để so sánh, đánh giá và kết luận trên phương diện quy định cụ thể của pháp luật thì NNT đã vi phạm điều gì. Đây là cơ sở để áp dụng các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật. 2.2.3. Căn cứ vào mức độ tuân thủ Trong công tác quản lý thuế, việc đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT để có các biện pháp quản lý phù hợp được coi là phương pháp quản lý hiện đại, còn gọi là quản lý tuân thủ. Quản lý tuân thủ là sự quản lý dựa trên mức độ tuân thủ (chấp hành) pháp luật của NNT. Về cơ bản, nguyên tắc quản lý tuân thủ được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu: (i) Nếu NNT sẵn sàng tuân thủ thì CQT tạo điều kiện thuận lợi tối đa
32
để NNT tuân thủ thông qua các cơ chế hỗ trợ và ưu đãi khác nhau; (ii) Nếu NNT không muốn tuân thủ thì CQT sẽ áp dụng các cơ chế và các chế tài khác nhau để buộc NNT tuân thủ. Trong quản lý thuế, để nâng cao hiệu quả quản lý và mức độ tuân thủ thuế của NNT, cơ quan quản lý thuế cần đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý thuế, mức độ tuân thủ thuế để xác định các nhóm NNT khác nhau tương ứng với các mức độ tuân thủ thuế khác nhau và có các biện pháp quản lý thuế phù hợp với từng nhóm NNT này. Theo mô hình của Grabosky và Braithwaite năm 1986, toàn bộ NNT được chia thành 4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ và cơ quan quản lý thuế có các biện pháp tương ứng đối với từng nhóm NNT này để đảm bảo sự tuân thủ thuế tốt nhất. Mô hình này thể hiện qua sơ đồ 2.1 dưới đây. Hình kim tự tháp nêu trên thể hiện chiến lược xử lý tuân thủ của CQT. Trong đó, cạnh bên trái của kim tự tháp thể hiện hành vi tuân thủ của NNT; cạnh đối xứng bên phải thể hiện nguyên tắc xử lý của CQT đối với hành vi tuân thủ. Mũi tên nằm trên đường trung tuyến thể hiện chiến lược xử lý của CQT nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Theo đó, toàn bộ NNT được chia thành 4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ. Bốn nhóm này tương ứng với 4 mức độ thể hiện hành vi tuân thủ bên trái kim tự tháp. Tương ứng với 4 nhóm NNT này là 4 nguyên tắc xử lý khác nhau của CQT. Cụ thể là: Đặc điểm của NNT
Hành vi của NNT
Phương pháp xử lý của CQT 10
Cố tình không tuân thủ
Chiến lược KD Ngành nghề
Không muốn tuân thủ nhưng sẽ tuân thủ nếu CQT quan tâm
Áp dụng toàn bộ quyền lực theo luật pháp Ngăn chặn thông qua các biện pháp phát hiện vi phạm
9 8 7 6 5
NNT
Cố gắng tuân thủ nhưng không phải lúc nào cũng thành công
Yếu tố xã hội Yếu tố kinh tế
Sẵn sàng tuân thủ Yếu tố tâm lý
4
Chiến lược của CQT là tạo áp lực để giảm số NNT không tuân thủ
Hỗ trợ để tuân thủ
3 2
Tạo điều kiện thuận lợi
1 0
Sơ đồ 2.1: Chiến lược xử lý tuân thủ thuế của CQT theo các mức độ tuân thủ thuế của NNT - Nếu hành vi của NNT là “sẵn sàng tuân thủ” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “tạo điều kiện thuận lợi nhất” để NNT tuân thủ.
33
- Nếu hành vi của NNT là “cố gắng tuân thủ nhưng không phải lúc nào cũng thành công” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “hỗ trợ” để NNT tuân thủ. - Nếu hành vi của NNT là “không muốn tuân thủ nhưng sẽ tuân thủ nếu CQT quan tâm” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “Ngăn chặn thông qua các biện pháp phát hiện vi phạm” để NNT tuân thủ. - Nếu hành vi của NNT là “quyết tâm không tuân thủ” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “áp dụng toàn bộ quyền lực theo pháp luật” để buộc NNT tuân thủ. 2.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
2.3.1. Các tiêu chí đánh giá tính tuân thủ thuế của người nộp thuế 2.3.1.1. Các tiêu chí định tính Tính tuân thủ thuế của NNT bao giờ cũng được biểu hiện ra ngoài. Tuy vậy, có những biểu hiện có thể định lượng và có những biểu hiện không thể định lượng. Trong trường hợp tính tuân thủ của NNT không thể định lượng được thì đó là các tiêu chí định tính. Cụ thể như sẽ được phân tích dưới đây. Thứ nhất, mức độ quan tâm và am hiểu của NNT đối với các quy định của pháp luật thuế, nhất là các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NNT. Mức độ quan tâm và am hiểu thể hiện NNT đã có những ý thức xử sự nhất định đối với các quy định của pháp luật thuế. Họ phải tìm hiểu, nghiên cứu, áp dụng nhằm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật thuế. Khi NNT không quan tâm đến các quy định của pháp luật thuế hoặc không am hiểu một cách tường tận các quy định này thì khả năng xảy ra các hành vi không tuân thủ là rất lớn. Tiêu chí này sẽ chịu sự ảnh hưởng của trình độ dân trí, mức độ phức tạp hay đơn giản của chính sách pháp luật thuế, nội dung và hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT của CQT cũng như mức độ xử phạt những hành vi gian lận, sai sót của NNT. Mặc dù không thể lượng hóa mức độ quan tâm của NNT đối với các quy định pháp luật thuế, song có thể đánh giá xem NNT có quan tâm hay không và quan tâm nhiều hay ít thông qua việc khảo sát bằng bảng hỏi hoặc phỏng vấn trực tiếp NNT. Thứ hai, sự tự nguyện hay miễn cưỡng trong tuân thủ thuế. Tiêu chí này cho thấy NNT tuân thủ một cách miễn cưỡng hay tự nguyện pháp luật thuế. Nếu NNT tự nguyện tuân thủ với tâm lý thoải mái trên cơ sở tự hào về nghĩa vụ thuế sẽ là tín hiệu tốt hơn là trường hợp NNT tuân thủ vì thấy rằng nếu không tuân thủ sẽ bị phát hiện và xử phạt. Trong trường hợp NNT miễn cưỡng tuân thủ đúng quy định pháp luật thuế thì nguy cơ vi phạm khi cho rằng có thể hành vi vi phạm không bị phát hiện sẽ tăng lên. Mức độ tự nguyện hay miễn cưỡng trong tuân thủ thuế của NNT mặc dù
34
khó lượng hóa, song có thể đánh giá ở một chừng mực nhất định thông qua khảo sát bằng bảng hỏi hoặc bằng sự quan sát trực tiếp hoặc thông qua phỏng vấn NNT. 2.3.1.2. Các chỉ tiêu định lượng Như đã trình bày, có nhiều cách xem xét mức độ tuân thủ thuế của NNT (như tuân thủ hành chính và tuân thủ kỹ thuật; hay tuân thủ theo các nghĩa vụ của NNT: trong đăng ký thuế, trong kê khai thuế, trong nộp thuế và trong thực hiện các quy định khác của pháp luật thuế). Những yếu tố trên có thể định lượng được bằng con số cụ thể, chẳng hạn như có bao nhiêu NNT không đăng ký thuế, có bao nhiêu NNT bị phát hiện có gian lận qua thanh tra, kiểm tra thuế… Đây chính là các chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ tuân thủ thuế của NNT. Chỉ tiêu đánh giá tổng quát về mức độ tuân thủ thuế Trong quá trình thực thi và chấp hành các quy định của pháp luật thuế, để đánh giá một cách chung nhất thực trạng tuân thủ thuế của NNT, các tiêu chí chủ yếu được xem xét là số thuế thu được có đầy đủ, chính xác, kịp thời hay không? Có tình trạng NNT không tuân thủ hay không (trên tất cả các phương diện về nghĩa vụ thuế)? Do đó, trên phương diện tổng quát và khả thi trong đo lường, chỉ tiêu phản ánh tổng quát mức độ tuân thủ của NNT là: Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ giữa số NNT có hành vi vi phạm pháp luật thuế với tổng số NNT đang quản lý hoặc được kiểm tra. Hành vi vi phạm pháp luật thuế sử dụng để đo lường chỉ tiêu này là tất cả các loại hành vi vi phạm về thuế, từ vi phạm thủ tục đến vi phạm về kê khai, tính thuế, nộp thuế… Chỉ tiêu này được xác định cho một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm) tùy theo mục đích nghiên cứu. Tỷ lệ này càng cao thì mức độ tuân thủ thuế càng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ tuân thủ của NNT, song mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản ánh tính hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện các hành vi không tuân thủ của CQT. Nhóm chỉ tiêu đánh giá mức độ tuân thủ thuế theo từng khía cạnh cụ thể Thứ nhất, các chỉ tiêu về tuân thủ trong việc đăng ký thuế. Mức độ tuân thủ thuế của NNT trong đăng ký thuế thể hiện ở việc NNT thực hiện kê khai đăng ký thuế đúng mẫu biểu, chính xác các chỉ tiêu, nộp hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan quản lý đúng thời hạn, đúng địa điểm. Do đó, chỉ tiêu định lượng để đánh giá tính tuân thủ trong hoạt động này có thể dựa trên tỷ lệ hoặc số lượng NNT chấp hành đầy đủ các yêu cầu nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế, các tiêu chí thường được sử dụng là tỷ lệ/số lượng NNT có hành vi không tuân thủ. Cụ thể như sau:
35
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng phải đăng ký thuế. Tỷ lệ này được đo bằng tỷ lệ % giữa số NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế (bao gồm cả số lượng NNT không đăng ký thuế, chưa đăng ký thuế hay đăng ký thuế muộn so với quy định) so với tổng số đối tượng phải đăng ký thuế. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ trong việc đăng ký thuế chưa tốt. Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số NNT đã thực hiện đăng ký thuế. Việc khai hồ sơ khai thuế thông thường được quy định theo các mẫu biểu và các chỉ tiêu có sẵn. Các chỉ tiêu đó là những thông tin quan trọng của NNT mà CQT phải nắm bắt để phục vụ cho công tác quản lý thuế của mình. Nếu NNT kê khai không đúng, không chính xác theo mẫu biểu, theo chỉ tiêu sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý thuế của CQT, do đó, việc kê khai không chính xác này cũng là một chỉ tiêu xem xét tính tuân thủ của NNT. Chỉ tiêu này càng thấp càng chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt và ngược lại. Thứ hai, các chỉ tiêu về tuân thủ trong kê khai và tính thuế, gồm tuân thủ về nộp tờ khai (hồ sơ, mẫu biểu, thời gian) và tuân thủ trong kê khai thuế (chính xác, đầy đủ). Thuộc nhóm này gồm có các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ giữa số tờ khai được nộp so với tổng số tờ khai phải nộp. Các tờ khai được nộp bao gồm cả tờ khai nộp đúng hạn và tờ khai chậm nộp. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn. Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ giữa số tờ khai nộp đúng hạn trên tổng số tờ khai đã được nộp. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn. Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ số tờ khai có sai sót trên tổng số tờ khai thuế đã nộp. Chỉ tiêu này phản ánh sự tuân thủ về hình thức mẫu biểu kê khai của NNT. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt. Chỉ tiêu 7: Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra. Chỉ tiêu này một mặt phản ánh tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra của CQT. Mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản ánh mức độ tuân thủ trong kê khai xác định số thuế phải nộp của NNT. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không đổi thì chỉ tiêu này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân thủ tốt. Chỉ tiêu 8: Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra. Tương tự như chỉ tiêu 7, chỉ tiêu này một mặt phản ánh tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra của CQT. Mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản ánh mức độ tuân thủ trong tính toán nghĩa vụ thuế phải nộp của NNT. Sự khác biệt của chỉ tiêu 7 so với chỉ tiêu 8 là tính chất của hành vi khác nhau. Với chỉ tiêu 7, NNT
36
vẫn phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng kê khai sai căn cứ tính thuế. Với chỉ tiêu 8, NNT cố tình gian lận thuế. Giả định tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không đổi thì chỉ tiêu này càng thấp càng chứng tỏ NNT tuân thủ tốt. Các chỉ tiêu trong nhóm phản ánh tính tuân thủ về kê khai, tính thuế này (từ chỉ tiêu 4 đến chỉ tiêu 8) có thể tính toán cho từng sắc thuế hoặc cho tất cả các sắc thuế. Tùy theo mục đích và điều kiện nghiên cứu mà người nghiên cứu sử dụng nhóm chỉ tiêu này để nghiên cứu cho một sắc thuế hoặc nhiều sắc thuế. Thứ ba, các chỉ tiêu về tuân thủ trong nộp thuế. Nói đến mức độ tuân thủ trong nộp thuế là nói đến việc nộp thuế đúng hạn, nộp đủ số thuế phải nộp. Chỉ tiêu 9: Tỷ lệ số NNT đúng hạn trên tổng số NNT có số thuế phải nộp trong kỳ tính thuế. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ NNT tuân thủ tự giác trong việc đảm bảo thời hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn. Chỉ tiêu 10: Tỷ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải nộp theo nghĩa vụ thuế của NNT. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ số thuế đã được NNT đảm bảo thời hạn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn. Chỉ tiêu 11: Tỷ lệ giữa số thuế nợ so với tổng số thuế phải nộp hoặc so với tổng số thuế ghi thu trong kỳ tính thuế. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn. Tương tự như các chỉ tiêu thuộc nhóm tuân thủ về kê khai, tính thuế, các chỉ tiêu thuộc nhóm tuân thủ nộp thuế (các chỉ tiêu 9, 10, 11) có thể được tính toán áp dụng cho tất cả các sắc thuế hoặc từng sắc thuế. Tùy theo từng mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu mà áp dụng cho tất cả NNT hoặc cho từng người NNT để đánh giá mức độ tuân thủ trong nộp thuế nói chung hoặc từng sắc thuế, từng NNT nói riêng. Thứ tư, các chỉ tiêu về tuân thủ trong chấp hành các quy định khác về thuế. Bên cạnh các nghĩa vụ chính về thuế như đăng ký, kê khai thuế và nộp thuế nêu trên, trong quá trình tuân thủ thuế, NNT còn phải thực hiện các nội dung công việc theo các quyết định của cơ quan quản lý thuế. Các quyết định hành chính của cơ quan quản lý thuế đối với NNT có thể kể đến như quyết định ấn định thuế; quyết định về tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế; quyết định xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra thuế; quyết định cưỡng chế thuế; quyết định xử phạt về thuế... Ngoài ra, CQT có thể có những yêu cầu đối với NNT trong quá trình quản lý thuế như yêu cầu cung cấp hồ sơ, thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế; yêu cầu thực hiện áp
37
dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế (khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử...); yêu cầu về sử dụng hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán... Do đó, các chỉ tiêu định lượng đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT cũng có thể được xác định trên cơ sở mức độ hay tỷ lệ tuân thủ của NNT đối với các quyết định, các yêu cầu nói trên của CQT. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này có thể được xem là hệ quả của các chỉ tiêu chính nêu trên. Vì vậy, chỉ cần quan tâm, xác định được các chỉ tiêu chính nêu trên là có thể đánh giá được đầy đủ mức độ tuân thủ thuế của NNT. 2.3.2. Các phương pháp đo lường tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Đo lường được mức độ tuân thủ thuế của NNT chính là việc tính toán, xác định các chỉ tiêu đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT nêu trên. Có nhiều phương pháp để đo lường tính tuân thủ thuế của NNT, song 2 phương pháp được sử dụng phổ biến nhất là Phương pháp số liệu quản lý thuế và Phương pháp điều tra, khảo sát. 2.3.2.1. Phương pháp số liệu quản lý thuế Đây chính là phương pháp phân tích thống kê trên cơ sở số liệu quản lý thuế của CQT. Theo đó, CQT xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và thống kê, phân tích số liệu trên cơ sở số liệu sẵn có tại CQT. Trên cơ sở số liệu về quản lý thuế, mức độ tuân thủ thường được ước tính cho ba giai đoạn chính hay cho các nội dung quản lý thuế chính (kê khai, tính thuế, thu/nộp thuế) [17]. Tuân thủ về thủ tục đăng ký thuế và kê khai thuế Mức độ tuân thủ về thủ tục đăng ký thuế và kê khai thuế phản ánh qua số liệu quản lý thuế chính là các chỉ tiêu định lượng đo lường mức độ tuân thủ thuế của NNT đã trình bày tại mục 2.3.1.2 nêu trên (từ chỉ tiêu 2 đến chỉ tiêu 6). Việc tuân thủ trong nộp tờ khai mới chỉ phản ánh được phần nổi trong tuân thủ thuế, chưa đo lường được chiều sâu tuân thủ thuế. Tuân thủ về tính thuế Nếu tuân thủ trong thủ tục kê khai thuế chỉ xem xét đến số tờ khai đã nộp, số tờ khai nộp đúng hạn, thì tuân thủ về tính thuế nói đến việc kê khai trung thực các căn cứ tính thuế. Số liệu quản lý thuế phản ánh mức độ tuân thủ về tính thuế được phân tích ở chỉ tiêu số 7 và số 8 mục 2.3.1.2 nêu trên. Tuân thủ trong kê khai có thể được phát hiện trong quá trình quản lý kê khai và thanh tra, kiểm tra thuế. Tuân thủ trong tính thuế là chỉ tiêu phản ánh cơ bản nhất mức độ tuân thủ thuế. Tuy nhiên, cách đo lường mức độ tuân thủ này có chính xác hay không phụ thuộc nhiều vào các dữ liệu được sử dụng để ước tính doanh thu kê khai của NNT.
38
Tuân thủ trong nộp thuế Mức độ tuân thủ trong nộp thuế phản ánh việc nộp thuế đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Các chỉ tiêu cụ thể sử dụng số liệu quản lý thuế để đo lường mức độ tuân thủ trong nộp thuế trình bày tại mục 2.3.1.2 nêu trên (chỉ tiêu 9, 10 và 11). Cách tiếp cận dựa vào các số liệu về quản lý thuế không ước tính được hết mức độ thất thoát do thiếu thông tin về diện chịu thuế tiềm năng hay khả năng tăng trưởng của diện chịu thuế. Tuy nhiên, cách này phản ánh những ước tính thực tế tốt nhất mà các CQT thực hiện. Do đó, nếu không có công tác dự báo số thu một cách thường xuyên thì những số liệu về quản lý thuế sẽ là những thông tin duy nhất để xây dựng những kế hoạch về cưỡng chế tuân thủ. Để xây dựng được các chiến lược tuân thủ, các CQT ở những nước phát triển thường áp dụng cả hai cách tiếp cận trên để ước tính mức độ tuân thủ và không tuân thủ một số sắc thuế nhất định (như thuế GTGT và thuế TNDN) và tại một số chức năng quản lý thuế. Phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện vì dựa trên cơ sở dữ liệu sẵn có của CQT. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của phương pháp này vì chỉ dựa trên dữ liệu sẵn có nên chưa phản ánh một cách tổng thể và chính xác tình hình tuân thủ của NNT. 2.3.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát CQT hoặc những người nghiên cứu về tuân thủ thuế có thể tự tiến hành hoặc phối hợp với các đơn vị, tổ chức khác thực hiện điều tra, khảo sát NNT về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Phương pháp này có ưu điểm là tiếp cận được một số lượng lớn NNT và cho thấy được trình độ hiểu biết, thái độ tuân thủ cũng như những vấn đề khó khăn của NNT để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, số liệu thu thập được cũng như độ tin cậy của các số liệu thu được qua điều tra, khảo sát phụ thuộc rất nhiều vào cách thức xây dựng các bảng câu hỏi và cách thức tổ chức điều tra, khảo sát mẫu được chọn để điều tra, khảo sát. Cụ thể như sau: - Xây dựng bảng hỏi: Người nghiên cứu phải đặt ra các câu hỏi để khảo sát. Có thể sử dụng câu hỏi đa lựa chọn hoặc câu hỏi để người được khảo sát ghi ý kiến của mình vào phiếu khảo sát (câu hỏi mở). Tuy nhiên, loại câu hỏi phù hợp nhất khi sử dụng bảng hỏi là câu hỏi đa lựa chọn (câu hỏi đóng) để người được hỏi trả lời nhanh chóng và thuận tiện nhất. Câu hỏi đa lựa chọn có thể là câu hỏi lựa chọn duy nhất một phương án đúng, có thể là câu hỏi lựa chọn nhiều phương án đúng, có thể là câu hỏi để người được hỏi chấm điểm. Thang điểm thường được lựa chọn nhiều nhất là thang điểm 5 theo thang đo Likert. Theo đó, giá trị trung bình được xác định
39
là 3. Mức độ cao nhất là 5, thấp nhất là 1 và trung vị là 3. Các câu hỏi tập trung vào các chỉ tiêu đo lường mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế. Với bảng hỏi, người nghiên cứu có thể đánh giá ở mức độ nhất định cả các chỉ tiêu định lượng về tuân thủ thuế và tiêu chí định tính về tuân thủ thuế. Các câu hỏi có thể tìm hiểu thêm về thực trạng các nhân tố tác động đến mức độ tuân thủ thuế của NNT. Các câu hỏi mở có thể được sử dụng ở mức độ hạn chế để tìm hiểu thêm thông tin về thực trạng tuân thủ thuế nhằm bổ sung cho những vấn đề mà câu hỏi đóng không tìm hiểu được thông tin. - Xác định đối tượng được khảo sát: Đối tượng được khảo sát có thể là công chức thuế, các chuyên gia hoặc chính NNT. Tuy nhiên, để đảm bảo phản ánh sát đúng thực tế, đối tượng được lựa chọn phải đảm bảo tính đại diện cho những nhóm khác nhau tùy theo những điều kiện nghiên cứu cụ thể. - Mẫu khảo sát: Mẫu khảo sát càng lớn thì độ chính xác càng cao. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cụ thể của người nghiên cứu mà xác định độ lớn mẫu cho phù hợp. - Cách thức tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi: Tùy theo đối tượng khảo sát và các điều kiện cụ thể mà phiếu khảo sát có thể được sử dụng là phiếu in, bản mềm gửi qua mail hoặc sử dụng công nghệ googledocs để hỗ trợ. - Tổng hợp, phân tích và đánh giá kết quả khảo sát: Tùy theo mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu và các điều kiện cụ thể mà việc tổng hợp kết quả khảo sát có thể thực hiện bằng bảng tính excel, phần mềm SPSS hay tổng hợp trực tiếp trên công cụ hỗ trợ googledocs. Trong trường hợp cần phân tích mối quan hệ giữa các biến khác nhau có mối liên hệ giữa các câu hỏi thì SPSS là công cụ được lựa chọn nhiều nhất. Để khảo sát thực tế, ngoài việc khảo sát bằng bảng hỏi, người nghiên cứu mức độ tuân thủ thuế của NNT có thể sử dụng phương pháp quan sát tại hiện trường hoặc phỏng vấn trực tiếp. Khi phỏng vấn trực tiếp, người nghiên cứu phải chuẩn bị các câu hỏi phỏng vấn và xây dựng kịch bản phỏng vấn cho các tình huống khác nhau có thể xảy ra khi phỏng vấn. Các câu hỏi phỏng vấn cần tập trung vào đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT và các nhân tố tác động đến mức độ tuân thủ thuế của NNT. 2.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
Tuân thủ thuế là một khái niệm phức tạp, diễn ra ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ tích cực nhất là cam kết tuân thủ, tiếp theo là chấp nhận tuân thủ, tiêu cực hơn là miễn cưỡng tuân thủ và trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thuế. Vấn đề đặt ra là tại sao NNT tuân thủ hoặc không tuân thủ và tại sao NNT lại tuân thủ ở một cấp độ nào
40
đó. Muốn nâng cao tính tuân thủ của NNT thì cần phải hiểu tính tuân thủ bị tác động bởi những nhân tố nào và mức độ tác động của những yếu tố này ra sao để từ đó có biện pháp tác động đến các nhân tố đó nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế. Hành vi tuân thủ của NNT không phải là một yếu tố độc lập, bất biến, nó chịu tác động của các yếu tố trong môi trường hoạt động và các yếu tố trong bản thân NNT. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế với các cách tiếp cận chủ yếu sau đây: Tiếp cận dựa trên các nhóm nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể là: Nhóm các yếu tố chủ quan: Bao gồm: Tính phức tạp của hệ thống thuế (sự phức tạp dẫn đến khó hiểu, khó tuân thủ; dẫn đến những cách hiểu khác nhau và tranh chấp trong quá trình thực hiện luật thuế); sự liêm chính của cán bộ thuế (sự liêm chính của cán bộ thuế cao thì tính tuân thủ của NNT sẽ tốt hơn và ngược lại) và tính hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát của CQT (hệ thống kiểm tra, kiểm soát này có hiệu quả cao, việc xử phạt nghiêm minh sẽ nâng cao tính tuân thủ thuế và ngược lại). Nhóm các yếu tố khách quan: bao gồm: Trình độ dân trí (trình độ dân trí cao thì mức độ tuân thủ pháp luật tốt hơn là trình độ dân trí thấp); trách nhiệm giải trình chi tiêu công của chính phủ (nếu chính phủ làm tốt trách nhiệm giải trình chi tiêu công thì sẽ góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế, và ngược lại); quy mô của nền kinh tế phi chính thức (quy mô này có thể dẫn tới việc thu hẹp diện chịu thuế và gây thất thoát nguồn thu, các DN trong nền kinh tế phi chính thức thường nhỏ hoặc tham gia vào những hoạt động bất hợp pháp, do đó họ thường có rủi ro trốn thuế cao hơn và đặt ra những thách thức đáng kể cho CQT) [Nguồn: Schneider và Klinglmair (2004), WDI (2005) và ước tính của chuyên gia Ngân hàng Thế giới]. Tiếp cận theo các nhóm yếu tố liên quan đến Nhà nước, CQT, NNT, kinh tế, xã hội... [4] Trong nghiên cứu này, tuân thủ thuế được hiểu trên các góc độ: Tuân thủ các quy định về chính sách thuế, tuân thủ các quy định về quản lý thuế, tuân thủ các nghĩa vụ thuế và tuân thủ các quy định về thuế. Việc xem xét, đánh giá yếu tố ảnh hưởng được tập trung vào: đặc điểm DN (Cơ cấu tổ chức, số lượng chủ sở hữu, Quy mô hoạt động, Thời gian hoạt động, Hiệu quả hoạt động kinh doanh); ngành nghề kinh doanh của DN (Tỷ suất lợi nhuận của ngành, Tính cạnh tranh của ngành, Kiểm soát doanh thu, Kiểm soát chi phí); chất lượng dịch vụ thuế (Sự công bằng từ dịch vụ thuế, Cơ hội cho DN né tránh thuế, Chất lượng dịch vụ của CQT, Sự khích lệ càng cao từ CQT, Kiến thức về thuế của DN); chất lượng quản trị công (Hiệu quả của các khoản chi tiêu công, Lợi ích từ chi tiêu của chính phủ, Mật độ kiểm tra
41
thuế, Hệ thống giám sát thuế, Hệ thống quản lý thuế); cấu trúc hệ thống thuế (Thuế suất DN phải chịu, Chi tiêu các khoản thu từ thuế, Giám sát các khoản thu từ tiền thuế, Thủ tục hành chính thuế, Tính công bằng trong việc xử phạt, Sự phức tạp của hệ thống thuế, Mức độ ứng dụng công nghệ trong khai báo thuế); các yếu tố về kinh tế (Lãi suất, Lạm phát của nền kinh tế, Hội nhập kinh tế quốc tế, Chi phí tuân thủ thuế, Nguồn hỗ trợ tài chính); chuẩn mực xã hội (Phê phán của xã hội, Tính công bằng đối với nghĩa vụ thuế, Tính công bằng đối với mức thuế phải chịu). Có thể thấy, dù tiếp cận theo hướng nào, tính tuân thủ thuế của NNT cũng sẽ chịu sự tác động của các nhóm nhân tố sau đây: (i) Chính sách, pháp luật thuế; (ii) Hoạt động quản lý thuế của CQT; (iii) Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế; (iv) Cơ sở vật chất của CQT; (v) Người nộp thuế; (vi) Sự phát triển của hệ thống đại lý thuế; và (vii) Đặc điểm kinh tế - xã hội. Cụ thể sẽ được phân tích như dưới đây. 2.4.1. Chính sách, pháp luật thuế Theo Giáo trình Quản lý thuế (2016), chính sách thuế là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm điều tiết thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội thông qua thuế [37, tr14]. Pháp luật thuế là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Nhà nước muốn chính sách đi vào cuộc sống thì phải thể chế hóa những chính sách ấy thành pháp luật thuế [37, tr15]. Với cách hiểu trên cho thấy, đây là một trong các nhân tố cực kỳ quan trọng tác động đến tính tuân thủ, bởi lẽ nhóm nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Hệ thống chính sách pháp luật thuế là nhân tố tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của DN. Hệ thống chính sách, pháp luật thuế được xây dựng đồng bộ, rõ ràng, đơn giản, minh bạch và càng ít ngoại lệ sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giảm chi phí tuân thủ, giảm rủi ro do tham nhũng và phiền hà cho NNT, qua đó cũng giúp cho việc thực hiện tuân thủ thuế tốt hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật thuế phức tạp, không đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ và chồng chéo sẽ làm tăng cơ hội cho NNT có những hành vi lợi dụng kẽ hở của luật để trục lợi, làm giảm tác dụng quản lý và răn đe của luật pháp. Chính sách thuế thể hiện rõ mức độ điều tiết thu nhập dân cư của nhà nước qua thuế. Mức độ điều tiết phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế và thu nhập dân cư sẽ có tác động thúc đẩy tuân thủ thuế. Nếu mức độ điều tiết quá thấp thì không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Mức độ điều tiết quá cao sẽ thúc đẩy gian lận thuế. 2.4.2. Hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế
42
Quản lý thuế được hiểu là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện pháp luật thuế trong đời sống kinh tế - xã hội. Quá trình đó đòi hỏi tất cả các đối tượng liên quan được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế phải tuân thủ thực hiện, trong đó có NNT. Mục tiêu đặt ra là tất cả các tổ chức, cá nhân thuộc NNT phải thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật thuế. Để đạt được mục tiêu đó, cơ quan quản lý thuế phải thực hiện các thủ tục hành chính thuế và tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế (tuyên truyền, hỗ trợ, quản lý đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, cưỡng chế thuế…). Đây chính là những nhân tố cụ thể của quản lý thuế có tác động đến tính tuân thủ của NNT. Cụ thể như sau: 2.4.2.1. Thủ tục hành chính thuế Thủ tục hành chính thuế hay nói một cách vắn tắt là thủ tục thuế là vấn đề liên quan trực tiếp đến những việc NNT phải làm để thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Theo Giáo trình Quản lý thuế (2016), thủ tục thuế được hiểu là các công việc NNT cần phải thực hiện, các hồ sơ, giấy tờ cần phải nộp cho CQT hoặc phải lưu giữ, xuất trình phục vụ quản lý thuế theo quy định pháp luật thuế để vụ cho việc kê khai, nộp thuế [37, tr31]. Nội dung chủ yếu của thủ tục hành chính thuế liên quan trực tiếp đến NNT bao gồm: Thủ tục đăng ký thuế; thủ tục kê khai thuế, thủ tục nộp thuế và các thủ tục về thanh tra, kiểm tra thuế. Thủ tục hành chính thuế có thể có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tuân thủ của NNT. Thủ tục hành chính thuế dễ hiểu, dễ thực hiện thì tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ thuế và ngược lại. Tuy nhiên, thủ tục hành chính thuế còn là cơ sở để CQT xác định nghĩa vụ thuế của NNT nên nó cũng đòi hỏi phải đảm bảo cung cấp đủ thông tin cho hoạt động quản lý thuế và quản lý chặt chẽ, ngăn ngừa gian lận thuế. Bởi vậy, khi xây dựng, hoàn thiện hoặc cải cách thủ tục hành chính thuế phải đảm bảo cân bằng cả lợi ích và yêu cầu của CQT và NNT. 2.4.2.2. Nhóm nhân tố thuộc về các chức năng quản lý của cơ quan thuế Để quản lý thuế, CQT phải thực hiện hệ thống các hoạt động nghiệp vụ tác động để NNT tuân thủ thuế. Đây chính là việc CQT thực hiện các chức năng quản lý thuế. a) Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế Tuyên truyền pháp luật thuế là hoạt động nhằm chuyển tải các thông tin về pháp luật thuế một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời và chính thống đến mọi thành viên trong xã hội bằng những hình thức, biện pháp cụ thể.
43
Nội dung hoạt động tuyên truyền về thuế bao gồm: Tuyên truyền, giải thích về bản chất, vai trò của thuế, các lợi ích xã hội có được từ việc sử dụng tiền thuế; tuyên truyền, phổ biến nội dung các chính sách, pháp luật về thuế; phổ biến các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của CQT, của NNT và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội trong việc cung cấp thông tin và phối hợp thực hiện các luật thuế; phổ biến các thủ tục về thuế, quy định về việc xử lý các vi phạm pháp luật về thuế; tuyên dương, khen thưởng NNT chấp hành tốt pháp luật về thuế... Việc tuyên truyền pháp luật thuế có thể thông qua các hình thức như xuất bản các ấn phẩm về thuế; tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, đài phát thanh, đài truyền hình bằng các bản phụ trương về thuế, các chuyên mục thuế trên báo, tạp chí, các chương trình truyền hình về thuế, các bản tin hệ thống thông tin tài chính, xây dựng chương trình tăng cường hiểu biết về thuế ở trong các trường học… Hỗ trợ NNT là hoạt động của CQT nhằm tạo những điều kiện tốt nhất để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế như: hướng dẫn kê khai, tính thuế, giải đáp các vướng mắc trong quá trình tuân thủ... Hỗ trợ NNT là việc hướng dẫn, giải thích, tư vấn cho NNT hiểu các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ thuế đã được quy định. Nếu như hoạt động tuyên truyền thuế thường được thực hiện theo ý muốn chủ quan của CQT thì các dịch vụ hỗ trợ NNT thường được thực hiện theo nguyện vọng và yêu cầu từ phía NNT. Khi NNT có những vướng mắc trong quá trình kê khai, tính thuế, quyết toán thuế hoặc các vấn đề có liên quan khác, họ có thể đề nghị cán bộ thuế tư vấn hoặc đến các trung tâm cung cấp dịch vụ hỗ trợ NNT để được giải đáp. Hoạt động hỗ trợ NNT bao gồm các nội dung như hướng dẫn, tư vấn các nội dung về chính sách, chế độ thuế; hướng dẫn, tư vấn các thủ tục, quy trình chấp hành nghĩa vụ thuế như thủ tục đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, xin miễn giảm thuế… hướng dẫn, tư vấn cách lập các mẫu biểu báo cáo về thuế; tư vấn các vấn đề liên quan đến thuế như kế toán, cách sử dụng, quản lý hóa đơn, chứng từ; hướng dẫn và cung cấp các thông tin cảnh báo về các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế, các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế; giải đáp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT… Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua các hình thức hỗ trợ như dịch vụ giải đáp các vướng mắc của NNT qua điện thoại, qua các cuộc tư vấn trực tiếp, trả lời qua thư… Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế là việc phổ biến các thông tin về pháp luật thuế đến mọi thành viên trong xã hội bằng những hình thức, biện pháp cụ thể.
44
Hỗ trợ NNT là hoạt động nhằm tạo những điều kiện tốt nhất để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế như hướng dẫn kê khai, giải đáp vướng mắc... Mục tiêu quản lý thuế trong xã hội hiện đại là tăng tính tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế. Việc đưa ra những hình thức xử phạt đối với các đối tượng trốn và tránh thuế chỉ nhằm cảnh báo về hậu quả của việc không tuân thủ để người nộp thuế cân nhắc, chú ý thường xuyên. Để thực hiện mục tiêu này, CQT không chỉ có nhiệm vụ theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc NNT thực hiện nghĩa vụ thuế, mà còn có trách nhiệm tạo ra những điều kiện tốt nhất để NNT tự giác, chủ động thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Với việc thực hiện mục tiêu trên, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế cho NNT đóng một vai trò rất quan trọng. Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế là nhiệm vụ của cán bộ thuế, bằng nhiều hình thức và phương pháp phù hợp để tuyên truyền về chính sách thuế hiệu quả đến NNT và các tầng lớp dân cư. Như vậy, tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một nội dung có tầm quan trọng đặc biệt nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác tuân thủ thuế của NNT, góp phần gắn kết giữa CQT và NNT. Một trong những tiêu chí để đánh giá hoạt động của CQT tốt là tính hiệu quả mang lại và được thể hiện rõ nét nhất chính là tính tự giác tuân thủ thuế, tự nguyện cao trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước của NNT. Tạo lập được mối quan hệ bình đẳng, thân thiện giữa cơ quan quản lý thuế và NNT theo hướng NNT là người được phục vụ, là “khách hàng” của CQT và CQT là người phục vụ đáng tin cậy nhất của NNT. CQT và NNT là bạn đồng hành trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Hoạt động tuyên truyền pháp luật thuế sẽ làm cho các tổ chức, cá nhân hiểu biết hơn về các chính sách thuế để tự giác đi vào thực hiện, số lượng NNT chấp hành tốt pháp luật đạt tỷ lệ ngày càng cao. Hoạt động hỗ trợ NNT sẽ giúp NNT hiểu và chấp hành tốt hơn các quy định của pháp luật thuế, hạn chế các sai sót, nhầm lẫn của NNT. Có thể nói, hoạt động tuyên truyền chính sách pháp luật thuế và hỗ trợ NNT là hoạt động tác động trực tiếp, đầu tiên góp phần nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT; từng bước giảm dần các sai sót và vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách thuế của NNT. Thông qua hoạt động này, quan hệ giữa CQT, công chức thuế và NNT ngày càng thân thiện và là người bạn đồng hành trong việc thực thi các chính sách, pháp luật thuế. b) Quản lý kê khai thuế
45
Quản lý kê khai thuế là hoạt động quản lý nhằm giúp CQT nắm bắt toàn bộ tình trạng đăng ký thuế, kê khai thuế của NNT. Kê khai thuế là việc NNT căn cứ vào số liệu và tình hình thực tế các hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế để kê khai xác định số tiền thuế phải nộp vào NSNN trong kỳ tính thuế theo quy định của pháp luật. Thông thường, hoạt động kê khai thuế được thực hiện bằng cách điền các số liệu và dữ liệu khác có liên quan đến xác định nghĩa vụ vào các mẫu tờ khai và phụ lục tờ khai thuế, sau đó nộp hồ sơ khai thuế cho CQT. Để đảm bảo số thuế kê khai là đúng, chính xác và phù hợp với hệ thống chính sách thuế cũng như pháp luật có liên quan thì nội dung công tác quản lý kê khai thuế bao gồm những vấn đề chủ yếu sau: (i) Quản lý người khai thuế; (ii) Quản lý hồ sơ khai thuế; (iii) Quản lý thời hạn kê khai; (iv) Quản lý tính chính xác của số liệu kê khai thuế. Việc kê khai và nộp hồ sơ khai thuế chính xác, đầy đủ và đúng thời hạn là một tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT và cũng là cơ sở tin cậy để CQT đưa ra các chiến lược, biện pháp quản lý phù hợp cho từng nhóm NNT, đảm bảo được sự tuân thủ tự nguyện tối đa của họ. Trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế, thời hạn nộp tiền thuế là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Do đó, khi NNT nộp hồ sơ khai thuế, nộp thuế đúng thời hạn thể hiện được NNT đã tuân thủ được thời hạn kê khai và ngược lại. Do đó, việc quản lý thời hạn nộp hồ sơ khai thuế là cơ sở quan trọng để CQT đánh giá mức độ tuân thủ của NNT. Ngoài ra, số liệu kê khai trên hồ sơ khai thuế được NNT tự xác định và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của nó. Tuy nhiên, trên góc độ quản lý, CQT cần phải theo dõi, kiểm tra tính chính xác này để kịp thời phát hiện các sai sót, nhầm lẫn hay gian lận của NNT và có biện pháp xử lý thích ứng để đảm bảo sự tuân thủ tốt nhất. Hoạt động ngăn ngừa, phát hiện, xử lý này có thể được thực hiện thông qua việc kiểm tra, thanh tra thuế, nhưng nếu CQT tập trung ngay từ khâu tiếp nhận hồ sơ khai thuế (trực tiếp tại CQT hay thông qua giao dịch thuế điện tử) thì rõ ràng việc xử lý được kịp thời hơn. Như vậy, thông qua hoạt động quản lý kê khai thuế, cơ quan quản lý thuế nắm được tình hình tuân thủ trong kê khai thuế của NNT như: số lượng NNT phải nộp hồ sơ khai thuế, số lượng NNT nộp chậm hồ sơ khai thuế, số lượng NNT không nộp hồ sơ khai thuế, số lượng NNT có các sai sót, nhầm lẫn hay gian lận trên hồ sơ khai thuế... Từ đó, CQT có các biện pháp như đôn đốc, nhắc nhở, yêu cầu giải
46
trình, bổ sung hồ sơ hay đưa ra các quyết định ấn định thuế, kiểm tra tại trụ sở NNT, thanh tra thuế... nhằm hạn chế các hành vi không tuân thủ nói trên. Hoạt động quản lý kê khai thuế là hoạt động được triển khai liên tục, thường xuyên của CQT, có tác động trực tiếp đến NNT trong quá trình họ vận dụng các quy định của pháp luật thuế, tính toán, xác định nghĩa vụ thuế của mình một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời, ngăn ngừa được các gian lận ở các khâu tuân thủ tiếp theo. c) Thanh tra, kiểm tra NNT Mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế là kiểm soát, đối chiếu, đánh giá tính đúng đắn, trung thực trong hoạt động kê khai thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT; phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi gian lận trong tuân thủ thuế của NNT. Kiểm tra thuế là hoạt động của CQT trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá về tình hình chấp hành nghĩa vụ thuế của đối tượng kiểm tra [37, tr176]. Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác thanh tra của CQT với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật [37, tr176]. Nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra đối với NNT bao gồm: (i) Thanh tra, kiểm tra đăng ký thuế; (ii) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hóa đơn; (iii) Thanh tra, kiểm tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế. Trong điều kiện thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế là một nội dung rất cơ bản trong việc thực hiện các chức năng của cơ quan quản lý thuế. CQT không còn can thiệp trực tiếp vào quá trình kê khai, nộp thuế của NNT, trừ các trường hợp phát hiện các sai sót, vi phạm hoặc các dấu hiệu không chấp hành luật thuế. CQT có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi không tuân thủ thuế của NNT. Như trong phần Tổng quan nghiên cứu đã trình bày, có rất nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế (bao gồm số lượng cuộc thanh tra, kiểm tra và xác suất thanh tra, kiểm tra). Trong đó, các công trình đều cho rằng, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế có tác động mạnh mẽ nhất đến tính tuân thủ thuế của NNT.
47
Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế (thanh tra, kiểm tra việc đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, chấp hành chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ...), các hành vi không tuân thủ thuế của NNT sẽ bị phát hiện và xử lý kịp thời. Các hình thức xử lý tương ứng với mức độ vi phạm được thực thi nghiêm minh, công bằng sẽ là công cụ cảnh báo, ngăn ngừa, răn đe rất lớn ngăn ngừa sự tái phạm của NNT. Do đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế được tiến hành một cách có hiệu quả và sử dụng những hình phạt thích đáng sẽ góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. d) Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế Nộp thuế là hành động NNT chuyển số tiền thuế phải nộp vào tài khoản của Nhà nước trong Kho bạc Nhà nước. Để đảm bảo NNT nộp tiền vào NSNN đầy đủ và đúng thời hạn, công tác quản lý CQT phải thực hiện quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế. Quản lý nợ thuế là công việc theo dõi, nắm bắt thực trạng nợ thuế và các khoản thu khác do CQT quản lý và thực hiện các biện pháp đôn đốc thu hồi số thuế nợ của NNT. Công tác quản lý nợ thuế bao gồm các nội dung: (i) Thống kê và nắm bắt đầy đủ tình hình nợ thuế của NNT, số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của NNT; (ii) Phân tích, đánh giá thực trạng nợ thuế thông qua phân loại nợ thuế, phân tích các nguyên nhân nợ thuế; (iii) Thực hiện các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc nộp tiền thuế và các khoản thu khác do CQT quản lý. Với cách hiểu như trên, quản lý nợ thuế tác động đến tính tuân thủ thuế của NNT trên các phương diện sau: - Thông qua hoạt động quản lý nợ thuế, CQT nắm bắt được chính xác tình hình thực hiện nghĩa vụ của NNT, xác định được số thuế đã được nộp vào NSNN, số thuế còn nợ đọng của từng NNT; từ đó có các biện pháp thúc đẩy NNT nộp các khoản thuế đầy đủ, kịp thời vào NSNN; đảm bảo tuân thủ nghiêm túc pháp luật thuế. Thông qua đó, hoạt động quản lý số thuế đã nộp và số thuế nợ của NNT đã góp phần nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. - Thông qua hoạt động quản lý nợ thuế, cơ quan thuế đảm bảo tính hiệu lực, nghiêm minh của pháp luật thuế; hạn chế sự chiếm dụng tiền thuế, chống thất thoát thuế và đảm bảo sự công bằng giữa những người nộp thuế. Quản lý nợ tốt sẽ nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế, góp phần nâng cao hiệu quả của các chức năng khác như: Quản lý kê khai thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, vì thông qua quản lý kê khai thuế và thanh tra, kiểm tra thuế xác định chính xác nghĩa vụ thuế nhưng điều quan trọng là nghĩa vụ thuế được xác định đó phải được thực hiện và
48
điều này được thực hiện thông qua công tác đôn đốc thu nộp thuế - một nội dung quan trọng của công tác quản lý nợ thuế. Cưỡng chế nợ thuế là việc CQT và các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện pháp buộc NNT phải thực hiện nghĩa vụ thuế. Công tác cưỡng chế nợ thuế bao gồm các nội dung: (i) Thông báo cho NNT biết trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ thuế và những hậu quả có thể phải chịu nếu không thực hiện nghĩa vụ thuế; (ii) Bằng các biện pháp cưỡng chế như dừng bán hóa đơn, đình chỉ hoạt động kinh doanh… để buộc NNT phải thực hiện nghĩa vụ nghĩa vụ thuế. Cưỡng chế nợ thuế có thể được coi là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý thuế. Cưỡng chế thuế thể hiện tính chất buộc phải tuân thủ bởi quyền lực nhà nước của thuế. Với tính chất như vậy, cưỡng chế thuế có tác động lớn đến tính tuân thủ thuế của NNT. Hoạt động này không chỉ tác động trực tiếp bắt buộc những NNT có hành vi chống đối phải tuân thủ nghiêm túc mà còn có tác động đến ý thức tuân thủ của toàn thể NNT đối với pháp luật thuế nói chung và các quyết định hành chính thuế nói riêng. Cụ thể như sau: - Hoạt động cưỡng chế nợ thuế đảm bảo thực hiện nghiêm túc pháp luật thuế, chống thất thu thuế có hiệu quả. Bằng các hình thức và biện pháp phù hợp, hoạt động này tác động đến lợi ích của NNT buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước, không để xảy ra tình trạng cố tình dây dưa, chây ỳ không nộp thuế, hoạt động cưỡng chế thuế đảm bảo thực hiện nghiêm pháp luật thuế. Khi các khoản thuế và thu khác thuộc NSNN được thu nộp vào ngân sách có nghĩa là công tác cưỡng chế thuế đã góp phần chống thất thu thuế cho NSNN. - Hoạt động cưỡng chế nợ thuế đóng vai trò cảnh báo qua đó thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của NNT. Việc cưỡng chế thuế thành công đối với những đối tượng cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ thuế sẽ phát đi một tín hiệu cảnh báo với chính những đối tượng này rằng, trong tương lai ý đồ cố tình không tuân thủ của họ sẽ không thực hiện được và còn bị thiệt hại hơn là tuân thủ tự giác. Đồng thời, việc cưỡng chế thuế có hiệu quả cũng phát đi một tín hiệu cho những NNT khác biết về khả năng không thành công của sự cố tình không tuân thủ. Qua đó, cưỡng chế thuế thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của NNT. - Hoạt động cưỡng chế nợ thuế đảm bảo tính công bằng trong thực thi pháp luật thuế. Nếu hai NNT ở cùng vào một điều kiện và hoàn cảnh như nhau nên số thuế phải nộp của họ là như nhau thì điều này phản ánh phần nào tính công bằng của pháp luật thuế một quốc gia. Tuy nhiên, khi số thuế phải nộp của người này
49
được nộp vào ngân sách còn của người khác thì lại không được nộp vào ngân sách thì nghĩa vụ phải nộp như nhau trở nên vô nghĩa. Chỉ khi nào số thuế phải nộp như nhau đó đều thực sự được nộp vào NSNN thì mới đảm bảo tính công bằng thực sự của pháp luật thuế. Công tác cưỡng chế thuế có hiệu quả đảm bảo cho sự công bằng đầy đủ này được thực hiện bằng cách buộc những người có nghĩa vụ thuế phải thực hiện nghĩa vụ đó, nếu không sẽ chịu sự trừng phạt của pháp luật. 2.4.3. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ, công chức quản lý thuế sẽ góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế tác động cả trên phương diện trực tiếp và gián tiếp đến tính tuân thủ thuế của NNT. Tác động trực tiếp của trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế đến tính tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở chỗ nếu trình độ chuyên môn của công chức thuế cao và đạo đức nghề nghiệp tốt thì sẽ có những tác động tích cực sau: (i) Giải quyết nhanh chóng, thuận lợi các thủ tục về thuế cho NNT, qua đó, tạo sự hài lòng cho NNT khiến NNT sẵn sàng tuân thủ thuế; (ii) Không gây phiền hà, sách nhiễu nên không cản trở NNT tuân thủ thuế; (iii) Không thông đồng giúp NNT gian lận thuế. Tác động gián tiếp của nhân tố này đến tính tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở chỗ: Nếu đội ngũ cán bộ, công chức thuế giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, giỏi kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, với phẩm chất đạo đức tốt sẽ thực hiện tốt các chức năng quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý thuế. Đến lượt nó, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của quản lý thuế sẽ có tác động nâng cao tính tuân thủ thuế, chẳng hạn như hỗ trợ NNT tốt hơn thì NNT tuân thủ tốt hơn, thanh tra thuế hiệu quả hơn thì tác động ngăn ngừa gian lận thuế cao hơn và ngược lại… 2.4.4. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của cơ quan thuế Cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố có tính chất điều kiện tiền đề vật chất cho hoạt động kê khai, nộp thuế của NNT và hoạt động quản lý thuế của CQT. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của ngành thuế càng tiên tiến, càng hiện đại thì việc tuân thủ thuế của NNT càng thuận lợi và ngược lại. Chẳng hạn như, việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp việc kê khai, nộp thuế được nhanh chóng và dễ dàng hơn, giảm chi phí tuân thủ, giảm thời gian thực hiện thủ tục thuế, làm NNT hài lòng hơn với sự trợ giúp của CQT, giúp NNT tuân thủ thuế tốt hơn.
50
Cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống máy tính điện tử và các phần mềm công nghệ thông tin giúp nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Từ đó, giúp phát hiện, ngăn chặn và cảnh báo những đối tượng vi phạm thuế. Đồng thời, giúp công chức thuế thực hiện nhanh chóng các thao tác nghiệp vụ để phục vụ NNT tốt hơn. Qua đó, giúp thúc đẩy tính tuân thủ của NNT. 2.4.5. Nhóm yếu tố thuộc về người nộp thuế Nhóm yếu tố này bao gồm các yếu tố thuộc về đặc thù hoạt động của DN, yếu tố kinh tế, yếu tố hành vi. Cụ thể: - Đặc thù hoạt động của DN: Mức độ đa dạng và phức tạp trong cơ cấu hoạt động của NNT, chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ (bao gồm chất lượng các quy trình kiểm soát, sự hợp lý và chặt chẽ của hệ thống kế toán, mức độ tuân thủ các quy trình và hệ thống kế toán, trình độ của nhân viên), hành vi của các cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh và hành vi của người lãnh đạo hoạt động kinh doanh… cũng có tác động không nhỏ đến mức độ tuân thủ thuế. - Yếu tố kinh tế: Gồm các yếu tố cụ thể sau: + Gánh nặng về tài chính: Số thuế phải nộp và hành vi tuân thủ thuế luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu phải nộp một khoản thuế quá lớn thì NNT có thể tránh phải nộp toàn bộ hoặc tìm cách điều chỉnh số liệu báo cáo nhằm làm giảm số thuế phải nộp. + Chi phí tuân thủ: Bao gồm thời gian phải bỏ ra để hoàn tất thủ tục thuế, chi phí về kế toán thuế… và có thể bao gồm cả chi phí về mặt tâm lý như căng thẳng thần kinh do NNT không nắm chắc họ có đáp ứng được các quy định của các luật thuế hay không. NNT phải bỏ ra các chi phí trên để tuân thủ nghĩa vụ thuế, do đó tổng số tiền mà NNT phải chi ra lớn hơn số thuế thực nộp vào NSNN. Nếu chi phí tuân thủ thấp sẽ dẫn đến mức độ tuân thủ tự nguyện tăng lên và ngược lại. - Yếu tố hành vi: Là yếu tố chi phối khá quan trọng đến thái độ tuân thủ thuế. Thuộc nhóm này có thể kể đến như: Cảm nhận về sự công bằng trong tuân thủ thuế; sợ hãi, lo sợ về khả năng vi phạm pháp luật thuế; thái độ của NNT đối với rủi ro khi trốn thuế... Cụ thể như sau: + Sự khác biệt của từng cá nhân: Giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, đạo đức, ngành nghề, tính cách, hoàn cảnh... luôn chứa đựng những rủi ro nhất định trong việc tuân thủ thuế vì nó tác động đến hành vi của NNT. Nếu NNT hiểu rõ pháp luật thuế, họ có thể tự giác chấp hành pháp luật thuế tốt hơn và ngược lại sẽ dẫn đến tình trạng tránh thuế, trốn thuế.
51
+ Cảm nhận về rủi ro tối thiểu cũng có tác động nhất định đến tuân thủ thuế. Nếu NNT có cơ hội không tuân thủ và họ có ý nghĩ rằng rủi ro không đáng kể nếu không tuân thủ thì NNT đó dễ dàng chấp nhận rủi ro này để đổi lấy sự không tuân thủ, do vậy có thể xuất hiện tình trạng không kê khai hoặc kê khai số liệu tính thuế thấp hơn số liệu thực tế. + Cảm nhận về sự không công bằng là nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ thuế. Nếu NNT cho rằng hệ thống pháp luật thuế không đảm bảo sự công bằng hoặc NNT bị đối xử không công bằng thì họ có thể ít tuân thủ hơn. Một khi NNT cảm thấy bị đối xử không công bằng, thiếu sự tin tưởng thì nguy cơ hoạt động của nền kinh tế ngầm có thể gia tăng, NNT cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thuế. Bên cạnh đó, nhận thức về tính không công bằng trong tiếp cận thông tin và thủ tục hành chính thuế có tác động không nhỏ đến tâm lý tuân thủ thuế, đặc biệt khi hệ thống thủ tục thuế phức tạp, rườm rà. 2.4.6. Sự phát triển của hệ thống đại lý thuế Đại lý thuế là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật để thực hiện các dịch vụ về thuế để hưởng thù lao như: Thay mặt NNT thực hiện các thủ tục về thuế (chuẩn bị hồ sơ khai thuế và thực hiện thủ tục kê khai thuế, nộp thuế, giải trình với CQT cho NNT…), tư vấn về thuế (tư vấn lựa chọn dự án đầu tư có lợi nhất về thuế, tư vấn hoạt động kinh doanh phù hợp với pháp luật thuế…). Với những NNT không có hiểu biết sâu về thuế, việc sử dụng dịch vụ của hệ thống đại lý thuế cho phép họ tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh am hiểu nhất mà không lo ngại về việc thực hiện sai các thủ tục thuế dẫn đến bị xử phạt về thuế, yên tâm đầu tư khi đã có chuyên gia tư vấn về thuế… Như vậy, với sự phát triển của hệ thống đại lý thuế, cả NNT, các đại lý thuế và CQT đều được hưởng lợi. Trên phương diện tác động đến tính tuân thủ thuế, sự phát triển của hệ thống đại lý thuế giúp những NNT không am hiểu pháp luật thuế vẫn tuân thủ đúng pháp luật thuế do việc chuẩn bị hồ sơ khai thuế và thực hiện các thủ tục thuế được thực hiện bởi một tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ thuế. Như vậy, hệ thống đại lý thuế càng phát triển thì càng góp phần tích cực vào việc nâng cao tính tuân thủ của NNT. Tuy nhiên, tác động này sẽ chỉ thực sự được phát huy với điều kiện các đại lý thuế được quản lý chặt chẽ để đảm bảo các hành vi tư vấn để NNT vi phạm luật được kiểm soát và ngăn ngừa có hiệu quả. 2.4.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội Nhóm nhân tố này bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát, tình hình chính trị, ngoại giao… Đây là các yếu tố vĩ mô nên ảnh hưởng
52
đến tính tuân thủ của tất cả các nhóm NNT. Thực tiễn cho thấy, khi nền kinh tế càng phát triển, kéo theo đó là mức sống dân cư tăng thì mức độ tuân thủ thuế có xu hướng tăng. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, tình hình chính trị ổn định sẽ có tác động tích cực đến tính tuân thủ thuế. Ngược lại, sẽ có tác động bất lợi đến tính tuân thủ thuế. Lạm phát cao ảnh hưởng đến thái độ tuân thủ thuế khi nó tác động đến mức sinh lợi của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lạm phát ổn định ở mức hợp lý kích thích sản xuất kinh doanh và tác động đến sự tuân thủ thuế thông qua hiệu ứng thu nhập. Các yếu tố xã hội cũng có ảnh hưởng đến tính tính tuân thủ thuế. Thuộc nhóm này có thể kể đến như: Chuẩn mực xã hội, ảnh hưởng xã hội và trách nhiệm của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội; dư luận xã hội, danh tiếng, vị thế và vai trò của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội. Chuẩn mực xã hội là những tiêu chuẩn hành vi trong tuân thủ thuế do xã hội mong muốn và được chấp nhận chung của đại đa số người trong xã hội. Khi NNT xác định được nhóm xã hội tác động lên hành vi tuân thủ thuế của họ thì chuẩn mực xã hội sẽ tác động lên đạo đức thuế của NNT thông qua ảnh hưởng của xã hội và sự hỗ trợ của xã hội. Có thể nhận thấy rằng, khi con người cảm thấy họ là một cá nhân độc lập với các cá nhân khác thì có thể sẽ thúc đẩy hành vi tư lợi cá nhân; trong khi con người cảm thấy họ là thành viên của một nhóm, một cộng đồng xã hội thì có thể sẽ thúc đẩy hành vi trách nhiệm công dân. Trong cộng đồng đó, sự tuân thủ thuế sẽ phụ thuộc vào ảnh hưởng của xã hội lên nhận thức NNT rằng, hầu hết mọi người đều tuân thủ, chỉ một số người không tuân thủ và hầu hết mọi người là những công dân tốt. Sự tuân thủ sẽ hạn chế khi NNT nhận thức rằng ít người có trách nhiệm công dân. Sự đồng thuận về thuế của một đối tượng sẽ tác động lên chuẩn mực xã hội về sự tuân thủ thuế và tác động đến NNT khác. Theo tâm lý thông thường thì NNT sẽ tuân thủ thuế nếu họ thấy rằng sự không tuân thủ có chi phí cao hơn, có nghĩa là những khoản tiền phạt mà người trả thuế phải gánh chịu trong trường hợp trốn thuế bị phát hiện vượt quá số thuế họ phải nộp. Nhưng trong thực tế, có những trường hợp quản lý thuế yếu hoặc rất tốt nhưng NNT vẫn sẵn sàng nộp thuế hoặc trốn thuế. Điều này có thể không phụ thuộc hoàn toàn vào quản lý thuế mà còn phụ thuộc vào những giá trị xã hội, đạo đức, nhận thức của người dân về tính công bằng và mức độ phức tạp của luật thuế. Hiện nay phần lớn các nước đã chuyển sang áp dụng cơ chế người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Nhưng tính tuân thủ thuế của NNT sẽ không cao nếu như những hoạt động trốn thuế không bị trừng phạt. Chính vì vậy, phải tăng cường các chế tài kiểm tra và xử lý vi
53
phạm. Trong cơ chế này, sự tuân thủ cao của NNT sẽ cao hơn khi các hành vi không tuân thủ bị xử phạt nghiêm khắc. Sự phát triển của các dịch vụ như dịch vụ làm thủ tục về thuế, dịch vụ kế toán, kiểm toán của các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính tuân thủ thuế. Đặc trưng của các dịch vụ này là có tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa. Khi các dịch vụ này phát triển, NNT có nhiều cơ hội sử dụng chúng, có thể tạo điều kiện tiết kiệm chi phí, ngoài ra còn góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế, giảm thiểu các hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế. 2.5. KINH NGHIỆM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.5.1. Kinh nghiệm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở một số nước trên thế giới 2.5.1.1. Kinh nghiệm của Singapore Tự tính, tự khai, tự nộp thuế là một cơ chế được áp dụng ở nhiều nước có nền quản lý thuế hiện đại. Theo phương thức này, NNT tự kê khai, tự tính khoản thuế phải nộp trên cơ sở các kết quả kinh doanh trong kỳ tính thuế và tự thực hiện nộp số thuế đã kê khai vào NSNN. Để vận hành hệ thống này, điểm mấu chốt là yêu cầu sự tuân thủ tự nguyện của NNT. Singapore là một quốc đảo của khu vực Đông Nam Á, sau hơn 10 năm đổi mới, hệ thống quản lý thuế của Singapore là một hệ thống quản lý hiện đại, hiệu quả với tốc độ triển khai công nghệ thông tin hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Theo đó, Cục thu nội địa Singapore (IRAS) luôn là cơ quan đi đầu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công và luôn được NNT đánh giá cao hoạt động của mình. Trong một cuộc điều tra năm 2000, 95% NNT là cá nhân, 83% NNT là DN được hỏi cho biết họ thực sự hài lòng với dịch vụ mà IRAS cung cấp. Các nội dung mà Singapore đã thực hiện hướng tới nâng cao tính tuân thủ của NNT bao gồm [11]: (1) Phân loại, xác định các nhóm tuân thủ và phương châm ứng xử Căn cứ vào mức độ tuân thủ, NNT được chia thành 4 nhóm: 1) nhóm tuân thủ tự nguyện (voluntarily compliant); 2) nhóm chưa nhận thức (unaware); 3) nhóm bất cẩn (negligent); 4) nhóm cố tình không tuân thủ (errant). Ở Singapore, trong số những NNT, nhóm đối tượng tuân thủ tự nguyện chiếm đa số, chỉ một số ít sai phạm do không cẩn thận hoặc chây ỳ khi thực hiện nghĩa vụ thuế. Để nâng cao sự tuân thủ, CQT Singapore xây dựng các phương châm ứng xử đối với từng nhóm
54
khác nhau và tạo ra sức ép đối với các nhóm thiểu số (chưa tuân thủ) bằng các quy tắc nhất định. Nhóm 1 bao gồm những người tuân thủ một cách tự nguyện. Phương châm ứng xử với nhóm này là “hỗ trợ và phục vụ”. CQT chủ động cung cấp các dịch vụ và sự hỗ trợ cần thiết để khuyến khích những đối tượng này tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình. Các hình thức hỗ trợ có thể là dịch vụ điện tử, dịch vụ, cơ chế trả lời tự động… và thông tin qua trang web: “eServices, No-Filing Service, Auto-inclusion Scheme, Frontline services, website information”. Nhóm 2 bao gồm những NNT muốn tuân thủ nhưng cần sự hỗ trợ. Phương châm ứng xử với nhóm này là “giáo dục để ngăn chặn”. CQT Singapore thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để ngăn chặn sự không tuân thủ như áp dụng dịch vụ nhắc nhở qua điện thoại; nói chuyện với các hiệp hội thương mại; trao đổi thông tin công cộng. Nhóm 3 bao gồm những NNT có thể mắc phải những sai sót trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế do không chú ý, thiếu cẩn thận. Phương châm ứng xử với nhóm này là “phát hiện và sửa chữa”. CQT Singapore có các hoạt động nhằm phát hiện và ngăn chặn sự tái phạm các lỗi mà nhóm này thường gặp phải. Trong đó, có các chương trình kiểm toán và chương trình “công khai tự nguyện” để khuyến khích việc sửa các lỗi mắc phải. Chương trình Công khai tự nguyện giúp nhóm này giải quyết những vấn đề về thuế bằng cách khuyến khích họ tiến bộ, thực hiện đúng thời hạn, công khai các lỗi sai hoặc sự bất cẩn. Nhóm 4 bao gồm những NNT gian lận một cách có chủ ý và trốn thuế. Phương châm ứng xử với nhóm này là “phạt và ngăn chặn”. CQT Singapore áp dụng ngay các biện pháp mạnh đối với nhóm này như các hình thức phạt, cưỡng chế, thanh tra và có thể truy tố. (2) Xây dựng khung chiến lược thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện Dựa vào việc phân loại các nhóm NNT theo mức độ tuân thủ, 4 trụ cột chiến lược sẽ đảm bảo kết quả cuối cùng là nhằm tăng cường sự tuân thủ một cách tự nguyện của tất cả NNT. Một mặt, tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho NNT thực hiện nghĩa vụ của mình, mặt khác đưa ra những biện pháp đủ mạnh khác nhau đối với những người cố tình không tuân thủ. Để hình thành một môi trường tuân thủ thuận lợi và có thể khuyến khích những người tuân thủ tự nguyện, các hoạt động của CQT dựa trên 4 trụ cột là hệ thống thuế đơn giản, NNT được thông tin đầy đủ, hệ thống quản lý thuế tin cậy và cộng đồng cam kết.
55
TẦM NHÌN:
- Dẫn đầu thế giới về quản lý thuế - NNT xây dựng đất nước và phát triển kinh tế - Một đội ngũ cán bộ giỏi và người dân cam kết MỤC TIÊU: Đảm bảo sự tuân thủ của tất cả NNT NIỀM TIN: Đa số NNT là những người tuân thủ 4 TRỤ CỘT CHIẾN LƯỢC Hệ thống thuế đơn giản
NNT được thông tin đầy đủ
Hệ thống quản lý thuế tin cậy
Cộng đồng cam kết
KẾT QUẢ: Sự tuân thủ tự nguyện được tăng cường
Sơ đồ 2.2: Khung chiến lược thúc đẩy sự tuân thủ thuế tự nguyện của Singapore Xây dựng hệ thống thuế đơn giản: Một hệ thống thuế đơn giản sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tuân thủ, tối thiểu hóa chi phí tuân thủ. Sự đơn giản và minh bạch cũng làm giảm khả năng/cơ hội gian lận từ hệ thống thuế. Để làm được điều đó, CQT cần thực hiện việc rà soát một cách chủ động để đơn giản hóa các quy trình, thủ tục về thuế để NNT có thể tuân thủ một cách dễ dàng. Giảm thiểu yêu cầu báo cáo và đưa ra nhiều cách thuận tiện hơn để kê khai và nộp thuế cũng khuyến khích sự tuân thủ tốt hơn. NNT được thông tin đầy đủ: NNT khi biết rõ số thuế họ phải nộp là bao nhiêu, thực hiện việc kê khai, nộp thuế như thế nào sẽ có trách nhiệm hơn và có nhiều khả năng thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Để làm được điều đó, CQT cần cung cấp các thông tin một cách chủ động và kịp thời qua nhiều kênh khác nhau. Các thông tin cần dễ hiểu để giúp NNT thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình ngay từ đầu. Cùng với việc cung cấp thông tin hướng dẫn thuế điện tử qua Website được cập nhật liên tục, chính xác; đối thoại với các nhóm NNT mục tiêu; phân loại đối xử thuế; các dịch vụ hỗ trợ nộp thuế cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp. Việc quản lý thuế tin cậy và sự tin tưởng vào CQT: Khả năng của CQT trong việc đảm bảo sự tuân thủ của tất cả mọi NNT là điều cốt yếu để tạo ra sự tin tưởng và của công chúng với CQT. Để có được điều đó, CQT một mặt cần hành động chủ động để khuyến khích sự tuân thủ, duy trì ở mức cao tỷ lệ người tự nguyện tuân thủ thuế thông qua giáo dục, tuyên truyền; mặt khác cần có những hành động nghiêm
56
minh đối với sự không tuân thủ như quy định các hình thức phạt đủ nặng đối với các hành vi vi phạm, truy tố những người có hành vi trốn thuế. Đồng thời, phát triển tốt các năng lực về công nghệ và kỹ năng trong lĩnh vực kiểm toán và thanh tra thuế cũng rất cần thiết để góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thuế tin cậy. Cộng đồng cam kết: Niềm tin của người dân đối với việc nộp thuế là rất cần thiết và hỗ trợ cho CQT rất nhiều trong việc đảm bảo tất cả mọi người đều nộp thuế một cách công bằng. Nó giống như một “cam kết ngầm” về sự tuân thủ. Vì vậy, việc khắc sâu một cảm giác mạnh về sự công bằng và chính đáng của việc nộp thuế là rất cần thiết để tạo dựng lòng tin trong cộng đồng. Ngoài ra, việc phát triển mạng lưới những người cung cấp thông tin rộng rãi hơn cũng như gắn kết các đối tác quan trọng (như như đại lý thuế, hiệp hội thương mại, hiệp hội thuế, các cơ quan khác của Chính phủ) là điều kiện cần thiết để tạo ra một cộng đồng gắn kết và tự nguyện tuân thủ. (3) Triển khai các hoạt động quản lý hướng đến NNT IRAS đã xây dựng chiến lược cải thiện hoạt động của CQT hướng đến NNT, tạo điều kiện cho họ có những hiểu biết về thuế và cung cấp các phương tiện để NNT đơn giản hoá việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Bước đi đầu tiên mà IRAS thực hiện là tăng cường việc kê khai thuế thông qua hệ thống điện thoại và kê khai điện tử. Bằng những nỗ lực trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng cường tuyên truyền, quảng bá về các hình thức kê khai mới, đến nay, hầu hết 100% NNT thực hiện kê khai thuế điện tử. Một bước đi quan trọng nữa mà IRAS đã thực hiện là việc xây dựng hệ thống phân tích thông tin tích hợp để phục vụ công tác tư vấn, hỗ trợ NNT. Sản phẩm của hệ thống này là dịch vụ trả lời điện thoại tự động và dịch vụ tư vấn thuế một cửa. Theo đó, có đến 43% các vấn đề vướng mắc về thuế được giải quyết bằng dịch vụ điện thoại trả lời tự động và NNT có thể sử dụng dịch vụ một cửa để được giải đáp tất cả các vướng mắc về thuế. Thông qua chương trình, kế hoạch phối hợp cung cấp thông tin với các cơ quan khác của Chính phủ, IRAS đang xây dựng chiến lược phát triển với mục tiêu dài hạn là xoá bỏ mọi hình thức yêu cầu NNT phải kê khai thuế, IRAS cùng với các cơ quan của Chính phủ sẽ kiểm soát mọi trường hợp đăng ký kinh doanh, kiểm soát các luồng tiền, thu nhập, từ đó tự xác định nghĩa vụ thuế cho từng NNT. Chính nhờ những bước cải tiến triệt để này mà IRAS đã giúp cho NNT giảm đáng kể chi phí cho việc tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế, từ đó xây dựng và củng cố
57
lòng tin của Chính phủ và người dân vào hoạt động quản lý của mình, tính tuân thủ thuế của NNT vì vậy được nâng cao rõ rệt. 2.5.1.2. Kinh nghiệm của Vương quốc Anh Cơ quan Thu nội địa Vương quốc Anh trực thuộc Bộ Ngân khố (Bộ Tài chính) của Anh, chịu trách nhiệm quản lý thu các loại thuế trực thu. Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế được cơ quan thu nội địa Anh áp dụng từ năm 1996, tác động tới hơn 8 triệu NNT cá nhân, 700.000 tổ chức hợp danh và 300.000 quĩ tín thác. Việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp của CQT đã tăng số thu khoảng 350 triệu Bảng trong năm 1999 - 2000. Đây là kết quả của các giải pháp mà CQT thực hiện nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT. Về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT: Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản của CQT nên được tăng cường cả cán bộ và cơ sở vật chất. Số cán bộ làm công tác này là rất lớn chiếm 28% số cán bộ toàn ngành Thuế và 55% số cán bộ của các cục thuế và chi cục thuế. Tổng số chi cho công tác này chiếm đến 18% tổng số các khoản chi phí cho điều hành thu của cơ quan thu nội địa. Các phòng hỗ trợ NNT rất thuận tiện cho NNT, có nơi đón tiếp, có ghế ngồi chờ, có giá để tài liệu hướng dẫn và tờ khai về nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề và bằng nhiều ngôn ngữ; trang bị một số máy tính nối mạng để NNT có thể truy cập tìm hiểu chính sách thuế. Tính đến tháng 8/2004, toàn ngành Thuế nước Anh có 76.600 công chức nhưng được trang bị đến 90.000 máy tính cá nhân và 3.500 máy in, 750 máy chủ để hỗ trợ NNT. Các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT được tiến hành dưới nhiều hình thức dịch vụ phong phú với phương châm phục vụ khách hàng tốt nhất: Duy trì hệ thống điện thoại hỗ trợ việc tự kê khai, tự nộp thuế (hệ thống này trả lời khoảng 1 triệu cuộc gọi/năm); Tiến hành các chiến dịch tuyên truyền toàn quốc nhằm nâng cao ý thức trong việc nộp tờ khai đúng hạn, cũng như quảng bá cho các dịch vụ internet và dịch vụ hỗ trợ của CQT. Công tác thanh tra cũng được chú trọng với số lượng cán bộ làm công tác thanh tra chiếm khoảng 31% tổng số cán bộ toàn Ngành. Việc thanh tra được thực hiện theo kế hoạch với cơ cấu 40% là khối lượng công việc thanh tra từ CQT trung ương chỉ đạo xuống bên dưới thực hiện, 10% đối tượng thanh tra lựa chọn ngẫu nhiên, 50% đối tượng thanh tra là kế hoạch xây dựng của cục và chi cục. Đối tượng thanh tra do các đội chuyên gia tiến hành đánh giá rủi ro và lựa chọn trên cơ sở sử dụng số liệu tờ khai thuế năm, hệ thống báo cáo tài chính, các thông tin trên hệ thống máy tính, kho dữ liệu lịch sử về đối tượng (kho dữ liệu lưu trữ về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tượng trong 6 năm liên tục); thông tin của các bên thứ ba; phân tích dữ liệu đối với số thuế thu được từ các trường hợp thanh tra đã kết thúc.
58
Cán bộ làm công tác thanh tra thuế của Anh bắt buộc phải được đào tạo qua đại học và phải có 2 bằng: 1 bằng đại học kinh tế hoặc đại học thuế và 1 bằng tốt nghiệp trường luật. Hàng năm đều mở các lớp đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho các ngạch thanh tra viên, thanh tra chính và thanh tra cao cấp. Công tác thu nợ được thực hiện theo phương pháp rủi ro với các tiêu chí tuân thủ về thời gian kê khai, mức nợ thuế, mức thuế năm trước… Trong đó, nếu số tiền nợ nhỏ hơn 100 bảng, có thể tự động bỏ ra khỏi hệ thống thu nợ vì không đáng chi phí thu. Các biện pháp thu nợ mạnh mẽ được áp dụng như là tịch biên tài sản hoặc có thể thực hiện tố tụng. Mục tiêu của CQT là thông qua các hoạt động thu nợ cho phép NNT nộp khoản nợ để tránh việc khởi kiện hay qua các thủ tục tố tụng. Do vậy, CQT cho phép NNT có những thoả thuận trả dần các khoản nợ thuế. 2.5.1.3. Kinh nghiệm của Australia Năm 1994, CQT Australia (ATO) mới chỉ xây dựng và thực hiện chiến lược quản lý thuế cho các DN lớn, các DN nhỏ và những đối tượng nhận tiền lương và tiền công. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2002, ATO đã xây dựng và thực thi chiến lược quản lý thuế theo cấp độ tuân thủ thuế của khách hàng. Thông qua việc chú trọng hơn vào các nhóm khách hàng hợp nhất, ATO tập trung vào việc tìm hiểu nhu cầu và hành vi của DN cũng như các nguyên nhân dẫn đến tình trạng tuân thủ hoặc không tuân thủ luật thuế, từ đó xác định các chiến lược thích hợp nhất cho việc tăng cường tuân thủ luật. Mô hình tuân thủ là một công cụ để hoạch định chiến lược quản lý thuế của ATO. Mô hình này chia NNT theo từng nhóm căn cứ mức độ tuân thủ thuế, từ đó xác định các phương pháp quản lý, đối xử tương ứng của CQT. Mô hình này chỉ sử dụng trong nội bộ, không công bố cho NNT. Việc chia NNT theo các nhóm là vô cùng quan trọng để CQT tìm hiểu hành vi của NNT và có các cách ứng xử khác nhau. Cách ứng xử của CQT theo các cấp độ tuân thủ thuế của DN diễn ra ở tất cả các chức năng quản lý thuế như hỗ trợ thuế, thanh tra thuế, khởi kiện, hình phạt thuế. Mặt khác, quản lý thuế đối với DN ở Australia là quá trình thường xuyên xác định những thay đổi mức độ tuân thủ của một nhóm đối tượng nhằm xây dựng các chiến lược thích ứng với đối tượng. Phân tích xu hướng thay đổi và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng làm giảm hoặc tăng mức độ tuân thủ là điểm mạnh của quản lý thuế ở quốc gia này. Về tuyên truyền và hỗ trợ NNT: Để quản lý NNT theo mức độ tuân thủ, CQT đã thực hiện các biện pháp phổ biến các nội dung tuyên truyền ra bên ngoài qua sách, website, thông tin đại chúng về các cách xử lý, đối xử của CQT đối với từng
59
loại NNT. Những nội dung phổ biến bao gồm cưỡng chế nghiêm khắc, thẩm quyền về thuế có thể tin cậy; quản lý công bằng; tuyên truyền chuyên nghiệp... CQT Australia đã sử dụng các hình thức tuyên truyền hỗ trợ cho các nhóm NNT có mức độ tuân thủ thuế khác nhau như phát hành ấn phẩm cho các đối tượng có hành vi tuân thủ khác nhau qua phân biệt màu sắc và nội dung ấn phẩm. Ngoài ra, CQT Australia có quan hệ chặt chẽ với các trường học nhằm khuyến khích học sinh đăng ký thuế thu nhập cá nhân trước khi đi làm, điều này góp phần xây dựng văn hoá thuế cho người dân ngay trong môi trường học đường. Điểm khác biệt lớn nhất của quản lý thuế ở Australia là tăng cường hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các đại lý thuế nhằm tạo điều kiện cho NNT. Đại lý thuế được cấp giấy phép bởi một tổ chức độc lập là Hiệp hội quản lý các đại lý thuế, cơ quan này phải đăng ký với CQT để được cấp mã số thuế dành cho đại lý thuế. Hiện nay, các đại lý thuế đã chuẩn bị tờ khai thuế cho khoảng 70% NNT. Vì vậy, phần lớn các hoạt động hỗ trợ tuân thủ của CQT là dành cho đại lý thuế như là thiết lập trang Web của CQT dành cho đại lý thuế để các đại lý thuế truy cập vào các thông tin cập nhật về khách hàng tại CQT; hay các chương trình trả dịch vụ điện thoại; các công cụ tự tra cứu; hay các chương trình thuyết trình trực tiếp về các vấn đề kỹ thuật thuế; các thông báo điện tử; trợ giúp người làm thuế chuyên nghiệp. Các sản phẩm hỗ trợ của CQT liên tục được nâng cao trên cơ sở ý kiến phản hồi từ các đại lý thuế. CQT cũng được phép thanh tra các đại lý thuế làm sai quy định. Vì thế, đại lý thuế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các tờ khai thuế của DN chính xác và nộp đúng hạn. Về thanh tra thuế và cưỡng chế thuế: Các hình thức thanh tra thuế linh hoạt tuỳ theo hành vi tuân thủ như xem xét lại lịch sử thuế, lịch sử tuân thủ, lịch sử kinh doanh của DN khi tiến hành thanh tra. ATO cũng tạo điều kiện cho DN tự giác kê khai để giảm số phạt thuế trước khi biện pháp thanh tra được thực hiện. Các giải pháp cưỡng chế thu nợ được dựa trên hai tiêu chí là theo mức nợ thuế và theo mức độ chấp hành nghĩa vụ thuế. CQT liên hệ với DN để tìm hiểu nguyên do, đánh giá lịch sử tuân thủ của DN và hoàn cảnh cụ thể trước khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế, liên hệ với DN để giải thích quan điểm của CQT và gia hạn thời hạn nộp thuế. CQT có quyền ấn định thuế đối với DN kê khai sai nhưng rất ít sử dụng, mọi nỗ lực đều tập trung vào khuyến khích DN kê khai một cách trung thực. Một trong những hình thức đặc biệt mà CQT sử dụng là thiết kế cơ chế thu nộp thuế theo hướng khuyến khích DN kê khai số thuế lớn hơn số thuế thực phải
60
nộp để sau đó thực hiện hoàn thuế. Vì vậy, ở Australia, có đến 83% DN được hoàn thuế. 2.5.1.4. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ Năm 1998, Cơ quan thu nội địa Hoa Kỳ (IRS) theo đuổi chiến lược cải thiện mức độ tuân thủ của DN tập trung vào những phân đoạn thị trường đặc biệt, ban đầu là phân đoạn thị trường theo ngành sản xuất kinh doanh như công nghiệp (xây dựng, giải trí...), kinh doanh bất động sản, sau đó phân đoạn thị trường theo nhu cầu và các thắc mắc về thuế. Đến năm 2000, IRS thực hiện chiến lược quản lý thuế đối với các DN lớn, DN nhỏ, những đối tượng làm công và các DN thuộc đối tượng miễn giảm thuế. Đặc biệt, IRS rất chú ý đến chiến lược quản lý đối với các DN nhỏ. Ví dụ, với chiến lược quản lý tờ khai thuế, IRS có cơ chế đơn giản hoá như cho phép DN nhỏ có giao dịch thuế đơn giản được kê khai thuế qua điện thoại. IRS cũng đã cơ cấu lại quản lý thuế liên bang và bang theo khách hàng để phục vụ những đối tượng DN này. Những sự phân đoạn chiến lược này đã làm gia tăng tỷ lệ tuân thủ tự nguyện do khách hàng thoả mãn rất cao đối với những hành động của CQT. Đối với thanh tra thuế, IRS sử dụng phương pháp hoàn toàn khác với các quốc gia khác trong việc lựa chọn DN thanh tra đó là dựa trên những thông tin mà NNT khai trong bản khai thuế. IRS xác định sự sai lệch trong kê khai của một DN nộp thuế so với mức sai số trung bình của một nhóm NNT được lấy làm mẫu và từ đó thiết kế chỉ số DIF (Discriminant index function) để xác định bản kê khai thuế cần được thanh tra. Với hệ số DIF càng cao thì khả năng bị thanh tra càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, IRS không tiết lộ cấu thành của hệ số DIF. 2.5.1.5. Kinh nghiệm của các quốc gia trong Hiệp hội nghiên cứu và quản lý thuế châu Á Trong quá trình tiến hành cải cách và hiện đại hoá công tác quản lý thuế, các quốc gia trong hiệp hội nghiên cứu và quản lý thuế châu Á (SGATAR), gồm Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippine, Việt Nam, Hồng Kông, Indonesia, Newzeland đều đặt trọng tâm vào việc hiện đại hoá công tác thanh tra thuế. Mục tiêu là hiện đại hoá dựa trên kỹ thuật phân tích quản lý các khả năng thất thu về thuế (còn gọi là quản lý rủi ro) để đổi mới nội dung, phương pháp và tổ chức hoạt động thanh tra, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật ở mức độ cao, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra thuế. Cụ thể như sau:
61
- Cùng với việc tin học hoá ngành Thuế, hệ thống thanh tra thuế được trang bị đồng bộ hệ thống máy tính, khai thác mạng nội bộ, kết nối Internet, kết nối với hệ thống mạng của các cơ quan chính phủ (liên quan đến thanh tra thuế). - Xây dựng hệ thống tích hợp thông tin, dữ liệu từ DN (kê khai thuế, hoá đơn hàng hoá bán ra, báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập) và thông tin bên ngoài (ngân hàng và tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý vốn, cơ quan hải quan, hiệp hội ngành nghề, cơ quan thống kê, cơ quan cảnh sát...). - Xây dựng hệ thống tiêu chí phục vụ kỹ thuật phân tích, đánh giá, quản lý rủi ro. Đồng thời, xây dựng các mô hình đánh giá rủi ro theo loại hình DN, lĩnh vực kinh doanh và sắc thuế. - Đổi mới tổ chức và đào tạo cán bộ thanh tra cùng với đổi mới phương pháp, quy trình và chuẩn hoá nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thuế. - Thiết kế phần mềm ứng dụng hỗ trợ nghiệp vụ thanh tra thuế qua các khâu thu thập dữ liệu, chuyển đổi dữ liệu, phân tích xác định rủi ro, đối chiếu kiểm tra trên máy tính, lựa chọn đối tượng thanh tra và thanh tra kiểm tra tại đơn vị. - Bổ sung, sửa đổi hệ thống luật cho phù hợp với quá trình xây dựng Chính phủ điện tử nói chung và hiện đại hoá ngành Thuế nói riêng. 2.5.2. Các bài học đối với Việt Nam Từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới thành công trong việc nâng cao tính tuân thủ của NNT, có thể rút ra được một số bài học cho Việt Nam trong việc tìm giải pháp nâng cao tính tuân thủ của NNT. Cụ thể: Thứ nhất, trong quản lý thuế, CQT cần có các biện pháp và cách thức khác nhau đối với các nhóm NNT có mức độ tuân thủ thuế khác nhau. Kinh nghiệm các quốc gia nói trên cho thấy, mức độ tuân thủ của NNT khá đa dạng, vì vậy, trong công tác quản lý thuế, cần có các chiến lược quản lý thuế khác nhau đối với các nhóm NNT có mức độ tuân thủ thuế khác nhau nhằm phát hiện và khuyến khích sự tuân thủ thuế một cách tự nguyện và đầy đủ. Thứ hai, cần phát huy vai trò của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, các hoạt động tuyên truyền phải được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú với phương châm phục vụ khách hàng tốt nhất; tiến hành các chiến dịch tuyên truyền toàn quốc nhằm nâng cao ý thức trong việc nộp tờ khai đúng hạn, cũng như quảng bá cho các dịch vụ hỗ trợ NNT. Ngoài ra, nên vận dụng việc lồng ghép đào tạo, phổ biến pháp luật về thuế trong học đường như ở Australia, hỗ trợ người nộp thuế bằng phương thức điện tử và nhắn tin qua điện thoại như Singapore…
62
Thứ ba, phải coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế bằng nhiều biện pháp, chẳng hạn như: Nâng cao tình độ chuyên môn của cán bộ thuế làm công tác thanh tra, hàng năm đều mở các lớp đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho các ngạch thanh tra viên, thanh tra viên chính và thanh tra viên cao cấp; lập kế hoạch thanh tra sát đúng; xây dựng chương trình, hoàn thiện quy trình thanh tra, kiểm tra thuế… Thứ tư, công tác thu nợ thuế được thực hiện hiệu quả theo phương pháp quản lý rủi ro với các tiêu chí tuân thủ về thời gian kê khai, mức nợ thuế, mức thuế năm trước... Các biện pháp thu nợ thuế mạnh mẽ như: Tịch biên tài sản hoặc thực hiện tố tụng chỉ áp dụng trong những trường hợp thật sự cần thiết; có thể thỏa thuận trả dần các khoản nợ. Thứ năm, hiện đại hóa công tác quản lý thuế trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ thông tin gắn với hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật: Tất cả các nội dung, phần hành quản lý thuế phải được trang bị đồng bộ hệ thống máy tính; xây dựng hệ thống tích hợp thông tin; dữ liệu từ DN, cá nhân; xây dựng hệ thống tiêu chí phục vụ kỹ thuật phân tích, đánh giá, quản lý rủi ro; thiết kế phần mềm ứng dụng hỗ trợ nghiệp vụ quản lý thuế… Bên cạnh đó, trong công tác quản lý thuế cần coi trọng và xây dựng hệ thống các đại lý làm thủ tục về thuế để các đại lý này vừa phát huy vai trò hỗ trợ NNT trong quá trình tuân thủ thuế, vừa là cầu nối quan trọng giữa cơ quan thuế với NNT giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế của cơ quan thuế. Thứ sáu, thường xuyên thu thập thông tin về NNT, trong đó, chú trọng các thông tin đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT, tìm hiểu rõ những nguyên nhân, động cơ, mức độ, hành vi không tuân thủ để có biện pháp quản lý phù hợp.
63
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016 3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016
Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2016 trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp. Quá trình phục hồi của nền kinh tế toàn cầu yếu hơn so với dự kiến, tình trạng thất nghiệp cao diễn ra ở nhiều nước. Kinh tế khu vực và thế giới thường xuyên tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Trong nước, kinh tế gặp nhiều khó khăn, những yếu kém nội tại của nền kinh tế dồn tích từ nhiều năm chưa được giải quyết và bộc lộ rõ hơn, kinh tế vĩ mô xuất hiện những yếu tố thiếu vững chắc. Trong khi đó, quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới liên tục đặt ra những thách thức mới. Mặc dù vậy, với những nỗ lực của Nhà nước và cộng đồng DN cũng như toàn xã hội cùng với nền tảng phát triển kinh tế của giai đoạn 2006 - 2010, việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế giai đoạn 2011 - 2016 của Việt Nam vẫn đạt được những kết quả khả quan trên nhiều phương diện như ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu nền kinh tế, cải cách thể chế… Cụ thể như sau: Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá, chất lượng được cải thiện Tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua các năm từ 2011 đến 2016 thể hiện qua Biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng GDP Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 [Nguồn: Tổng cục Thống kê] Tính chung giai đoạn 2011 - 2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 5,86%. Trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi nêu trên, thì có thể nói, đây vẫn là mức tăng tương đối tốt. Hơn thế nữa, xu hướng phục hồi kinh tế trong 3 năm gần đây cũng rõ nét hơn. GDP bình quân đầu người tính theo giá
64
hiện hành đã tăng từ 1.273 USD/người năm 2010 lên 1.517 USD/người năm 2011; 1.748 USD/người năm 2012; 1.907 USD/người năm 2013; 2.052 USD/người năm 2014; 2.109 USD/người năm 2015 và năm 2016 đạt 2.215 USD/người. Tình hình giá cả và tiền tệ được duy trì ổn định Lạm phát được kiểm soát nhờ thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và tài khóa cũng như cơ chế phối hợp linh hoạt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,13% năm 2011 xuống 1,84% năm 2014 (mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua) sau đó tăng dần lên 2,08% trong năm 2015 và 4,74% trong năm 2016. Mặt bằng lãi suất cho vay và huy động giảm, tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng cơ bản được điều hành phù hợp với các diễn biến kinh tế vĩ mô chung. Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng; tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế giảm đáng kể. Xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng tốt Bình quân cả giai đoạn 2011 - 2016, xuất khẩu tăng trưởng khoảng 18%/năm. Riêng năm 2016, kim ngạch xuất khẩu đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, xuất khẩu chủ yếu vẫn nằm ở nhóm DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) khi đạt kim ngạch 125,9 tỷ USD, chiếm 71,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2015. Đến nay, Việt Nam có trên 25 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 8 sản phẩm đạt trên 5 tỷ USD. Về cơ cấu xuất khẩu, tỷ trọng các mặt hàng thô và mới sơ chế giảm mạnh, trong khi tỷ trọng mặt hàng tinh chế tăng lên đáng kể. Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng với kim ngạch ngày càng tăng lên đã củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng. Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt, kể từ năm 2012, đã chuyển sang trạng thái thặng dư sau nhiều năm thâm hụt liên tục (kim ngạch nhập khẩu năm 2016 ước tính chỉ tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước và đạt mức 173,7 tỷ USD). An ninh tài chính quốc gia được đảm bảo Dư nợ công, dư nợ chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia được đảm bảo trong phạm vi cho phép. Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống cơ chế, chính sách về quản lý tài chính công của Việt Nam cũng từng bước được hoàn thiện, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, tiệm cận nhiều hơn với thông lệ quốc tế (thông qua cải cách thuế, cải cách phương thức quản lý ngân sách, quản lý nợ công…). Đến cuối năm 2016, cơ cấu các khoản nợ vay trong nước/vay ngoài nước trong danh mục nợ của Chính phủ khoảng 59%/41%, tăng so với các năm trước (thời điểm cuối năm 2011 là 38,9%/61,1%; năm 2012 là 43,1%/56,9%; năm 2013 là 50%/50%, năm
65
2014 là 55,6%/44,4% và năm 2015 khoảng 57%/43%), phù hợp với mục tiêu đã đề ra, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vay ngoài nước. Huy động các nguồn lực trong và ngoài nước Tiềm lực tài chính quốc gia tiếp tục được tăng cường và củng cố ở cả ba cấp độ tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư. Trong 5 năm 2011 - 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt khoảng 31% GDP; năm 2016, tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt gần 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP. Cơ cấu của các nguồn vốn ngày càng đa dạng, tỷ trọng đầu tư của khu vực nhà nước bình quân chiếm khoảng 39,43% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; đầu tư của khu vực nước ngoài tăng từ 19,1% năm 2011 lên khoảng 23,4% năm 2016. Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Mặc dù kinh tế thế giới chưa ra khỏi khủng hoảng và trì trệ, các nhà đầu tư gặp khó khăn về nguồn vốn, các nước lại cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng trong giai đoạn 2011 - 2016, Việt Nam vẫn cấp giấy phép cho 10.522 dự án. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 6 năm đạt trên 80,4 tỷ USD. Riêng trong năm 2016, Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt 2.556 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,182 tỷ USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Bên cạnh đó, năm 2016, có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5,765 tỷ USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm [25]. Về các mặt xã hội và bảo vệ môi trường, giai đoạn 2011 - 2016, trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dân số, việc làm và giảm nghèo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và các hoạt động văn hóa xã hội khác đều đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững, nâng cao từng bước đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Việc thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước đã giảm bớt khó khăn cho người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Bên cạnh các thành tựu đạt được, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 cũng có một số hạn chế nhất định. Cụ thể: - Các cân đối lớn về kinh tế vĩ mô chưa thực sự bền vững: Từ đầu những năm 2000 đến nay, Việt Nam thường xuyên trong tình trạng tiết kiệm ròng âm và có xu hướng gia tăng. Bội chi ngân sách của cũng có xu hướng tăng và trở nên cao hơn so với các nước trong khu vực, kéo theo sự gia tăng của nợ chính phủ thời gian qua
66
(tuy vẫn nằm trong ngưỡng an toàn theo các mục tiêu đề ra). Điều này đang đặt ra một số thách thức lớn đối với yêu cầu đảm bảo bền vững tài khóa trong trung và dài hạn, nhất là khi áp lực phải tăng chi NSNN đang lớn. Thâm hụt cán cân thương mại những năm gần đây đã dần được cải thiện nhưng vẫn còn thiếu tính bền vững do sự mất cân đối về đối tác thương mại. Nước ta xuất siêu với hầu hết các đối tác thương mại lớn nhưng nhập siêu lớn và kéo dài từ Trung Quốc. Điều này gây ra những rủi ro nhất định khi phụ thuộc quá mức vào một thị trường, đặc biệt khi thị trường đó cung cấp nhiều hàng hóa đầu vào quan trọng cho sản xuất - kinh doanh. - Hiệu quả sử dụng các nguồn lực chậm cải thiện: Cách thức và phương thức phân bổ, sử dụng nguồn lực vẫn còn thiên về phát triển chiều rộng. Nguồn lực tài chính nhà nước chưa phát huy có hiệu quả vai trò “tạo môi trường” để thu hút sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân còn chưa có sự đột phá mạnh nên sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư, phát triển hạ tầng còn hạn chế. Cơ chế xã hội hóa cũng chủ yếu được thực hiện ở một số thành phố lớn. Việc thu hút các nguồn lực bên ngoài còn theo mục tiêu số lượng hơn là chất lượng, chưa chú trọng thu hút vốn đầu tư vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao và hiện đại. - Tăng trưởng kinh tế còn thấp so với tiềm năng: Sự chậm lại về tăng trưởng của nền kinh tế trong 5 năm qua đang đặt ra một số thách thức về khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực. Từ năm 2008, Việt Nam đã chính thức trở thành một trong những quốc gia có thu nhập trung bình, song thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn chênh lệch khá lớn so các nước như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan... - Năng lực cạnh tranh thấp, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho thấy, Việt Nam vẫn luôn nằm trong nhóm gần thuộc nửa cuối của bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều so với các nước ASEAN và còn một khoảng cách rất xa so với khu vực Đông Á. Đến nay, mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn rất thấp. Xuất khẩu vẫn đang dựa vào lợi thế về giá nhân công; chủ yếu gia công cho các tập đoàn, công ty nước ngoài, hàm lượng giá trị gia tăng của xuất khẩu còn thấp. Nhập khẩu cũng đang bộc lộ nhiều vấn đề, nhập khẩu lớn nhưng đóng góp của nhập khẩu trong việc thúc đẩy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn ở mức thấp. Tỷ trọng nhập khẩu từ các nước có trình độ công nghệ thấp có xu hướng tăng. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm so với yêu cầu: Đến nay, cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp. Xét
67
về xu hướng tổng thể, sau một thời gian có sự thay đổi nhanh, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam kể từ năm 2005 đến nay có thể xem là không thay đổi, trong một số năm chỉ là sự hoán đổi về tỷ trọng giữa hai ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát triển còn chậm, tỷ trọng trong GDP của các ngành dịch vụ mang tính chất “động lực” hay “huyết mạch” của nền kinh tế như tài chính - tín dụng còn thấp [45], [1]. Bối cảnh kinh tế - xã hội nêu trên có cả những tác động tích cực và tạo ra cả những khó khăn, thách thức đối với các hoạt động của CQT trong việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Về tác động tích cực: Với trình độ phát triển kinh tế tăng trong thời gian qua tạo ra tiền đề vật chất nâng cao tính tuân thủ của NNT và tiền đề vật chất cho hoạt động QLT của CQT. Đồng thời, sự phát triển của giáo dục và văn hóa cũng góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật nói chung và tuân thủ thuế nói riêng của NNT ở Việt Nam. Về khó khăn, thách thức: Những khó khăn thách thức chủ yếu là: - Cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ những năm qua là sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng NNT. Do vậy, khối lượng công việc quản lý của CQT cũng tăng rất nhiều. Việc nắm bắt đầy đủ sự tuân thủ của NNT ở tất cả các nội dung quy định của pháp luật thuế là một áp lực lớn với CQT. - Cùng với sự mở rộng và gia tăng hoạt động giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế là sự du nhập các thủ đoạn gian lận, trốn thuế, tránh thuế tinh vi. Phát hiện và đấu tranh với các hành vi sai phạm tinh vi này là một thách thức lớn với CQT. - Mặc dù trình độ dân trí và văn hóa của dân cư thời gian qua đã được gia tăng đáng kể nhưng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Việt Nam vẫn chỉ nằm ở nhóm các quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Động lực trốn thuế, tránh thuế của NNT nói chung vẫn khá lớn. 3.2. THỰC TRẠNG TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016
3.2.1. Tổng quan về người nộp thuế ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 Theo số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2007 - 2015, đã có gần 692.000 DN đăng ký thành lập, nâng tổng số DN đã đăng ký thành lập lên khoảng 941.000 DN. Trong tổng số 941.000 DN đã được thành lập kể từ khi có Luật DN đến 31/12/2015, số DN còn hoạt động trong nền kinh tế là khoảng gần 513.000 DN (chiếm 54,5%), khoảng 428.000 DN ngừng hoạt động hoặc giải thể (chiếm 45,5%), trong đó số DN đã giải thể là khoảng 117.000 DN (chiếm 12,5%).
68
Trong năm 2016, tổng số DN thành lập mới và DN quay trở lại hoạt động (gia nhập và gia nhập lại thị trường) của cả nước là 136.789 doanh nghiệp, trong đó có 110.100 doanh nghiệp thành lập mới và 26.689 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động. Cũng trong năm 2016, số DN ngừng hoạt động là khoảng 73.000. Như vậy, tính đến hết năm 2016, số DN đang hoạt động là khoảng 577.000 doanh nghiệp. Đáng chú ý là sau khi tăng trưởng mạnh trong hai năm 2009 - 2010, số lượng DN đăng ký thành lập đã có xu hướng giảm đi và ổn định trong giai đoạn 2011 - 2014, bình quân mỗi năm khoảng 70 nghìn DN thành lập [20]. Đến năm 2016, số lượng DN thành lập mới trong năm đã đạt đến con số kỷ lục khi vượt trên 110.000. Tình hình thành lập, ngừng hoạt động của các DN ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 được thể hiện qua Biểu đồ 3.2 dưới đây.
Biểu đồ 3.2: Số lượng DN đăng ký thành lập và ngừng hoạt động giai đoạn 2011 - 2016 [Nguồn: Báo cáo tình hình DN thường niên năm 2015 - VCCI; Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, Bộ KH&ĐT]. Theo số liệu quản lý của cơ quan thuế, tính đến 31/12 hàng năm trong giai đoạn 2011 - 2016, số lượng DN đang thuộc diện quản lý của ngành thuế cũng có sự thay đổi đáng kể qua các năm. Số liệu cụ thể được thể hiện qua Biểu đồ sau:
69
Biểu đồ 3.3: Tổng số DN ngành thuế đang quản lý tính đến 31/12 các năm giai đoạn 2011 - 2016 [Nguồn: Báo cáo Tổng kết ngành Thuế các năm từ 2011 - 2016; Số liệu khảo sát của Tổng cục Thống kê]. Bảng số liệu và các biểu đồ trên cho thấy, tình hình thành lập và hoạt động của DN Việt Nam đã có những bước tăng trưởng đáng kể trong 3 năm trở lại đây, sau những bước thăng trầm giai đoạn 2010 - 2014. Số lượng DN thành lập mới năm 2016 đã tăng gần 42% so với năm 2011; số lượng NNT đang được quản lý là DN năm 2016 cũng tăng gần 52% so với năm 2011. Điều này một mặt thể hiện xã hội, người dân và cộng đồng DN ngày càng tin tưởng và nhìn thấy nhiều cơ hội kinh doanh từ thị trường. Mặt khác, tình hình này cho thấy môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có những cải tiến đáng kể cho DN khởi nghiệp; Luật DN 2014 cũng đã lan tỏa, tạo luồng sinh khí mới cho môi trường kinh doanh. Ngoài ra, cộng đồng DN Việt Nam hiện nay cũng đánh giá cao việc đào tạo lao động, tính năng động của chính quyền địa phương và dịch vụ hỗ trợ DN. Việc tìm kiếm thông tin thị trường, tư vấn pháp luật và tìm kiếm đối tác đang dần được cải thiện về chất lượng và số lượng, mở ra những cơ hội mới cho DN. Đối với các cá nhân, hộ gia đình, ở Việt Nam từ trước đến nay, số lượng NNT này luôn chiếm tỷ lệ lớn nhưng lại có số thuế đóng góp vào NSNN thấp hơn so với NNT là các DN. Cá nhân, hộ gia đình thực hiện nộp các loại thuế như thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Số lượng hộ gia đình, cá nhân nộp thuế có sự sụt giảm trong mấy năm trở lại đây do có sự thay đổi phạm vi áp dụng của một số sắc thuế khi quy định chỉ thu thuế đối với các cá nhân, hộ gia đình kinh doanh có doanh thu vượt trên 100 triệu đồng/năm. Số lượng cá nhân được cấp mã số thuế TNCN ngày càng tăng. Theo Báo cáo của Tổng cục Thuế, đến hết năm 2011, Tổng cục Thuế đã cấp mã số thuế cho 15.894.719 cá nhân (trong đó, 12.647.786 cá nhân có thu nhập
70
từ tiền lương, tiền công; 3.247.433 hộ gia đình, cá nhân kinh doanh). Năm 2012, cấp mã số thuế TNCN mới cho 15.096.674 NNT. Năm 2013 đã cấp mã số thuế TNCN cho khoảng 18.235.921 cá nhân. Đến năm 2015, khi thực hiện việc đăng ký mã số thuế TNCN qua mạng và cấp mã số thuế cho người phụ thuộc, số lượng cá nhân có mã số thuế TNCN ở Việt Nam đã chiếm phần lớn trong tổng dân cư, bao gồm tất cả cá nhân thuộc diện phải nộp thuế TNCN và các cá nhân thuộc diện người phụ thuộc phải nuôi dưỡng. 3.2.2. Thực trạng tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam Theo quy định của Luật Quản lý thuế, NNT có các quyền và nghĩa vụ nhất định trong tuân thủ thuế. Các nghĩa vụ mà NNT phải tuân thủ được quy định tại Điều 7, Luật Quản lý thuế liên quan đến các nội dung cụ thể về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, thực hiện chế độ kế toán để phản ánh các căn cứ tính thuế, chấp hành quyết định hành chính thuế... Như vậy, khi có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào với các nghĩa vụ thuế nói chung đều cho thấy NNT không tuân thủ thuế ở những mức độ khác nhau. Chỉ khi không có hành vi vi phạm tất cả các quy định của pháp luật thuế thì NNT mới được coi là hoàn toàn tuân thủ thuế. Như đã phân tích tại mục 2.3.1.2 chương 2 Luận án, khi áp dụng phương pháp đo lường là dựa trên số liệu QLT thì chỉ tiêu 1 là chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất mức độ tuân thủ thuế của NNT là “Tỷ lệ giữa số NNT có hành vi vi phạm pháp luật thuế với tổng số NNT đang quản lý hoặc được kiểm tra”. Để có cơ sở đánh giá ở phạm vi toàn quốc cũng như ở từng CQT địa phương, trong hệ thống báo cáo hàng năm phải có yêu cầu báo cáo chỉ tiêu này. Tuy nhiên, cả trong bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá rủi ro mà Bộ Tài chính yêu cầu (Theo Thông tư 204/2015/TT-BTC) và bộ chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế của CQT (theo Quyết định số 688/QĐ-TCT ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tổng cục Thuế) không có chỉ tiêu này. Trong nhóm chỉ số đánh giá cấp chiến lược của bộ chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế của CQT có 4 chỉ số đánh giá tuân thủ của NNT, đó là: (i) Số tờ khai thuế nộp đúng hạn trên số tờ khai thuế đã nộp; (ii) Số tờ khai thuế đã nộp trên số tờ khai thuế phải nộp; (iii) Số tờ khai thuế không có lỗi số học trên số tờ khai thuế đã nộp; (iv) Sự hài lòng của NNT. Vì lẽ đó, để đánh giá tổng quát mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam, NCS chỉ sử dụng được duy nhất một phương pháp là khảo sát bằng bảng hỏi. Để khảo sát về mức độ tuân thủ thuế tổng quát nhất của NNT ở Việt Nam, NCS đã đưa ra giả định “Ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế ở Việt Nam hiện nay không cao” và đề nghị những người được khảo sát (công chức thuế) cho biết ý kiến có đồng tình với nhận định đó hay không, bằng cách cho điểm theo
71
thang điểm 5 mới mức độ đồng tình cao nhất là 5 điểm và hoàn toàn không đồng tình là 0 điểm. Kết quả khảo sát cho thấy, có 78,8% số người được hỏi chọn điểm 5, tức là hoàn toàn đồng tình với nhận định đó; chỉ có 3 người chọn điểm 0, tức là hoàn toàn không đồng tình với nhận định đó; điểm bình quân thu được là 4,38 tính theo thang điểm 5. Điều này cho thấy, theo đánh giá của những công chức thuế được hỏi ý kiến, xét tổng thể, mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam hiện nay không cao. Để thấy rõ hơn thực trạng tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam, cần tìm hiểu mức độ tuân thủ thuế theo các nội dung tuân thủ sau đây: Tuân thủ thuế trong việc đăng ký thuế; tuân thủ thuế trong việc kê khai tính thuế; tuân thủ thuế trong việc nộp thuế; tuân thủ các nội dung khác về thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT. 3.2.2.1. Tuân thủ về đăng ký thuế Đăng ký thuế là bước đầu tiên để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. NNT thực hiện khai báo sự hiện diện của mình và nghĩa vụ phải nộp một (hoặc một số) loại thuế với cơ quan quản lý thuế. Khi đăng ký thuế, NNT kê khai những thông tin của mình theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan quản lý thuế. CQT quản lý NNT thông qua mã số thuế. Mã số thuế được cấp cho tổ chức, cá nhân NNT sử dụng trong suốt quá trình hoạt động, từ khi thành lập cho đến khi chấm dứt sự tồn tại. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Quản lý thuế thì các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình DN đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh và được cấp mã số DN. Mã số DN đồng thời cũng là mã số thuế của DN. Những đối tượng kinh doanh không thuộc diện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và cá nhân làm công ăn lương thì thực hiện đăng ký thuế với CQT và được CQT cấp mã số thuế. Thời gian qua, các thủ tục về đăng ký và cấp mã số thuế đã được CQT cải cách rõ rệt, tạo sự thông thoáng, thuận lợi cho NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhờ những cải cách thủ tục của ngành Thuế, NNT đã chủ động và tự giác hơn trong việc đăng ký thuế. Số lượng NNT đăng ký thuế gia tăng qua các năm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế [48]. Đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên, bên cạnh những cải cách trong việc giảm bớt các thủ tục hành chính của CQT nhằm tạo thuận lợi cho NNT đăng ký thuế thì phải kể đến sự đóng góp của đội ngũ các DN đã và đang hoạt động tích cực, hiệu quả, tự giác tuân thủ thuế. Tuy nhiên, bên cạnh những NNT tuân thủ pháp luật, tự giác đăng ký thuế thì vẫn còn một số NNT không thực hiện tuân thủ các quy định về đăng ký thuế. Sự
72
không tuân thủ trong việc đăng ký thuế của NNT có thể xảy ra dưới các hình thức như việc NNT không thực hiện kê khai thay đổi thông tin đăng ký thuế hoặc kê khai thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký thuế chậm so với thời hạn quy định. Một số cuộc điều tra cho thấy, có những DN sau khi đăng ký kinh doanh đã chuyển địa điểm, trụ sở và hoạt động ngoài vòng pháp luật; không ít DN đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp mã số DN (đồng thời cũng là mã số thuế) nhưng không đi vào hoạt động hoặc bỏ trốn khỏi địa bàn mà CQT không kiểm soát được. Theo số liệu công bố công khai trên website của Tổng cục Thuế, tính đến tháng 3/2017 lũy kế số doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh không làm thủ tục đóng mã số thuế đã là trên 257.000. Theo Phương pháp số liệu QLT thì để đo lường mức độ tuân thủ về đăng ký thuế, cần sử dụng 2 chỉ tiêu là: “Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng phải đăng ký thuế” và “Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số NNT đã thực hiện đăng ký thuế”. Tuy nhiên, tương tự như phần đánh giá tổng quát về mức độ tuân thủ thuế của NNT trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động của CQT hiện hành chưa có quy định về chỉ số này nên hệ thống báo cáo của Tổng cục Thuế hiện không có số liệu để đánh giá. Vì vậy, để đánh giá mức độ tuân thủ về đăng ký thuế, NCS sử dụng Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi đối với công chức thuế. NCS đã thực hiện khảo sát các hành vi không tuân thủ trong đăng ký thuế theo 6 nội dung, bao gồm: (1) Không đăng ký thuế; (2) Không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn; (3) Hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ; (4) Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế; (5) Không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế; (6) Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời. Người được khảo sát tự đánh giá bằng cách cho điểm từ 0 đến 5 với mức độ thường xuyên vi phạm tăng dần. Kết quả khảo sát được thể hiện ở Biểu đồ 3.4 dưới đây. Biểu đồ 3.4 dưới đây cho thấy, đánh giá của cán bộ, công chức thuế và của NNT đã có sự thống nhất cao. Những người được khảo sát đều cho rằng, NNT vẫn còn nhiều hành vi không tuân thủ trong thực hiện đăng ký thuế với CQT với mức độ cao.
73
Biểu đồ 3.4: Tổng hợp kết quả khảo sát về các hành vi không tuân thủ trong đăng ký thuế Về hành vi không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn: Điểm bình quân của CQT là 3,73; còn của NNT là 4,05. Đối với hành vi hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ: Điểm bình quân của CQT là 3,83; trong khi của NNT là 4,14. Đối với hành vi khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế: Điểm trung bình của CQT là 4,54; của NNT là 4,50. Đặc biệt hành vi này có 77,2% cán bộ thuế và 61,6% NNT được khảo sát đánh giá mức độ vi phạm ở mức rất cao (5 điểm). Tương tự, các hành vi không đảm bảo sự tuân thủ như không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế; Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời cũng được đa số cán bộ thuế và NNT cho rằng đang xảy ra ở mức cao và rất cao (4 điểm và 5 điểm: điểm bình quân từ 3,84 đến 4,22). Cũng trong cuộc khảo sát, khi được hỏi về tình trạng tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật thuế về đăng ký thuế của chính DN/bản thân mình, tỷ lệ số NNT tự nhận ở mức trung bình trở lên (3 đến 5 điểm) là 92,9%. Có thể đưa ra được nhận định sơ bộ rằng, những DN, cá nhân tham gia trả lời câu hỏi khảo sát này có ý thức tuân thủ về đăng ký thuế ở mức cao, đồng thời họ vẫn nhận thấy rằng, trong thực trạng chung, tình hình tuân thủ về đăng ký thuế của NNT vẫn rất đáng báo động. Về mức độ tuân thủ đăng ký thuế theo loại hình DN, các cán bộ thuế được khảo sát đã đưa ra các đánh giá của mình theo số lượng và tỷ lệ thể hiện ở Bảng 3.1 sau (điểm số được cho từ 0 đến 5 với mức độ tuân thủ tăng dần): Bảng 3.1: Kết quả trả lời khảo sát về mức độ tuân thủ trong đăng ký thuế của các loại hình NNT
74 Tình hình tuân thủ trong đăng ký thuế (điểm)
Doanh nghiệp nhà nước
DN có vốn NN
DN FDI
DN dân doanh
HT X
Hộ KD
Cá nhân
Khác
0 1 2 3 4 5
0 1 3 39 362 95
0 2 3 81 380 34
0 1 2 58 309 130
1 3 13 198 274 11
0 2 32 364 96 6
1 19 167 296 15 2
12 22 297 171 8 2
2 72 218 183 22 3
Đánh giá theo từng loại hình NNT
Bảng số liệu trên cho thấy, mức độ tuân thủ đăng ký thuế của DN FDI là cao nhất, tiếp đến là doanh nghiệp nhà nước, DN có vốn Nhà nước. Thấp nhất là cá nhân và loại hình NNT khác. Điều này cũng dễ hiểu vì yếu tố đặc điểm của DN (cơ cấu tổ chức, số lượng chủ sở hữu, quy mô hoạt động, thời gian hoạt động kinh doanh, hiệu quả hoạt động kinh doanh...) là một trong những yếu tố có tầm ảnh hưởng quan trọng đến mức độ tuân thủ thuế của NNT. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, với sự thông thoáng của Luật DN và những cải cách trong thực hiện các thủ tục hành chính về thành lập và đăng ký DN cũng như những nỗ lực trong quản lý của CQT, việc tuân thủ thủ tục đăng ký thuế của NNT ở Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt, số lượng NNT được quản lý không ngừng tăng lên qua các năm, góp phần tăng nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hiện tượng không tuân thủ, hiện tượng kinh doanh mà không đăng ký, không thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế mặc dù đã có chiều hướng ít đi nhưng vẫn còn tồn tại. 3.2.2.2. Tuân thủ về kê khai, tính thuế Theo luật định, NNT phải tính số tiền thuế phải nộp NSNN (trừ trường hợp CQT ấn định thuế); phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế với CQT theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế; phải nộp hồ sơ khai thuế cho CQT theo đúng thời hạn quy định, trừ trường hợp đã chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế và trường hợp tạm ngừng kinh doanh. Tình hình chấp hành về thủ tục nộp hồ sơ khai thuế của NNT theo các chỉ tiêu “Tỷ lệ số tờ khai đã nộp so với số tờ khai phải nộp”, “Tỷ lệ số tờ khai nộp đúng hạn so với số tờ khai đã nộp” và “Tỷ lệ số tờ khai không nộp so với số tờ khai phải nộp” ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 được thể hiện qua Biểu đồ sau đây:
75
Biểu đồ 3.5: Tình hình nộp hồ sơ khai thuế giai đoạn 2011 - 2016 [Nguồn: Báo cáo Tổng kết ngành Thuế các năm từ 2011 - 2016]. Qua Biểu đồ trên có thể thấy, tỷ lệ số hồ sơ khai thuế được nộp so với số hồ sơ khai thuế phải nộp đã có sự gia tăng giữa các năm trong giai đoạn 2011 - 2016, tỷ lệ số hồ sơ khai thuế không nộp giảm xuống. Tuy nhiên, tỷ lệ số hồ sơ khai thuế được nộp đúng hạn so với số hồ sơ đã nộp có sự gia tăng trong giai đoạn 2011 - 2013, sau đó lại có xu hướng giảm xuống trong 2 năm 2014, 2015 và đến 2016 lại được nâng lên. Cụ thể tình hình nộp hồ sơ khai thuế các năm như sau: Năm 2011, bình quân chung cả nước, tỷ lệ NNT đã nộp tờ khai đúng hạn trên số NNT phải nộp tờ khai đạt 94% và tăng 11% so với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, thuế GTGT đạt 98% và tăng 10% so với cùng kỳ, thuế TNDN đạt 51% so với số tờ khai phải nộp và tăng thêm 1% so với năm 2010, thuế TNDN tạm tính đạt 80% và tăng 16% [29]. Năm 2012, tổng số tờ khai thuế phải nộp tăng 10% so với năm 2011, tổng số tờ khai đã nộp tăng 13% so cùng kỳ. Đặc biệt, thuế GTGT là loại thuế có số lượng tờ khai thuế lớn, việc khai và nộp tờ khai thuế GTGT đúng hạn, ít sai sót đảm bảo khả năng huy động nguồn thu lớn vào NSNN, cụ thể tổng số tờ khai thuế GTGT phải nộp tăng 7% so với năm 2011, tổng số tờ khai đã nộp tăng 9%. Đối với thuế TNDN, tổng số tờ khai tạm tính phải nộp tăng 20% và tổng số tờ khai đã nộp tăng 27% so với năm 2011 [30]. Năm 2013, tổng số tờ khai thuế cả nước ước đạt 91% so với tổng số tờ khai thuế phải nộp (trong đó tờ khai thuế GTGT đạt 90,2%, thuế TNDN đạt 90%, thuế TTĐB
76
đạt 76%) và tổng số tờ khai thuế đã nộp đúng hạn bình quân đạt 98% tổng số tờ khai đã nộp [31]. Năm 2014, tổng số tờ khai thuế của cả nước đạt 92% trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn/tờ khai đã nộp đạt 95%. Số tờ khai không nộp chiếm 8% tổng số tờ khai phải nộp và giảm 40% so với cùng kỳ năm 2013 [32]. Năm 2015, tổng số tờ khai thuế của cả nước đạt 91% trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn/tờ khai đã nộp đạt 93%. Số tờ khai không nộp chiếm 9% tổng số tờ khai phải nộp và giảm 30% so với cùng kỳ năm 2014 [33]. Năm 2016, bình quân chung cả nước, tổng số tờ khai thuế đạt 93% trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn/tờ khai đã nộp đạt 96%. Số tờ khai không nộp chiếm 7% tổng số tờ khai phải nộp và giảm 20% so với cùng kỳ năm 2015 [34]. Như vậy, trong thời gian qua, cùng với những nỗ lực của ngành Thuế trong cải cách thủ tục hành chính thuế và đổi mới công tác quản lý thuế, ý thức chấp hành pháp luật của NNT ngày càng được nâng cao, việc chấp hành kê khai thuế của NNT có tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng kê khai, thể hiện trên các phương diện cụ thể sau: Số lượng tờ khai phải nộp, đã nộp cũng như đúng hạn tăng lên về mặt số lượng; chất lượng hồ sơ khai thuế cũng được quan tâm hơn. Điều này một mặt do nguyên nhân từ phía NNT khi họ đã nhận thức được rõ ràng hơn nghĩa vụ nộp hồ sơ khai thuế của mình ngay cả khi không phát sinh nghĩa vụ thuế; mặt khác do cơ quan quản lý thuế đã áp dụng nhiều nội dung quản lý từ tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ NNT đến tăng cường đôn đốc, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi không tuân thủ. Bên cạnh đó, còn phải kể đến tác động quan trọng của quá trình cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo điều kiện đơn giản, thuận lợi nhất cho NNT trong quá trình tuân thủ, giảm chi phải tuân thủ… để giúp họ làm tốt hơn nữa nghĩa vụ tuân thủ thuế của mình. Ý thức tuân thủ của NNT trong việc kê khai, tính thuế không chỉ được gia tăng thông qua tỷ lệ các tờ khai thuế nộp đúng hạn mà còn được thể hiện qua sự hưởng ứng và đồng tình của NNT khi hợp tác với CQT để triển khai dịch vụ kê khai thuế qua mạng. Từ năm 2009, ngành Thuế bắt đầu thực hiện thí điểm kê khai thuế qua mạng internet. Trong năm 2016, hệ thống khai thuế qua mạng và dịch vụ nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố, có 566.662 DN tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng, đạt 99,81% [34]. Bên cạnh những NNT thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các qui định về kê khai, tính thuế, vẫn còn không ít các đối tượng ý thức tuân thủ còn thấp. Tình trạng NNT không nộp tờ khai, nộp chậm vẫn còn chiếm tỷ trọng khá cao. Những đối tượng
77
nộp tờ khai đúng hạn nhưng chưa chủ động trong việc kê khai, tính thuế, nộp hồ sơ khai thuế tập trung chủ yếu vào các ngày cận hạn nộp hồ sơ khai thuế đã gây ra tình trạng quá tải cho cán bộ xử lý hồ sơ khai thuế vì không thể cập nhật kịp thời, đúng tiến độ để phản ánh sát thực tình hình nộp hồ sơ khai thuế của NNT. Một số DN chưa ứng dụng chương trình hỗ trợ kê khai mã vạch hai chiều, tập trung ở những vùng miền núi, vùng sâu vùng xa do trang bị máy tính, nối mạng internet còn kém, dẫn đến tình trạng tờ khai sai (lỗi số học) vẫn còn. Mặc dù không tổng hợp được đầy đủ và có hệ thống số liệu phản ánh tỷ lệ hồ sơ khai thuế không có lỗi số học nhưng theo phỏng vấn trực tiếp của NCS thì tỷ lệ hồ sơ khai thuế có lỗi số học không lớn do khi áp dụng kê khai thuế qua mạng hoặc kê khai thuế bằng phần mềm HTKK thì tờ khai lỗi đã được cảnh báo tự động và hướng dẫn NNT cách thức xử lý để đảm bảo việc kê khai đúng quy định của pháp luật. Theo Phương pháp số liệu QLT thì hai chỉ tiêu phản ánh mức độ tuân thủ về tính thuế như đã phân tích ở mục 2.3.1.2 chương 2 Luận án là “Chỉ tiêu 7: Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra” và “Chỉ tiêu 8: Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra”. Tuy nhiên, trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động của CQT cũng không có chỉ tiêu này mà chỉ có chỉ tiêu về số thuế truy thu sau thanh tra, kiểm tra. Bởi vậy, để đánh giá tuân thủ về tính thuế của NNT chỉ có thể sử dụng số liệu về truy thu thuế qua thanh tra, kiểm tra và số liệu khảo sát bằng bảng hỏi. Theo số liệu tại bảng 3.8 chương 3 của Luận án thì trong giai đoạn 2011 2016, mỗi năm toàn ngành Thuế đã thực hiện thanh tra từ khoảng 6.000 DN đến trên 9.000 DN. Số thuế truy thu (do phát hiện hành vi khai thiếu thuế và trốn thuế) tuy tăng không đều nhưng đã tăng từ 3.409 tỷ đồng năm 2011 lên 8.828 tỷ đồng năm 2016. Điều này một mặt phản ánh hiệu quả phát hiện gian lận của công tác thanh tra thuế, song mặt khác cũng phản ánh tình hình tự kê khai, tính toán xác định nghĩa vụ thuế của phần lớn NNT chưa tốt. Qua phỏng vấn trực tiếp công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế, NCS được biết, khoảng trên 95% số NNT được thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT bị phát hiện có kê khai sai hoặc trốn thuế ở những mức độ khác nhau, kể cả những DN được lựa chọn ngẫu nhiên trong số các DN được chấm điểm rủi ro thấp về thuế. Kết quả khảo sát của NCS cho thấy, vẫn còn nhiều NNT có ý thức chấp hành pháp luật thuế chưa cao, đặc biệt là khối DN ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh có hành vi cố tình gian lận trốn thuế. Hiện nay, Việt Nam hiện có gần 97% số lượng DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân, trong đó hầu hết là DN nhỏ và vừa, ngoài ra còn có
78
khoảng 1,6 triệu hộ kinh doanh cá thể hiện đang hoạt động. Mặc dù số lượng nhiều nhưng quy mô lại hầu hết nhỏ và rất nhỏ nên việc quản lý tuân thủ thuế của các DN vừa và nhỏ chưa đạt hiệu quả cao, tỷ trọng số thu NSNN trên một đơn vị DN thấp; vốn ít, trình độ quản lý và tiếp cận công nghệ hạn chế; DN thường bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng và thanh toán tiền mặt; dùng sổ sách kế toán đơn giản hoặc không dùng sổ sách kế toán. Qua nghiên cứu thực tế của các tổ chức trong và ngoài nước, các DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân thường và hộ kinh doanh cá thể có mức độ tuân thủ pháp luật thấp, tuy nhiên chi phí hiệu quả cho việc thực hiện tuân thủ cả về thời gian và tiền bạc thường lại cao hơn các DN quy mô lớn. Qua khảo sát đối với NNT về tự đánh giá mức độ tuân thủ thuế của mình trong việc nộp hồ sơ khai thuế, kê khai các căn cứ tính thuế, nộp hồ sơ khai quyết toán thuế, tuân thủ trong thực hiện hóa đơn, chứng từ và sổ sách kế toán, phần lớn NNT đều tự nhận mình đã tuân thủ ở mức trung bình trở lên. Điều này thể hiện qua bảng 3.2 dưới đây. Bảng số liệu cho thấy, tỷ lệ NNT tự đánh giá mức độ tuân thủ trong nộp hồ sơ khai thuế, kê khai các căn cứ tính thuế, thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, quyết toán thuế của mình đều ở mức khá cao trở lên, với mức điểm bình quân các nội dung thấp nhất là 3,06 và cao nhất là 3,55. Tuy nhiên, tỷ lệ tự cho mình đã tuân thủ đầy đủ nhất các nội dung này (điểm 5) là rất ít (từ 9,2% đến 13,3%). Bảng 3.2: Kết quả trả lời khảo sát về mức độ tuân thủ trong kê khai thuế của NNT Tự nhận xét của NNT Nội dung tuân thủ
Bình quân
0
1
2
3
4
5
Nộp hồ sơ kê khai SL TL thuế
2 0,4%
6 1,1%
139 26%
2 0,4%
11 2,1%
71 13,3 % 61 11,4%
Nộp hồ sơ khai SL TL quyết toán thuế
8 1,5%
42 7,9%
23 4,3%
59 11%
Chế độ hóa đơn, SL TL chứng từ
22 4,1%
60 11,2%
66 12,3 % 57 10,7 % 49 9,2%
3,27
SL TL
243 45,4 % 220 41,1 % 201 37,6 % 174 32,5 % 183 34,2 %
3,55
Kê khai các căn cứ SL TL tính thuế
74 13,8 % 89 16,6 % 79 14,8 % 65 12,1 % 62 11,6%
Chế độ kế toán
152 28,4 % 139 26% 157 29,3 % 159 29,7 %
3,42
3,07 3,06
79
(SL: số lượng NNT cho điểm tương ứng; TL: tỷ lệ người nộp thuế cho điểm tương ứng) Theo kết quả trả lời khảo sát của các cán bộ thuế về mức độ tuân thủ về kê khai thuế nói chung theo loại hình DN, doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ đánh giá mức độ tuân thủ từ trung bình trở lên là 99,2%, tuy nhiên tỷ lệ đánh giá tuân thủ đầy đủ nhất chỉ được 6%. Đối với các DN có vốn nhà nước, các tỷ lệ này được đánh giá lần lượt là 99% và 6,8%; DN FDI: 95,2% và 4,6%. Thấp nhất là cá nhân kinh doanh với các tỷ lệ tương ứng được đánh giá là 21,6% và 0,4%. Như vậy, theo ý kiến của những người được khảo sát, số lượng NNT tuân thủ đầy đủ, chính xác các nội dung quy định về kê khai và nộp hồ sơ khai thuế còn rất thấp. Ngoài ra, trong kê khai, tính thuế, việc không tuân thủ không chỉ thể hiện ở việc NNT không nộp hồ sơ khai thuế hay nộp hồ sơ khai thuế trễ hạn mà còn thể hiện ở việc hồ sơ khai thuế không được kê khai đầy đủ, chính xác theo đúng quy định. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là ở ý thức không tuân thủ pháp luật của NNT. Về các sai sót thường gặp trong kê khai thuế, khảo sát đưa ra 6 nội dung chính để NNT và cán bộ thuế đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 5 theo mức độ vi phạm thường xuyên tăng dần. Các nội dung này bao gồm: (1) Không nộp hồ sơ khai thuế; (2) Không nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn; (3) Hồ sơ khai thuế không đầy đủ; (4) Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế; (5) Không khai bổ sung hồ sơ khai thuế; (6) Các sai sót khác trong kê khai thuế định kỳ. Kết quả khảo sát về đánh giá của cán bộ thuế và NNT đối với các nội dung này được thể hiện qua Biểu đồ sau:
80
Biểu đồ 3.6: Kết quả trả lời khảo sát về các hành vi không tuân thủ trong khai thuế định kỳ của NNT Biểu đồ 3.6 trên cho thấy, phần đánh giá của cán bộ thuế và NNT có sự thống nhất cao với nhau, trong đó chỉ rõ tỷ lệ NNT vi phạm các nội dung liên quan đến nộp hồ sơ khai thuế là rất cao. Đặc biệt là vi phạm khi kê khai không đầy đủ, sai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế, điểm bình quân của cán bộ thuế cho là 4,52; của NNT là 4,46 (cụ thể hơn: có 65,2% số cán bộ thuế và 74,4% NNT được khảo sát cho điểm 5 đối với nội dung này, điểm thể hiện mức độ sai phạm cao nhất). Ngoài ra, với các nội dung khác những người được khảo sát cho rằng mức độ vi phạm cũng rất cao (không nộp hồ sơ khai thuế đúng hạn: 4,01 điểm ở cán bộ thuế và 3,69 điểm ở NNT; hồ sơ khai thuế không đầy đủ, điểm tương ứng là 4,4 và 3,75; không khai bổ sung hồ sơ khai thuế: 4,0 và 3,73...). Về các sai sót thường gặp trong khai hồ sơ quyết toán thuế, khảo sát đã nghiên cứu và đưa ra 5 nội dung và xin đánh giá của cán bộ thuế, NNT về mức độ sai phạm theo thang điểm từ 0 đến 5 (tăng dần theo mức độ vi phạm). Các nội dung này bao gồm: (1) Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế; (2) Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn; (3) Hồ sơ khai quyết toán thuế không đầy đủ; (4) Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế; (5) Các sai sót khác trong hồ sơ khai quyết toán thuế (chỉ khảo sát đối với cán bộ thuế). Kết quả khảo sát các nội dung trên thể hiện qua Biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.7: Kết quả trả lời khảo sát về các hành vi không tuân thủ trong khai quyết toán thuế của NNT Biểu đồ trên cho thấy, theo những người được khảo sát, tất cả các hành vi cụ thể không tuân thủ về kê khai thuế đều ở mức vi phạm cao. Điểm bình quân đối với vi phạm không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn được cán bộ thuế
81
đánh giá là 3,77; trong khi NNT cho điểm bình quân là 3,92. Hành vi khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế được cán bộ thuế cho điểm bình quân là 4,23, trong khi NNT cho điểm bình quân là 4,83. Đặc biệt, hành vi khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế có 67,2% cán bộ thuế và 77,6% NNT được khảo sát đánh giá ở mức điểm 5: mức vi phạm rất cao, rất thường xuyên. Qua tìm hiểu, tổng kết các sai phạm trong khâu kê khai thuế, tình trạng không tuân thủ trong kê khai tình hình, số liệu trong hồ sơ khai thuế của NNT diễn ra khá phổ biến dưới các hình thức chủ yếu sau: [39]. Bỏ ngoài sổ sách kế toán: Đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, NNT thường sử dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản ánh một phần các giao dịch kinh tế để khai thuế. Kiểu hành vi này thường xảy ra ở các DN dân doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng dân dụng và sản xuất nhỏ. Đây chính là một kiểu hoạt động kinh tế ngầm mà môi trường thuận lợi của nó là nền kinh tế tiền mặt. Rất khó có thể xác định được số thuế thất thu do hành vi trốn thuế này gây ra vì nếu xác định được thì đã không xảy ra thất thu thuế. Tạo giao dịch bán hàng giả mạo: Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền NSNN thông qua hoàn thuế hoặc tiếp tay cho hành vi tham nhũng NSNN của một bộ phận công chức được giao nhiệm vụ mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này cũng liên quan đến hành vi giao dịch mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm giúp cho bên mua tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và giảm chi phí tính thuế TNDN. Điển hình cho thủ đoạn này là hành vi xuất khẩu khống nhằm chiếm đoạt tiền qua hoàn thuế GTGT từ NSNN. Xuất khẩu khống chủ yếu diễn ra đối với phương thức xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới. Dạng gian lận này đã có một thời bị ngăn chặn đấu tranh quyết liệt nên giảm bớt nhưng trong vài năm gần đây lại có xu hướng bùng phát với những hình thức tinh vi hơn, đặc biệt có dấu hiệu trầm trọng là ở các tỉnh giáp ranh Campuchia. Lợi dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt để quay vòng hàng hóa, sau khi làm thủ tục xuất khẩu sang nước bạn thì lại đưa hàng hóa quay trở lại Việt Nam không qua cửa khẩu, rồi sau đó lại làm thủ tục xuất khẩu. Trong trường hợp này, các đối tượng cấu kết với đối tác nước ngoài để hoàn tất các thủ tục để đủ điều kiện đề nghị hoàn thuế GTGT. Cùng với đó, các đối tượng này cũng áp dụng chiêu thức mua hóa đơn để hợp thức hóa thuế GTGT đầu vào và chi phí tính thuế TNDN.
82
Ngoài xuất khẩu khống, giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giả mạo còn được thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp đồng cung cấp dịch vụ khống và xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực hiện ở cả DN “ma” và cả ở các DN đang hoạt động kinh doanh bình thường. Tạo giao dịch mua hàng giả mạo: Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao động không có thật; có trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự không làm việc cho DN đó) và thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh doanh khác. Bằng hành vi này, DN không chỉ trốn thuế TNDN mà còn trốn cả thuế GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những hóa đơn đi mua, để phát hiện, CQT phải làm tốt công tác đối chiếu, xác minh. Thực tế thời gian qua, thông qua công tác đối chiếu hóa đơn, CQT các địa phương đã phát hiện khá nhiều trường hợp gian lận. Chẳng hạn, năm 2012, Cục Thuế Hà Nội đã gửi 10.200 phiếu xác minh hóa đơn, gồm 28.444 số; kết quả trả lời xác minh 7.570 phiếu, chiếm 74,21% số phiếu gửi đi. Qua xác minh hóa đơn và thanh tra, kiểm tra, phát hiện 786 hóa đơn vi phạm, truy thu thuế GTGT là 1.198 triệu đồng, thuế TNDN là 1.658 triệu đồng và xử phạt hành vi trốn thuế 646 triệu đồng, xử phạt hành chính 369 triệu đồng [39]. Tuy nhiên, với công nghệ đối chiếu hóa đơn thủ công như hiện nay thì hiệu quả còn rất thấp, bởi vì tỷ lệ hóa đơn có thể đối chiếu so với số hóa đơn cần đối chiếu là quá nhỏ. Hơn nữa, trong trường hợp DN bán hóa đơn sử dụng hóa đơn của những khách hàng không lấy để bán cho những người có nhu cầu mua hóa đơn thì việc đối chiếu cũng không đem lại kết quả. Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ đoạn thành lập DN “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. DN “ma” là DN được thành lập theo quy định của Luật DN nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn trôi nổi này gây ra là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của DN mua bán hoá đơn.
83
Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có hệ thống, tuy nhiên có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các DN “ma” thường thành lập dưới dạng công ty TNHH hay DN tư nhân; chủ DN thường là người có hộ khẩu thường trú ở địa phương khác đến đăng ký thành lập DN, hạn chế về trình độ học vấn, không am hiểu pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn ngắn, trụ sở chật hẹp, tài sản không tương xứng với mô hình tối thiểu của một DN bình thường; đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương mại, dịch vụ tổng hợp, những ngành nghề không cần phải đăng ký vốn pháp định và không bắt buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế thấp, thậm chí có thuế GTGT phải nộp âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn thuế… Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế: Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi này thường gặp ở các DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT và thuế TNDN phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số thu ngân sách hàng năm. Để chống hành vi “down” giá ô tô và xe máy, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 71/2010/TT-BTC hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô, xe hai bánh gắn máy ghi giá bán ô tô, xe hai bánh gắn máy trên hóa đơn giao cho người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để CQT đấu tranh ngăn chặn tình trạng “down” giá nhằm trốn thuế ở hai mặt hàng này. Tuy vậy, còn một số lĩnh vực khác chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu. Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định: Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che giấu doanh thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế TNDN và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng. Khi bị kiểm tra phát hiện, cán bộ kế toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh bị phạt vì hành vi trốn thuế. Kế toán có thể hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. Kế toán có thể hạch toán sai tài khoản kế toán để che giấu doanh thu. Chẳng hạn, khi phát sinh doanh thu bán hàng, lẽ ra phải hạch toán vào tài
84
khoản 511 thì kế toán lại hạch toán vào các tài khoản kế toán khác, như hạch toán vào tài khoản 338, 138... Một số DN nhượng bán, trao đổi vật tư không ghi nhận doanh thu mà chỉ hạch toán thay đổi cơ cấu tài sản lưu động bằng các bút toán nhập, xuất, thu, chi hoặc công nợ phải thu, phải trả; bán phế liệu không xuất hóa đơn, không ghi nhận doanh thu hoặc hạch toán giảm chi phí sản xuất. Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế TNDN và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: Hạch toán toàn bộ chi phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu hao tài sản cố định phúc lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết thời gian khấu hao vẫn trích khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi từ thiện, các khoản chi thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu dùng cá nhân của chủ DN... Kiểu gian lận này chỉ có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy trong đánh giá báo tài chính của DN. 3.2.2.3. Tuân thủ về nộp thuế Theo qui định của pháp luật thuế, NNT ngoài việc tự kê khai, tính thuế còn phải tự nộp thuế vào NSNN. Tuân thủ về nộp thuế bao hàm cả nộp đủ và nộp đúng thời hạn qui định. Theo đánh giá của ngành Thuế, Luật Quản lý thuế ra đời năm 2007 đã góp phần thay đổi cơ bản diện mạo công tác thu thuế, quản lý của CQT, chuyển từ quản lý truyền thống mang tính thủ công sang phương thức quản lý hiện đại theo cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật thuế. Như đã phân tích trong mục 2.3.1.2 chương 2 của Luận án, theo Phương pháp số liệu QLT thì tính tuân thủ về nộp thuế thể hiện ở các chỉ tiêu tỷ lệ số NNT nộp thuế đúng hạn so với số NNT có số thuế phải nộp (Chỉ tiêu 9); Tỷ lệ số thuế đã nộp so với số thuế phải nộp (Chỉ tiêu 10); Tỷ lệ nợ thuế trên tổng thu ngân sách hoặc trên số thuế ghi thu (Chỉ tiêu 11). Tuy nhiên, trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động QLT hiện hành do Tổng cục Thuế ban hành chỉ có chỉ tiêu 11 mà không sử dụng 2 chỉ tiêu 9 và 10 nên trong hệ thống báo cáo của ngành Thuế không có số liệu để đo lường chỉ tiêu 9 và 10. Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục Thuế, tỷ lệ nợ trên tổng thu ngân sách do ngành Thuế quản lý có chuyển biến tốt trong thời gian qua nhưng còn chiếm tỷ lệ khá cao so với tổng thu từ thuế. Tình trạng nợ thuế còn diễn ra khá phổ biến ở
85
nhiều địa phương và nhiều sắc thuế. Tình hình nợ đọng thuế qua các năm 2011 đến 2016 được thể hiện qua Biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.8: Số nợ thuế và tỷ lệ nợ thuế so với tổng thu nội địa tại thời điểm 31/12 các năm từ 2011 - 2016 [Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác Thuế các năm 2011 - 2016 và tính toán của tác giả] Tình trạng nợ đọng thuế của NNT nêu trên một phần có nguyên nhân do gặp khó khăn trong kinh doanh ảnh hưởng tới khả năng nộp thuế, tuy nhiên chủ yếu vẫn là do ý thức tự giác nộp thuế còn thấp, cố tình chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước để làm lợi cho bản thân. Không ít các DN bỏ trốn, mất tích hoặc cố tình kê khai lỗ để trốn thuế. Tình trạng này không những ảnh hưởng tới thu NSNN mà còn làm méo mó cơ chế thị trường, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế, đòi hỏi cơ quan quản lý thuế phải có các biện pháp quyết liệt để giảm bớt tỷ lệ nợ đọng thuế. Kết quả khảo sát do NNT tự đánh giá về ý tuân thủ trong việc nộp thuế của mình được thể hiện qua bảng 3.3 dưới đây (điểm chấm từ 0 đến 5 theo mức độ tăng dần của sự tuân thủ). Bảng 3.3: Kết quả tự nhận xét của NNT về mức độ tuân thủ trong nộp thuế Tuân thu trong nộp thuế của NNT Số lượng Tỷ lệ
Tự nhận xét của NNT (điểm từ 0 đến 5) 0 1 2 3 4 5 2 0,4%
10 1,9%
80 15%
164 30,7%
214 40%
65 12,1%
Bảng số liệu trên cho thấy, theo kết quả tự đánh giá, tỷ lệ số lượng NNT trả lời khảo sát cho rằng mức độ tuân thủ trong việc nộp thuế của NNT đạt từ mức trung bình (3 điểm) trở lên chiếm 92,8%, trong đó mức tuân thủ đầy đủ nhất chỉ chiếm 12,1%.
86
Còn theo các cán bộ thuế được khảo sát, kết quả đánh giá mức độ tuân thủ trong nộp thuế của NNT theo loại hình DN được thể hiện qua bảng 3.4 dưới đây (điểm chấm từ 0 đến 5 theo mức độ tăng dần của sự tuân thủ). Bảng 3.4: Kết quả đánh giá của cán bộ thuế về mức độ tuân thủ trong nộp thuế đối với các loại hình NNT Tình hình tuân thủ trong nộp thuế (điểm từ 0 đến 5)
Đánh giá theo từng loại hình NNT của cán bộ thuế DN nhà nước
DN có vốn NN
DN FDI
DN dân doanh
HT X
Hộ KD
Cá nhân
Khác
0
0
0
1
0
0
0
5
2
1
1
1
0
4
3
18
192
102
2
5
6
16
15
53
293
253
227
3
136
254
268
414
424
177
38
151
4
336
229
195
61
18
11
10
14
5
22
10
20
6
2
1
2
4
Bảng số liệu trên cho thấy, theo đánh giá của các cán bộ thuế được khảo sát thì mức độ tuân thủ trong nộp thuế của các doanh nghiệp nhà nước và DN có vốn nhà nước là cao nhất (tương ứng 71,6% và 47,8%); hộ kinh doanh và cá nhân có tỷ lệ này được đánh giá thấp nhất (đều được 2,4%). Về các sai sót thường gặp trong khâu nộp thuế, khảo sát có đưa ra 5 nội dung chính để NNT và cán bộ thuế đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 5 theo mức độ vi phạm thường xuyên tăng dần. Các nội dung vi phạm đề nghị cho ý kiến gồm: (1) Không nộp thuế; (2) Không nộp thuế đúng thời hạn; (3) Không nộp đủ số thuế đã xác định; (4) Nộp sai mục lục NSNN; (5) Các sai sót khác trong nộp thuế. Kết quả các khảo sát thể hiện ở Biểu đồ 3.9 dưới đây. Biểu đồ này cho thấy, phần đánh giá của cán bộ thuế và NNT cũng có sự thống nhất cao với nhau, trong đó chỉ rõ tình hình NNT vi phạm các nội dung liên quan đến nộp thuế là rất cao. Đặc biệt là hành vi không nộp thuế đúng thời hạn quy định (điểm bình quân của cán bộ thuế đánh giá là 3,9 trong khi NNT đánh giá là 4,18) và không nộp đủ số thuế theo kê khai (điểm bình quân tương ứng là 3,83 và 4,04). Ngoài ra, những người được khảo sát đều cho rằng mức độ vi phạm về các nội dung khác đều ở mức khá cao.
87
Biểu đồ 3.9: Kết quả khảo sát về các hành vi không tuân thủ trong nộp thuế của NNT Rõ ràng, thực trạng tuân thủ của NNT trong khâu nộp thuế là đáng báo động. Điều này một mặt do nguyên nhân khách quan mang lại, khi mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN chưa cao, khả năng thanh toán của DN chưa tốt, công nợ lớn, liên hoàn với nhau rất khó tháo gỡ. Mặt khác ý thức chung của NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước còn thấp, còn tìm cách trì hoãn, chiếm dụng vốn của nhà nước. Chính sách khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ đối với NNT trong thời gian qua nhằm tạo điều kiện cho nhiều DN cũng có những tác động tiêu cực khi DN cố tình dây dưa và chờ đợi chính sách này của Nhà nước. 3.2.2.4. Tuân thủ các quy định khác về thuế Bên cạnh các nghĩa vụ chính mà NNT tuân thủ nêu trên như: Đăng ký thuế, khai thuế, tính thuế (bao gồm cả việc thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ, hạch toán kế toán) và nộp thuế, NNT còn phải tuân thủ thêm các nội dung khác như cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu khi CQT có yêu cầu, chấp hành đầy đủ kịp thời các quyết định hành chính thuế (ấn định thuế, thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế thuế...). Tại phiếu khảo sát, NCS đã đề nghị người được khảo sát cho điểm đối với 11 nội dung liên quan đến việc chấp hành các nội dung tuân thủ khác của NNT theo thang điểm từ 0 đến 5 (mức độ thường xuyên của sai sót tăng dần). Các nội dung này bao gồm: (1) Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định; (2) Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định; (3) Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho CQT khi có yêu cầu; (4) Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của CQT; (5) Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của CQT; (6) Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của CQT; (7) Chưa
88
tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của CQT; (8) Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của CQT; (9) Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của CQT; (10) Không tuân thủ quy định về kê khai giao dịch liên kết và vi phạm các quy định về kiểm soát chuyển giá; (11) Cố tình gian lận, trốn thuế. Trong đó, các nội dung (10), (11) chỉ thực hiện khảo sát đối với cán bộ thuế. Kết quả khảo sát được thể hiện qua Bảng 3.5 dưới đây. Bảng 3.5: Kết quả đánh giá về mức độ tuân thủ các nội dung khác của NNT Đánh giá trung bình của CQT theo điểm
Đánh giá trung bình của NNT theo điểm
Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định
4,19
4,56
Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định
4,23
4,62
Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho CQT khi có yêu cầu
4,17
4,56
Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của CQT
3,61
4,14
3,23
3,97
3,18
3,89
3,16
3,92
3,18
3,87
Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của CQT
3,12
3,52
Không tuân thủ quy định về kê khai giao dịch liên kết và vi phạm các quy định về kiểm soát chuyển giá
3,53
Cố tình gian lận, trốn thuế
4,24
Nội dung
Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của CQT Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của CQT Chưa tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của CQT Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của CQT
Không khảo sát
Bảng số liệu 3.5 cho thấy, cả cán bộ thuế và cả NNT được khảo sát đều cho rằng NNT có các sai phạm với mức độ cao và rất cao ở tất cả các nội dung nêu trên. Đặc biệt 3 nội dung đầu “(1) Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định; (2) Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định và (3) Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho CQT khi có yêu cầu” đều có tỷ lệ đánh giá cao nhất nằm ở điểm 5 (mức độ sai phạm cao nhất, thường xuyên nhất) với điểm bình quân cho hành vi này được cán bộ thuế đánh giá lần lượt là 4,19; 4,23; 4,17. Trong khi đó, điểm bình quân của NNT đánh giá cho các hành vi này lần lượt là: 4,56; 4,62 và 4,14. Còn theo nhận định của các cán bộ thuế được khảo sát, thì số điểm bình quân
89
đối với hành vi “Cố tình gian lận, trốn thuế” là 4,24 (trong đó, tỷ lệ đánh giá ở mức rất cao - điểm 5, chiếm cao nhất với mức 65,8%). Điều này cho thấy, một thực trạng rất đáng báo động về ý thức tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và CQT đã nhận thấy khá rõ thực trạng này. CQT đã có nhiều giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất thực trạng không tuân thủ nêu trên. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp đó đang thuộc về hoạt động quản lý của CQT, là một trong những nguyên nhân chủ yếu tác động đến ý thức tuân thủ thuế của NNT. Còn bản thân NNT, việc nhận thức đúng đắn và tuân thủ đầy đủ nhất các quy định của pháp luật thuế mặc dù đã có chuyển biến nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục thực hiện. Việc cung cấp các tài liệu cho CQT không đầy đủ, chính xác (nhất là số tài khoản ngân hàng để CQT thực hiện các biện pháp cưỡng chế NNT cung cấp thường là tài khoản trống, trong khi đó họ lại sử dụng số tài khoản khác để giao dịch...), việc cố tình vi phạm các quy định về hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán... vẫn còn phổ biến (như phần trên đã đề cập). Điều này đã gây nên những tác động tiêu cực đối với hiệu quả quản lý thuế, tính nghiêm minh của pháp luật thuế và sự công bằng trong tuân thủ thuế của NNT. 3.2.3. Đánh giá chung về thực trạng tuân thủ ở Việt Nam giai đoạn 2011 2016 Qua các phân tích về thực trạng tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 nói trên, có thể rút ra một số nhận xét chủ yếu về tình hình này như sau: 3.2.3.1. Những ưu điểm về tuân thủ thuế của người nộp thuế Thứ nhất, nhận thức về nghĩa vụ tuân thủ thuế của NNT đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực. Để có được sự tuân thủ kịp thời, đầy đủ các quy định của pháp luật thuế, trước hết NNT phải hiểu, nắm được các nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện và tuân thủ thuế. Thời gian qua, có thể nói, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa của chính sách thuế và việc tuân thủ chính sách thuế đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, đối với nguồn thu NSNN cũng như nhận thức về quyền và nghĩa vụ của mình ở NNT đã được nâng lên rõ rệt. NNT đã hiểu được rằng, chính sách thuế là một trong những chính sách quan trọng của Nhà nước hướng tới các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội; nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi NNT. Để có có thêm cơ sở cho việc đánh giá nhận thức của NNT trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật thuế, NCS đã đề nghị người được khảo sát cho ý kiến với các nhận định sau:
90
(1) Tất cả các DN, người kinh doanh phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước; (2) NNT phải khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn; (3) Trách nhiệm của NNT là phải nộp đầy đủ, chính xác và kịp thời số thuế của mình vào NSNN; (4) NNT phải chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật; (5) NNT phải cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế; (6) NNT phải chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật; (7) NNT có quyền yêu cầu CQT hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế; (8) Việc tuân thủ thuế đầy đủ sẽ đem lại nhiều quyền lợi hơn cho DN; (9) Mọi hành vi không tuân thủ thuế sớm hay muộn cũng sẽ bị phát hiện và xử lý; (10) DN khôn ngoan nhất là không bao giờ vi phạm pháp luật về thuế. NNT được khảo sát cho biết ý kiến đánh giá của mình đối với các nhận xét trên theo điểm số từ 0 đến 5 theo mức độ đồng ý tăng dần. Kết quả khảo sát thể hiện trên Biểu đồ 3.10 dưới đây. Biểu đồ này cho thấy, đa số NNT đều đã có nhận thức đúng đắn về quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thực thi và tuân thủ thuế. Các nội dung từ (1) đến (8) đều có điểm bình quân trên 4,7 (với tỷ lệ trên dưới 90% thể hiện sự đồng ý hoàn toàn đối với các nhận xét đưa ra - điểm 5). Tuy nhiên, nội dung (9) với nhận xét cho rằng, Mọi hành vi không tuân thủ thuế sớm hay muộn cũng sẽ bị phát hiện và xử lý chỉ có điểm bình quân là 4,27 (với 42,8% hoàn toàn đồng ý - điểm 5, còn 48,2% đồng ý ở mức điểm 4). Nội dung (10) với nhận xét DN khôn ngoan nhất là không bao giờ vi phạm pháp luật về thuế chỉ có điểm bình quân là 4,29 (với 43,2% cho điểm 5, còn 49,3% cho điểm 4). Điều này có thể đưa đến nhận xét là, hành vi không tuân thủ thuế có thể sẽ không được phát hiện và xử lý triệt để cho nên NNT vẫn tìm cách vi phạm pháp luật thuế để tối đa hóa lợi ích của mình.
91
Biểu đồ 3.10: Kết quả khảo sát ý kiến của NNT liên quan đến tuân thủ thuế Như vậy, mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ, nhưng những nhận thức nói trên của NNT về tuân thủ thuế đã có những chuyển biến tích cực. Các nhận thức này không phải lúc nào cũng thường trực trong bản thân mỗi NNT, mà nó được hình thành dần qua quá trình nhận thức dưới sự phát triển về kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, sự tuyên truyền, hỗ trợ của CQT… Trong giai đoạn 2011 - 2016, sự chuyển biến về nhận thức của NNT trong lĩnh vực này được coi là một thành công quan trọng trong quá trình cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế ở Việt Nam. Thứ hai, đa số NNT đã tuân thủ các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: - Tuân thủ nghĩa vụ đăng ký thuế: Mức độ tuân thủ nghĩa vụ đăng ký thuế đã có chuyển biến tích cực trong giai đoạn 2011 - 2016, đặc biệt là trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư), số DN đăng ký thành lập năm 2016 trên cả nước đạt kỷ lục cao chưa từng có là 110.100 đơn vị, tăng 16,2% so với năm 2015. Số vốn cam kết đưa vào thị trường của số DN này là 891.094 tỉ đồng, đạt
92
bình quân 8,09 tỉ đồng mỗi DN, tăng 48,1% so cùng kỳ năm 2015. Ngoài ra, cùng thời gian trên, số DN quay trở lại hoạt động là gần 26.700 doanh nghiệp, tăng 43,1% so với cùng kỳ năm 2015. Theo cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh, các DN mới thành lập đã đăng ký tạo việc làm cho gần 1,3 triệu lao động. - Tuân thủ nghĩa vụ kê khai thuế, tính thuế: Xét trên tổng thể, việc tuân thủ trong thực hiện khai thuế, tính thuế ở Việt Nam thời gian qua cũng có sự tiến bộ. Số lượng tờ khai phải nộp, đã nộp, nộp đúng hạn đã tăng lên cả về mặt số lượng và chất lượng thể hiện ý thức chấp hành kê khai thuế của NNT được nâng lên rõ rệt. Biểu đồ 3.5 ở trên đã cho thấy được điều này. - Tuân thủ nộp thuế của NNT: Mặc dù số thuế nợ lũy có xu hướng tăng song phần lớn do tác động từ tình hình khó khăn của nền kinh tế gây ra. Nhưng nhìn chung, cùng với các biện pháp tăng cường quản lý thu nợ thuế của cơ quan thuế, ý thức tuân thủ trong nộp thuế của NNT cũng đã có những chuyển biến tích cực. Thể hiện rõ nhất là ở tốc độ tăng nợ thuế qua các năm từ 2011 đến 2016 đã có xu hướng giảm: năm 2011 tăng 34,5% so với năm 2010, năm 2012 tăng 38,1% so với năm 2011, năm 2013 tăng 37,3% so với năm 2012, năm 2014 tăng 10,5% so với năm 2013, năm 2015 tăng 0,4% so với năm 2014, năm 2016 giảm 2% so với năm 2015 [Một số kết quả trong công tác cải cách quản lý thuế giai đoạn 2011 - 2015, Website Tổng cục Thuế, ngày 4/2/2017]. - Tuân thủ các quy định khác của pháp luật thuế: + Trước hết, NNT đã tuân thủ các quy định về khai thuế và nộp thuế điện tử. Đến nay, hầu hết các DN đã thực hiện khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử tại 63/63 cục thuế và gần 700 chi cục thuế trên phạm vi toàn quốc. Ngành Thuế cũng đã triển khai hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) và nhận được sự đồng thuận của NNT. Nhiều cục thuế đã tổ chức tốt công tác triển khai và có số lượng lớn DN trên địa bàn thực hiện khai thuế qua mạng đạt tỷ lệ 100%. Đồng thời, ngành Thuế đã ký kết thoả thuận với 45 ngân hàng thương mại để triển khai nộp thuế điện tử tại 63 địa phương trong cả nước, tính đến ngày 31/12/2016, 97,06 % DN đã đăng ký nộp thuế điện tử, số tiền đã nộp NSNN từ 01/01/2016 đến 31/12/2016 là trên 492.000 tỷ đồng [34]. + Việc tuân thủ về chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ cũng có những chuyển biến nhất định. Hiện nay, 100% các DN đã thực hiện chế độ kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định. Mặc dù không phải NNT nào cũng thực hiện đầy đủ, đúng đắn các nội dung của công tác kế toán, hóa đơn chứng từ, nhưng xét về tổng thể, số lượng NNT tuân thủ và chất lượng tuân thủ đã có những tiến bộ rõ rệt. Các
93
vụ việc gian lận trong hóa đơn chứng từ, sổ sách kế toán đã giảm nhiều so với giai đoạn 1999 - 2010 khi Việt Nam thực hiện thuế GTGT trong thời gian đầu. + NNT đã thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời hơn cho CQT. Đây cũng là một tiền đề quan trọng để ngành Thuế xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về NNT, phục vụ cho công tác quản lý của ngành, nhất là thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho NNT trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tuân thủ thuế của mình. Ngoài ra, các nội dung về chấp hành các thủ tục thuế, chấp hành các quyết định hành chính thuế của NNT trong thời gian qua cũng có nhiều tiến bộ, nhất là các quyết định xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra thuế, các quyết định cưỡng chế thuế... Điều này thể hiện rõ hơn tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế thông qua việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. 3.2.3.2. Những hạn chế trong tuân thủ thuế của người nộp thuế Qua những kết quả đạt được nêu trên, có thể nhìn thấy những bước tiến trong công tác quản lý thuế nói chung cũng như tính tuân thủ tự nguyện của NNT nói riêng. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận chi tiết, đầy đủ hơn các nội dung tuân thủ thuế của NNT trong thực trạng tuân thủ thuế, ta cũng có thể nhìn thấy những hạn chế về tuân thủ thuế của NNT. Cụ thể như sau: Thứ nhất, xét một cách tổng quát thì mức độ tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình. Từ kết quả khảo sát của NCS có thể thấy, nếu phân loại NNT theo ATO thì tỷ lệ NNT sẵn sàng tuân thủ không cao, tỷ lệ NNT nằm trong nhóm chỉ tuân thủ khi được CQT quan tâm khá lớn. Chẳng hạn như, với những yêu cầu về nộp tờ khai thuế thì ít NNT vi phạm vì hành vi vi phạm này dễ dàng bị phát hiện và xử phạt do hệ thống quản lý kê khai của CQT thời gian qua đã vận hành rất tốt, đặc biệt là với sự vận hành của Hệ thống TMS. Trong khi đó, tuân thủ về tính thuế của NNT chưa tốt. Kết quả thanh tra, kiểm tra thuế thời gian qua là minh chứng rõ nét cho điều này. Theo đó, trên 95% số NNT được thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT bị phát hiện có vi phạm ở những mức độ khác nhau, trong đó, phần lớn là hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp. Thứ hai, tính tuân thủ thuế của NNT không đồng đều giữa những nhóm NNT khác nhau và ở những địa phương khác nhau. Trong đó, đặc biệt đáng chú ý là tỷ lệ vi phạm pháp luật thuế cao của nhóm các DN dân doanh và hộ kinh doanh cá thể. Thứ ba, vẫn còn tình trạng NNT không tuân thủ các quy định về đăng ký thuế. Một số NNT không thực hiện kê khai đăng ký thuế, hoặc kê khai thay đổi thông tin đăng ký thuế chậm so với thời hạn quy định, không thực hiện khai báo khi thông tin đăng ký thuế thay đổi, nhất là khu vực dân doanh. Không ít DN đã được cấp giấy
94
phép đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế nhưng không đi vào hoạt động, hoặc thay đổi chức năng hoạt động nhưng không đăng ký lại... Thứ tư, hiện tượng không nộp, nộp muộn hồ sơ khai thuế; sai sót, nhầm lẫn, gian lận trong kê khai, tính thuế vẫn còn nhiều. Số lượng NNT không nộp tờ khai thuế các năm vẫn còn ở mức cao (gần 10%), trong số NNT có nộp tờ khai thuế thì số lượng nộp chậm so với thời hạn quy định cũng còn chiếm tỷ lệ không nhỏ (từ 3% đến 20%). Ngoài ra, một bộ phận NNT chưa thực sự tự giác tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, họ cố tình gian lận thuế với các hành vi, thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp. Thứ năm, mức độ tuân thủ về nộp thuế chưa tốt thể hiện ở tỷ lệ nợ thuế còn khá cao so với tổng thu từ thuế. Mặc dù trong thời gian qua, ở một số địa phương, một số sắc thuế đã có những tiến bộ trong quản lý và đôn đốc thu nợ thuế, giảm số tiền thuế nợ, nhưng xét trên tổng thể, tổng số NNT còn nợ thuế và số tiền thuế nợ thời gian qua vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn và không ngừng tăng lên qua các năm. Việc nợ thuế là khó tránh khỏi vì những rủi ro nhất định trong sản xuất kinh doanh của NNT như phá sản, giải thể, khó khăn về tài chính. So với mục tiêu quản lý nợ của ngành Thuế là khống chế tỷ lệ nợ thuế không vượt quá 4% tổng số thu ngân sách hàng năm thì mức nợ thuế nêu trên là rất đáng báo động. Thứ sáu, các quy định khác của pháp luật thuế vẫn chưa được NNT tuân thủ đầy đủ theo yêu cầu. Như đã phân tích trong phần thực trạng, tình trạng không tuân thủ chế độ kế toán, thống kê; các quyết định hành chính thuế; cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho CQT mặc dù đã có những tiến bộ, nhưng so với yêu cầu đặt ra, sự tuân thủ của NNT về vấn đề này vẫn chưa đáp ứng được. Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, có thể thấy ý thức tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian qua mặc dù đã có những tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. 3.3. THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2016
3.3.1. Thực trạng chính sách, pháp luật thuế và tác động đến tuân thủ thuế của người nộp thuế 3.3.1.1. Bổ sung, hoàn thiện Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành Trước khi có Luật Quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế, các thủ tục về thuế được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về thuế, không thống nhất và thiếu tính pháp lý. Điều này không chỉ gây khó khăn cho CQT trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế mà còn cản trở lớn đến việc tuân thủ thuế của NNT. Trong
95
điều kiện đó, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 được ban hành ngày 28/11/2006, có hiệu lực từ 01/7/2007 nhằm quy định tất cả các nội dung về quản lý thuế vào trong một luật để đảm bảo tính pháp lý và tính thống nhất của các quy định về công tác quản lý thuế ở Việt Nam. Luật Quản lý thuế còn được tiếp tục hoàn thiện thông qua quá trình sửa đổi, bổ sung theo các Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016. Luật Quản lý thuế được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho NNT nộp đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào NSNN và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế; quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của NNT, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế. Đồng thời, Luật được ban hành nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế. Luật Quản lý thuế được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật lúc bấy giờ về quản lý thuế để quy định thống nhất trong Luật Quản lý thuế chung, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách quản lý thuế trong những năm tới. Đồng thời, Luật đã tham khảo và tiếp cận với những kinh nghiệm quản lý thuế của các nước tiên tiến, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Luật đã góp phần tạo hành lang pháp lý cho đổi mới phương thức quản lý thuế từ cơ chế chuyên quản, NNT thụ động trong thực hiện nghĩa vụ thuế sang cơ chế NNT chủ động trong việc xác định đúng số thuế phải nộp, thực hiện nộp thuế đúng thời hạn cũng như xác định các ưu đãi thuế, quyền lợi về thuế của mình, thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật thuế, kiểm tra, thanh tra bảo đảm tuân thủ thuế. Ngoài ra, Luật Quản lý thuế còn phải đảm bảo tính thống nhất với các Luật khác có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Hải quan, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính... Đặc biệt, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế và Luật Quản lý thuế đã bổ sung một nguyên tắc quan trọng về quản lý thuế, đó là “Ứng dụng quản lý rủi ro vào quản lý thuế”. Trên cơ sở đó, ngày 21/12/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 204/2015/TT-BTC quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Thông tư này quy định về việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế của CQT các cấp để đánh giá việc tuân thủ thuế đối với NNT trong các nghiệp vụ quản lý thuế ở tất cả các khâu, gồm: Đăng ký thuế; khai
96
thuế; nộp thuế; nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; hoàn thuế; kiểm tra; thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý và sử dụng ấn chỉ thuế và các nghiệp vụ quản lý thuế khác trong quá trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ. Các nội dung liên quan đến quản lý rủi ro được quy định trong Thông tư bao gồm: Thu thập, xử lý, quản lý sử dụng thông tin, dữ liệu liên quan về NNT; ban hành bộ tiêu chí quản lý thuế và tổ chức đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ thuế đối với NNT đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong từng thời kỳ; áp dụng các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế đối với NNT tương ứng với mức độ rủi ro của NNT. Với việc xếp những NNT chấp hành tốt pháp luật thuế vào nhóm rủi ro thấp và được hưởng nhiều ưu đãi và thuận lợi hơn trong các thủ tục về thuế, việc ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào quản lý thuế không chỉ tạo cơ sở nâng cao hiệu quả quản lý thuế mà còn góp phần thúc đẩy NNT tuân thủ thuế tốt hơn. Qua 10 năm triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Quản lý thuế cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó, nổi bật là các nội dung sau: - Cải cách thủ tục hành chính thuế, thống nhất các quy định về thủ tục và quản lý thuế từ các luật thuế khác nhau, tạo ra một hệ thống pháp luật về quản lý thuế đồng bộ, công khai đối với NNT, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT khi thực hiện tuân thủ nghĩa vụ thuế. Việc quy định cụ thể thủ tục thuế còn tạo cho DN chủ động trong việc tính và khai thuế, chủ động xác định nghĩa vụ thuế trong kế hoạch kinh doanh của DN để lựa chọn phương án kinh doanh đạt hiệu quả cao. - Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của NNT thông qua nguyên tắc tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Luật Quản lý thuế quy định cụ thể việc khai thuế, nộp hồ sơ, tính thuế, xác định ưu đãi thuế dễ tiếp cận giúp DN thực hiện tốt nghĩa vụ thuế với chi phí và thời gian phù hợp giúp DN tận dụng và khai thác các nguồn lực cho hoạt động kinh doanh. Điều này đã giúp DN tiết kiệm được thời gian và chi phí trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự tuân thủ thuế một cách tự nguyện ở tất cả NNT. Các quy định này cũng đã bảo đảm tính minh bạch của hệ thống pháp luật; hạn chế việc áp dụng tùy tiện các thủ tục về thuế ngăn chặn được các hành vi cán bộ quản lý thuế gây khó khăn cho DN. - Luật Quản lý thuế quy định rõ ràng, chi tiết, đầy đủ về trách nhiệm, quyền hạn cũng như chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể liên quan đến công tác quản lý thuế, từ đó, giúp cho các chủ thể này nắm rõ được những nội dung công việc và yêu cầu đặt ra để có thể tuân thủ tốt pháp luật thuế. Đồng thời, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xem xét, đánh giá mức độ tuân thủ của các đối tượng liên quan trong quản lý thuế, phục vụ cho việc chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp quản lý. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế.
97
- Tạo hành lang pháp lý, quy định xử lý vi phạm pháp luật về thuế nhất quán, bước đầu đã tạo điều kiện công bằng cho NNT. Từ đó, thúc đẩy nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Bên cạnh những kết quả đạt được và những tác động tích cực nêu trên, hành lang pháp lý về quản lý thuế vẫn còn những hạn chế nhất định có ảnh hưởng không tốt đến hành vi tuân thủ của NNT. Cụ thể là: - Trình tự thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế vẫn còn khá cứng nhắc nên không phát huy tốt hiệu quả của những biện pháp cưỡng chế nợ thuế phù hợp nhất với những NNT nhất định. - Thông tư 204/2015/TT-BTC quy định chung về ứng dụng quản lý rủi ro vào quản lý thuế ở tất cả các khâu của quá trình quản lý thuế. Trong thông tư này cũng quy định, Tổng cục Thuế phải tham mưu để Bộ Tài chính cụ thể hóa các chỉ tiêu, chỉ số nhằm áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro cho từng lĩnh vực quản lý thuế cụ thể. Tuy vậy, công tác tham mưu ban hành các chỉ tiêu và chỉ số rủi ro này còn rất chậm, không đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý. Vì lẽ đó, kỹ thuật quản lý rủi ro chưa được áp dụng đầy đủ và toàn diện ở tất cả các khâu của quá trình quản lý thuế. 3.3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm về thuế Như đã phân tích ở phần các nhân tố ảnh hưởng, việc phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi không tuân thủ thuế là một yếu tố quan trọng tác động đến tính tuân thủ thuế của NNT. Nếu pháp luật thuế không nghiêm minh, các hành vi không tuân thủ không được xử lý một cách nghiêm minh và triệt để thì mức độ tuân thủ thuế sẽ sụt giảm và ngược lại. Chính vì vậy, trong thời gian qua, các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế ở Việt Nam rất được quan tâm, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế, quản lý thuế và thúc đẩy sự tuân thủ thuế của NNT. Các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thời gian qua đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng đầy đủ chặt chẽ và có tính răn đe. Cụ thể là: - Sau khi Luật Quản lý thuế ra đời, trên cơ sở các quy định của luật này và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định 98/2007/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 61/2007/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Những văn bản pháp luật này đã sửa đổi, bổ sung nhiều điểm chưa hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn khách quan của các quy định xử lý vi phạm hành chính thuế đã ban hành trước đó. Đáng chú ý là những vấn đề sau: (i) Bổ sung các quy định về các hành vi vi phạm và hình thức xử phạt trước đây chưa quy định nhưng đã phát sinh trong thực tiễn, đó là hành vi khai thiếu thuế và một số hành vi
98
vi phạm về thủ tục thuế; (ii) Sửa đổi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuế cho phù hợp với Luật Quản lý thuế; (iii) Quy định rõ mức xử phạt trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để tránh sự vận dụng tùy tiện của người thực thi công vụ; (iv) Sửa đổi quy định về xử lý hành vi trốn thuế khi quá thời hiệu xử phạt, theo đó, hành vi trốn thuế bị phát hiện khi đã quá thời hiệu xử phạt thì không xử phạt hành chính nhưng vẫn bị truy thu thuế (trước đây không truy thu và không xử phạt khi quá thời hiệu). - Để giải quyết những vướng mắc và bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Quản lý thuế, Nghị định 98/2007/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành Nghị định 129/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế thay thế cho các Nghị định 98/2007/NĐ-CP và 13/2009/NĐ-CP. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 166/2013/TTBTC quy định chi tiết về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Các quy định pháp luật này đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung những điểm bất hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn quản lý thuế, trong đó có những điểm đáng chú ý sau đây: (i) Hành vi trốn thuế bị phát hiện khi hết thời hiệu thì bị truy thu trong thời hạn tối đa 10 năm, trừ trường hợp kinh doanh mà không đăng ký thuế. Trước đây không giới hạn thời hạn truy thu nên rất không khả thi trong tổ chức thực hiện. (ii) Bổ sung quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân bằng một nửa so với tổ chức. (iii) Nâng mức xử phạt khai thiếu thuế từ 10% lên 20%. (iv) Áp dụng cách tính tiền chậm nộp thuế lũy tiến theo số ngày chậm nộp: Trong 90 ngày đầu tiên tỷ lệ tính tiền chậm nộp thuế là 0,05%/ngày; quá 90 ngày, tỷ lệ này là 0,07%/ngày. Hiện nay, tỷ lệ tính tiền chậm nộp áp dụng chung là 0,03%/ngày. Đồng thời, bổ sung quy định tính tiền phạt chậm nộp trên cả số tiền chậm nộp. (v) Bổ sung hình thức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm thủ tục trước đây chưa xử phạt. (vi) Bổ sung quy định về thi hành quyết định xử phạt hành chính thuế trong trường hợp cá nhân bị xử phạt bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức bị xử phạt bị phá sản, giải thể. (vii) Bổ sung quy định cho phép người bị xử phạt hành chính có thể được nộp phạt làm nhiều lần [40]. Rõ ràng, các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đã được quan tâm, sửa đổi, đảm bảo được tính hiệu lực, răn đe đối với các hành vi không tuân thủ của NNT. Các quy định này cũng đã tính đầy đủ tới mức độ và khả năng thực thi của NNT trong từng điều kiện, hoàn cảnh nhất định, vừa đảm bảo tính nghiêm minh,
99
vừa có tác dụng cảnh báo, nhắc nhở đối với từng hành vi vi phạm của NNT, hạn chế tới mức thấp nhất sự không tuân thủ thuế của họ. 3.3.1.3. Hoàn thiện các luật thuế Giai đoạn 2011 - 2016 là giai đoạn mà hệ thống thuế Việt Nam được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhiều nhất. Cụ thể: Thuế giá trị gia tăng: Trong giai đoạn này, thuế GTGT được thực hiện theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/06/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Để đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng quản lý cũng như mức độ tuân thủ thuế của NNT, Luật thuế GTGT được tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào các năm 2013, 2014 và 2016. Trong đó, một nội dung quan trọng luôn được nhấn mạnh khi sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT cũng như các Luật thuế khác là tiếp tục đảm bảo sự đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện của chính sách thuế, tạo thuận lợi nhất cho NNT trong quá trình tuân thủ thuế và đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, hiện đại hoá công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế. Quá trình hoàn thiện pháp luật thuế GTGT giai đoạn 2011 - 2016 đã góp phần làm cho Luật thuế này tiếp tục là nguồn thu quan trọng, ổn định, bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý cho NSNN nhằm đáp ứng nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, chính sách thuế GTGT hiện hành đã góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, minh bạch các hoạt động kinh tế, chống gian lận; thúc đẩy hạch toán kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ, nâng cao năng lực quản trị DN; thúc đẩy đến mức cao nhất tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Thuế TNDN: Trong giai đoạn 2011 - 2016, thuế TNDN tại Việt nam được thực hiện theo Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ban hành ngày 03/06/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế TNDN năm 2003. Đến năm 2013, Quốc hội khóa 13 đã ban hành Luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung số 32/2013/QH13 ngày 19/06/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 (một số nội dung có hiệu lực từ ngày 01/07/2013). Đến 26/11/2014, Luật thuế TNDN được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 71/2014/QH13. Trong đó, Luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung số 32/2013/QH13 ngày 19/06/2013 với nhiều nội dung đổi mới đã có các tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam. Luật đã bổ sung, làm rõ và quy định chi tiết, cụ thể nhiều vấn đề như: (1) Về khái niệm cơ sở thường trú; (2) Về thu nhập chịu thuế; (3) Về thu nhập được miễn thuế; (4) Về xác định thu nhập tính thuế và chuyển lỗ đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản và một số khoản thu nhập mới phát sinh;
100
(5) Về khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN; (6) Về thuế suất; (7) Về ưu đãi thuế; (8) Về ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng; (9) Về bổ sung quy định mức trích tối thiểu Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước; (10) Quy định cụ thể một số khoản thu nhập không được ưu đãi thuế; (11) Về hiệu lực thi hành và xử lý đối với các trường hợp đang được hưởng ưu đãi theo Luật hiện hành. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN sẽ đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho NNT và công tác quản lý thuế, khuyến khích DN đầu tư, phát triển sản xuất, thu hút đầu tư qua đó đã có tác động tích cực đối với kinh tế - xã hội trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Qua quá trình thực thi, đến nay, chính sách thuế TNDN đã có tác động nhất định trong việc quản lý, điều tiết và thúc đẩy phát triển kinh tế; có tác động tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế chung để DN có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc sửa đổi quy định về ưu đãi thuế trong Luật thuế TNDN cũng đã góp phần tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước. Ngoài ra, thuế TNDN góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Đặc biệt, chính sách thuế TNDN ngày càng công khai, minh bạch, đơn giản, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với thực tiễn, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT trong quá trình tuân thủ thuế, góp phần thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của NNT ở Việt Nam. Thuế TNCN: Năm 2007, Luật thuế TNCN được ban hành theo Luật số 04/2007/QH12 ngày 21/12/2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế cho Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đó. Đến năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung theo Luật số 26/2012/QH13 ngày 22/11/2012 ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013. Một số điều của Luật thuế này còn được sửa đổi, bổ sung vào năm 2014 tại Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014. Luật thuế TNCN được ban hành nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính theo Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X. Đồng thời, việc ban hành Luật thuế này nhằm tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội và hoàn thiện
101
hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới của Việt Nam. Quan điểm, mục tiêu chính khi xây dựng Luật thuế TNCN được xác định là: (1) Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội; (2) Đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng; (3) Đảm bảo các bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành; (4) Đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. Luật thuế TNCN là luật thuế có tác động trực tiếp đến đời sống của các tầng lớp dân cư. Việc ra đời và hoàn thiện dần của Luật thuế này đã có các tác động quan trọng trong đảm bảo nguồn thu NSNN, điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đặc biệt, các quy định về thu nhập chịu thuế, giảm trừ gia cảnh, thu nhập tính thuế, biểu thuế đã thể hiện tương đối phù hợp và tương thích với hệ thống chính sách thuế của các nước đang áp dụng hiện nay. Trong quá trình thực thi, chính sách thuế TNCN đã thể hiện tính linh hoạt để thích ứng với các điều kiện kinh tế cụ thể với mục tiêu giải quyết khó khăn, giúp các cá nhân có thu nhập tính thuế vượt qua được những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế. Đó là chính sách miễn, giảm, gia hạn nộp thuế năm 2009, miễn thuế cho cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công phải tính thuế trong bậc 1 của Biểu thuế năm 2012… Đặc biệt, sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013 với việc nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân NNT từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng và cho 1 người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng đã cho thấy sự điều chỉnh hợp lý của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho NNT. Qua đó, thúc đẩy NNT tuân thủ chính sách thuế của Nhà nước. Thuế TTĐB: Trong giai đoạn 2011 - 2016, thuế TTĐB ở Việt Nam được thực hiện theo Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế TTĐB năm 1998 và các văn bản có liên quan. Luật thuế TTĐB sau đó tiếp tục được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 70/2014/QH13 ngày 26/11/2014 và Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016. Luật thuế TTĐB được ban hành nhằm vào các mục tiêu chính như: Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu
102
nhập của người tiêu dùng cho NSNN một cách hợp lý; Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát và không gây đột biến trong sản xuất, tiêu dùng; Thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế; Bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Trong quá trình thực hiện, cho đến nay, Luật thuế này về cơ bản đã đáp ứng được các mục tiêu chính nêu trên, cụ thể: - Thuế TTĐB đã góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng theo định hướng của Nhà nước. Đối tượng chịu thuế chủ yếu là những loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh vũ trường hoặc hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cần điều tiết như ô tô, xe máy, xăng, kinh doanh sân gôn... phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta cũng như thông lệ quốc tế. - Thuế TTĐB đã đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc quy định thống nhất mức thuế suất đối với hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu, bãi bỏ các quy định về những ưu đãi đối với các mặt hàng sản xuất trong nước như ô tô, thuốc lá... - Thuế TTĐB góp phần bảo đảm nguồn thu cho NSNN. - Đặc biệt, các quy định của Luật thuế TTĐB ngày càng rõ ràng, minh bạch hơn, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi trốn thuế, tránh thuế của NNT (nhất là quy định về xác định giá tính thuế trong trường hợp cơ sở sản xuất bán hàng qua cơ sở kinh doanh thương mại có quan hệ liên kết và hàng nhập khẩu chịu thuế tiếp tục tiêu thụ trong nước...). Thuế tài nguyên: Chính sách thuế tài nguyên ở Việt Nam được bắt đầu thực hiện theo Pháp lệnh thuế Tài nguyên ban hành ngày 30/03/1990. Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung năm 1998. Đến ngày 25/11/2009, Quốc hội khóa 12, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật thuế Tài nguyên (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2010) thay thế cho Pháp lệnh Thuế tài nguyên. Việc ban hành và áp dụng Luật thuế Tài nguyên đã có tác động tích cực đối với các tổ chức, cá nhân có khai thác, sử dụng tài nguyên, góp phần tạo ý thức khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Quá trình thực hiện Luật thuế Tài nguyên đã góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho NSNN.
103
Như vậy, trong giai đoạn này, chương trình cải cách thuế đến năm 2010 cơ bản hoàn thành định hướng ban hành những loại thuế mới và sửa đổi, bổ sung các sắc thuế chủ yếu hiện hành để phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế hướng đến thương mại tự do thông qua tỷ trọng các loại thuế trực thu trong tổng thu thuế. Ngoài ra, trong giai đoạn 2011 - 2016, có hai sắc thuế mới bắt đầu hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Đó là Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/06/2010 thông qua và Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 ngày 15/11/2010 thông qua. Đây là loại thuế mới trong hệ thống thuế hiện hành, thay thế cho việc áp dụng một số loại phí (như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn…). Sự ra đời của hai Luật thuế mới này đã góp phần hoàn thiện hơn hệ thống thuế ở Việt Nam, bao quát được các khả năng nộp thuế trong xã hội, góp phần thúc đẩy tuân thủ thuế một cách toàn diện của NNT ở Việt Nam. Mặc dù vậy, do chính sách thuế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016 vẫn còn thiếu tính ổn định, có sắc thuế được điều chỉnh, bổ sung liên tục như thuế GTGT, thuế TTĐB, TNCN... đã gây ra khó khăn cho người nộp thuế trong quá trình tuân thủ. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật thuế của Việt Nam nói riêng còn thiếu đồng bộ, nhiều nội dung còn chồng chéo, gây khó khăn cho người thực hiện. Cụ thể, một số quy định trong các văn bản pháp luật thuế cũng như Luật Quản lý thuế còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể lại thay đổi liên tục, làm cho việc hiểu và vận dụng pháp luật không nhất quán, gây khó khăn trong quá trình thực hiện đối với người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Trong một số trường hợp, do yêu cầu gấp về thời gian thực hiện các văn bản quản lý thuế mới, người nộp thuế và cả cơ quan thuế chưa có sự chuẩn bị về chuyên môn, nghiệp vụ, điều kiện vật chất, kỹ thuật cũng như về tâm lý nên việc triển khai mang tính hình thức, đối phó. Điều này làm cho chi phí tuân thủ của người nộp thuế tăng lên, trong khi khả năng quản lý, kiểm soát của cơ quan thuế còn có hạn nên cũng tạo cơ hội cho các hành vi gian lận và sự không tuân thủ của người nộp thuế. Cùng với đó, chính sách thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp khá thông thoáng, nhưng việc theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó như thế nào thì còn chưa chặt chẽ. Từ khâu hậu kiểm, quản lý doanh nghiệp sau giấy phép đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho việc thành lập các doanh nghiệp “ma”. Mặt khác, cơ chế thanh toán giữa các giao dịch kinh tế phần lớn còn chưa bắt buộc thông qua hệ
104
thống ngân hàng, do vậy rất khó kiểm soát việc các hoạt động kinh tế đó đã phát sinh thực tế hay chỉ trên giấy tờ. NCS đã thực hiện khảo sát đối với cả CQT và NNT về các đánh giá của họ đối với chính sách thuế Việt Nam thời gian qua theo hai giác độ: Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục và Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện với hình thức cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ đồng ý tăng dần. Kết quả ở Bảng 3.6 sau đây đã thể hiện rõ nhận định trên. Bảng 3.6: Kết quả khảo sát về các vấn đề các khó khăn đối với quá trình tuân thủ thuế của người nộp thuế Nội dung
Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục
Điểm bình quân đánh giá của CQT
Điểm bình quân đánh giá của NNT
4,21
4,47
4,31
4,62
Bảng số liệu trên cho thấy, cả những người được khảo sát, bao gồm cả công chức thuế và NNT đều đồng ý cao với các nhận định rằng, quy định pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện và chính sách thuế thay đổi quá nhanh liên tục với mức độ đồng ý khá cao từ (từ 4,21 đến 4,62 điểm trên thang điểm 5). Mặc dù đây chỉ là một số liệu khảo sát với một quy mô mẫu nhỏ, song so với thực tế diễn biến quá trình hoàn thiện và điều chỉnh chính sách và pháp luật thuế của Việt Nam thời gian qua thì những con số trên đã phần nào phản ánh những tác động chưa tốt của chính sách và pháp luật thuế đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian qua. Tóm lại, xét một cách tổng thể, quá trình điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, pháp luật thuế ở Việt Nam thời gian qua đã theo hướng tích cực, có nhiều tác động tốt đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Tuy vậy, chính sách và pháp luật thuế vẫn còn những tác động chưa tốt cần nghiên cứu hoàn thiện để góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NTT ở Việt Nam. 3.3.2. Thực trạng các nhân tố về hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế 3.3.2.1. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Cải cách thủ tục hành chính thuế là yêu cầu bức thiết đặt ra trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế. Cải cách thủ tục hành chính thuế thời gian qua đã được ngành Thuế thúc đẩy mạnh mẽ, mang lại những kết quả rõ rệt, tạo điều kiện thuận
105
lợi cho NNT trong việc thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình, giúp hạ chi phí tuân thủ, thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Theo PGS.TS Lê Xuân Trường (2016): “Ngành Tài chính xác định để cải cách thực đạt kết quả tốt thì mục tiêu cần đạt được
của cải cách thủ tục hành chính thuế là phải tạo điều kiện thuận lợi nhất để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế, giảm thiểu thời gian thực hiện thủ tục thuế và chi phí tuân thủ thuế. Đó chính là quan điểm lấy người nộp thuế làm trung tâm của quá trình cải cách, chuyển những phần việc khó khăn và bất lợi phải làm trong quản lý thuế cho cơ quan thuế, dành mọi thuận lợi cho người nộp thuế. Tức là, lấy người nộp thuế là trung tâm của quá trình cải cách. Thực hiện quan điểm đúng đắn trên, công cuộc cải cách thủ tục hành chính thuế đã đạt được những kết quả quan trọng. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh toàn cầu do Ngân hàng thế giới công bố năm 2014 thì thời gian làm thủ tục về thuế và bảo hiểm xã hội của Việt Nam là 872 giờ, trong đó, thời gian làm thủ tục về thuế là 537 giờ. Theo Báo cáo của Tổng cục Thuế, tính đến cuối năm 2015, thời gian làm thủ tục về thuế của người nộp thuế giảm 410 giờ, xuống còn 127 giờ. Như vậy, tính riêng thời gian làm thủ tục về thuế, Việt Nam đã gần đạt được mức trung bình ASEAN 6 (122 giờ). Đặc biệt, đã chấm dứt hoàn toàn tình trạng người nộp thuế phải xếp hàng để nộp hồ sơ khai thuế và giảm mạnh thời gian nộp thuế” [41].
Triển khai Nghị quyết 25/NQ-CP ngày 02/06/2010 và Nghị quyết số 68/NQCP ngày 27/12/2010 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, toàn ngành Thuế đã công khai danh mục các thủ tục hành chính thuế tại bộ phận “một cửa” của CQT các cấp. Đồng thời, ngành Thuế đã thực hiện rà roát, đơn giản hóa 100% các thủ tục hành chính thuế. Theo đó, đã đơn giản hoá thủ tục và thời gian đăng ký thuế; giảm tần suất kê khai thuế GTGT của các DN nhỏ và vừa từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm; rút ngắn thời hạn giải quyết đối với trường hợp “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” từ 60 ngày xuống còn 40 ngày đối với các trường hợp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” từ 15 ngày làm việc xuống còn 6 ngày làm việc, thời hạn giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 05 xuống còn 03 ngày làm việc. Cùng với đó, CQT đã thực hiện gộp 5 tờ khai các loại thuế vào 1 tờ khai duy nhất, giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính cho các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán; giảm tần suất kê khai đối với tổ chức chi trả thu nhập cá nhân có số thuế phải nộp từ 50 triệu đồng/tháng... Các nội dung cải cách này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ thuế. Trong thời gian qua, để tạo thuận lợi cho NNT trong việc kê khai, tính thuế, CQT đã xây dựng và cung cấp cho NNT phần mềm Hỗ trợ kê khai thuế với công nghệ mã vạch 2 chiều. Việc sử dụng phần mềm kê khai mã vạch hai chiều giúp
106
NNT xử lý tính toán lập các tờ khai thuế theo qui định của pháp luật, đảm bảo chính xác, nhanh chóng, tránh được những sai sót thường gặp. Bên cạnh đó, CQT cũng đã triển khai và hoàn thành việc nộp hồ sơ khai thuế qua mạng. Trước đây, NNT phải mất nhiều thời gian cho việc đến CQT nộp hồ sơ khai thuế và luôn có tình trạng quá tải tại CQT mỗi khi đến kỳ hạn nộp hồ sơ khai thuế do có quá nhiều NNT đến cùng một lúc, một thời điểm. Với hình thức kê khai qua mạng, NNT có thể nộp tờ khai 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày/tuần và ở bất cứ đâu có kết nối mạng internet, nhờ đó DN đã giảm được thời gian hành chính thuế. Ngoài ra, việc ứng dụng nộp hồ sơ khai thuế qua mạng còn giúp NNT giảm bớt chi phí in ấn tờ khai thuế, bước đầu tạo điều kiện cho các DN tiếp cận với giao dịch thương mại điện tử. Cùng với cải cách thủ tục hành chính thuế, thời gian qua, ngành Thuế cũng rất chú trọng việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế, nhất là trong hoạt động tuân thủ thuế của NNT như đăng ký, kê khai, nộp hồ sơ khai thuế, nộp thuế... Đến nay, CQT đã triển khai đầy đủ dịch vụ nộp thuế điện tử với các ký kết thoả thuận với 45 ngân hàng thương mại để triển khai nộp thuế điện tử tại 63 địa phương trong cả nước. Tính đến ngày 31/12/2016, đã có hơn 97% DN đăng ký tham gia nộp thuế điện tử [34]. Việc thực hiện nộp thuế điện tử đã mang lại nhiều lợi ích cho NNT trong quá trình nộp thuế như: Tiết kiệm được chi phí đi lại, thời gian giao dịch; đơn giản thủ tục giấy tờ khi thực hiện nghĩa vụ thuế; có thể nộp thuế tại bất cứ địa điểm nào có kết nối Internet; nộp thuế 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần, kể cả ngày nghỉ/lễ, được NHTM xác nhận kết quả giao dịch ngay khi gửi giấy nộp tiền; có thể truy cập Cổng thông tin điện tử của CQT để xem, in, tải về các thông báo, giấy nộp tiền điện tử đã nộp; được sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng khác của NHTM... Hoạt động này đã tạo điều kiện thuận lợi cho NNT, giúp NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình, từ đó góp phần nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. NCS đã thực hiện khảo sát đối với công chức thuế đối với một số nội dung về cải cách thủ tục thuế và ứng dụng công nghệ thông tin trong tuân thủ thuế theo 3 vấn đề chính: (1) Cải cách thủ tục hành chính thuế thời gian qua đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ thuế; (2) Việc triển khai các ứng dụng kê khai thuế và nộp thuế điện tử thời gian qua đã góp phần nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế và (3) Việc bổ sung điều kiện phải thanh toán không dùng tiền mặt đối với các khoản chi trả từ 20 triệu đồng/lần trở lên đã góp phần rất tốt ngăn chặn hành vi kê khai khống thuế GTGT đầu vào và chi phí được trừ. Kết quả trả lời tính theo điểm bình quân (mức đồng ý tăng dần) thể hiện ở Bảng 3.7 dưới đây.
107
Bảng số liệu 3.7 cho thấy, theo đánh giá của công chức thuế được khảo sát, một số quy định liên quan đến nghĩa vụ hóa đơn, chứng từ của NNT cũng như một số nội dung trong cải cách thủ tục hành chính thuế và ứng dụng kê khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử đã tạo điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ thuế, thể hiện ở điểm số khá cao (từ 4,55 đến 4,65 trên thang điểm 5). Điều này có nghĩa là, theo những công chức thuế được khảo sát, hoạt động cải cách hành chính thuế đã góp phần thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Bảng 3.7: Kết quả khảo sát về các vấn đề liên quan đến cải cách thủ tục hành chính thuế Nội dung
Cải cách thủ tục hành chính thuế thời gian qua đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ thuế Việc triển khai các ứng dụng kê khai thuế và nộp thuế điện tử thời gian qua đã góp phần nâng cao tính tuân thủ của NNT Việc bổ sung điều kiện phải thanh toán không dùng tiền mặt đối với các khoản chi trả từ 20 triệu đồng/lần trở lên đã góp phần rất tốt ngăn chặn hành vi kê khai khống thuế GTGT đầu vào và chi phí được trừ
Điểm trung bình
4,55 4,65
4,62
Tuy nhiên, mặc dù thủ tục hành chính thuế đã được quan tâm cải cách nhưng trong công tác thực thi vẫn còn có những sự phức tạp, đẩy cao chi phí tuân thủ, chưa tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế. Những hoạt động cải cách đó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ kỳ vọng của cả cán bộ thuế và cả người nộp thuế trong quá trình thực thi và tuân thủ thuế. Bởi lẽ, các thành công hay thuận lợi mặc dù đã được ghi nhận, nhưng kết quả khảo sát vẫn cho thấy một số ý kiến cho rằng hiệu quả thực tế của các cải cách, các ứng dụng này vẫn chưa thực sự tạo điều kiện và thúc đẩy ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế. Theo cuộc khảo sát của VCCI năm 2015 về thủ tục hành chính thuế ở Việt Nam, mặc dù, kết quả khảo sát cho thấy một số tín hiệu tích cực như nhóm thủ tục về khai thuế, đăng ký thuế hoặc nộp thuế có tỷ lệ đánh giá “không hoặc ít phiền hà” tương đối cao (chiếm 70% - 80%), tuy nhiên, vẫn có một số thủ tục bị đánh giá đang còn nhiều trở ngại. Đứng đầu bảng nhóm thủ tục này, thủ tục “thanh kiểm tra thuế” (64% đánh giá phiền hà hoặc tương đối phiền hà), tiếp đến là nhóm thủ tục “hoàn thuế và miễn giảm thuế” (đều ở mức 57%). Ngoài ra, vấn đề thời gian vẫn là mối quan ngại lớn nhất cho các đơn vị, khi có tới 68% đơn vị cho biết thời gian giải quyết quá dài. 54%
108
số doanh nghiệp cho biết cán bộ thuế đã "yêu cầu cung cấp thông tin, giấy tờ không cần thiết" [48]. Bên cạnh đó, NCS cũng đã thực hiện khảo sát đối với cả công chức thuế và NNT về các thủ tục thuế, thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, mẫu biểu, hồ sơ khai thuế để tìm hiểu các nhận xét của các đối tượng này và tác động của các vấn đề trên đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Ba vấn đề được đặt ra và kết quả trả lời của 500 công chức thuế và 535 NNT có điểm bình quân được thể hiện ở Biểu đồ 3.11 dưới đây.
Biểu đồ 3.11: Kết quả khảo sát về thủ tục hành chính thuế đối với công chức thuế và NNT Biểu đồ trên cho thấy, mặc dù thủ tục hành chính thuế đã được cải cách, mẫu biểu, hồ sơ khai thuế đã được đơn giản hóa cho người nộp thuế, nhưng trên thực tế, các vấn đề này vẫn chưa đủ. Điểm bình quân của công chức thuế qua các nội dung này là 4,18, trong khi của người nộp thuế là 4,41 là số điểm cao, thể hiện sự đồng ý cao đối với những khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính thuế đối với việc tuân thủ thuế của người nộp thuế hiện nay. Theo PGS Lê Xuân Trường (2016), những biểu hiện cụ thể của hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính thuế là: “ - Một số quy định pháp luật thuế còn chưa thực sự rõ ràng, chưa minh bạch, có thể hiểu theo những cách khác nhau. Điều này dẫn đến những tranh chấp giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp trong việc hiểu và áp dụng văn bản pháp luật, làm tốn kém thời gian, công sức của cả doanh nghiệp và cơ quan thuế trong hỏi và trả lời vướng mắc, khiếu nại và giải quyết khiếu nại. - Vẫn còn tồn tại một số khác biệt giữa quy định pháp luật về thuế và kế toán, chưa giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa số liệu kế toán phục vụ kê khai, tính thuế.
109 - Một số vướng mắc của người nộp thuế chậm được trả lời hoặc trả lời không thỏa đáng. Khoảng 10% số hồ sơ hoàn thuế chưa được giải quyết đúng thời gian quy định. - Thái độ ứng xử của một bộ phận công chức thuế chưa thực sự văn minh, lịch sự, chưa được người nộp thuế đánh giá cao” [41].
Theo Báo cáo khảo sát Đánh giá cải cách thủ tục hành chính thuế - Mức độ hài lòng của doanh nghiệp 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Tổng cục Thuế và Ngân hàng thế giới công bố thì có 80% doanh nghiệp cho biết cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế có thái độ đúng mực khi đến làm việc tại doanh nghiệp, tức là vẫn còn 20% cán bộ thuế được đánh giá là có thái độ chưa đúng mực khi làm việc tại doanh nghiệp. Tóm lại, trong thời gian vừa qua, thủ tục hành chính thuế đã được cải cách khá mạnh mẽ và có những tác động quan trọng góp phần tạo ra môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi. Đồng thời, đã tạo thuận lợi để NNT tuân thủ thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế, từ đó, thúc đẩy NNT nâng cao ý thức tuân thủ thuế. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế nhất định trong cải cách thủ tục hành chính thuế, đặc biệt là ở khâu tổ chức thực hiện của cấp quản lý trực tiếp, dẫn đến còn gây phiền hà cho NNT, cản trở tính tuân thủ của NNT. 3.3.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế a) Thực trạng công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Ở Việt Nam, từ đầu năm 2004, theo Quyết định số 218/QĐ - TTg ngày 28/10/2003 về việc thay đổi mô hình tổ chức ngành Thuế, hệ thống tuyên truyền, hỗ trợ NNT đã được xây dựng đồng bộ từ cấp Trung ương đến địa phương để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế cũng như nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ NNT một cách thống nhất trên phạm vi toàn quốc. CQT các cấp đã phối hợp với các cơ quan liên quan, cơ quan thông tấn, báo chí liên tục chuyển tải chính sách thuế, giải đáp vướng mắc, phản ánh những thông tin hai chiều nhằm hoàn thiện chính sách thuế. Cơ quan quản lý thuế đã giải đáp vướng mắc về chính sách và các thủ tục về thuế thông qua nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau như hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ qua điện thoại, hỗ trợ bằng văn bản cho NNT; tổ chức nhiều cuộc đối thoại cho cộng đồng DN, hiệp hội; tổ chức tập huấn về chính sách thuế và thủ tục hành chính thuế; xây dựng mục trả lời trên website; triển khai bộ phận “một cửa” tại cơ quan quản lý thuế các cấp để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho NNT trong việc thực hiện các thủ tục về thuế, tuân thủ chính sách pháp luật thuế.
110
Sau gần 13 năm được tập trung chú trọng phát triển, công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT đã đạt được những kết quả nhất định. Một là, ban hành quy trình tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một bước tiến lớn khẳng định tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Năm 2004, lần đầu tiên quy trình tuyên truyền, hỗ trợ NNT được ban hành theo Quyết định số 1788/2004/QĐ-TCT-TTHT ngày 1/12/2004 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Qua nhiều năm thực hiện, bổ sung và đổi mới, quy trình tuyên truyền và hỗ trợ NNT này đã được thay thế bởi Quy trình kèm theo Quyết định số 601/2012/QĐTCT-TTHT ngày 11/5/2012 và mới đây nhất là Quy trình Tuyên truyền, hỗ trợ NNT theo Quyết định số 745/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục Thuế. Đây là căn cứ quan trọng cho mọi công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT. Quy trình tuyên truyền và hỗ trợ NNT thông thường hiện nay theo Quyết định số 745/QĐ-TCT ngay 20/4/2015. Quy trình này được ban hành nhằm thống nhất, chuẩn hóa về nguyên tắc, nội dung, trình tự thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của CQT và hướng dẫn, hỗ trợ NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ về thuế. Đồng thời, quy trình được thực hiện nhằm đảm bảo phân định rõ để thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT tại CQT các cấp. Quy trình bao gồm ba bước cơ bản là lập kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ NNT; tổ chức thực hiện các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT và báo cáo công tác tuyên truyền, hỗ trợ thay vì chỉ có hai bước là lập kế hoạch và tổ chức thực hiện như quy định cũ. Thêm bước báo cáo công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong quy trình tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một bổ sung cần thiết, vì chỉ có như vậy hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ mới được đánh giá thường xuyên, liên tục, đảm bảo phát hiện những thiếu sót cần sửa chữa cũng như phát triển những hoạt động hiệu quả, đồng thời, nâng cao trách nhiệm của cán bộ làm nhiệm vụ tuyên truyền, hỗ trợ. Với quy trình dần được hoàn thiện đã tạo nền tảng cơ bản cho mọi hoạt động tuyên truyền và hỗ trợ NNT từ đó tạo ra sự thống nhất, liên kết trong việc xây dựng và thực hiện các hoạt động này. Hai là, triển khai và hoàn thiện cơ chế “Một cửa” kể từ năm 2009 là hình thức hỗ trợ trong việc tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của NNT theo yêu cầu cải cách. Theo đó, NNT khi có yêu cầu hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về chính sách thuế, quản lý thuế và giải quyết các thủ tục hành chính thuế được tạo điều kiện thuận lợi nhất, bởi NNT chỉ cần liên hệ và được phục vụ tại một điểm tập trung, không phải đi qua nhiều nơi, không phải tiếp xúc với nhiều bộ phận; đồng thời đảm bảo giám
111
sát được công chức thuế trong việc thực hiện giải quyết các yêu cầu, thủ tục hành chính thuế của NNT. Thông qua việc tổ chức Văn phòng giao dịch “Một cửa” cũng đã đề cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức trong giải quyết công việc, thể hiện rõ thái độ tôn trọng, sẵn sàng phục vụ NNT; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp văn minh lịch sự. Ba là, công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT đang ngày càng được tăng cường và đẩy mạnh. Trong tất cả các năm, Tổng cục Thuế đều có các công văn gửi và yêu cầu các cục thuế, chi cục thuế tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, nhất là tại các thời điểm quyết toán thuế hay thực hiện các Luật thuế mới, các quy định mới về thuế. Tổng cục Thuế cũng luôn nhấn mạnh với cục thuế các tỉnh, thành phố việc thống kê, rà soát tất cả các biển hiệu, pano tuyên truyền và đánh giá tình trạng, hiệu quả sử dụng, từ đó lập kế hoạch tháo dỡ, xóa bỏ những biển hiệu, pano đã xuống cấp, nội dung không còn phù hợp; hiệu quả tuyên truyền không cao. Bốn là, các nội dung và hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT đã được triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng, đóng góp hiệu quả vào việc nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT đó, trong thời gian qua, cơ quan quản lý thuế đã triển khai đồng bộ, đa dạng và phong phú các hình thức, nội dung tuyên truyền pháp luật thuế. Bao gồm: - Tuyên truyền, giải thích về bản chất, vai trò của thuế, các lợi ích xã hội có được từ việc sử dụng tiền thuế. - Tuyên truyền, phổ biến nội dung các chính sách, pháp luật về thuế. - Phổ biến các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, của NNT và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội trong việc cung cấp thông tin và phối hợp trong việc thực hiện các luật thuế. - Phổ biến các thủ tục về thuế, quy định về việc xử lý các vi phạm pháp luật thuế. - Tuyên dương, khen thưởng NNT chấp hành tốt pháp luật về thuế. Các nội dung hỗ trợ NNT được cơ quan quản lý thuế thực hiện bao gồm: - Hướng dẫn, tư vấn các nội dung về chính sách thuế. - Hướng dẫn, tư vấn các thủ tục, quy trình chấp hành nghĩa vụ thuế như thủ tục đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, xin miễn thuế, giảm thuế... - Hướng dẫn, tư vấn cách lập các mẫu biểu báo cáo về thuế.
112
- Tư vấn các vấn đề liên quan đến thuế như kế toán, cách sử dụng, quản lý hoá đơn, chứng từ... - Hướng dẫn và cung cấp các thông tin cảnh báo về các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế, các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế. - Giải đáp các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT. Trong thời gian qua, những hình thức truyên truyền được triển khai hiệu quả như in các ấn phẩm về pháp luật thuế; tổ chức các buổi gặp gỡ, đối thoại, tập huấn cho NNT; thông qua đài truyền thanh, đài truyền hình, các báo đưa tin, cập nhật những nội dụng mới nhất của chính sách thuế; tổ chức tuyên dương, khen thưởng NNT tốt… Về công tác hỗ trợ NNT, việc tiếp nhận và giải đáp, hướng dẫn kịp thời các vướng mắc cho các tổ chức, cá nhân nộp thuế thông qua việc trả lời bằng điện thoại, bằng văn bản hoặc trực tiếp tại CQT; tổ chức các cuộc đối thoại để giải đáp các vướng mắc và tiếp thu các ý kiến đề xuất, kiến nghị của NNT về chính sách, chế độ thuế; tôn vinh kịp thời các DN, hộ kinh doanh thực hiện tốt nghĩa vụ thuế cũng đã đạt được hiệu quả cao. Theo Báo cáo của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2011 - 2016, các mặt công tác này đã có sự gia tăng rõ rệt. Cụ thể, năm 2011, cơ quan thuế đã thực hiện 11.382 tin, bài viết tuyên truyền về chính sách pháp luật thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng; số tin tuyên truyền về thuế trên đài phát thanh là 141.592 tin; số tin, phóng sự tuyên truyền về thuế trên đài truyền hình là 166.703 tin, bài; các chương trình phối hợp với các cơ quan tuyên giáo để tuyên truyền về thuế là 2566 cuộc; thực hiện cấp phát 1.180.497 ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế… Ngoài ra, cơ quan thuế đã duy trì và tăng cường các phương thức hỗ trợ người nộp thuế như: Hỗ trợ tại cơ quan thuế 275.980 lượt, hỗ trợ qua điện thoại 291.108 lượt, hỗ trợ bằng văn bản 12.396 văn bản, tổ chức 1.635 lớp tập huấn (404.126 lượt tham dự), tổ chức 828 hội nghị đối thoại (90.364 người tham dự), 157 hội nghị tập huấn (110.537 người tham dự)... [29] Đến năm 2016, ngành thuế đã hỗ trợ bằng văn bản cho NNT khoảng 15 ngàn văn bản; Tổ chức tập huấn cho NNT về chế độ, chính sách thuế khi có thay đổi, bổ sung định kỳ hoặc đột xuất khoảng 116 ngàn lượt người; tổ chức đối thoại với NNT khoảng 100 ngàn doanh nghiệp…[34] Việc tổ chức hệ thống tuyên truyền, hỗ trợ NNT một cách đồng bộ ở các cấp của cơ quan quản lý thuế đã cải thiện không chỉ hiệu quả làm việc của CQT mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho NNT. Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất nhưng hiện nay, hệ thống tuyên truyền, hỗ trợ NNT đã từng bước đáp
113
ứng được nhu cầu của NNT và cộng đồng trong việc tìm hiểu thông tin, chính sách về thuế. Biểu đồ 3.12 dưới đây thể hiện kết quả khảo sát đối với công chức thuế và NNT theo thang điểm từ 0 đến 5 thể hiện mức độ hiệu quả tăng dần của hoạt động giáo dục, tuyên truyền về thuế và hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế.
Biểu đồ 3.12: Kết quả khảo sát về hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT Biểu đồ trên cho thấy, cả những người được khảo sát đã có những đánh giá cao về hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Kết quả này đã thể hiện phần nào tác động tích cực của các hoạt động này đến việc nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao sự hiểu biết, tính tự giác trong việc chấp hành chính sách thuế của Nhà nước; các hình thức tuyên truyền chưa đa dạng, chưa thu hút được sự quan tâm của công chúng, đặc biệt là những người có nghĩa vụ phải nộp thuế. Đối tượng của hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ mới chỉ trong phạm vi các DN chứ chưa tiếp cận sâu đến NNT là cá nhân. Việc áp dụng các hình thức, phương pháp tuyên truyền, hỗ trợ còn mang tính đại trà, chung cho tất cả NNT, trong khi đây là lực lượng đông đảo, khác nhau về trình độ dân trí, ý thức tuân thủ. Việc phân loại người nộp thuế để tổ chức tuyên truyền và cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế chưa hoàn toàn gắn với mô hình tuân thủ nên hoạt động cung cấp dịch vụ hỗ trợ thuế vẫn còn những lãng phí nhất định về nguồn lực. Điều này làm cho sự am hiểu về pháp luật thuế, ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế bị ảnh hưởng, nhất là những người nộp thuế mới bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Vẫn còn nhiều nguyên nhân dẫn đến việc NNT không nắm được đầy đủ các quy định của pháp luật thuế nên các hiện tượng sai sót, gian lận vẫn xảy ra, hạn chế tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Kết quả khảo sát cho thấy, 63,4% số người nộp thuế cho điểm 5 (điểm thể hiện sự đồng tình cao nhất) đối với nhận định Các
114
quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện; 66% số người nộp thuế cho điểm 5 đối với nhận định Thủ tục thuế quá phức tạp. Trong khi, tỷ lệ số cán bộ thuế trả lời khảo sát cho điểm 5 đối với các nhận định này tương ứng là 37% và 40,2%. b) Thực trạng công tác quản lý kê khai thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Công tác quản lý kê khai thuế hiện nay chủ yếu tập trung vào việc rà soát, theo dõi, kiểm tra tình trạng nộp hồ sơ khai thuế của NNT từ việc NNT đăng ký mới, NNT ngừng nghỉ kinh doanh, NNT nộp hồ sơ khai thuế… Hoạt động này luôn được cơ quan thuế chú trọng, phát hiện kịp thời những tình huống mới trong quá trình quản lý thuế thông qua kê khai thuế của NNT để có biện pháp xử lý thích ứng, đảm bảo tính tuân thủ thuế của NNT. Thời gian qua, CQT quan tâm, chú trọng và đẩy mạnh việc kiểm kê, rà soát mã số thuế, đảm bảo kiểm soát, nắm bắt kịp thời đối tượng nộp thuế để đưa vào diện theo dõi, quản lý thuế. CQT cũng thường xuyên kiểm tra, đối chiếu giữa tình hình thực tế hoạt động SXKD và kê khai thuế của NNT với hệ thống dữ liệu của CQT để đảm bảo kiểm soát, nắm bắt, theo dõi và quản lý thuế kịp thời; chú trọng việc rà soát thông tin NNT trên ứng dụng, kịp thời đôn đốc NNT bổ sung thông tin thay đổi gửi CQT để cập nhật thông tin phục vụ cho công tác quản lý thuế. Bên cạnh quản lý NNT, CQT cũng luôn chú trọng, tăng cường việc giám sát, đôn đốc kê khai thuế đối với NNT, nhờ đó tính tuân thủ thuế về kê khai thuế của NNT ngày càng được nâng cao. Số liệu quản lý năm 2016 cho thấy, bình quân chung cả nước, tổng số tờ khai thuế đạt 93% trên tổng số tờ khai phải nộp, tỷ lệ tờ khai nộp đúng hạn/tờ khai đã nộp đạt 96%; số tờ khai không nộp chiếm 7% tổng số tờ khai phải nộp và giảm 20% so với cùng kỳ năm 2015 [34]. NCS đã khảo sát về tính hiệu quả và tác động của hoạt động quản lý kê khai thuế của CQT đến tính tuân thủ thuế của NNT. Kết quả điểm bình quân của công chức thuế là 4,18; của NNT là 4,11 (điểm tối đa cho hoạt động này là 5,0). Qua đó có thể nhận thấy, cả công chức thuế và NNT đã nhìn nhận được tác động quan trọng của hoạt động này đến việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT trong hiện tại. c) Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Thanh tra, kiểm tra thuế là chức năng quản lý rất quan trọng của cơ quan quản lý thuế trong điều kiện thực hiện cơ chế NNT tự khai, tự nộp thuế nhằm ngăn ngừa,
115
phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi không tuân thủ thuế, thúc đẩy quá trình tuân thủ thuế tự nguyện của NNT. Chính vì vậy, nội dung quản lý này thời gian qua rất được cơ quan quản lý thuế chú trọng. Kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế giai đoạn 2011 - 2016 có thể được mô tả khái quát như sau: Một là, quy trình thanh tra, kiểm tra thuế đã được hoàn thiện dần, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế. Ngày 29/05/2008, Tổng cục Thuế đã ban hành Quy trình Kiểm tra thuế kèm theo Quyết định số 528/QĐ-TCT; ngày 05/05/2009, Tổng cục Thuế tiếp tục ban hành Quy trình Thanh tra thuế kèm theo Quyết định 460/QĐ-TCT. Các quy trình này được tiếp tục hoàn thiện. Đến nay, hoạt động thanh tra thuế được thực hiện theo Quy trình Thanh tra thuế ban hành kèm theo quyết định số 1404/QĐ-TCT ngày 28/7/2015. Quy trình thanh tra mới được ban hành nhằm chuẩn hóa các nội dung công việc trong hoạt động thanh tra thuế; đảm bảo hoạt động thanh tra thuế được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, thống nhất từ Tổng cục Thuế đến các cục thuế, đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế; nâng cao năng lực hoạt động thanh tra thuế, đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch trong công tác thanh tra thuế. Quy trình này quy định rất đầy đủ, chi tiết tất cả nội dung liên quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành Thuế, bao gồm ba nội dung là xây dựng kế hoạch thanh tra thuế hàng năm, thanh tra tại trụ sở NNT và nhập dữ liệu thanh tra cùng chế độ báo cáo hoạt động thanh tra. Đặc biệt, quy trình này có điểm mới là thực hiện thanh tra lại các kết luận thanh tra thuế trong các trường hợp: Có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong quá trình thanh tra; Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra; Nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với chứng cứ thu thập trong quá trình thanh tra; Người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của NNT chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra. Thời hiệu thanh tra lại là một năm tính từ ngày ký kết luận thanh tra. Nội dung quy trình này đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý, trình tự và thủ tục thanh tra thuế, nâng cao hiệu quả thanh tra thuế và góp phần thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của NNT ở Việt Nam. Đối với hoạt động kiểm tra thuế, hiện nay, hoạt động này được thực hiện theo Quy trình ban hành kèm theo Quyết định số 746/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của
116
Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế. Theo quy trình này, hoạt động kiểm tra thuế được mở rộng đối với các trường hợp kiểm tra tại trụ sở NNT như đối với các trường hợp qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật thuế của NNT xác định có dấu hiệu vi phạm pháp luật; các trường hợp kiểm tra trước hoàn thuế sau và kiểm tra sau hoàn thuế theo quy định; các trường hợp được lựa chọn theo kế hoạch, chuyên đề do thủ trưởng cơ quan quản lý thuế cấp trên quyết định; đối với NNT chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, cổ phần hóa, đóng mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. Quy trình kiểm tra thuế cũng đã bổ sung thêm các quy định về áp dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra thuế; cập nhật thông tin dữ liệu về NNT; thực hiện kiểm tra thuế theo cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế; xử lý các trường hợp NNT từ chối nhận quyết định kiểm tra; trình tự, thủ tục, thời gian đối với các trường hợp chuyển hồ sơ sang thanh tra, chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra; quy định giám sát kết quả sau kiểm tra... Các nội dung trong Quy trình kiểm tra thuế này đã đảm bảo được sự chặt chẽ, khoa học sẽ góp phần minh bạch hơn trong công tác quản lý thuế, hạn chế tối đa các sai sót, gian lận, không tuân thủ của NNT, chống thất thu thuế cho NSNN, tạo lập sự công bằng trong sản xuất kinh doanh của NNT. Như vậy, với sự hoàn thiện các quy trình thanh tra, kiểm tra thuế, công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã được cơ quan quản lý thuế thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, công khai, minh bạch, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các hiện tượng gian lận về thuế của NNT cũng như của cơ quan và công chức quản lý thuế, góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Hai là, áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế. Kỹ thuật quản lý rủi ro trong quản lý thuế nói chung, trong thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng hiện đang được các quốc gia áp dụng, nhất là trong điều kiện số lượng NNT ngày càng đông đảo trong khi nguồn lực của CQT còn hạn hẹp. Ở Việt Nam, từ năm 2009, Tổng cục Thuế đã đưa ra một số nội dung ứng dụng quản lý rủi ro vào Quy trình thanh tra thuế (Quyết định 460/QĐ-TCT ngày 05/5/2009). Theo quy trình ban hành kèm theo Quyết định số 74/QĐ-TCT ngày 21/1/2014, kỹ thuật quản lý rủi ro đã được áp dụng trong hoạt động thanh tra thuế đối với DN ngay từ khâu lập kế hoạch thanh tra thuế cho đến khâu tổ chức thanh tra tại trụ sở NNT. Như vậy, kỹ thuật quản lý rủi ro đã được quy định rất đầy đủ, chi tiết, cụ thể trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
117
Trong hoạt động kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở NNT, CQT áp dụng quản lý rủi ro đối với NNT có đăng ký thuế nhưng thực hiện khai thuế không đầy đủ; NNT có sản xuất kinh doanh thực hiện khai thuế không đầy đủ, đúng hạn. Trong hoạt động kiểm tra tại trụ sở NNT, NNT được lựa chọn bao gồm các trường hợp xếp hạng mức độ rủi ro cao (ngoại trừ các trường hợp đã được lựa chọn đưa vào kế hoạch thanh tra). Việc lựa chọn trường hợp kiểm tra tại trụ sở NNT phải đảm bảo: Số trường hợp được lựa chọn qua phân tích, đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro không dưới 90% số lượng trường hợp được kiểm tra theo kế hoạch hàng năm; số trường hợp được lựa chọn ngẫu nhiên không quá tỷ lệ 10% số lượng trường hợp được kiểm tra theo kế hoạch hàng năm. Trong hoạt động thanh tra thuế, CQT lựa chọn thanh tra tại trụ sở NNT đối với NNT phải đảm bảo: Số trường hợp được lựa chọn qua phân tích, đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro không dưới 90% số lượng trường hợp được thanh tra theo kế hoạch hàng năm; số trường hợp được lựa chọn ngẫu nhiên không quá tỷ lệ 10% số lượng trường hợp được thanh tra theo kế hoạch hàng năm. Việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý thuế nói chung, thanh tra, kiểm tra thuế nói chung thời gian qua đã giúp hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đạt được một số kết quả khả quan. Cụ thể: - Ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế đã giúp tăng khả năng phát hiện gian lận, chống thất thu thuế hiệu quả, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. - Trên cơ sở xác định rủi ro ở những DN kê khai lỗ kéo dài, ngành Thuế đã tập trung thanh tra, kiểm tra chuyên đề và phát hiện các sai sót, gian lận, qua đó giảm lỗ so với kê khai của DN. - Thời gian bình quân tiến hành một cuộc thanh tra tại trụ sở NNT được rút ngắn vì kỹ thuật quản lý rủi ro cho phép phân tích và xác định được trọng tâm, trọng điểm nội dung, đối tượng thanh tra ngay tại trụ sở CQT. Ba là, hoạt động thanh tra, kiểm tra NNT thời gian qua đã được triển khai mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt, hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế đã được CQT triển khai đồng bộ, hiệu quả, nâng cao được hiệu lực quản lý cũng như ý thức tuân thủ của NNT. Kết quả hoạt động thanh tra thuế giai đoạn 2011 - 2016 thể hiện qua bảng số liệu 3.8 dưới đây. Bảng 3.8: Kết quả thanh tra thuế và truy thu thuế giai đoạn 2011 - 2016 Năm
Cuộc thanh
Số thuế truy thu
Số thuế truy thu bình quân 1 cuộc thanh tra
118
tra
Số tiền (triệu đồng) 3.409.000 4.500.000 6.691.190 6.133.220 5.215.206 8.828.000
Tỷ lệ so với năm trước 105,9% 132% 148,6% 91,7% 85% 169,3%
Số tiền Tỷ lệ so với (triệu đồng) năm trước 2011 6.101 559 70,7% 2012 7.038 639 114,4% 2013 9.214 733 114,8% 2014 9.198 667 90,9% 2015 8.705 599 83,8% 2016 7.531 1.172 195,7% [Nguồn: Tổng cục Thuế] Bảng số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2011 - 2016, công tác thanh tra, kiểm tra đối với NNT đã được ngành Thuế tập trung triển khai thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả. Riêng năm 2016, toàn ngành thanh tra, kiểm tra được 84.472 doanh nghiệp, đạt 94,2% kế hoạch năm 2016; với tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 17.164 tỷ đồng, tăng 38,9% so với năm 2015; số tiền thuế nộp vào ngân sách là 11.907 tỷ, trong đó: (1) Kết quả thanh tra: số doanh nghiệp được thanh tra là 7.531 DN, đạt 100,7% kế hoạch năm 2016. Tổng số truy thu, truy hoàn, phạt là 8.828 tỷ đồng; số đã nộp ngân sách ước là 5.888 tỷ đồng; (2) Kết quả kiểm tra: số doanh nghiệp được kiểm tra là 76.941 DN, đạt 93,6% kế hoạch năm 2016. Tổng số truy thu, truy hoàn, phạt là 7.868 tỷ đồng; số đã nộp ngân sách là 5.554 tỷ đồng; (3) Kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế: Kiểm tra được 953.617 hồ sơ; xử lý điều chỉnh thu vào ngân sách khoảng 468 tỷ đồng. CQT đã thực hiện thanh tra chống chuyển giá đối với 329 doanh nghiệp truy thu, truy hoàn và phạt 607,52 tỷ đồng, giảm lỗ 5.162,21 tỷ đồng. Cơ quan thuế đã chuyển sang cơ quan công an hồ sơ của 2.776 vụ việc. Từ kết quả đó, cơ quan Công an đã tiếp tục điều tra xử lý hình sự 23 vụ, kiến nghị thu thu hồi 1.159 tỷ đồng, bắt giữ, tạm giữ 20 đối tượng có dấu hiệu trốn thuế, vi phạm pháp luật về thuế, chiếm đoạt tiền hoàn thuế [34]. Công tác thanh tra, kiểm tra thuế của ngành Thuế thời gian qua đã phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm về pháp luật thuế, thực hiện kiến nghị xử lý truy thu về thuế, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách về thuế... góp phần tích cực trong việc chống thất thu NSNN, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của NNT. Số thuế truy thu qua thanh tra thuế nói chung cũng như số thuế truy thu bình quân của một cuộc thanh tra thuế vừa phản ánh hiệu quả của hoạt động thanh tra
119
thuế vừa phản ánh mức độ tuân thủ thuế của NNT. Trong điều kiện hiện nay, khi đối tượng thanh tra thuế chủ yếu được xác định thông qua phân tích, quản lý rủi ro, chỉ những NNT nào có mức độ rủi ro cao mới đưa vào diện thanh tra thuế. Để có thêm cơ sở đánh giá kết quả và tác động của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đối với tính tuân thủ của NTT, NCS đã khảo sát 3 vấn đề về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế để công chức thuế và NNT đánh giá bằng hình thức cho điểm (từ 0 đến 5 theo mức độ hiệu quả tăng dần). Kết quả khảo sát thể hiện ở Biểu đồ 3.13 dưới đây.
Biểu đồ 3.13: Kết quả khảo sát về tác động của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đến tính tuân thủ thuế của NNT Biểu đồ trên cho thấy, những người được khảo sát đã đánh giá cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế, đánh giá hoạt động này có tác động tốt trong việc thúc đẩy tính tuân thủ thuế của người nộp thuế, số điểm bình quân đều từ 4,40 đến 4,49 trên thang điểm tối đa 5 điểm. Bốn là, hoạt động kiểm tra nội bộ ngành Thuế đã được quan tâm thực hiện. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm thanh tra, kiểm tra NNT và kiểm tra nội bộ ngành Thuế. Hoạt động kiểm tra nội bộ ngành Thuế được thực hiện nhằm xem xét, kiểm tra mức độ chấp hành các quy định của pháp luật thuế nói chung, pháp luật về quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế cũng như các công chức quản lý thuế. Hoạt động này tác động đến yếu tố con người trong quá trình thực thi chính sách thuế, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các trường hợp cán bộ thuế không tuân thủ đầy đủ các quy định trong công tác quản lý thuế. Đặc biệt, hoạt động kiểm tra nội bộ ngành Thuế đã giúp phát hiện và loại bỏ các trường hợp nhũng nhiễu, tham ô, hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn cho NNT. Từ đó, hoạt động này cũng có tác động đến NNT, thúc đẩy NNT tuân thủ tốt hơn chính sách pháp luật thuế. Từ cuối năm 2011, Tổng cục Thuế đã triển khai hoàn thành ứng dụng Thanh tra, kiểm tra
120
nội bộ theo mô hình tập trung tại Tổng cục Thuế để hỗ trợ cơ quan Thuế các cấp trong việc tin học hóa công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ và giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo. Để thuận lợi cho kiểm tra nội bộ ngành Thuế, Tổng cục Thuế đã ban hành sổ tay nghiệp vụ kiểm tra nội bộ ngành thuế về công tác ấn định thuế theo Quyết định số 1562/QĐ-TCT ngày 26/09/2014. Đây là tài liệu tham khảo trợ giúp công chức làm công tác kiểm tra nội bộ được thuận lợi, đảm bảo tính thống nhất, tính hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Năm 2014, Tổng cục Thuế đã ban hành Quy chế hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành Thuế theo Quyết định số 1721/QĐ-TCT ngày 08/10/2014. Đến năm 2015 Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế đã ban hành Quy chế kiểm tra nội bộ ngành thuế theo Quyết định số 880/QĐTCT ngày 15/5/2015 thay thế Quyết định số 1721/QĐ-TCT ngày 08/10/2014. Bảng 3.9. Kết quả kiểm tra nội bộ ngành thuế giai đoạn 2011 - 2016 Số cuộc kiểm tra nội Số lượt cán bộ thuế Số tiền sai phạm bộ toàn ngành Thuế vi phạm bị xử lý (tỷ đồng) 2011 2.168 132 12,80 2012 2.351 129 18,43 2013 1.899 241 61,70 2014 1.901 232 20,00 2015 2.058 442 127,10 2016 2.065 1.049 77,80 [Nguồn: Tổng cục Thuế] Kết quả kiểm tra nội bộ trong giai đoạn 2011 - 2016 thể hiện ở Bảng 3.9 cho thấy, công tác kiểm tra nội bộ đã được quan tâm thực hiện. Trung bình hàng năm có khoảng 2.000 cuộc kiểm tra nội bộ. Số tiền sai phạm qua kiểm tra nội bộ cũng tăng lên hàng năm. Trung bình cả giai đoạn, mỗi năm số tiền sai phạm ở mức 52,9 tỷ đồng, trong đó cá biệt năm 2015 số tiền sai phạm rất cao lên hơn 127 tỷ đồng. Số cán bộ thuế bị xử lý hàng năm có xu hướng tăng lên vừa cho thấy mức độ vi phạm cần kiểm soát cũng đồng thời cho thấy công tác kiểm tra nội bộ đã được ngành thuế rất quan tâm và xử lý quyết liệt hơn. Bên cạnh những kết quả đạt được quan trọng nêu trên, qua số liệu quản lý thuế cũng như số liệu khảo sát cho thấy, kết quả thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật về thuế vẫn chưa tương xứng với kỳ vọng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam thời gian qua còn một số hạn chế chủ yếu sau đây: Thứ nhất, số lượng NNT được thanh tra, kiểm tra còn ít: Trong điều kiện số lượng NNT ngày càng lớn, cùng với ý thức tuân thủ thuế chưa cao, rõ ràng số lượng NNT vi phạm các quy định của pháp luật thuế cũng sẽ có sự gia tăng, đòi hỏi công tác thanh tra thuế phải được mở rộng hơn về số lượng NNT được thanh tra, Năm
121
lĩnh vực được thanh tra… Tuy nhiên, trong thời gian qua, số lượng NNT được thanh tra, kiểm tra vẫn chưa có sự gia tăng tương xứng. Trong mấy năm gần đây, mặc dù, về số lượng vẫn có sự tăng trưởng về số lượng NNT được thanh tra, kiểm tra nhưng vẫn chưa đạt được kế hoạch đã đặt ra. Cụ thể, năm 2013, ngành Thuế đã thanh tra 8.480 doanh nghiệp, bằng 115,3% so với năm 2012, nhưng chỉ đạt 93% kế hoạch đề ra của năm; số doanh nghiệp được kiểm tra là 55.641. Năm 2014, số doanh nghiệp được thanh tra là 9.198 doanh nghiệp, bằng 108,47% so với năm 2013, nhưng cũng chỉ đạt 93,63% kế hoạch thanh tra năm 2014; số doanh nghiệp được kiểm tra là 58.616 doanh nghiệp, bằng 105,35% so với năm 2013 và chỉ đạt 90,18% kế hoạch kiểm tra năm 2014. Năm 2015, số doanh nghiệp được thanh tra là 9.756, tăng 19,40% so với thực hiện năm 2014, đạt 95,16% kế hoạch thanh tra năm 2015; số doanh nghiệp được kiểm tra là 69.541 doanh nghiệp, tăng 18,10% so với thực hiện nhiệm vụ kiểm tra năm 2014 và đạt 97,31% nhiệm vụ kiểm tra năm 2015; năm 2016, số lượng DN được thanh tra, kiểm tra là 84.472 doanh nghiệp, cũng chỉ đạt 94,2% kế hoạch năm 2016. Nếu so với tổng số DN đang hoạt động, tỷ lệ DN được thanh tra qua các năm 2013 đến 2016 chỉ xấp xỉ 2,23%, tỷ lệ DN được kiểm tra tại trụ sở cũng chỉ đạt khoảng 15% đến 16%. Những con số này cho thấy, trong thời gian tới, công tác thanh tra, kiểm tra thuế cần được chú trọng hơn nữa, đảm bảo tỷ lệ NNT được thanh tra, kiểm tra tại trụ sở ngày càng tăng, đạt và vượt các kế hoạch đặt ra, góp phần phát hiện, xử lý các hành vi không tuân thủ của NNT [30 - 34]. Thứ hai, việc lựa chọn đối tượng thanh tra khi lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế còn chưa thực sự đúng trọng tâm: Trong giai đoạn 2011 - 2016, ngành Thuế đã từng bước thực hiện áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế. Do đó, phần lớn NNT được lựa chọn thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp được xác định qua phân tích rủi ro. Tuy nhiên, do cơ sở dữ liệu về NNT, tiêu chí phân tích, đánh giá rủi ro đang trong quá trình hoàn thiện, nên số NNT được thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiều trường hợp chưa thật sự chính xác. Trong giai đoạn 2011 2013, theo Bộ Tài chính, trung bình mỗi năm cơ quan thuế thực hiện thanh tra khoảng 1,6% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động, phát hiện khoảng 93,52% số doanh nghiệp này có vi phạm về thuế, nhưng có năm, có khoảng 30% trường hợp khi thực hiện thanh tra tại trụ sở doanh nghiệp phát hiện thấy các phân tích trước đó là không chính xác [44]. Thứ ba, tỷ lệ số thuế truy thu qua thanh tra, kiểm tra thuế so với tổng số thuế thu được ngày càng thấp: Qua các số liệu từ Báo cáo của ngành Thuế, trong giai
122
đoạn từ 2011 - 2016, mặc dù số thuế truy thu qua thanh tra thuế có sự gia tăng qua các năm, tuy nhiên, tỷ lệ giữa số thuế truy thu qua thanh tra thuế vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng thu nội địa (trừ dầu thô) và tổng thu NSNN. Có thể thấy rõ điều này qua Bảng số liệu sau: Bảng 3.10: Tỷ lệ giữa số thuế truy thu qua thanh tra thuế so với tổng thu nội địa (trừ dầu thô) và tổng thu NSNN giai đoạn 2011 - 2016 Đơn vị tiền: Tỷ đồng Năm
Tổng thu NSNN
Tổng thu nội địa (trừ dầu thô)
2011 2012 2013 2014 2015 2016
721.804 734.883 828.348 846.400 995.676 1.094.000
443.731 477.106 567.403 574.100 738.868 844.214
Tổng thuế truy thu qua thanh tra thuế 3.409 4.500 6.691 6.133 5.215 8.828
Tỷ lệ thuế truy thu/Tổng thu NSNN
Tỷ lệ thuế truy thu/Tổng thu nội địa (trừ dầu thô)
0,472% 0,612% 0,808% 0,725% 0,524% 0,806%
0,768% 0,943% 1,179% 1,068% 0,706% 1,046%
[Nguồn: Tổng cục Thuế và Tính toán của NCS] Bên cạnh kết quả thanh tra thuế ở trên, kết quả kiểm tra thuế dưới đây cũng cho thấy tỷ lệ giữa số thuế đề nghị tăng thu qua kiểm tra thuế cũng đạt ở tỷ lệ thấp so với tổng thu ngân sách và so với tổng thu nội địa. Bảng 3.11. Kết quả tăng thu qua kiểm tra thuế giai đoạn 2011 – 2016 Đơn vị tiền: Tỷ đồng Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Số thuế tăng thu qua kiểm tra 4.991,00 5.727,02 6.208,00 5.489,40 5.775,91 7.868,00
Tỷ lệ % so với tổng thu ngân sách 0,691 0,779 0,749 0,649 0,580 0,719
Tỷ lệ % so với tổng thu nội địa 1,125 1,200 1,094 0,956 0,782 0,932
[Nguồn: Tổng cục Thuế và tính toán của NCS] Bảng số liệu trên cho thấy, số thuế tăng thu qua kiểm tra tăng khá đều qua các năm song còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nội địa và trong tổng thu NSNN, mới ở mức khoảng từ 0,5% đến 0,7% tổng thu NSNN và khoảng từ 0,7% đến 1,1% tổng thu nội địa. Bảng 3.10 và Bảng 3.11 cho thấy, mặc dù công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã được chú trọng, nhưng kết quả đạt được thể hiện qua số thuế truy thu, tăng thu qua
123
thanh tra, kiểm tra thuế còn chiếm tỷ trọng thấp. Số liệu này có thể phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nó cũng thể hiện được rằng, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế chưa được cao. Tình trạng thiếu hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế có thể được minh chứng bằng nhiều tình hình và số liệu cụ thể trong thực tế. “Cụ thể, tại tỉnh Quảng Bình, “theo thống kê, năm 2015, Công an tỉnh đã khởi tố 3 doanh nghiệp trốn thuế với số tiền gần 7 tỷ đồng, tăng 2 vụ so với năm 2014; đầu năm 2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh tiếp tục khởi tố 3 vụ với số tiền trốn thuế lên trên 15 tỷ đồng. Trong các trường hợp này, có doanh nghiệp đã thực hiện hành vi trốn thuế trong một thời gian dài, nhưng vẫn không bị phát hiện. Đơn cử như trường hợp doanh nghiệp Hiếu Trung (phường Đồng Sơn, TP.Đồng Hới). Từ năm 2013 đến năm 2014, doanh nghiệp này đã có hành vi mua 140 hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) không có hàng hóa kèm theo (hóa đơn khống) để kê khai thuế GTGT đầu vào nhằm khấu trừ thuế GTGT đầu ra để trốn thuế với tổng số tiền lên đến 13,9 tỷ đồng. Nhưng đến đầu năm 2016, khi Cơ quan Cảnh sát điều tra (Công an tỉnh) phối hợp với ngành Thuế, hành vi trốn thuế của doanh nghiệp này mới được điều tra làm rõ. Hay như vụ trốn thuế của Công ty TNHH Thương mại Lê Dũng Linh, qua công tác nắm tình hình, Phòng Cảnh sát kinh tế (Công an tỉnh) phát hiện công ty này có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế. Theo đó, từ năm 2012 đến ngày 30/6/2013, Công ty TNHH Thương mại Lê Dũng Linh đã nhập khẩu và xuất bán 60.530 con trâu, bò, với tổng doanh thu hơn 281 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong năm 2012, công ty này đã không lập hóa đơn đúng thời điểm bán hàng, không kê khai thuế đầy đủ. Công an tỉnh đã đề nghị cơ quan Thuế phối hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra, truy thu và xử phạt Công ty TNHH Thương mại Lê Dũng Linh số tiền hơn 1,2 tỷ đồng. Chưa dừng lại ở đó, lợi dụng các "kẽ hở" của chính sách thuế và công tác quản lý thuế hiện nay, nhiều doanh ngiệp còn "bắt tay" với các doanh nghiệp ngoài địa bàn tỉnh để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước gây không ít khó khăn trong việc kiểm soát và thu thuế. Vụ trốn thuế tại các Công ty TNHH xăng dầu Ngọc Thanh, Công ty TNHH Hải Vân và Công ty TNHH Phú Hải là một ví dụ. Năm 2014, 3 công ty này đã mua hóa đơn GTGT của một số doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh để hợp thức hóa số lượng dầu mua trôi nổi trên thị trường, với mục đích nhằm khấu trừ thuế GTGT để trốn thuế gần 5 tỷ đồng. Rõ ràng hành vi trốn thuế của các doanh nghiệp là cực kỳ nghiêm trọng, chẳng những gây thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước, mà còn ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Điều đáng
124 nói là một số doanh nghiệp nói trên vẫn được cơ quan Thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra theo định kỳ. Nghĩa là, doanh nghiệp vẫn nằm trong vòng kiểm soát của cơ quan Thuế. Thế nhưng, vì sao vẫn còn "kẽ hở" để doanh nghiệp trốn thuế? Vấn đề đặt ra ở đây là công tác theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thuế của các cơ quan chức năng đã thực sự có hiệu quả? Anh Hoàng Ngọc Trâm, Trưởng phòng Thanh tra thuế (Cục Thuế) cho biết, theo cơ chế quản lý thuế hiện nay, thì doanh nghiệp tự tính, tự khai và tự nộp thuế, nghĩa là các thủ tục để nộp thuế của họ đã đầy đủ, hóa đơn đã hợp pháp, nên khó mà phát hiện. Chỉ khi qua nhiều đợt thanh tra, kiểm tra phát hiện thấy doanh nghiệp có một số dấu hiệu lặp đi lặp lại bất thường về thủ tục, thì cơ quan Thuế mới phối hợp cùng cơ quan Công an vào cuộc xác minh, điều tra. Ngoài ra, có thể kể đến công tác quản lý doanh nghiệp hiện nay chưa được chặt chẽ. Việc kiểm tra hồ sơ khai thuế, phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế, dẫn đến chưa nắm bắt, đánh giá chưa đúng thực trạng hoạt động của doanh nghiệp cũng là một nguyên nhân tạo ra "kẽ hở" cho các hành vi trốn thuế. Để hạn chế những kẽ hở không đáng có, cơ quan Thuế đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ quyết liệt, trong đó trọng tâm là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, và đối chiếu theo các tiêu chí rủi ro về thuế nhằm chống thất thu thuế” [13].
Tương tự, tại TP Hồ Chí Minh, Thanh tra Chính phủ đã thực hiện thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, chống thất thu ngân sách nhà nước tại Cục Thuế TP Hồ Chí Minh. Kết luận thanh tra cho thấy: “- Việc xây dựng, giao chỉ tiêu và thực hiện kế hoạch thanh tra còn nhiều bất cập, thiếu sót; Công tác quản lý thuế thông qua việc kiểm tra thường xuyên hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế thực hiện không đầy đủ; Việc chấp hành quy định về quy trình tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế chưa nghiêm;… - Qua kiểm tra, xác minh Thanh tra Chính phủ đã phát hiện 44 doanh nghiệp (bên mua) sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, hóa đơn không đủ điều kiện khấu trừ để kê khai, hoàn thuế với số tiền phải truy thu và giảm khấu trừ gần 26,4 tỉ đồng. Thời điểm kết thúc thanh tra trực tiếp, có 5 doanh nghiệp đã chủ động nộp tiền thuế vi phạm vào tài khoản tạm giữ của Thanh tra Chính phủ và nộp vào ngân sách nhà nước với tổng tiền gần 5,9 tỉ đồng. Thanh tra Chính phủ đã bàn giao cho Cục Thuế Thành phố toàn bộ thông tin, số liệu của 9.116 doanh nghiệp do Thanh tra Chính phủ kiểm tra trên cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế quản lý, phát hiện doanh nghiệp có sử dụng hóa đơn bất hợp pháp kê khai khấu trừ thuế, hoàn thuế với tổng giá trị trên 3.537 tỉ đồng để cơ quan thuế tiếp tục kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền. Ngoài ra, có 18 doanh nghiệp (bên mua) sử dụng 349 tờ hóa đơn của doanh nghiệp bỏ trốn, với tổng số tiền trên 201,6 tỉ đồng, tiền thuế giá trị gia tăng trên 19,7 tỉ
125 đồng. Các doanh nghiệp này tiếp tục bỏ trốn, có dấu hiệu của việc mua bán hóa đơn, vi phạm Điều 161 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Luật Quản lý thuế 2006. Kết quả xác minh của cơ quan thuế báo cáo, doanh nghiệp bên mua tiếp tục bỏ trốn, có dấu hiệu mua bán hóa đơn qua nhiều cấp trung gian ở địa bàn nhiều tỉnh, thành phố khác nhau. Căn cứ Điều 161 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Luật Quản lý thuế 2006 về chuyển hồ sơ cho cơ quan công an phối hợp điều tra, truy tố xét xử các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, quy chế phối hợp giữa Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính và Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm - Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ yêu cầu Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để điều tra, xác minh, xử lý theo quy định” [23].
Qua tình hình nêu trên, có thể thấy hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế chưa cao, hiện tượng gian lận, trốn thuế vẫn còn nhiều nhưng chưa được cơ quan thuế phát hiện kịp thời, phải trông chờ vào sự phát hiện của các cơ quan chức năng khác. Bên cạnh đó, công tác xử lý các hành vi vi phạm về thuế chưa được đặt đúng tầm, chưa tập trung nguồn nhân lực làm công tác này trong khi số lượng người nộp thuế ngày càng tăng. Ngoài ra, các thủ tục và thời gian liên quan đến thanh tra thuế cũng đang được cộng đồng doanh nghiệp cho là còn gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình tuân thủ [48]. Đây là những bất cập cần được khắc phục kịp thời để phát huy vai trò của thanh tra, kiểm tra thuế trong chống thất thu NSNN, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Tóm lại, qua đánh giá thực trạng tình hình thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra thuế nêu trên, có thể thấy, hoạt động này thời gian qua đã được CQT hết sức chú trọng. Với những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đã góp phần đáng kể vào việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế, chống thất thu NSNN và nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. d) Thực trạng công tác quản lý nợ thuế, cưỡng chế nợ thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế là việc CQT quản lý, theo dõi các khoản thuế nợ của NNT và áp dụng các biện pháp theo quy định của Luật Quản lý thuế để thu đủ số thuế nợ đó. Thời gian qua, Tổng cục Thuế đã ban hành các quy trình để thực hiện nội dung quản lý này. Cụ thể, ngày 15/05/2008, Quy trình Quản lý thu nợ thuế được ban hành kèm theo Quyết định số 477/QĐ-TCT. Đến nay, Quy trình này đã được thay thế bằng Quy trình Quản lý nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số 1401/QĐ-TCT ngày 28/7/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
126
Quy trình Cưỡng chế nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số 490/QĐ-TCT ngày 08/05/2009. Đến nay, đã được thay thế bằng Quy trình ban hành kèm theo Quyết định số 751/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế. Theo các Quy trình này, công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được CQT các cấp chú trọng triển khai thực hiện. Tình hình cụ thể như sau: Một là, giám sát, quản lý chặt chẽ tình hình nộp thuế để xác định và quản lý số thuế nợ. Trong điều kiện áp dụng phương thức tự tính, tự khai, tự nộp thuế, NNT có trách nhiệm nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn qui định và tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật thuế. Để tạo thuận lợi cho quá trình thu nộp, NNT có thể nộp thuế tại Kho bạc nhà nước hoặc ngân hàng hoặc qua giao dịch thuế điện tử. Với tư cách là cơ quan quản lý, để giám sát quản lý tình hình nộp thuế của NNT, CQT đã ứng dụng tin học hóa để có thể kết nối thông tin nộp thuế với Kho bạc, ngân hàng. Nhờ đó, có thể giám sát chặt chẽ tình hình thu nộp. Đặc biệt, CQT đã triển khai đầy đủ dịch vụ nộp thuế điện tử. Theo đó, nộp thuế điện tử là dịch vụ cho phép NNT lập Giấy nộp tiền vào NSNN trực tiếp trên Cổng thông tin điện tử của CQT và được Ngân hàng thương mại xác nhận kết quả giao dịch nộp thuế tức thời. Việc thực hiện nộp thuế điện tử đã mang lại nhiều lợi ích cho NNT trong quá trình nộp thuế như: Tiết kiệm được chi phí đi lại, thời gian giao dịch; đơn giản thủ tục giấy tờ khi thực hiện nghĩa vụ thuế; có thể nộp thuế tại bất cứ địa điểm nào có kết nối Internet; nộp thuế 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần, kể cả ngày nghỉ/lễ, được NHTM xác nhận kết quả giao dịch ngay khi gửi giấy nộp tiền; có thể truy cập Cổng thông tin điện tử của CQT để xem, in, tải về các thông báo, giấy nộp tiền điện tử đã nộp; được sử dụng các dịch vụ giá trị gia tăng khác của NHTM... Hoạt động này đã tạo điều kiện thuận lợi cho NNT, giúp NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình, từ đó góp phần nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. Hai là, hoạt động quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã được triển khai đầy đủ và đồng bộ. Nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm đôn đốc thu hồi kịp thời cho ngân sách và hạn chế thấp nhất số nợ mới phát sinh. Đó là: - Giao chỉ tiêu thu nợ từ cấp Tổng cục cho đến từng bộ phận tham gia trực tiếp thực hiện quy trình quản lý nợ thuế, quy trình cưỡng chế nợ thuế nhằm nâng cao trách nhiệm của CQT các cấp cũng như các bộ phận trong CQT đối với công tác quản lý nợ, cưỡng chế nợ thuế.
127
- Đẩy mạnh việc phối hợp giữa bộ phận quản lý nợ với các bộ phận thực hiện các chức năng khác như kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế. Phối hợp với NNT, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước để điều chỉnh kịp thời đối với việc hạch toán nhầm các chỉ tiêu trên chứng từ nộp tiền, hạn chế “nợ ảo” phát sinh. - Đối với loại nợ thuế dưới 90 ngày, CQT thực hiện phát hành kịp thời, đầy đủ thông báo nợ thuế hoặc thông báo qua điện thoại, nhắn tin, gửi thư điện tử, fax tới các DN để đôn đốc thu nợ và ban hành các thông báo sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm nhắc nhở đối với những khoản nợ trên 90 ngày. - Thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng về kỹ năng quản lý nợ thuế cho công chức làm công tác quản lý nợ tại CQT các cấp. Từ năm 2014, khi Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) được đưa vào vận hành phục vụ cho công tác quản lý thuế, hoạt động quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đã đi vào bài bản và toàn diện hơn. Cơ sở dữ liệu kê khai đã nhập trên hệ thống quản lý thuế TMS được rà soát những trường hợp nợ thuế để tham mưu cho lãnh đạo chỉ đạo các bộ phận có liên quan phối hợp rà soát và đôn đốc kịp thời các khoản nợ thuế vào NSNN. Đối với hoạt động cưỡng chế nợ thuế, căn cứ cơ sở dữ liệu quản lý thuế tập trung TMS, định kỳ, Tổng cục Thuế thông báo danh sách các DN có số tiền thuế nợ lớn, kéo dài để các cục thuế địa phương tổ chức rà soát, đối chiếu số liệu, kịp thời xác định chính xác số nợ của từng NNT. Trên cơ sở đó, các cục thuế và chi cục thuế ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế theo quy định. Ba là, hoạt động quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã đạt được nhiều kết quả khả quan, đảm bảo thu hồi được số thuế nợ đọng, hạn chế thất thu ngân sách và nâng cao ý thức tuân thủ thuế của NNT. Với việc triển khai các biện pháp nói trên, công tác quản lý nợ đọng thuế và cưỡng chế nợ thuế ngày càng đi vào nề nếp và đạt được những kết quả tích cực. Số thu hồi nợ đọng tăng dần qua các năm: Năm 2012 thu được 22.751 tỷ đồng, tăng 13,6%; năm 2013 thu được 27.136 tỷ đồng, tăng 19,3%; năm 2014 thu được 31.920 tỷ đồng, tăng 17,6%; năm 2015 thu được 39.102 tỷ đồng, tăng 22,5% so với cùng kỳ; năm 2016 thu được 42.075 tỷ đồng, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2015 [30 - 34]. Cuộc khảo sát của NCS đối với một số công chức thuế và NNT về hiệu quả công tác đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế cũng như tác động của hoạt động này đến tính tuân thủ thuế của NNT đều cho kết quả rất khả quan, thể hiện ở Biểu đồ 3.14 dưới đây.
128
Biểu đồ 3.14: Kết quả khảo sát về tác động của hoạt động đôn đốc thu nộp, cưỡng chế thuế đối với tính tuân thủ thuế của NNT Biểu đồ trên cho thấy, với mức điểm tối đa là 5, số điểm bình quân của công chức thuế đối với hai nội dung trên lần lượt là 4,29 và 4,48 điểm; trong khi đó số điểm bình quân của NNT cho tương ứng là 4,47 và 4,49 điểm. Như vậy, theo những người được khảo sát, hoạt động quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế đã góp phần hạn chế tình trạng nợ thuế. Hoạt động này đã có tác động mạnh mẽ đến ý thức tuân thủ thuế của NNT khi nó có tác dụng bắt buộc NNT phải thực hiện đầy đủ và kịp thời nhất nghĩa vụ nộp thuế của mình đối với NSNN. Tuy vậy, công tác cưỡng chế, thu nợ vẫn còn một số bất cập, cách phân loại nợ để quản lý và đôn đốc thu chưa tính đầy đủ đến nguyên nhân nợ và chưa được xem xét trong bối cảnh mức độ tuân thủ thuế chung của một người nộp thuế cụ thể, do vậy, chưa có biện pháp xử lý đôn đốc nợ thuế một cách phù hợp nhất qua đó mang lại hiệu quả cao trong quản lý nợ. Việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế ở một số địa phương chưa cương quyết và chưa phù hợp nên hiệu quả cưỡng chế nợ thuế chưa cao. Theo Tổng cục Thuế, năm 2015, tỷ lệ ban hành Thông báo tiền thuế nợ, tiền phạt và tiền chậm nộp (bình quân cả nước mới đạt 76%); tỷ lệ người nợ thuế thuộc trường hợp cưỡng chế nhưng chưa thực hiện cưỡng chế trung bình cả nước là 58,7%. Những địa phương có tỷ lệ người nợ thuế thuộc trường hợp cưỡng chế nhưng chưa thực hiện cưỡng chế cao hơn mức chung của cả nước (trên 58,7%) cũng vượt quá con số 10 địa phương. Điều này dẫn tới, chỉ có 22 địa phương có số nợ thuế giảm so với năm 2014 [33]. 3.3.3. Thực trạng trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của công chức thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Như đã phân tích ở chương 2 của luận án, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ, công chức quản lý thuế sẽ góp phần đảm bảo tính
129
nghiêm minh của pháp luật thuế, sự tuân thủ thuế của NNT khi nó có tác động cả trên phương diện trực tiếp và gián tiếp đến tính tuân thủ thuế của NNT. Tính đến 31/12/2016, tổng số công chức, viên chức và hợp đồng lao động của toàn ngành Thuế là 43.120 người, trong đó công chức và viên chức là 39.018 người, hợp đồng lao động theo Nghị định số 68 là 4.102 người. Đại đa số công chức ngành Thuế đều có trình độ đại học trở lên, trong đó, có 259 tiến sĩ, 3.430 thạc sỹ và 3.387 cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp. Về bộ máy quản lý, đến thời điểm 31/12/2016, Cơ quan Tổng cục Thuế có 19 Vụ, đơn vị, 47 phòng; Tại 63 Cục Thuế các tỉnh, thành phố trong cả nước có 789 phòng, 711 Chi cục Thuế và 5.165 đội Thuế (giảm 109 Đội thuế so với thời điểm 31/12/2015). Bên cạnh đó, ngành thuế đã từng bước điều chỉnh, cơ cấu lại nguồn nhân lực theo hướng giảm tỷ trọng cán bộ ở các bộ phận quản lý gián tiếp, tăng cường cán bộ cho các bộ phận quản lý thuế theo chức năng (từ 46,68% năm 2015 tăng lên 47,38% trong năm 2016), trong đó, công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra tăng từ 24,59% năm 2015 tăng lên 25,24% [34]. Trong thời gian qua, Tổng cục Thuế cũng đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như: Đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; ban hành Tuyên ngôn ngành Thuế; đồng thời sửa đổi, bổ sung các Quy định về “10 điều kỷ luật của ngành”, “Những tiêu chuẩn cần xây, những điều cần chống”, “Tiêu chuẩn văn hoá công sở và đạo đức công chức thuế”... nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương của công chức thuế khi thực thi công vụ. Gần đây nhất, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế đã ban hành Chỉ thị số 01/CTTCT ngày 19/8/2014 về việc tăng cường kỷ cương kỷ luật, chấn chỉnh lề lối làm việc, thái độ, tác phong ứng xử của công chức thuế với người nộp thuế và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ cho NNT. Đây có thể coi là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn ngành Thuế, nhằm một mặt xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu chuyên nghiệp, một mặt tăng cường kỷ cương kỷ luật, chấn chỉnh lề lối làm việc, thái độ, tác phong ứng xử của công chức thuế với người nộp thuế. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế còn chú trọng thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, luân phiên công việc, chuyển đổi vị trí công tác. Đây là một khâu đột phá trong công tác tổ chức cán bộ, rất được quan tâm ở ngành Tài chính nói chung và ngành Thuế nói riêng. Trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 về chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức; từ năm 2005, Tổng cục Thuế đã có Quyết định số 1197/QĐ-TCT ngày 04/11/2005 ban
130
hành Quy chế tổ chức thực hiện điều động, luân chuyển và luân phiên công việc đối với cán bộ, công chức, viên chức trong ngành Thuế. Hàng năm, Tổng cục Thuế đều chỉ đạo triển khai luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác hàng ngàn lượt cán bộ, công chức và tập trung chủ yếu ở những khâu nhạy cảm, tiếp xúc trực tiếp, giải quyết các thủ tục cho người nộp thuế. Đây là việc làm thường xuyên hàng năm của toàn ngành Thuế và coi đây là chỉ tiêu thi đua của các đơn vị, nhằm thúc đẩy công tác luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác ngày càng tốt hơn. Theo thống kê, hàng năm toàn ngành Thuế thực hiện điều động, luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác cho khoảng 13% - 15% công chức toàn Ngành (khoảng 5000 - 6000 lượt mỗi năm). Cụ thể, năm 2012 đã luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác đối với 6.400 lượt. Năm 2013 đã luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác đối với 5.788 lượt. Năm 2014 đã luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác đối đối với 6.525 lượt. Năm 2015 đã đã luân chuyển, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác cho 7.858 lượt công chức, đạt 18,2% số công chức. Năm 2016, toàn hệ thống thuế đã luân chuyển, luân phiên, điều động, chuyển đổi vị trí công tác cho 8.547 lượt công chức, trong đó: Luân chuyển: 430 lượt công chức; luân phiên: 1.045 lượt công chức; điều động: 2.730 lượt công chức; chuyển đổi vị trí công tác: 4.342 lượt công chức [30 - 34]. Những nội dung trên của ngành Thuế đối với công tác cán bộ đã có những tác động tốt tới việc tạo điều kiện cho người nộp thuế tuân thủ thuế và nâng cao tính tuân thủ thuế của họ. Tuy nhiên, do địa bàn rộng, quản lý trong phạm vi toàn quốc, từ trung ương đến địa phương, đối tượng quản lý đông, phức tạp, nên đôi lúc cũng không tránh khỏi ở một số nơi hoặc tại một số thời điểm vẫn còn một số công chức thuế chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực chuyên môn; thiếu tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, thiếu tinh thần trách nhiệm, gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế... làm ảnh hưởng đến thành tích chung, đến uy tín và hình ảnh của ngành Thuế. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã thực hiện một cuộc khảo sát đối với các doanh nghiệp và liên minh hợp tác xã về việc thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP (tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia) trong lĩnh vực Thuế và Hải quan năm 2015. Tham gia khảo sát có 180 đơn vị, trong đó có 153 hiệp hội doanh nghiệp và 27 liên minh hợp tác xã các tỉnh, thành phố. Khảo sát được thực hiện từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2015. Cuộc khảo sát này đã tìm hiểu các vấn đề cản trở, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong đó nổi bật là vấn đề chi
131
phí không chính thức khi làm việc với cán bộ thuế. Theo nhận định của các hiệp hội doanh nghiệp và liên minh hợp tác xã, đây vẫn là vấn đề khá phổ biến, có nhiều doanh nghiệp quan ngại và các nỗ lực giảm thiểu tình trạng này chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Báo cáo khảo sát cho biết, 55% đơn vị tham gia khảo sát đồng tình với lý giải cho thực trạng trên là xuất phát từ tâm lý e ngại nếu không “chi thêm”, doanh nghiệp sẽ bị phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, 85% hiệp hội doanh nghiệp và liên minh hợp tác xã cho biết khi không chi các khoản lót tay, các đơn vị này sẽ bị “yêu cầu bổ sung, giải trình hồ sơ”; 68% cho rằng sẽ bị kéo dài thời gian làm thủ tục và 66% cho rằng sẽ nhận được thái độ không văn minh, lịch sự của công chức thuế. VCCI cho biết, tồn tại việc chi trả các chi phí không chính thức không chỉ từ thực trạng nhũng nhiễu, làm khó doanh nghiệp của một số cán bộ, mà có thể là sự chủ động và đồng thuận từ phía doanh nghiệp để tránh được một phần nghĩa vụ nộp thuế của mình. Điều này, nếu xảy ra, sẽ làm thất thu ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, không công bằng đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt, VCCI nhận định. Trong đó, báo cáo khảo sát nêu rõ: “Chỉ có khoảng 20% cán bộ công chức là tận tình chu đáo, số còn lại 80% chỉ là hoàn thành nhiệm vụ, thậm chí gây khó dễ” [48]. Với các số liệu đã công bố qua khảo sát của VCCI, tại buổi họp báo thường kỳ quý II - 2015 của Bộ Tài chính chiều 30/6/2015, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế - ông Nguyễn Đại Trí xác nhận: “Con số này là khách quan, phần nào phản ánh đúng tình trạng hiện nay của một bộ phận cán bộ thuế trong quá trình tác nghiệp“ [48]. Một đề tài nghiên cứu về chống gian lận thuế trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại do PGS.TS Lê Xuân Trường làm chủ nhiệm (2016) cũng cho kết quả tương đồng như trên khi đánh giá khảo sát về tính liêm chính của công chức thuế và tác động của nó đến gian lận thuế của NNT. Cụ thể như sau: “Khi được hỏi về nhận định rằng nguyên nhân của gian lận thuế trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại là cho công chức thuế thông đồng với người nộp thuế (câu hỏi này chỉ hỏi đối tượng khác, không hỏi công chức thuế) thì có 10,48% số người được hỏi nhất trí với đánh giá đó; 4,76% số người được hỏi không đồng ý và 84,76% số người được hỏi cho rằng nhận định đó chỉ đúng trong một số trường hợp. Điều này cho thấy, phần lớn những người được khảo sát cho rằng có một bộ phận công chức thanh tra, kiểm tra thuế có hành vi tham nhũng, thông đồng với người nộp thuế để giúp người nộp thuế gian lận thuế trong lĩnh vực kinh doanh thương mại” [42].
132
Qua tình hình và số liệu nêu trên, có thể nhận thấy, công tác cán bộ của ngành Thuế liên quan đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp vẫn còn những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả quản lý thuế nói chung, đến ý thức và mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế nói riêng. 3.3.4. Thực trạng cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Như đã phân tích ở chương 2, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố có tính chất điều kiện tiền đề vật chất cho hoạt động kê khai, nộp thuế của NNT và hoạt động quản lý thuế của CQT. Cơ sở vật chất, kỹ thuật ngành Thuế ở đây được hiểu trên hai góc độ: Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tuân thủ thuế của NNT và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động quản lý của CQT. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001 - 2010 cũng như giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định, ứng dụng CNTT và áp dụng thuế điện tử là một trong những nhiệm vụ quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế. Theo đó, việc ứng dụng CNTT sẽ làm giảm ít nhất 50% chi phí tuân thủ thuế cho NNT; tự động hoá ít nhất 90% khối lượng công việc trong tất cả các chức năng quản lý thuế đối với cơ quan thuế; đồng thời, giúp loại bỏ thủ tục giấy tờ và sự tiếp xúc giữa NNT với cơ quan thuế. Thực hiện nhiệm vụ đó, trong những năm qua, ngành Thuế đã đẩy mạnh thực hiện ứng dụng CNTT vào công tác quản lý thuế, bước đầu đã mang lại nhiều kết quả thiết thực. Cụ thể như sau: - Ngành Thuế đã ứng dụng CNTT vào hoạt động tuyên truyền thuế với các công việc chủ yếu như: Cung cấp các văn bản pháp luật về thuế, trong mục văn bản pháp quy trên website của Ngành; mở các chuyên mục cung cấp tài liệu đặc thù trong website của ngành Thuế; niêm yết công khai bộ thủ tục hành chính thuế trên website Ngành và các trang điện tử của cơ quan thuế các tỉnh, thành phố. Các thông tin quan trọng liên quan đến việc triển khai các văn bản pháp luật mới về thuế đều có những chuyên mục riêng để NNT và những người quan tâm dễ dàng tìm hiểu. Đồng thời, thông qua ứng dụng CNTT cơ quan thuế các cấp đã trả lời, giải đáp kịp thời nhiều vướng mắc về thuế cho NNT. - Ngành Thuế đẩy mạnh thực hiện ứng dụng CNTT kết hợp giữa mã số Đăng ký kinh doanh và Đăng ký thuế tại bộ phận “Một cửa” đã giảm đáng kể thủ tục và thời gian kê khai cho NNT. - Đã triển khai ứng dụng CNTT vào kê khai thuế trên cơ sở sử dụng công nghệ mã vạch hai chiều và mạng internet nhằm hỗ trợ người nộp thuế kê khai thuế nhanh chóng và chính xác. Ứng dụng CNTT trong trao đổi thông tin giữa ngành Thuế với
133
hệ thống Kho bạc, Hải quan, Tài chính và Ngân hàng đã hỗ trợ cho NNT giảm thủ tục và thời gian nộp thuế. Trong năm 2016, hệ thống khai thuế qua mạng và dịch vụ nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố, có 566.662 DN tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng, đạt 99,81%; số lượng hồ sơ khai thuế điện tử đã tiếp nhận và xử lý là trên 35,8 triệu hồ sơ. Số lượng DN hoàn thành đăng ký dịch vụ với ngân hàng là 551.089 DN, chiếm tỷ lệ 97,06 %. Số tiền đã nộp NSNN từ 1/1/2016 đến 31/12/2016 là trên 492.000 tỷ đồng và trên 2,2 triệu lượt giao dịch nộp thuế điện tử [34]. - Ngành Thuế đã xây dựng được hệ thống mạng máy tính kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu toàn ngành từ Tổng cục đến tất cả các cục thuế và chi cục thuế quận, huyện. Những thông tin cơ bản về số thu nộp thuế được truyền giữa các cấp và được máy tính xử lý tự động. Toàn ngành Thuế đã được trang bị mạng máy tính cục bộ hơn 11 nghìn máy tính, 728 máy chủ và hàng nghìn thiết bị kết nối mạng khác... Theo đó, số cán bộ thuế đã được đào tạo sử dụng máy tính đạt gần 20.000 người và hệ thống chương trình ứng dụng đã được triển khai rộng khắp toàn ngành phục vụ các yêu cầu trọng tâm của công tác quản lý thuế và quản lý nội bộ Ngành [33]. Nhìn chung, ngành Thuế đã có được một hệ thống CNTT hiện đại, ứng dụng tin học trong hầu hết các chức năng quản lý của cơ quan thuế với hệ thống thông tin thuế từ cơ sở dữ liệu NNT tập trung, đầy đủ theo yêu cầu quản lý của cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế. Hệ thống tin học ngành Thuế trong thời gian qua cũng đã phát huy hiệu quả tích cực với công tác quản lý thu thuế như việc xử lý thông tin quản lý thuế chính xác, kịp thời đáp ứng được nhu cầu quản lý thu thuế, giảm bớt thao tác xử lý thủ công, trợ giúp phát hiện các trường hợp kê khai sai, nhanh chóng nắm được tình hình nộp thuế và nợ thuế hàng ngày của từng NNT, xử lý phạt nộp chậm theo đúng luật. Đồng thời hỗ trợ công tác quản lý thuế được chặt chẽ hơn. Các Cục Thuế được nối mạng tra cứu MST trên phạm vi toàn quốc đã giúp phát hiện một số doanh nghiệp sử dụng sai MST hoặc MST giả để kê khai sai tiền thuế phải nộp, phát hiện thêm nhiều đối tượng kinh doanh không nộp thuế... Hệ thống thông tin ngành Thuế đã giúp NNT tính thuế nhanh chóng, chính xác, cho phép NNT truy cập hệ thống dịch vụ thuế dễ dàng cả 24 giờ/7 ngày, không phải chờ đợi đến lượt; tự làm các thủ tục kê khai, nộp thuế theo hướng dẫn với chi phí không đáng kể; tạo điều kiện cho cơ quan thuế hoàn thuế ngay cho NNT. NNT được cơ quan thuế cung cấp dịch vụ thuế đầy đủ, nhanh chóng theo nhiều kênh để tự thực hiện việc kê khai và nộp thuế, được tạo điều kiện thuận lợi nhất trong tuân thủ thuế của mình.
134
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến mạnh mẽ trong ứng dụng CNTT vào quản lý thuế, tạo sự thuận lợi cho NNT, trong thực tiễn triển khai hiện vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục, điển hình là: (1) Việc triển khai dịch vụ thuế điện tử mới chỉ được áp dụng đối với các công việc cơ bản như kê khai thuế, tra cứu thông tin của NNT; các khâu công việc thực sự liên quan đến dịch vụ thuế điện tử như đăng ký thuế điện tử, khai thuế điện tử, cưỡng chế nợ thuế, hoàn thuế và thanh tra thuế điện tử chưa triển khai được toàn diện và đúng nghĩa; (2) Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng công nghệ cho việc cung cấp dịch vụ thuế điện tử còn chưa hoàn thiện và đồng bộ; chưa đáp ứng được hết các nhu cầu của NNT khi sử dụng dịch vụ thuế điện tử; (3) Vai trò của các tổ chức trung gian (Đại lý thuế) trong mô hình áp dụng dịch vụ thuế điện tử còn chưa thực sự được chú trọng, do đó ảnh hưởng đến phạm vi áp dụng cũng như tính hiệu quả của công tác kê khai, nộp thuế; (4) Trình độ về CNTT của NNT chưa đồng đều, việc sử dụng các dịch vụ thuế do cơ quan thuế cung cấp còn nhiều lúng túng; điều kiện áp dụng CNTT (máy tính, đường truyền…) cũng ảnh hưởng đến chất lượng các dịch vụ thuế điện tử; tâm lý một số NNT chưa sẵn sàng đón nhận các dịch vụ thuế điện tử do các chi phí hạ tầng cao. 3.3.5. Thực trạng các yếu tố về người nộp thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của người dân trong thời gian qua cũng đã có sự tăng lên nên việc tuân thủ pháp luật và tuân thủ thuế tốt hơn. Kết quả khảo sát của NCS tại Biểu đồ 3.10 đã thể hiện rõ được điều này. Bên cạnh đó, thời gian qua, mặc dù còn không ít khó khăn, nhưng nền kinh tế Việt Nam cũng có những bước tiến nhất định, thu nhập của người dân cũng có sự gia tăng. Cùng với đó, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện người dân, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận các dịch vụ kinh tế, xã hội, giáo dục, tiếp cận thông tin, nâng cao dân trí, từ đó mà tình hình tuân thủ thuế của người nộp thuế cũng tăng lên. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, NNT ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hiểu một cách đầy đủ, sâu sắc về trách nhiệm, nghĩa vụ đối với NSNN và đặc biệt là quyền thụ hưởng lợi ích từ tiền thuế do mình đóng góp, nên ý thức tuân thủ thuế của họ chưa cao. Số lượng người nộp thuế tự triển khai các luật thuế theo đúng quy định chiếm tỷ lệ không cao, nên phần lớn người nộp thuế gặp khó khăn trong khai thuế, nộp thuế nếu không có sự hỗ trợ, hướng dẫn cụ thể của cơ quan thuế, cán bộ thuế.
135
Ngoài ra, đại bộ phận NNT ở Việt Nam là các cơ sở kinh doanh quy mô nhỏ, chưa quan tâm nhiều đến chế độ kế toán mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo cách quản lý tự phát của mình. Nhiều người nộp thuế cho rằng, sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận, quản lý hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Chính vì vậy, việc nhận thức và tuân thủ đầy đủ các quy định về hạch toán kế toán, hóa đơn chứng từ của người nộp thuế chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Kết quả khảo sát của NCS tại các Bảng 3.1; 3.5 đã thể hiện rõ điều này khi NNT có quy mô nhỏ luôn được đánh giá là có ý thức tuân thủ thấp nhất. Bên cạnh đó, NCS cũng có khảo sát về tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán của NNT cũng như năng lực kê khai thuế của NNT. Kết quả trả lời khảo sát thể hiện qua Biểu đồ 3.15 dưới đây.
Biểu đồ 3.15: Kết quả khảo sát về năng lực kê khai thuế, kế toán thuế và sử dụng hóa đơn chứng từ của NNT Biểu đồ trên cho thấy, cả NNT và công chức thuế đều đánh giá không cao về khả năng kê khai thuế, kế toán thuế cũng như sử dụng, lưu giữ hóa đơn, chứng từ của NNT. Điều này rõ ràng sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng tuân thủ thuế của NNT. 3.3.6. Thực trạng sự phát triển của hệ thống đại lý thuế và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Cùng với sự ra đời của Luật Quản lý thuế năm 2006 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007), cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của đại lý thuế đã được thiết lập ở Việt Nam. Để hướng dẫn cụ thể về điều kiện, thủ tục thành lập và công
136
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của đại lý thuế, ngày 3/4/2008, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 28/2008/TT-BTC hướng dẫn việc đăng ký hành nghề và quản lý hoạt động hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế, việc tổ chức thi, cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. Sau 4 năm thực hiện Thông tư này, để xử lý những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện, ngày 19/7/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 117/2012/TT-BTC hướng dẫn về hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế thay thế cho Thông tư 28/2008/TT-BTC nói trên. Những văn bản pháp lý này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế (gọi tắt là đại lý thuế). Trên cơ sở các văn bản pháp lý nói trên, cùng với sự ra đời của Hội Tư vấn thuế Việt Nam (ngày 17/4/2008), các đại lý thuế đã dần dần ra đời và phát triển. Hàng năm Tổng cục Thuế đã tổ chức kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế và tổ chức các hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục về thuế. Qua 9 năm hoạt động, Hội Tư vấn thuế Việt Nam đã nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình: Hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục về thuế, đại lý thuế trong cả nước; tham gia phổ biến, tuyên truyền đào tạo cho người nộp thuế thuận lợi hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước; tham gia phản biện xã hội và góp ý xây dựng chính sách, cơ chế về thuế và quản lý thuế, góp phần giúp cơ quan thuế nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác tổ chức và quản lý thu thuế, phí. Tại thời điểm tháng 3/2017 trên toàn quốc có 342 đại lý thuế đủ điều kiện hoạt động và đang thực hiện cung cấp dịch vụ làm thủ tục về thuế. Cũng tính đến tháng 3/2017, có 12 đại lý thuế bị đình chỉ hoạt động do vi phạm các quy định pháp luật đối với DN kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Như vậy, ước tính hàng năm đã có trên 30.000 DN và hàng trăm ngàn NNT thu nhập cá nhân thực hiện dịch vụ làm thủ tục về thuế qua các đại lý thuế. Điều này đã góp phần tích cực vào việc đảm bảo các thủ tục kê khai thuế và nộp thuế được thực hiện đảm bảo về thời gian và đúng quy định pháp luật do những công việc này được thực hiện bởi những tổ chức chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ thuế. Tuy nhiên, sau gần 10 năm ra đời và phát triển mô hình đại lý thuế, con số 342 đại lý thuế đủ điều kiện và đang hoạt động cung cấp dịch vụ làm thủ tục về thuế là rất nhỏ, đặc biệt ở bối cảnh mà hiện nay Việt Nam đang có trên 570.000 DN đang hoạt động, trong đó, có trên 20% là DN siêu nhỏ, 1,6 triệu hộ kinh doanh cá thể, hàng triệu NNT thu nhập cá nhân - những đối tượng rất cần được cung cấp dịch vụ
137
làm thủ tục về thuế. Thêm vào đó, những doanh nghiệp khác cũng có nhu cầu không nhỏ về tư vấn thuế. Rõ ràng, sự phát triển không mạnh mẽ của hệ thống đại lý thuế cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tuân thủ thuế chưa tốt thời gian qua. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát triển chậm của các đại lý thuế, trong đó, nổi bật là các nguyên nhân sau: (i) Hoạt động đào tạo để cấp chứng chỉ hiện nay của Hội Tư vấn thuế và các tổ chức khác chưa đáp ứng yêu cầu kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề làm dịch vụ làm thủ tục về thuế cả trên phương diện nội dung học và phương pháp giảng dạy, học tập; (ii) Cách thức và nội dung thi nặng về học thuộc mà không đặt trọng tâm kiểm tra sự hiểu biết và khả năng vận dụng của người dự thi nên tỷ lệ người dự thi đạt yêu cầu còn thấp; (iii) Chưa phát triển mô hình tổ chức kỳ thi độc lập, khách quan có ứng dụng công nghệ thi hiện đại và tổ chức nhiều kỳ thi cấp chứng chỉ dịch vụ làm thủ tục về thuế; (iv) Mô hình liên thông dịch vụ giữa đại lý thuế và các công ty kiểm toán chưa định hình rõ và tạo điều kiện phát triển. 3.3.7. Thực trạng các yếu tố về tình hình kinh tế - xã hội và tác động đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế Trong giai đoạn 2011 - 2016 vừa qua, mặc dù nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung cũng đã có những bước tăng trưởng đáng kể, đặc biệt, đời sống dân cư cũng đã được cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trước đó. Điều này đã có tác động không nhỏ đến ý thức tuân thủ thuế của NNT. Bởi vì rõ ràng, khi thu nhập dân cư tăng lên và ổn định, chất lượng cuộc sống được nâng lên, xã hội trở nên văn minh hơn... thì tâm lý tuân thủ luật pháp nói chung cũng tăng lên trong đó có tuân thủ thuế. Giai đoạn 2011 - 2016, công nghệ thông tin ở Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tuân thủ thuế của NNT. Bởi vì, có thể nói, công nghệ thông tin phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho tuân thủ thuế và giám sát tuân thủ thuế. Với sự phát triển nhanh như ở nước ta hiện nay, công nghệ thông tin đang có những đóng góp vô cùng quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trong công tác quản lý thuế, công nghệ thông tin cũng đang phát huy những vai trò tích cực. Kế thừa những thành tựu của công nghệ thông tin hiện nay và tốc độ phát triển nhanh chóng trong giai đoạn tới, công nghệ thông tin tiếp tục là công cụ quan trọng tạo điều kiện cho NNT tuân thủ từ khâu đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế với các hình thức như khai thuế qua mạng, thuế điện tử, tra cứu thông tin dữ liệu tuân thủ thuế...
138
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay phát triển chưa ổn định, có nhiều giai đoạn thăng trầm, nhất là giai đoạn 2008 đến nay, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng nộp thuế của người nộp thuế. Do đó, đối với người nộp thuế nói chung, người nộp thuế trong khu vực kinh tế dân doanh, với mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong điều kiện khó khăn đó, nên người nộp thuế đã tìm các biện pháp nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế của mình, dẫn đến họ có các hành vi vi phạm, không tuân thủ thuế theo quy định. Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, phần lớn các giao dịch kinh doanh và tiêu dùng cá nhân đều thực hiện thanh toán bằng tiền mặt. Thói quen mua hàng hóa, dịch vụ không cần lấy hóa đơn vẫn tồn tại phổ biến trong dân chúng. Điều này gây cho cơ quan quản lý nhà nước rất nhiều khó khăn trong việc quản lý dòng tiền chi phí, thu nhập của doanh nghiệp và người dân. Trong điều kiện đó, một số doanh nghiệp đã lợi dụng khai thác bằng cách lập các bộ hồ sơ thanh toán khống, không thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn chứng từ để gian lận thuế mà cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời. Còn với các cá nhân, việc được trao tay những khoản thu trực tiếp bằng tiền mặt cũng giúp họ trốn được một số tiền thuế lớn do các cơ quan chức năng không thể kiểm soát và quản lý được giá trị thực lớn hơn rất nhiều so với giá trị được ghi nhận của những khoản thu này. Chính yếu tố từ nền kinh tế - xã hội đã có tác động không nhỏ đến sự không tuân thủ thuế của NNT.
139
CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030 4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025 VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
Giai đoạn 2017 - 2025, Việt Nam sẽ gặp một số thuận lợi và khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội. Thuận lợi đầu tiên phải kể đến là giai đoạn này, Việt Nam được kế thừa thành quả tăng trưởng của nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2016 và tiếp tục cải thiện nhờ vào hàng loạt yếu tố hỗ trợ từ giá hàng hoá thấp, lực đẩy từ các DN FDI và nhu cầu bên ngoài, cùng với những cải cách về thể chế của nền kinh tế sẽ phát huy hiệu quả. Về các lĩnh vực kinh tế: - Khu vực công nghiệp - xây dựng sẽ tiếp tục tăng trưởng bứt phá và trở thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng toàn nền kinh tế trong giai đoạn 2017 - 2025 khi môi trường kinh doanh tiếp tục khởi sắc hơn, cầu trong nước cải thiện, và những ảnh hưởng tích cực từ chính sách hỗ trợ của Chính phủ. - Đối với khu vực dịch vụ, với sự cải thiện cầu tiêu dùng, xúc tiến thương mại được triển khai mạnh mẽ, cùng với việc hiện thực hóa của cộng đồng chung ASEAN và thực thi các hiệp định tự do thương mại mang lại tự do hóa thương mại dịch vụ, và tự do hóa đầu tư, tài chính sẽ có nhiều tác động tích cực đến việc mở rộng các hoạt động dịch vụ Việt Nam. Khu vực dịch vụ nhiều khả năng sẽ tăng trưởng tốt hơn trong giai đoạn 2017 - 2025. Về vốn đầu tư cho nền kinh tế: Cùng với khả năng phục hồi của nền kinh tế, đồng thời tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát huy nội lực của vốn đầu tư trong nước, theo đó, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Trong đó: - Vốn đầu tư phát triển từ nguồn NSNN: Trong giai đoạn 2017 - 2025 dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo đúng các nguyên tắc, tiêu chí quy định trong Luật Đầu tư công, nguồn vốn đầu tư từ NSNN sẽ có thể tăng tính trách nhiệm trong lựa chọn dự án, hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, phát huy được hiệu quả của nguồn vốn này.
140
- Vốn đầu tư phát triển khu vực tư nhân: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong và ngoài nước, hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân khởi sắc trở lại đồng nghĩa với vốn đầu tư khu vực này tăng trưởng. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Theo một số nguồn nghiên cứu, hiện tại, sức hút về vốn FDI của Việt Nam so với các quốc gia khác trong khu vực đã suy giảm hơn so với trước. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, sau khi Việt Nam hoàn tất nhiều thỏa thuận đàm phán từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương, nhất là hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thực thi Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP)… được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam. - Vốn đầu tư gián tiếp: Việc thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường đồng thời phát triển khu vực kinh tế tư nhân là quan điểm nhất quán của Việt Nam, được thể hiện rõ nét qua quyết tâm của Chính phủ trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước gắn với niêm yết trên TTCK không giới hạn tỷ lệ sở hữu và sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo động lực thu hút vốn đầu tư gián tiếp trong giai đoạn 2017 - 2025. Tuy nhiên, để hấp thụ nguồn vốn này, các DN trong nước cần nỗ lực vươn lên, tăng cường quản trị công ty, quản trị rủi ro, minh bạch và công khai hóa thông tin, đồng thời cơ quan quản lý cũng phải nâng cao năng lực quản lý, giám sát và điều hành thị trường nhằm bảo đảm sự ổn định, bền vững của TTCK, vừa thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư gián tiếp, vừa hạn chế được những bất lợi phát sinh. Về xuất nhập khẩu: Trong giai đoạn 2017 - 2025, tình hình xuất nhập khẩu dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt nhưng với tốc độ tương đương hoặc tăng nhẹ so với giai đoạn trước. Lý do có thể kể đến là nhu cầu thế giới, đặc biệt là những đối tác nhập khẩu lớn của Việt Nam được dự báo khả quan hơn; Thương mại và đầu tư thế giới cũng gia tăng; Các hiệp định thương mại song phương và đa phương bắt đầu phát huy tác dụng. Về tiêu dùng dân cư Sự phục hồi tích cực của tiêu dùng trong năm 2016 tạo ra bước đệm quan trọng cho tiêu dùng giai đoạn 2017 - 2025. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang phục hồi khả quan, không có quá nhiều biến động từ bên ngoài, chính phủ tiếp tục các chính sách bình ổn thị trường, dự báo tiêu dùng trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục phục hồi tích cực. Ngoài ra, xu hướng tiết kiệm sẽ giảm xuống do mức lãi suất tiết kiệm đã giảm xuống mức thấp. Thu nhập của người dân đến năm 2020 có khả năng tăng gấp 2 lần so với năm 2013, trong khi mức giá ổn định, người dân có thể tăng
141
chi tiêu dùng hoặc đầu tư thay vì tiết kiệm. Tâm lý tiêu dùng thoải mái hơn của người dân cũng sẽ đóng vai trò quan trọng tác động đến mức tăng trưởng tiêu dùng cao hơn trong thời gian tới. Một số khó khăn, thách thức cho kinh tế Việt Nam giai đoạn 2017 - 2025 có thể được dự báo là: - Trong dài hạn, khu vực công nghiệp - xây dựng sẽ đối mặt với những thách thức về giá cả một số nguyên vật liệu đầu vào, sức cạnh tranh của các DN sản xuất còn yếu, giá trị gia tăng trong sản xuất thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm chưa cao. Đáng lo lắng là công nghiệp chế biến, chế tác và phụ trợ vẫn còn tăng chậm. Đặc biệt, bối cảnh hội nhập khu vực sâu rộng, cộng đồng chung ASEAN (AEC) chính thức có hiệu lực vào cuối năm 2015, chính thức thực thi TPP trong một vài năm tới, nhiều DN sản xuất, kinh doanh Việt Nam sẽ phải đối mặt với khó khăn lớn trong cạnh tranh khi năng lực cạnh tranh còn yếu và chưa có sự chuẩn bị tốt cho hội nhập. - Đối với khu vực nông lâm thủy sản, những yếu tố hạn chế về năng suất và khó khăn do xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản phải đối diện với những yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và các điều kiện thương mại; chi phí đầu vào tiếp tục tăng và khó khăn trong đầu ra; chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp diễn ra chậm, chưa thực sự phản ánh lợi thế so sánh và chưa đáp ứng triển vọng nhu cầu trong tương lai vẫn sẽ là những yếu tố cản trở đến sự phát triển của khu vực này trong dài hạn. Ngoài ra, cộng đồng AEC ra đời và hiện thực hóa TPP cùng với việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp và chăn nuôi từ các nước vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn, hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Điều này sẽ gây ra những khó khăn lớn cho nông dân và các DN trong khu vực này. Sự phát triển của khu vực này trong tương lai sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả tái cấu trúc và thay đổi mô hình sản xuất gắn với công nghệ hiện đại, chi phí thấp, giúp nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp [15]. Với dự báo tình hình kinh tế - xã hội như trên cho thấy, tình hình này có tác động hai mặt cả tích cực và tiêu cực đến tính tuân thủ thuế và các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Cụ thể như sau: Một là, thu nhập dân cư tăng lên có tác động tích cực đến tình hình tuân thủ thuế của NNT.
142
Với xu thế thu nhập của người dân tăng lên trong những năm tới, đời sống dân cư được cải thiện, người tiêu dùng sẽ hướng đến những nhu cầu bậc cao, tình hình tuân thủ thuế sẽ được cải thiện. Khi thu nhập của người dân cao và ổn định, chất lượng cuộc sống được nâng lên, xã hội trở nên văn minh hơn... thì tâm lý tuân thủ luật pháp nói chung cũng tăng lên trong đó có tuân thủ thuế. Hai là, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của người dân tăng lên nên việc tuân thủ pháp luật và tuân thủ thuế tốt hơn. Cùng với thu nhập của người dân tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện người dân sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận các dịch vụ kinh tế, xã hội, giáo dục, tiếp cận thông tin, nâng cao dân trí từ đó mà tình hình tuân thủ thuế được thực hiện tốt. Ba là, nền tảng công nghệ thông tin phát triển vừa tạo điều kiện thuận lợi cho tuân thủ và giám sát tuân thủ thuế, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ nhằm ngăn ngừa những hành vi gian lận thuế. - Công nghệ thông tin phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho tuân thủ thuế và giám sát tuân thủ thuế. Với sự phát triển nhanh như ở nước ta hiện nay, công nghệ thông tin đang có những đóng góp vô cùng quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trong công tác quản lý thuế, công nghệ thông tin cũng đang phát huy những vai trò tích cực. Kế thừa những thành tựu của công nghệ thông tin hiện nay và tốc độ phát triển nhanh chóng trong giai đoạn tới, công nghệ thông tin tiếp tục là công cụ quan trọng tạo điều kiện cho NNT tuân thủ từ khâu đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế với các hình thức như khai thuế qua mạng, thuế điện tử, tra cứu thông tin dữ liệu tuân thủ thuế... Ứng dụng những thành tựu phát triển của công nghệ thông tin cũng tạo điều kiện thuận lợi cho CQT thực hiện có hiệu quả việc giám sát tuân thủ thuế. Một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược tài chính từ nay đến năm 2020 là hiện đại hoá công nghệ quản lý thuế gắn với công nghệ thông tin. Với mục tiêu đặt ra đến năm 2020, việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ làm giảm ít nhất 50% chi phí tuân thủ thuế cho NNT; tự động hoá ít nhất 90% khối lượng công việc trong tất cả các chức năng quản lý thuế đối với CQT. - Công nghệ thông tin cũng đặt ra những thách thức lớn trong việc chống gian lận thuế dựa trên nền tảng công nghệ thông tin và thương mại điện tử… Bên cạnh những tác động tích cực của ứng dụng công nghệ thông tin trong tuân thủ thuế và giám sát tuân thủ thuế thì ngành Thuế cũng phải đối mặt với gian lận thuế do chính việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Sử
143
dụng công nghệ thông tin trong quản lý là phải đối mặt với việc bảo mật thông tin, chữ ký điện tử, quản lý dữ liệu thuế. Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra trong quản lý thương mại điện tử khi các giao dịch được thực hiện trực tuyến thì việc quản lý, giám sát tuân thủ thuế sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Bốn là, hội nhập gắn với du nhập cả những yếu tố tiến bộ góp phần quản lý tuân thủ thuế tốt hơn nhưng cũng xuất hiện những thủ đoạn gian lận thuế tinh vi hơn. Với xu thế hội nhập hiện nay, hệ thống thuế nước ta đang ngày càng tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế. Trong xu thế đó, chúng ta có điều kiện thuận lợi để tiếp cận với những phương pháp quản lý thuế tiên tiến, hiện đại từ đó thực hiện tốt hơn việc giám sát tuân thủ thuế. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập cũng du nhập những thủ đoạn gian lận thuế tinh vi hơn như chuyển giá, rửa tiền, tránh thuế... Bối cảnh kinh tế xã hội có tác động cả mặt tích cực và tiêu cực đến tình hình tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Xác định rõ những tác động đó để đưa ra các quan điểm và định hướng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030. 4.2. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM
4.2.1. Quan điểm đề xuất giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam Có thể thấy, một nguyên tắc được áp dụng rộng rãi trong quản lý thuế và là mục tiêu cao nhất của bất kỳ ngành Thuế nào đó là khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện của NNT. Bất kỳ hệ thống quản lý thuế nào cũng dựa trên nền tảng là ý thức tuân thủ tự nguyện của NNT và mục tiêu của công tác quản lý thuế hiện nay ở Việt Nam trước hết là tập trung tăng cường mức độ tuân thủ tự nguyện này. Để nâng cao sự tuân thủ tự nguyện, cần quán triệt các quan điểm chủ yếu sau đây: 4.2.1.1. Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế phải gắn với việc thực hiện Chiến lược cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế Mức độ tuân thủ của NNT có quan hệ hữu cơ với tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế. Vì vậy, để nâng cao tính tuân thủ của NNT thì CQT cần thực hiện thành công công cuộc cải cách và hiện đại hoá ngành Thuế. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong chiến lược Cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 thì mục tiêu của cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế là “Xây dựng ngành Thuế Việt Nam tiên tiến, hiện đại và chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi tốt pháp luật
144
thuế; đảm bảo quản lý thuế công bằng, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả theo các chuẩn mực quốc tế; phục vụ tốt NNT, tăng tính tự giác tuân thủ pháp luật về thuế của NNT; đảm bảo nguồn thu cho NSNN nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [3]. Do đó, trong quá trình cải cách quản lý thuế, việc thực hiện mục tiêu tổng thể đó luôn được đặt lên hàng đầu, trong đó, có mục tiêu cụ thể là “tăng tính tự giác tuân thủ pháp luật về thuế của NNT”. Đây cũng là quan điểm xuyên suốt trong toàn bộ quá trình cải cách, hiện đại hóa ngành Thuế và quản lý thuế ở Việt Nam. 4.2.1.2. Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế hướng đến mục tiêu thực hiện nghiêm minh pháp luật thuế Một hệ thống chính sách thuế dù được nghiên cứu kỹ lưỡng, phù hợp và đúng đắn nhưng trong quá trình thực thi không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật thuế, không nhận được sự tuân thủ đầy đủ của các đối tượng có liên quan thì chính sách thuế không thể phát huy hiệu quả được, thậm chí còn gây ra các hiệu ứng không tốt đối với công tác quản lý nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, để pháp luật thuế thể hiện và đảm bảo được tính nghiêm minh của mình, công tác quản lý thuế phải đủ hiệu lực, hiệu quả để tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác quản lý thuế phải tuân thủ đầy đủ, đúng đắn và kịp thời nhất các nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật thuế. 4.2.1.3. Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế trên cơ sở đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế Mỗi NNT có khả năng nộp thuế, có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau và họ có nghĩa vụ nộp các khoản thuế ít nhiều khác nhau tùy thuộc vào các khả năng của họ theo quy định của pháp luật thuế. Tuy nhiên, xét về tổng thể, họ đều có chung các quyền và nghĩa vụ về thuế như nhau theo quy định của Luật Quản lý thuế. Việc họ tuân thủ đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đó chính là việc họ đã thực hiện quyền yêu cầu phải có sự công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước giữa những NNT với nhau. Nếu còn tồn tại các nhóm NNT với các mức độ tuân thủ thuế khác nhau thì rõ ràng vẫn đang còn sự bất công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Do đó, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT phải luôn đặt trên quan điểm đảm bảo sự công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT. 4.2.1.4. Nâng cao tính tuân thủ thuế là trách nhiệm chính của cơ quan thuế nhưng cũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị Nâng cao tính tuân thủ của các NNT là việc làm thường xuyên, liên tục, lâu dài và không chỉ là trách nhiệm của riêng CQT. Xét cả về lý thuyết và thực tiễn,
145
quản lý thuế không chỉ là trách nhiệm của CQT mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do quản lý thuế có nhiều công việc liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Mỗi cơ quan nhà nước theo chức năng và nhiệm vụ của mình phải phối hợp với CQT để quản lý thuế nói chung và nâng cao tính tuân thủ của NNT nói riêng. Luật Quản lý thuế cũng đã quy định rõ trách nhiệm của CQT và các cơ quan nhà nước có liên quan trong quản lý thuế. Cần có sự vào cuộc của toàn xã hội, sự hợp tác của nhiều cơ quan liên quan, của chính quyền các cấp trong quá trình quản lý thuế hướng đến việc nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của NNT. Đây cũng là việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, đó là: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tạo thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp về chấp hành nghĩa vụ nộp thuế, pháp luật về ngân sách nhà nước, quản lý nợ công, thực hành tiết kiệm và phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cả hệ thống chính trị...”. 4.2.1.5. Các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế phải có lộ trình phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam Đảm bảo sự tuân thủ thuế của NNT một cách hoàn toàn tự nguyện là mục tiêu của tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, đây là một mục tiêu lâu dài, không thể thực hiện ngay được. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng quản lý cũng như trình độ dân trí của từng quốc gia ở từng thời kỳ khác nhau mà Nhà nước phải xây dựng một chiến lược, kế hoạch phù hợp với từng lộ trình cụ thể để dần dần đạt được mục tiêu đó. Ở Việt Nam cũng vậy, trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu thanh toán bằng tiền mặt, trình độ quản lý còn hạn chế, ý thức tuân thủ và trình độ dân trí chưa cao thì việc hình thành các giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế cần được đặt trong bối cảnh cụ thể phù hợp với khả năng thực thi giải pháp đó. Do đó, cần xây dựng một lộ trình phù hợp để có những bước đi hợp lý, khả thi nhằm đạt được mục tiêu đề ra. 4.2.2. Định hướng xây dựng giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 về phần Quản lý thuế đã chỉ rõ mục tiêu, yêu cầu của cải cách quản lý thuế đến 2020 là: “Hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính theo định hướng chuẩn mực quốc tế; nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ
146
máy tổ chức, đội ngũ cán bộ; kiện toàn, hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị; tăng cường công tác tuyên truyền hỗ trợ NNT, nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tuân thủ NNT; ứng dụng công nghệ thông tin và áp dụng thuế điện tử để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế, đưa Việt Nam thuộc các nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á trong xếp hạng mức độ thuận lợi về thuế vào năm 2020” [3]. Như vậy, mục tiêu, yêu cầu của cải cách chính sách thuế cũng như cải cách quản lý thuế đều hướng đến nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Trong đó, chính sách thuế là cơ sở pháp lý để NNT tuân thủ và cũng là một nhân tố quan trọng tác động tới khả năng tuân thủ của NNT. Nếu chính sách thuế đơn giản, rõ ràng minh bạch, có tính khả thi cao thì khả năng tuân thủ của NNT sẽ rất cao và ngược lại. Còn quản lý thuế là quá trình hỗ trợ, giám sát, thúc đẩy sự tuân thủ của NNT, phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi không tuân thủ của họ. Do đó, trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu chiến lược này và các quan điểm nêu trên, các định hướng trong việc đề ra các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT bao gồm các vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch và khả thi, giúp NNT dễ dàng trong việc hiểu, biết và tuân thủ các quy định của pháp luật thuế. Thứ hai, hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế, kiểm soát được tất cả các đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, giám sát được tất cả các hành vi liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp và hành vi không tuân thủ thuế. Xây dựng và hoàn thiện các phương pháp/chiến lược quản lý thuế tương ứng với các nhóm NNT theo mức độ tuân thủ thuế của họ. Thứ ba, thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế bằng nhiều hình thức phong phú để nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của NNT; khuyến khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế. Thứ tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT trong việc tuân thủ thuế; nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế; hoàn thiện cơ chế quản lý thuế tự
147
khai, tự nộp thuế; hoàn thiện các quy trình quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận lợi và hiệu quả nhất. Thứ sáu, áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác quản lý thuế; thực hiện kết nối mạng đầy đủ giữa các CQT, Hải quan, Kho bạc, DN và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phục vụ cho công tác quản lý thuế, giám sát tuân thủ thuế để đảm bảo có sự phối hợp, chia sẻ hiệu quả của cả xã hội trong quá trình thực hiện mục tiêu nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực điều hành, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp. Phát huy tốt nhất năng lực của cán bộ thuế trong quản lý thuế nói chung, trong quá trình nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT nói riêng. 4.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN 2030
4.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế Hệ thống chính sách, pháp luật thuế là cơ sở để NNT thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, cũng là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước xác định NNT có hành vi vi phạm pháp luật hay không. Để nâng cao tính tuân thủ của NNT thì hệ thống chính sách, pháp luật thuế cần hoàn thiện theo các nội dung chủ yếu sau: Một là, sửa đổi những quy định không phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội và những quy định không khoa học, bổ sung những quy định mới đáp ứng điều kiện thực tiễn để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực thi pháp luật. Qua đó, tạo ra điều kiện thuận lợi cho NNT tuân thủ thuế. Cụ thể như sau:
Đối với thuế GTGT: - Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT theo hướng giảm từ số lượng 25 nhóm xuống còn khoảng 7 đến 8 nhóm. Đề xuất này xuất phát từ cơ sở lý luận là số lượng đối tượng không chịu thuế GTGT rộng làm đứt đoạn tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo ra nhiều trường hợp khó áp dụng do sự phân biệt không rõ ràng giữa đối tượng không chịu thuế với đối tượng chịu thuế. Chẳng hạn như, việc xác định hàm lượng giá trị tài nguyên khoáng sản và chi phí năng lượng từ 51% giá thành sản phẩm trở lên đối với sản phẩm được sản xuất từ tài nguyên khoáng sản là một thách thức và rủi ro rất lớn với cả người nộp thuế và cơ quan thuế do sự phức tạp của hệ thống hạch toán kế toán và sự biến động của các yếu tố đầu vào của sản xuất. Về cơ sở thực tiễn thì theo thông lệ quốc tế, các nước thường quy định đối tượng không chịu thuế GTGT từ 4 đến 8 nhóm. Theo đó, đối tượng không chịu thuế GTGT thời gian tới chỉ nên tập trung vào các hàng hóa, dịch vụ thuộc các nhóm sau
148
đây: (i) Hàng hóa, dịch vụ khó xác định GTGT; (ii) Hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước là người trả tiền; (iii) Hàng hóa, dịch vụ mà người bán là cá nhân với số lượng rất lớn, khó quản lý; (iv) Hàng hóa, dịch vụ thực chất không nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận. - Bỏ quy định đăng ký phương pháp nộp thuế GTGT và giới hạn thời gian áp dụng phương pháp 2 năm phải đăng ký lại để giảm bớt thủ tục hành chính thuế không thực sự cần thiết và tránh phải xử lý những trường hợp không rõ có thuộc diện phải đăng ký lại phương pháp nộp thuế hay không. Theo đó, doanh nghiệp đang hoạt động có doanh thu một năm từ 1 tỷ đồng trở lên đương nhiên là đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ; doanh nghiệp đang hoạt động có doanh thu năm dưới 1 tỷ thuộc diện tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ và việc tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ của những doanh nghiệp này thể hiện ở loại tờ khai thuế GTGT mà họ lựa chọn (mẫu tờ khai theo phương pháp khấu trừ); doanh nghiệp mới thành lập có thể lựa chọn áp dụng phương pháp khấu trừ hoặc phương pháp trực tiếp trên GTGT và việc lựa chọn phương pháp nộp thuế thể hiện ở việc doanh nghiệp lựa chọn loại tờ khai của kỳ khai thuế đầu tiên mà không cần đăng ký phương pháp nộp thuế. Doanh nghiệp áp dụng ổn định phương pháp tính thuế trong suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp trừ khi doanh nghiệp muốn thay đổi phương pháp tính thuế và đáp ứng đủ điều kiện của phương pháp tính thuế đó thì doanh nghiệp phải thông báo cho cơ quan thuế biết. Để đảm bảo tính thống nhất trong kê khai thuế, việc thay đổi phương pháp tính thuế chỉ được thực hiện theo năm dương lịch. - Bỏ quy định tạm kê khai nộp thuế đối với cơ sở có hoạt động bán hàng vãng lai ngoại tỉnh đối với doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên để tạo thuận lợi cho hoạt động kê khai thuế của người nộp thuế vì đối với hoạt động bán hàng vãng lai ngoại tỉnh thuộc đối tượng khai tạm nộp thuế theo lần phát sinh. Rất khó xác định doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên theo lần phát sinh trong thực tế nên cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn như, một doanh nghiệp ở Hà Nội có dự hội chợ triển lãm và bán hàng tại hội chợ triển lãm ở Thái Nguyên. Cơ quan thuế có thể yêu cầu tính để tạm nộp vãng lai theo tổng số tiền bán hàng từ hội chợ vì coi đó là một lần phát sinh. Doanh nghiệp có thể hiểu là mỗi lần giao dịch bán hàng là một lần phát sinh. Quy định kê khai tạm nộp này nếu có chỉ có thể duy trì đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt vãng lai ngoại tỉnh do giá trị 1 tỷ đồng có thể quy định là theo tổng giá trị công trình xây dựng, lắp đặt.
149
- Bỏ quy định cơ sở kinh doanh phải nộp thuế cho địa phương nơi có cơ sở sản xuất trực thuộc không hạch toán kế toán vì nó làm cho việc khai thuế, tính thuế trở nên phức tạp, đặc biệt trong trường hợp số thuế phải nộp theo tỷ lệ 1% hoặc 2% trên doanh thu lớn hơn số thuế GTGT phải nộp thì cơ sở kinh doanh lại phải phân bổ theo tỷ lệ doanh thu rất phức tạp trong kê khai. Thêm vào đó, việc bỏ quy định này giúp chính sách thuế thực hiện đúng chức năng của nó thay vì phải kiêm thêm chức năng phân bổ ngân sách giữa các địa phương vốn thuộc về lĩnh vực quản lý ngân sách của cơ quan tài chính. - Cần đơn giản hệ thống thuế suất thuế GTGT theo hướng duy trì một mức thuế suất bằng 0% và một mức trên 0% thay vì 2 mức 5% và 10% như hiện nay. Theo đó, mức thuế suất 5% nên được bãi bỏ, chỉ giữ một mức thuế suất thuế GTGT là 10% (ngoài thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu). Việc áp dụng một mức thuế suất giúp người nộp thuế dễ dàng hơn trong tuân thủ thuế, không còn xảy ra trường hợp không rõ áp dụng thuế suất 5% hay 10% nữa. Chính điều này cũng làm giảm những tranh chấp về cách hiểu khác nhau trong áp dụng thuế suất giữa cơ quan thuế và NNT. Đề xuất này hoàn toàn khả thi vì số lượng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất thuế GTGT 5% không nhiều (16 nhóm), nên tác động của việc thay đổi thuế suất này cũng không lớn. Có thể có quan ngại rằng, việc áp dụng một mức thuế suất 10% sẽ làm gia tăng tính lũy thoái của thuế GTGT do tỷ trọng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu trong tiêu dùng của người nghèo cao hơn người giầu mà những hàng hóa, dịch vụ này hiện đang áp dụng thuế suất 5%. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, tính công bằng của thuế không phải xét ở từng sắc thuế mà phải xét trong tổng thể cả hệ thống thuế và xét trong mối quan hệ với các chính sách khác của Nhà nước như chính sách chi ngân sách, chính sách an sinh xã hội… Đây là sự đánh đổi cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả của quản lý thuế và nó được bù lại bằng sự điều chỉnh của các sắc thuế khác như thuế TTĐB, thuế TNCN và các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước. Thêm vào đó, trong điều kiện xu hướng giảm số thu từ thuế nhập khẩu do Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế song phương hoặc đa phương, mức thuế suất thuế GTGT 10% sẽ góp phần bù đắp nguồn thu thiếu hụt từ thuế xuất nhập khẩu. Việc sửa đổi những quy định pháp luật về thuế GTGT theo những đề xuất trên không chỉ có tác dụng trong việc đơn giản, dễ áp dụng, dễ tính toán mà còn tạo ra sự minh bạch, giúp ngăn ngừa các sai sót, nhầm lẫn cũng như các hành vi gian lận, trốn thuế, tránh thuế khi xác định thuế suất thuế GTGT, từ đó góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT.
150
Đối với thuế TNDN: - Bổ sung quy định về phương pháp tính thuế và cách thức kê khai, nộp thuế đối với các đơn vị sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và y tế. Đây chính là một nội dung chưa có quy định cụ thể nên rất lúng túng trong tổ chức thực hiện. Trước đây, học phí và viện phí là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước theo Pháp lệnh Phí và lệ phí nên thuộc diện không phải chịu thuế TNDN. Tuy nhiên, theo Luật Phí và lệ phí năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2017 thì học phí và viện phí chuyển sang cơ chế giá dịch vụ, không còn nằm trong Danh mục phí và lệ phí thuộc ngân sách nhà nước. Điều này có nghĩa rằng, theo Luật thì học phí và viện phí của đơn vị sự nghiệp công phải chịu thuế TNDN và đương nhiên những cơ sở này phải nộp thuế TNDN. Tuy nhiên, quy định pháp luật hiện hành mới có quy định về phương pháp xác định thuế TNDN phải nộp đối với các dịch vụ kinh doanh khác của các đơn vị sự nghiệp công mà chưa có hướng dẫn cụ thể về tính thuế TNDN đối với học phí và viện phí. Đặc biệt, trong thực tế hiện nay, mức độ tự chủ về tài chính và tương ứng với nó là mức thu học phí và viện phí đang có sự khác nhau đáng kể ở các đơn vị sự nghiệp công khác nhau, đồng thời, theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP thì phải đến năm 2020 các đơn vị sự nghiệp công mới tính đủ toàn bộ chi phí vào giá phí dịch vụ. Điều này có nghĩa là, nếu thực hiện theo Luật thì không thích hợp với lộ trình tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công, còn nếu không tính thuế thì không phù hợp với Luật. Điều này cho thấy, cần có hướng dẫn cụ thể rõ ràng để tổ chức thực hiện thống nhất, nếu không sẽ dẫn đến thực hiện không thống nhất ở các đơn vị khác nhau và ở các địa phương khác nhau và có thể dẫn đến rủi ro vô tình không tuân thủ pháp luật của NNT. - Nghiên cứu cho phép cơ sở có hoạt động kinh doanh bất động sản bù trừ lãi của hoạt động chuyển nhượng bất động sản cho lỗ của hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp kinh doanh bất động sản với các doanh nghiệp khác và để những doanh nghiệp này không bị khó khăn về tài chính, qua đó, giúp các doanh nghiệp này có điều kiện tuân thủ về nộp thuế, giảm bớt những trường hợp nợ thuế kéo dài do sự bất hợp lý của quy định pháp luật về thuế TNDN gây ra. Đối với thuế TNCN: Biểu thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công hiện hành có 7 mức thuế suất, từ 5% đến 35%. Đây là một biểu thuế có nhiều số lượng thuế suất; khoảng cách các bậc thu nhập trong mỗi mức thuế suất quá nhỏ, đặc biệt là ở những mức thuế suất ở nửa thấp của biểu thuế. Điều này dẫn đến việc tính thuế
151
phức tạp và gia tăng các hành vi không tuân thủ thuế như chuyển dịch thu nhập nhằm trốn thuế; đồng thời, quy định như vậy cũng làm gia tăng mức độ điều tiết đối với người có thu nhập trung bình. So sánh với luật thuế TNCN của các nước trên thế giới và trong khu vực, số lượng thuế suất trong biểu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của Việt Nam hiện nay là nhiều nhất. Do đó, cần xem xét, nghiên cứu chỉ giữ lại ít mức thuế suất hơn và nới rộng hơn các bậc thu nhập tính thuế, đồng thời nên giảm mức thuế suất cao nhất trong biểu thuế. Quy định như vậy nhằm mục tiêu điều tiết hợp lý thu nhập của cá nhân làm công ăn lương, qua đó, hạn chế được các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nâng cao được ý thức tuân thủ thuế của NNT. Để đề xuất được một biểu thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công thực sự hợp lý thì cần có sự nghiên cứu thấu đáo về NNT với các nhóm thu nhập khác nhau làm cơ sở đánh giá được thuế suất bình quân mà mỗi nhóm NNT phải nộp, qua đó xác định thuế suất bình quân dự kiến và đây chính là cơ sở để xác định các mức thu nhập trong biểu thuế. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, NCS chưa có điều kiện thực hiện các nghiên cứu đó để có đề xuất cụ thể, song với những phân tích và đề xuất sơ bộ nêu trên, Luật thuế TNCN sẽ đảm bảo có mức điều tiết hợp lý, góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Hai là, hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng minh bạch, công khai, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo tính khả thi của chính sách thuế. Hiện nay, một số qui định trong chính sách thuế không rõ ràng, hoặc nếu muốn vận dụng thì phải tra cứu rất nhiều các văn bản khác nhau. Điều này vừa làm tăng chi phí quản lý, tăng chi phí tuân thủ, vừa tạo ra các kẽ hở luật pháp. Vì vậy, cần phải rà soát lại các điều khoản không rõ ràng trong luật định để có sự sửa đổi phù hợp hoặc có hướng dẫn cụ thể việc vận dụng. Khi đó, khả năng nắm bắt, hiểu biết và thực thi pháp luật thuế sẽ thuận lợi hơn nhiều, các hành vi không tuân thủ cũng dễ dàng bị phát hiện nên sẽ hạn chế được sự không tuân thủ này. Cụ thể như sau: - Với điều kiện xác định chi phí được trừ thứ nhất cần bổ sung định nghĩa thế nào là “thực tế phát sinh” và thế nào là “liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp” để tránh những cách hiểu khác nhau về hai khái niệm này. Theo đó, cần nêu định nghĩa “thực tế phát sinh” tức là khoản chi phí đã thực sự xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp có nghĩa vụ chi trả. Còn “liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp” là khoản chi cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, trừ những trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật. Với những trường hợp cụ thể khó xác định có phải là “cần thiết” để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hay không, cần liệt kê rõ
152
ràng là những trường hợp này có được trừ hay không theo mục đích tính thuế TNDN. - Cần bổ sung nguyên tắc xác định chi phí được trừ là “Khoản chi phí được trừ phải được xác định theo nguyên tắc tương ứng với doanh thu tính thuế trừ những trường hợp đặc thù theo quy định của pháp luật về kế toán” thay cho quy định về một trong những khoản chi không được trừ là “các khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế” do quy định như vậy không có tính phổ quát áp dụng chung và không minh bạch, thêm vào đó, quy định như vậy không xử lý được những trường hợp tuy không hoàn toàn tương ứng với doanh thu tính thuế nhưng theo quy định của pháp luật về kế toán vẫn hạch toán vào chi phí để xác định kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán, chẳng hạn như một số khoản dự phòng, các khoản chi về công cụ giá trị nhỏ có thể sử dụng nhiều kỳ sản xuất, kinh doanh nhưng được kế toán phân bổ toàn bộ cho một kỳ kế toán hoặc khoản chi phí quản lý doanh nghiệp (theo quy định pháp luật kế toán, khoản chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh trong kỳ hạch toán toàn bộ vào giá thành của kỳ kế toán mà không phân bổ theo doanh thu như các khoản chi phí vật tư, khấu hao…). - Quy định đầy đủ, chi tiết, rõ ràng hơn một số khoản chi phí được trừ. Cụ thể: Về chi phí khấu hao tài sản cố định: Quy định chi tiết, rõ ràng hơn tiêu chí đánh giá thế nào là một dự án kinh tế có hiệu quả để doanh nghiệp có thể trích khấu hao nhanh các tài sản cố định sử dụng cho dự án đó. Về chi phí tiền lương, tiền công: Nên quy định các khoản tiền thù lao trả cho các đối tượng như sáng lập viên, thành viên hội đồng quản trị, hội đồng quản lý là chi phí được trừ của doanh nghiệp nếu có đầy đủ hồ sơ, chứng từ và có mức chi phù hợp với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Quy định này sẽ làm cho tính khả thi của chính sách thuế TNDN được nâng cao hơn, bởi vì nếu không cho trừ thì trên thực tế không phân biệt được trường hợp nào có tham gia điều hành hoặc không tham gia điều hành sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, quy định này sẽ đảm bảo tính thống nhất, công bằng cho các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Bên cạnh đó, chính sách thuế TNDN cần quy định chi tiết, rõ ràng hơn về việc trích lập và sử dụng Quỹ dự phòng chi trả tiền lương để làm căn cứ cho doanh nghiệp thực hiện và là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý của cơ quan quản lý thuế. Về các khoản chi phí được trừ khác: Bổ sung và quy định chi tiết hơn các khoản chi khoán cho người lao động, các khoản tiền thuế được tính vào chi phí được trừ... đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và khả thi khi thực hiện các quy định này.
153
- Ngoài ra, hiện nay, thuế TNDN và các vấn đề liên quan trong việc xác định các căn cứ tính thuế được quy định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Thương mại…). Điều này gây ra khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tra cứu, áp dụng trong tuân thủ thuế và khó khăn cho cơ quan quản lý thuế trong quản lý cũng như hướng dẫn, tuyên truyền cho người nộp thuế. Do vậy, rất cần thiết phải rà soát lại tất cả các quy định trong các văn bản có liên quan đến thuế TNDN, thống nhất lại trong một văn bản để giúp cho việc tra cứu, thực hiện chính sách thuế này có tính khả thi cao hơn, hạn chế các sai sót, gian lận, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Luận án không đi sâu vào phân tích chi tiết các nội dung nêu trên. Việc nghiên cứu cụ thể, đầy đủ hơn nội dung này sẽ góp phần làm cho hệ thống thuế đảm bảo được tính rõ ràng, minh bạch, thuận lợi trong thực thi và tuân thủ thuế. Do đó, đây có thể coi là giải pháp chung về mặt chính sách vừa góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế Việt Nam, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho NNT thực hiện nghĩa vụ tuân thủ thuế của mình, góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam trong thời gian tới. Ba là, tiếp tục đơn giản hóa các qui định, thủ tục về thuế. Một trong những yếu tố tác động đến tính tuân thủ của NNT là các thủ tục về thuế. Chính sách thuế đơn giản, minh bạch sẽ góp phần giảm bớt các thủ tục về thuế, từ đó nâng cao tính tuân thủ của NNT, tiết kiệm chi phí quản lý cho cả NNT và CQT quản lý. Để có một hệ thống quy trình tuân thủ đơn giản, dễ thực hiện, xoá bớt các thủ tục phiền hà không cần thiết nhằm cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho NNT, đảm bảo cho NNT tuân thủ và xử lý các vấn đề về thuế một cách nhanh chóng, nhằm giảm thiểu chi phí tuân thủ thuế, góp phần tăng cường tính tuân thủ tự nguyện của NNT, thì các thủ tục hành chính thuế phải được đổi mới trên các phương diện sau: - Các mẫu tờ khai, tài liệu về thuế đều được thiết kế đơn giản, bổ sung thêm phần nội dung hướng dẫn để NNT nắm bắt, điền đúng và đầy đủ các thông tin, số liệu theo yêu cầu của từng chỉ tiêu giúp tiết kiệm thời gian, nâng cao tính tự chủ trong việc xác định, kê khai thuế phải nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế. - Giảm thiểu quy trình tuân thủ thuế. Một hệ thống quy định quản lý thuế quá phức tạp trong một số trường hợp có thể dẫn đến tình trạng là chi phí thu thuế và chi phí tuân thủ thuế sẽ lớn hơn số thuế thu được. Ngoài ra, ngành Thuế cần tiếp tục tăng cường hiện đại hóa công tác quản lý thuế trên cơ sở phát triển hệ thống công nghệ thông tin gắn với hiện đại hóa hạ tầng
154
kỹ thuật như: Hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý đồng bộ liên quan đến dịch vụ thuế điện tử; hoàn thiện cơ sở kỹ thuật hạ tầng và CNTT của ngành Thuế và cả phía NNT; chú trọng đến vai trò của các tổ chức trung gian trong phát triển dịch vụ thuế điện tử; đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin hỗ trợ NNT đáp ứng yêu cầu của hệ thống ứng dụng thuế điện tử; tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa CQT với các cơ quan chức năng khác… Bốn là, hợp lý hóa hệ thống ưu đãi hiện hành, các ưu đãi thuế phải phục vụ cho số ít các mục tiêu cụ thể hơn. Ưu đãi thuế dễ bị NNT lợi dụng để trốn thuế, tránh thuế. Vì vậy, các ưu đãi thuế cần được rà soát lại, tính hiệu quả của các ưu đãi thuế phải được nghiên cứu, đánh giá qua phân tích chi phí và lợi ích. Đối với thuế TNDN: Cần cắt bỏ những quy định về ưu đãi thuế nhằm mục đích xã hội để đơn giản hóa hệ thống ưu đãi thuế. Đồng thời, quy định rõ những điều kiện và cách thức xác định ưu đãi thuế, đặc biệt là những quy định về ưu đãi thuế đối với dự án đầu tư mở rộng, các lĩnh vực xã hội hóa. Làm rõ những nội dung này sẽ giúp NNT dễ dàng xác định mình có thuộc diện được hưởng ưu đãi thuế không và tránh rủi ro vô tình vi phạm pháp luật do quy định không rõ ràng của pháp luật gây ra. Hình thức áp dụng thuế suất ưu đãi và miễn, giảm thuế có thời hạn theo qui định hiện hành chủ yếu được thực hiện đối với các DN thời gian đầu mới thành lập. Quy định này có nhược điểm là dễ bị nhà đầu tư lợi dụng để trốn thuế. Để ngăn chặn gian lận trên, có thể nghiên cứu điều chỉnh thời điểm bắt đầu tính thời kỳ miễn, giảm thuế là thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động nhằm hạn chế sự chuyển giá vào tài sản đầu tư kéo dài thời gian miễn thuế. Ngoài ra, cần phải ràng buộc những dự án hưởng ưu đãi này phải có thời gian đầu tư đủ dài để đảm bảo các dự án không dừng hoạt động trong thời kỳ miễn thuế và có các hướng dẫn cụ thể hạch toán, phân bổ chi phí đầu tư. Đối với thuế TNCN: Cần mở rộng cơ sở đánh thuế từ thu nhập từ tiền lương, tiền công, loại bỏ các hình thức miễn thuế liên quan đến phụ cấp nghề nghiệp. Việc không tính vào thu nhập chịu thuế cho các khoản phụ cấp nghề nghiệp hiện nay có xu hướng làm tăng các sơ hở trong hệ thống thuế, dễ dẫn đến các hành vi lợi dụng nhằm trốn thuế, tránh thuế. Khi các khoản phụ cấp này bị đánh thuế, chủ lao động và người lao động sẽ lưu ý tới sự điều tiết của thuế TNCN khi đàm phán ký kết hợp đồng, tính toán đến các khoản tiền phụ cấp trọn gói cùng với tiền lương, tiền công trên hợp đồng… Do đó, việc không loại trừ ra khỏi thu nhập tính thuế TNCN đối với các khoản phụ cấp nghề nghiệp này cũng không ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động
155
có liên quan ở cả góc độ người lao động cũng như người sử dụng lao động vì đã được ghi nhận và tính toán đầy đủ trong hợp đồng. Đồng thời, quy định này sẽ đảm bảo bao quát hết toàn bộ thu nhập phát sinh của người lao động, hạn chế các trường hợp lợi dụng nhằm tránh thuế, trốn thuế, nâng cao được tính tuân thủ thuế của NNT. Năm là, nâng cao tính ổn định của chính sách. Chính sách thuế cần phải có tính ổn định để đối tượng kinh doanh chủ động trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh. Thời gian qua, chính sách thuế thường xuyên sửa đổi (chẳng hạn thuế TNCN, thuế TNDN, thuế GTGT, các quy định về Quản lý thuế…) đã gây khó khăn cho NNT trong việc thực hiện nghĩa vụ. Để các DN an tâm với các chính sách thuế Nhà nước đã qui định, mở rộng tìm kiếm thị trường, ký kết hợp đồng với đối tác, chính sách thuế nên ổn định. Nếu cần thiết phải sửa đổi cần thông báo rộng rãi, lấy ý kiến DN để DN có thời gian chuẩn bị, chuyển hướng đầu tư hoặc tránh thiệt hại cho DN bằng cách đề rõ văn bản có hiệu lực thi hành từ thời điểm nào và không áp dụng đối với hợp đồng ký trước thời gian nào... Ngoài ra, cần xem xét, xây dựng chính sách thuế trong một bối cảnh đầy đủ, có tính chất dài hạn, tăng chu kỳ sống của chính sách, tránh các trường hợp thay đổi quá nhiều, quá thường xuyên, gây khó khăn cho NNT trong việc hiểu và tuân thủ thuế. 4.3.2. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế Cải cách thủ tục hành chính thuế có vai trò to lớn trong việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình liên quan đến chính sách pháp luật về thuế, thúc đẩy ý thức tuân thủ thuế tự nguyện của họ. Do đó, trong giai đoạn 2017 - 2025, để nâng cao hơn nữa tính tuân thủ thuế của NNT, một giải pháp quan trọng không thể thiếu là phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về thuế. Một số nội dung chủ yếu liên quan đến giải pháp này cần được triển khai là: - Tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách và thủ tục hành chính thuế (đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và sử dụng hóa đơn thuế), đơn giản hóa mẫu biểu thủ tục để giảm thời gian kê khai, nộp thuế cho DN; rà soát, đơn giản hóa thủ tục và minh bạch hóa quy trình nghiệp vụ về hoàn thuế, thanh tra kiểm tra và giải quyết khiếu nại về thuế. Đơn giản hóa các thủ tục thu nộp thuế và ứng dụng khai thuế, nộp thuế điện tử đối với các cá nhân kinh doanh và cá nhân phát sinh nghĩa vụ thuế không thường xuyên (như đối tượng nộp thuế trước bạ, nhà đất...). Cùng với đó, cần xây dựng và áp dụng chế độ kế toán đơn giản phù
156
hợp với trình độ, năng lực của người nộp thuế quy mô nhỏ để giảm chi phí tuân thủ thuế. - Cải tiến các quy trình nghiệp vụ liên quan đến thủ tục hành chính thuế và giám sát việc thực hiện để đảm bảo kết quả cải cách được triển khai trong thực tiễn. - Xây dựng chế độ quản lý rủi ro đối với DN; xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về NNT để thực hiện quản lý thuế (thanh tra, kiểm tra, hoàn thuế,...) theo rủi ro để tăng cường hiệu lực quản lý thuế, chống thất thu NSNN, tạo sự bình đẳng trong tuân thủ thuế và không gây phiền hà, khó khăn cho các DN tuân thủ tốt. - Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giao dịch giữa CQT với DN để tiết kiệm thời gian, chi phí và đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý thuế. Hoàn thành triển khai hệ thống ứng dụng quản lý thuế tập trung, đảm bảo các hoạt động quản lý thuế được xử lý tự động, thống nhất; làm cơ sở triển khai dịch vụ thuế điện tử và duy trì hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin đồng bộ. - Tăng cường công tác truyền thông và dịch vụ hỗ trợ NNT; hoàn thiện hành lang pháp lý, hỗ trợ và tạo điều kiện để hệ thống đại lý thuế phát triển. Xây dựng, đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ người nộp thuế; mở rộng triển khai các hình thức giao dịch, hỗ trợ người nộp thuế qua cổng thông tin điện tử và các phương thức điện tử khác; phát triển dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau. - Đổi mới công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh; thực hiện đơn giản hoá chính sách và thủ tục hành chính thuế cho phù hợp với trình độ và năng lực quản lý thuế đối với hộ kinh doanh; áp dụng phương pháp quản lý thuế đơn giản và đa dạng hoá các hình thức thu nộp thuế qua phương tiện điện tử để giảm chi phí hành chính và nâng cao tính tuân thủ, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. - Xây dựng cơ chế đánh giá hoạt động của CQT thông qua các tổ chức xã hội dân sự, của NNT về chính sách và thủ tục hành chính thuế, công tác quản lý và cung cấp dịch vụ của CQT. Việc đánh giá thực hiện đồng thời bằng cách CQT hoàn thiện và áp dụng bộ chỉ số đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của CQT các cấp và thông qua các tổ chức độc lập để thu thập ý kiến, thông tin phản hồi, đánh giá sự hài lòng của NNT với CQT. 4.3.3. Xây dựng chiến lược quản lý thuế dựa trên mức độ tuân thủ thuế 4.3.3.1.Vận dụng mô hình quản lý tuân thủ Mô hình quản lý thuế hiện đại gắn liền với nguyên tắc quản lý tuân thủ (đã đề cập trong chương 2 của Luận án). Quản lý tuân thủ là sự quản lý dựa trên ý thức
157
tuân thủ pháp luật của NNT. Về cơ bản nguyên tắc quản lý tuân thủ được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu: - Nếu NNT sẵn sàng tuân thủ thì CQT tạo điều kiện thuận lợi tối đa để NNT tuân thủ thông qua các cơ chế hỗ trợ và ưu đãi khác nhau. - Nếu NNT không muốn tuân thủ thì CQT sẽ áp dụng các cơ chế và các chế tài khác nhau để buộc NNT tuân thủ. Trong quản lý thuế, để nâng cao hiệu quả quản lý và mức độ tuân thủ thuế của NNT, cơ quan quản lý thuế cần xem xét, đánh giá mức độ và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý thuế, mức độ thường xuyên hay không của tình trạng không tuân thủ để xác định các nhóm NNT khác nhau tương ứng với các mức độ tuân thủ thuế khác nhau và có các biện pháp quản lý thuế phù hợp với từng nhóm NNT này. Theo mô hình quản lý thuế xác lập trên cơ sở đánh giá tính tuân thủ của NNT của Grabosky và Braithwaite năm 1986, toàn bộ NNT được chia thành 4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ và cơ quan quản lý thuế có các biện pháp tương ứng đối với từng nhóm NNT này để đảm bảo sự tuân thủ thuế tốt nhất. Đây là phương pháp quản lý hiện đại đang được hầu hết các quốc gia thực hiện. Việt Nam đã nghiên cứu vận dụng mô hình này nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định như đã chỉ ra trong chương 2 của Luận án. Để khắc phục những hạn chế này, cần tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh cách thức vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội và sự thay đổi của NNT ở Việt Nam những năm tới. Cụ thể là cần thực hiện các biện pháp cụ thể như phân tích trong tiểu mục 4.3.3.2 và 4.3.3.3 dưới đây. 4.3.3.2. Tiến hành đánh giá mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế để phân nhóm tương ứng Để có thể phân bổ nguồn lực hợp lý cho các hoạt động quản lý tính tuân thủ của NNT, CQT cần phải đánh giá được mức độ tuân thủ của NNT. Từ đó, CQT mới có thể đưa ra quyết định, phương pháp, biện pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT. Quá trình đánh giá, phân nhóm NNT được thực hiện theo các nội dung chính sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá và phương pháp đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT.
158
Tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ thuế là các tiêu chuẩn được quy định và sử dụng để làm cơ sở để đánh giá phân loại mức độ tuân thủ thuế đáp ứng yêu cầu quản lý thuế đối với NNT trong từng thời kỳ. Trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế, các tiêu thức chủ yếu sử dụng để đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT được dựa trên cơ sở mức độ tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế của NNT theo quy định của pháp luật thuế như mức độ tuân thủ về đăng ký thuế, nộp hồ sơ khai thuế, mức độ tuân thủ về khai thuế và mức độ tuân thủ trong nộp thuế. Như đã phân tích trong chương 3 của Luận án, với việc ban hành Thông tư 204/2015/TT-BTC, Bộ Tài chính đã quy định tương đối cụ thể các nguyên tắc, trình tự, phương pháp ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro và phân loại NNT theo mức độ tuân thủ thuế để có biện pháp quản lý phù hợp. Thông tư này đã quy định về nguyên tắc Tổng cục Thuế phải xây dựng trình Bộ Tài chính ban hành bộ tiêu chí và chỉ số rủi ro và đánh giá tính tuân thủ của NNT cho từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, bộ tiêu chí và chỉ số này đến nay vẫn chưa được ban hành đầy đủ. Điều này làm hạn chế đến quá trình đánh giá xếp hạng rủi ro và đánh giá tuân thủ thuế của NNT phục vụ cho các chức năng QLT. Xét về lý luận, các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá về mức độ tuân thủ thuế đã được trình bày tại Mục 2.3.1 chương 2 của Luận án. Những chỉ tiêu đó chủ yếu phục vụ đánh giá tổng thể tình hình tuân thủ thuế của NNT. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần xác định rõ các loại thông tin cần có phục vụ cho việc đánh giá mức độ tuân thủ thuế của từng NNT làm căn cứ chấm điểm và xếp hạng tuân thủ thuế đối với từng NNT. Đối với mỗi NNT cụ thể, thông tin đánh giá tuân thủ nên được phân loại thành 2 nhóm là: (i) Thông tin về tuân thủ pháp luật nói chung; (ii) Thông tin về tuân thủ thuế. Cụ thể như sau: (a) Nhóm thông tin về tuân thủ pháp luật nói chung: - Thông tin xử phạt vi phạm hành chính về kế toán, thống kê; - Thông tin xử phạt vi phạm hành chính về kinh doanh và đầu tư; - Thông tin xử phạt vi phạm hành chính về đất đai; tài nguyên, môi trường; - Thông tin xử phạt vi phạm hành chính về dân sự; - Thông tin liên quan đến việc điều tra, khởi tố và vi phạm pháp luật ở mức phải xử lý hình sự; - Thông tin vi phạm pháp luật khác có liên quan về người nộp thuế. (b) Nhóm thông tin về tuân thủ thuế: - Thông tin tình hình thực hiện các thủ tục và xử phạt vi phạm hành chính về đăng ký thuế;
159
- Thông tin tình hình thực hiện các thủ tục và xử phạt vi phạm hành chính về kê khai thuế; - Thông tin tình hình phải giải trình hồ sơ khai thuế với CQT; - Thông tin về tuân thủ thời hạn nộp thuế; về số thuế nợ và tuổi các khoản nợ thuế; - Thông tin về chấp hành và xử phạt hành chính trong quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ; - Thông tin về xử phạt hành chính về trốn thuế, gian lận thuế. Việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu về tuân thủ thuế để đánh giá mức độ tuân thủ thuế, tìm ra các nguyên nhân và có kế hoạch, biện pháp quản lý phù hợp nhằm đảm bảo công bằng, góp phần nâng cao mức độ tuân thủ thuế của NNT. Về phương pháp đánh giá và đo lường mức độ tuân thủ thuế, CQT sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá và đo lường mức độ tuân thủ thuế. Hai phương pháp sử dụng phổ biến để đánh giá tính tuân thủ thuế của NNT là: Phương pháp số liệu quản lý thuế và Phương pháp điều tra, khảo sát. Nội dung cụ thể của các phương pháp này đã được trình bày tại mục 2.3.2 chương 2 của Luận án. Thứ hai, phân loại NNT theo cấp độ tuân thủ thuế. Một biện pháp quản lý của CQT đưa ra nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT có tác động đến từng nhóm NNT là không giống nhau. Nhu cầu, xu hướng và mức độ tuân thủ của NNT cũng không giống nhau. Do đó, để hoạt động quản lý của CQT đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện nguồn lực có hạn thì CQT cần thiết phải phân loại NNT để đưa ra các quyết định quản lý phù hợp với từng nhóm NNT. Có thể phân loại NNT theo nhiều tiêu thức như theo loại hình DN; theo ngành nghề kinh doanh; theo qui mô kinh doanh, mức độ tuân thủ... Trong đó, phân loại theo mức độ tuân thủ là vấn đề trọng tâm của mô hình quản lý tuân thủ nêu trên. Trên cơ sở các phương pháp và tiêu thức đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT nêu trên, CQT tiến hành xây dựng hệ thống phân loại mức độ tuân thủ của NNT theo mô hình tháp tuân thủ, NNT sẽ được phân loại theo 4 mức độ là nhóm sẵn sàng tuân thủ, nhóm cố gắng tuân thủ, nhóm miễn cưỡng tuân thủ và nhóm không tuân thủ. Đồng thời, căn cứ vào các kết quả đánh giá và phân loại NNT theo mức độ tuân thủ nêu trên, CQT có thể nhận định được tình hình thực tế mức độ tuân thủ của NNT và nguồn lực cũng như hiệu quả hoạt động của CQT để xây dựng các phương pháp/chiến lược quản lý tương ứng nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT.
160
4.3.3.3. Xây dựng chiến lược quản lý thuế tương ứng với các cấp độ tuân thủ thuế của người nộp thuế Các phương pháp/chiến lược quản lý tương ứng với các cấp độ tuân thủ thuế của NNT được phân nhóm cụ thể như sau: - Đối với nhóm NNT sẵn sàng tuân thủ, còn gọi là nhóm tuân thủ tự nguyện: Chiến lược quản lý của CQT được xây dựng nhằm đảm bảo cho NNT có cơ hội tiếp cận với nhiều dịch vụ tốt nhất của CQT; tạo điều kiện cho NNT tự chủ tối đa trong quá trình hoàn thành nghĩa vụ thuế thông qua cải thiện môi trường tuân thủ thuế một cách tự nguyện; tối thiểu hoá các khoản chi phí tuân thủ thuế của họ; tạo môi trường quản lý công bằng giữa những NNT có sự tuân thủ khác nhau. - Đối với nhóm NNT cố gắng tuân thủ: Nhóm này sẽ tuân thủ đầy đủ nếu họ được CQT hỗ trợ thêm, khi đó chiến lược quản lý của CQT hướng đến việc khuyến khích sự tuân thủ, làm thay đổi hành vi của họ chuyển sang cấp độ sẵn sàng tuân thủ. Chiến lược quản lý phải tập trung giảm chi phí tuân thủ, tăng tính tự chủ của NNT trong tuân thủ nghĩa vụ thuế; giúp NNT tránh được những vi phạm luật thuế, tránh được những hình thức xử lý vi phạm của CQT. - Đối với nhóm NNT miễn cưỡng tuân thủ: Nhóm này có tư tưởng thường trực là không tuân thủ, nhưng nếu có giám sát, quản lý, xử lý kịp thời của CQT, họ sẽ chuyển sang cấp độ tuân thủ hoặc cao hơn là tuân thủ tự nguyện. Do đó, chiến lược quản lý của CQT là vừa phải tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức để thay đổi nhận thức của họ, hỗ trợ họ trong quá trình tuân thủ, vừa phải tăng cường giám sát, kiểm tra, hạn chế đến mức thấp nhất những hành vi không tuân thủ của họ. - Đối với nhóm NNT không tuân thủ: Đây là nhóm có chỉ số rủi ro về thuế cao nhất, họ sẽ không tuân thủ thuế nếu không có sự cưỡng chế và xử lý vi phạm nghiêm khắc. Các hành vi không tuân thủ có thể là không đăng ký thuế, không nộp bản khai thuế, cố tình khai sai, trì hoãn nộp thuế, không nộp thuế lặp lại nhiều lần, thay đổi địa điểm, hoạt động sản xuất kinh doanh để trốn thuế, bỏ trốn, mất tích, tìm kẽ hở của luật để tránh thuế. Sự tuân thủ thuế của nhóm NNT này rất khó thay đổi bằng các tác động khuyến khích kinh tế, tác động tâm lý hay ảnh hưởng xã hội. Hành vi tuân thủ của họ chủ yếu bị chi phối bởi các công cụ thanh tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính và xử lý vi phạm của CQT. Do vậy, chiến lược quản lý của CQT đối với nhóm này là tập trung nguồn lực thanh tra, kiểm tra, giám sát và có nhiều biện pháp nghiêm minh để họ không thực hiện được các hành vi vi phạm pháp luật thuế, đồng thời kết hợp với các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, hỗ trợ để họ hiểu và thay đổi tư tưởng chống đối trong thực hiện nghĩa vụ thuế.
161
Các chiến lược quản lý nêu trên được xây dựng nhằm xác định đối tượng, mục tiêu, phương pháp, thái độ quản lý khác nhau đối với các nhóm NNT khác nhau dựa vào các cấp độ tuân thủ thuế của họ. Các mục tiêu, phương pháp, thái độ quản lý này sẽ được thể hiện cụ thể thông qua các nội dung quản lý của CQT như tuyên truyền, hỗ trợ NNT; quản lý kê khai, nộp thuế; thanh tra, kiểm tra thuế; quản lý nợ và cưỡng chế thuế… 4.3.4. Tăng cường giám sát việc tuân thủ bằng cách mở rộng áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào quản lý thuế Cùng với việc tạo điều kiện tối đa để tạo lập và phát huy tính tuân thủ tự nguyện của NNT, CQT cần tăng cường hoạt động giám sát quá trình tuân thủ này của NNT. Quá trình giám sát được thực hiện trong tất cả các khâu quản lý của CQT, từ khâu đăng ký thuế, kê khai, tính thuế, đến nộp thuế, miễn, giảm, hoàn thuế, quyết toán thuế và các thủ tục khác về thuế. Quá trình giám sát này sẽ giúp CQT duy trì được sự hiện hữu của mình vừa hỗ trợ NNT tuân thủ, vừa phát hiện, xử lý kịp thời những trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu tuân thủ của NNT. Việc giám sát tuân thủ được thực hiện thông qua hệ thống thông tin về NNT của CQT. Đây là các cơ sở dữ liệu quan trọng giúp cho công tác quản lý thuế nói chung, giám sát tuân thủ thuế nói riêng của CQT đạt được các mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Đồng thời, khi kinh tế xã hội càng phát triển, số lượng NNT gia tăng, với số lượng cán bộ thuế có hạn nên cần thiết phải áp dụng cơ chế quản lý theo rủi ro. Đó chính là quá trình mà CQT có biện pháp giải quyết những rủi ro phát sinh gắn với hoạt động của mình theo mục tiêu đạt được lợi ích bền vững trong hoạt động của CQT. Ý thức tự giác tuân thủ được nâng cao tối đa khi CQT nhận thức được xu hướng phát triển cũng như xử lý kịp thời các tác động của sự thay đổi đó đến công tác quản lý thuế và ý thức tuân thủ. CQT hoạt động có hiệu quả khi xác định và đánh giá được các rủi ro trong ý thức tuân thủ và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế các rủi ro phát sinh. Sử dụng cơ chế quản lý rủi ro cho phép CQT tập trung nguồn lực vào những NNT, những khâu quản lý thuế có mức độ rủi ro cao, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và đạt được những lợi ích bền vững. Như đã trình bày ở chương 3 của Luận án, Thông tư 204/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính đã quy định cụ thể để đảm bảo hoạt động QLT được thực hiện trên cơ sở vận dụng kỹ thuật quản lý rủi ro. Tuy nhiên, bộ tiêu chí và chỉ số cụ thể về rủi ro cho mỗi lĩnh vực QLT vẫn chưa được ban hành. Dưới đây là một số nội dung trọng tâm cần lưu ý khi xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số cho từng lĩnh vực QLT. Cụ thể như sau:
162
(1) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá tuân thủ pháp luật thuế của NNT: Bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá tuân thủ pháp luật thuế của NNT phải phản ánh đầy đủ sự tuân thủ của NNT với các nghĩa vụ mà NNT phải chấp hành theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể là: - Tình hình tuân thủ thời hạn đăng ký, kê khai và nộp thuế: Có hay không có và tần suất các vi phạm về thời hạn thực hiện các thủ tục đăng ký và kê khai thuế; - Tình hình tuân thủ về nội dung kê khai: Có hay không có và tần suất vi phạm về những sai sót trong hồ sơ khai thuế; - Tình hình tuân thủ về tính thuế: Tần suất vi phạm về khai thiếu thuế, trốn thuế, gian lận thuế; độ lớn của vi phạm và mức độ xử lý vi phạm hành chính đã áp dụng trong một thời kỳ nhất định đối với hành vi khai thiếu thuế, trốn thuế, gian lận thuế; - Tình hình tuân thủ về nộp thuế: Tần suất vi phạm về chậm nộp thuế; số thuế nợ, tuổi nợ; tình hình và lịch sử áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế; - Tình hình tuân thủ các quy định pháp luật về hóa đơn, chứng từ: Tần suất vi phạm và các hình thức xử lý vi phạm về hóa đơn đã được áp dụng trong một thời hạn nhất định; - Tình hình tuân thủ các quy định pháp luật khác về thuế: Tần suất vi phạm và các hình thức xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm khác về thuế đã được áp dụng với người nộp thuế (vi phạm về thực hiện các thủ tục thanh tra, các thủ tục kiểm tra, vi phạm về thực hiện các thủ tục cưỡng chế nợ thuế…). (2) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro của NNT: Người nộp thuế tuân thủ pháp luật thuế ở mức độ khác nhau thì rủi ro về thuế cũng khác nhau. Như vậy, bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá xếp hạng rủi ro của NNT đương nhiên phải sử dụng các nội dung để xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế nói trên. Đồng thời, cần kết hợp với các tiêu chí và chỉ số khác để phản ánh đầy đủ rủi ro về thuế. Cụ thể là, ngoài những nội dung về tuân thủ thuế, cần chú ý thêm các nội dung sau: - Thông tin định danh về NNT: Vốn kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, đặc điểm nhân thân chủ sở hữu doanh nghiệp, địa bàn kinh doanh, mô hình tổ chức doanh nghiệp…; - Thông tin tổng quát về tình hình kinh doanh của NNT: Quy mô kinh doanh, tình hình phát triển sản xuất, kinh doanh; doanh thu; thu nhập khác; lợi nhuận kinh doanh…;
163
- Thông tin về tình hình tài chính của NNT: Các chỉ số tài chính thể hiện trên hệ thống báo cáo tài chính (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, vòng quay vốn, vòng quay hàng tồn kho…); - Thông tin về tình hình chấp hành các quy định pháp luật khác của NNT: Các vi phạm về hành chính trong các lĩnh vực khác (đầu tư, kinh doanh, thương mại, hải quan, đất đai…). (3) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn trường hợp kiểm tra về đăng ký thuế: Đăng ký thuế là một nghĩa vụ cụ thể của NNT, là cơ sở pháp lý đầu tiên xác định sự tồn tại của NNT trong hệ thống dữ liệu quản lý thuế của CQT. Hoạt động kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế của NNT có thể được thực hiện lồng ghép với hoạt động thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của NNT, nhưng cũng có thể được thực hiện riêng biệt trong những trường hợp cụ thể nhằm ngăn chặn sớm những NNT có dấu hiệu gian lận thuế có thể phát sinh ở những khâu tiếp theo, đặc biệt là hành vi thành lập DN “ma” nhằm mua bán hóa đơn hoặc hợp pháp hóa các giao dịch khống phục vụ cho mục đích trốn thuế, gian lận thuế của các DN khác. Việc kiểm tra đăng ký thuế kết hợp với thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT thực hiện theo bộ tiêu chí và chỉ số thanh tra, kiểm tra thuế. Với mục tiêu kiểm tra đó và đặc điểm của đối tượng kiểm tra này, trường hợp kiểm tra đăng ký thuế riêng biệt, bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: - Nhân thân và trình độ của NNT hoặc của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật của NNT; - Lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; - Quy mô vốn kinh doanh; - Địa điểm trụ sở: đi thuê hay sử dụng tài sản của chủ sở hữu; - Hoạt động đầu tư ban đầu… (4) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở CQT: Khả năng lý tưởng nhất trong kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở CQT là kiểm tra 100% hồ sơ khai thuế. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn nhân lực ngành Thuế có hạn và bộ phận kiểm tra thuế phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác thì việc lựa chọn hồ sơ để kiểm tra tại trụ sở CQT cũng cần được quan tâm. Xuất phát từ đối tượng và mục tiêu kiểm tra, nội dung trọng tâm cần quan tâm khi xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn hồ sơ khai thuế kiểm tra tại trụ sở CQT là: - Nhóm các tiêu chí và chỉ số phản ánh mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT;
164
- Thông tin tổng quát về tình hình và sự thay đổi trong hoạt động kinh doanh của NNT: Quy mô kinh doanh, tình hình phát triển sản xuất, kinh doanh; doanh thu; thu nhập khác; lợi nhuận kinh doanh…; - Thông tin về tình hình và sự thay đổi trong số thuế phải nộp của NNT (đối với các sắc thuế chủ yếu: Thuế GTGT, thuế TNDN). (5) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế và lựa chọn đối tượng hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế: Bộ Tài chính đã hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí và chỉ số phân loại giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT và hồ sơ có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế. Bộ tiêu chí và chỉ số này được quy định tại Thông tư số 99/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016. Tuy nhiên, bộ tiêu chí và chỉ số này mới quy định cho quy trình hoàn thuế GTGT mà chưa xây dựng để áp dụng cho các trường hợp hoàn thuế khác. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện để mở rộng áp dụng cho hoàn các loại thuế khác. Theo tinh thần cơ bản của Thông tư số 99/2016/TT-BTC, để giảm thiểu rủi ro trong hoàn thuế GTGT, đối tượng hoàn thuế được phân loại thành kiểm tra trước hoàn thuế sau và hoàn thuế trước kiểm tra sau. Đối tượng được hoàn thuế trước kiểm tra sau là đối tượng tuân thủ tốt pháp luật thuế với những tiêu chí cụ thể về các việc không bị xử lý hành chính về hành vi trốn thuế, gian lận thuế; không thuộc diện rủi ro cao về thuế; không bị xử phạt về hành vi buôn lậu, vận chuyển hàng trái phép và gian lận thương mại. Quy định như vậy là phù hợp nhưng chưa đủ, cần bổ sung thêm một số nội dung khác nhằm ngăn ngừa hành vi gian lận trong hoàn thuế. NCS đề xuất bổ sung thêm tiêu chí về tình hình chấp hành các quy định pháp luật khác của NNT: Các vi phạm về hành chính trong các lĩnh vực khác (đầu tư, kinh doanh, thương mại, hải quan, đất đai…). (6) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn NNT có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT: Như đã phân tích trong chương 3 của Luận án, cho đến nay, tuy chưa ban hành Thông tư quy định cụ thể về bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn NNT có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT. Tuy nhiên, trong nội dung Quy trình thanh tra thuế và Quy trình kiểm tra thuế hiện hành đã áp dụng nội dung này. Tuy vậy, ngành Thuế cần hoàn thiện và ban hành chính thức bộ tiêu chí và chỉ số lựa chọn NNT có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT. Bộ chỉ số này hoàn toàn có thể kế thừa các tiêu chí đã quy định trong Quy
165
trình thanh tra thuế và Quy trình kiểm tra thuế hiện hành và bổ sung thêm cho phù hợp. Khi hoàn thiện bộ tiêu chí và chỉ số này, cần chú ý các vấn đề quan trọng sau: - Cần xây dựng các tiêu chí và chỉ số đóng áp dụng đối với mọi loại hình DN, mọi NNT và áp dụng cho mọi CQT địa phương kết hợp với nhóm tiêu chí và chỉ số mở có thể áp dụng ở địa phương này mà không áp dụng ở địa phương khác, có thể áp dụng với loại đối tượng NNT này mà không áp dụng với đối tượng khác. Quy định như vậy để đảm bảo tính thống nhất đồng thời cũng đảm bảo tính phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể để phản ánh đúng mức độ rủi ro về thuế. - Cần xây dựng thang điểm phù hợp và mã hóa các chỉ số rủi ro để ứng dụng công nghệ thông tin vào đánh giá rủi ro. Đồng thời, việc xác định điểm số rủi ro cũng chỉ nên mang tính định hướng còn mức điểm cụ thể để các CQT địa phương vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. - Nội dung cốt yếu để xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số cho lĩnh vực này cần bao quát 2 nhóm vấn đề sau: (i) Các tiêu chí và chỉ số về tuân thủ pháp luật thuế (nhóm 1 nêu trên); (ii) Các tiêu chí và chỉ số phản ánh rủi ro về thuế (nhóm 2 nêu trên). (7) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số quản lý theo dõi thu nợ thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế: Với đặc thù của đối tượng cần thực hiện thu nợ thuế hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, nội dung các tiêu chí và chỉ số cần sử dụng là: - Tình hình và mức độ nợ thuế thực tế của NNT: Mức nợ, tuổi nợ, loại thuế hoặc khoản nợ; - Tình hình và hiệu quả áp dụng các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế nợ thuế đã áp dụng; - Tình hình tài chính của NNT: Các tỷ suất tài chính, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán tức thì, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu, hàng tồn kho…; - Nhân thân của NNT, của chủ sở hữu DN hoặc người đại diện theo pháp luật của DN… (8) Đối với bộ tiêu chí và chỉ số xác định mức độ rủi ro để thực hiện chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định pháp luật và xác định trường hợp NNT có dấu hiệu rủi ro để bổ sung kế hoạch kiểm tra, thanh tra về tạo, in, phát hành, quản lý, sử dụng hóa đơn, ấn chỉ thuế: Với đặc thù của lĩnh vực này, các doanh nghiệp cơ bản mà bộ tiêu chí và chỉ số cần phản ánh là:
166
- Tình hình tuân thủ pháp luật thuế (các tiêu chí và chỉ số thuộc nhóm 1 nêu trên); - Thông tin định danh về NNT: Vốn kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, đặc điểm nhân thân chủ sở hữu doanh nghiệp, địa bàn kinh doanh, mô hình tổ chức doanh nghiệp…; - Thông tin tổng quát về tình hình kinh doanh của NNT: Quy mô kinh doanh, tình hình phát triển sản xuất, kinh doanh; doanh thu; thu nhập khác; lợi nhuận kinh doanh…; - Thông tin về tình hình sử dụng hóa đơn của NNT: Có hay không có sự biến động về số lượng hóa đơn sử dụng; tình hình chấp hành các quy định về quản lý, sử dụng và báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn; tần suất sai sót trong sử dụng hóa đơn; loại và hình thức hóa đơn sử dụng; mức độ tập trung về đối tác nhận hóa đơn… Ngoài những nội dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu để hoàn thiện các bộ tiêu chí và chỉ số quản lý rủi ro nêu trên, điều không kém phần quan trọng là định kỳ hàng năm phải rà soát, đánh giá lại để loại bỏ các tiêu chí và chỉ số không phù hợp; bổ sung các chỉ số và tiêu chí mới; đồng thời, điều chỉnh điểm của mỗi tiêu chí và chỉ số cho phù hợp với điều kiện mới. 4.3.5. Hoàn thiện nhóm chỉ số đánh giá tuân thủ thuế của người nộp thuế trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế Như đã phân tích trong chương 3 của Luận án, trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động QLT mà Tổng cục Thuế ban hành kèm theo Quyết định số 688/QĐ-TCT ngày 22 tháng 4 năm 2013, có nhóm chỉ số phản ánh sự tuân thủ thuế của NNT. Trên thực tế, khi mức độ tuân thủ thuế của NNT tăng lên là kết quả tác động của nhiều nhân tố, cả chủ quan và khách quan, cả do hoạt động quản lý của CQT và do nhiều nhân tố khác. Tuy nhiên, chỉ số này cũng phần nào phản ánh tính hiệu quả và hiệu lực của công tác QLT. Tuy nhiên, như đã phân tích trong chương 3 của Luận án, trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động QLT còn thiếu nhiều chỉ số đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT. Vì vậy, khi tổng kết, đánh giá định kỳ, không có số liệu để phân tích, đánh giá. Điều này làm hạn chế đến việc tìm giải pháp cải thiện hoạt động QLT nằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT do thiếu cơ sở dữ liệu thực tiễn. Để khắc phục hạn chế này, NCS đề xuất CQT bổ sung vào chỉ số đánh giá hoạt động QLT các chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ giữa số NNT có hành vi vi phạm pháp luật thuế với tổng số NNT đang quản lý hoặc được kiểm tra.
167
- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng phải đăng ký thuế. - Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số NNT đã thực hiện đăng ký thuế. - Chỉ tiêu 7: Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra. - Chỉ tiêu 8: Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được thanh tra, kiểm tra. - Chỉ tiêu 9: Tỷ lệ số NNT đúng hạn trên tổng số NNT có số thuế phải nộp trong kỳ tính thuế. - Chỉ tiêu 10: Tỷ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải nộp theo nghĩa vụ thuế của NNT. Ý nghĩa, nội dung và cách xác định các chỉ tiêu này đã được phân tích cụ thể trong mục 2.3.1.2 của Luận án. 4.3.6. Đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền, hỗ trợ nhằm thúc đẩy ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế Như các quan điểm đã nêu ra, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế luôn luôn được chú trọng, đây chính là cơ sở, là môi trường cần thiết để tạo lập và nuôi dưỡng ý thức tuân thủ thuế của NNT. Tuyên truyền, hỗ trợ NNT là một trong những chức năng quan trọng trong quản lý thuế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đã nhận thức được và đang nỗ lực thực hiện. Thực hiện tốt hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT có thể nâng cao tính tuân thủ cho NNT, tăng sự tin tưởng của người dân đối với chính sách thuế của Nhà nước và góp phần giảm gánh nặng cho việc thực hiện, giám sát thực hiện các luật thuế. Nói một cách khác, khi NNT hiểu rõ được quyền và nghĩa vụ của họ trong việc nộp thuế, nội dung các chính sách pháp luật về thuế và xác định được số thuế mà họ phải nộp cũng như cách thức để nộp thuế thì việc giám sát của các cơ quan quản lý sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Để duy trì và phát triển hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT ngày một mạnh mẽ hơn, xuất phát từ thực tế tại Việt Nam và kinh nghiệm của các nước trong việc tuyên truyền và cung cấp dịch vụ hỗ trợ NNT, cần áp dụng các giải pháp cụ thể sau: Thứ nhất, kết hợp và tận dụng mọi nguồn lực để có thể cung cấp các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ cho NNT với chất lượng và tính chuyên nghiệp ngày càng cao. Với các nước đang phát triển, trong điều kiện nguồn lực có hạn thì việc thực hiện tất cả các hình thức tuyên truyền và cung cấp toàn bộ các dịch vụ hỗ trợ NNT dường
168
như quá sức đối với Chính phủ. Vì vậy, cách tiết kiệm và hiệu quả nhất là kết hợp giữa việc sử dụng nguồn lực từ NSNN và tạo ra một cơ chế để khu vực tư nhân có thể tham gia vào những hoạt động này, đồng thời kêu gọi các nguồn tài trợ thông qua các hình thức tư vấn tự nguyện. Cụ thể: Khu vực tư nhân có thể thực hiện việc xuất bản các loại sách hướng dẫn về việc xác định số thuế phải nộp cho từng đối tượng cụ thể. Các loại sách liên quan đến việc hướng dẫn các luật thuế cần được biên soạn dưới hình thức câu hỏi nhỏ, dễ đọc, dễ nhớ thay vì các điều khoản luật. Bên cạnh đó, các kênh thông tin có thể thực hiện việc chuyển tải các quy định, luật lệ, các quyết định phán quyết của tòa án trong những trường hợp cụ thể để mỗi cá nhân có thể liên hệ với trường hợp của mình để thực hiện. Các bản tin hàng tuần với những cập nhật những thay đổi về thuế cũng là một gợi ý hay cho các DN khi muốn đến gần hơn với khách hàng của mình. Ngoài ra, CQT có thể phối hợp với các công ty truyền thông để sản xuất các chương trình truyền hình đặc biệt dưới hình thức các trò chơi truyền hình, kết hợp với việc phỏng vấn các cán bộ thuế, các kế toán, kiểm toán và các luật sư về các vấn đề phức tạp và thời sự liên quan đến việc thực hiện các sắc thuế. Việc tổ chức các lớp giới thiệu và cập nhật về luật thuế cho các công ty mới thành lập, hay hướng dẫn giải quyết các tình huống phức tạp và thông dụng trong thực tế của một số DN cũng là hình thức mà các công ty tư vấn có thể thực hiện. Bên cạnh việc sử dụng các nguồn lực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ mang tính thương mại như trên, việc sử dụng các hình thức tư vấn tự nguyện cũng là một ý kiến rất đáng được quan tâm trong việc tuyên truyền và hỗ trợ cho NNT. Do mang tính chất phi lợi nhuận nên các chương trình này có thể sử dụng nguồn lực và sự hảo tâm của các tổ chức phi chính phủ, các chương trình, dự án hỗ trợ của các tổ chức tài chính thế giới, và nên được tập trung thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định để có tác động lan truyền mạnh mẽ đến với mọi nguời dân, NNT. Đặc biệt, cần sử dụng các nguồn lực từ NSNN trong việc cung cấp các dịch vụ còn lại mà khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ chưa thực hiện. Vai trò của Chính phủ sẽ được thể hiện rõ rệt nhất trong việc thiết kế các chương trình tuyên truyền, giáo dục về thuế trong các trường phổ thông và cho các công dân sắp đến tuổi kê khai thuế. Việc sản xuất các băng video, các đĩa mềm và hàng loạt các chương trình học khác nhau để NNT có thể tiếp cận được một cách dễ dàng và linh hoạt đối với các khóa học khác nhau như kinh nghiệm ở Mỹ cũng là một gợi ý rất hay cho việc sử dụng nguồn lực công trong việc nâng cao nhận thức về thuế cho các NNT.
169
Thứ hai, bố trí nguồn nhân lực chuyên nghiệp và giỏi nghiệp vụ cho việc cung cấp các dịch vụ ban đầu cho NNT như việc trả lời điện thoại và các cuộc tiếp xúc cá nhân. Chi phí kiểm tra, giám sát sẽ giảm đáng kể nếu NNT có thể nhận thức đúng đắn và tính toán được chính xác số thuế mà mình phải nộp. Vì vậy, CQT cần bố trí các cán bộ thuế giỏi nhất, chuyên nghiệp nhất để có thể trả lời được các câu hỏi của NNT một cách nhanh chóng và chính xác nhất, đặc biệt là hình thức trả lời qua điện thoại và các hình thức tiếp xúc cá nhân. Chính việc này đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho các khâu tiếp theo và như vậy, tiết kiệm được nguồn lực cho quản lý thuế. Thứ ba, phải đa dạng các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT sao cho gần gũi với quần chúng. Bên cạnh việc mở rộng các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ, cần thiết phải chú ý đến việc làm sao để các NNT tiếp cận được với các hình thức đó một cách dễ dàng nhất. Như vậy, cách thức tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT là vấn đề không kém quan trọng. Các ấn phẩm được xuất bản hay các phụ trương trên báo cần được đưa dưới dạng các câu hỏi nhỏ, các tình huống cụ thể thay vì các văn bản pháp luật. Việc cung cấp các tài liệu này cũng cần được mở rộng hơn - có thể có sẵn ở các bưu điện, các quầy sách báo thay vì để ở các tủ sách miễn phí tại các CQT như hiện nay để NNT có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu. Các chương trình truyền hình có thể được phát dưới dạng quảng cáo ngắn, hoặc các trò chơi truyền hình được phát trên các kênh truyền hình có đông lượng khán giả, có thể đựơc phát sóng rải rác trong năm hoặc tập trung vào một thời gian nhất định, nhất là trong thời gian cao điểm NNT thực hiện việc khai thuế, tính thuế và nộp thuế. 4.3.7. Quản lý tốt việc đăng ký, kê khai và nộp thuế của người nộp thuế Quản lý NNT là công việc mang tính tiên quyết trong quá trình quản lý thuế. Trên thực tế, do số lượng NNT nhất là trong khu vực ngoài quốc doanh lớn và dàn trải trên địa bàn rộng nên việc quản lý NNT gặp nhiều khó khăn do địa điểm kinh doanh và loại hình kinh doanh luôn luôn biến động. Điều này làm cho khả năng tập hợp thông tin, giám sát hành vi tuân thủ, đánh giá tuân thủ và thực hiện các nội dung quản lý khác của CQT trở nên khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Do đó, trong công tác quản lý thuế, để nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT, CQT cần tập trung chú trọng đến công tác quản lý đăng ký thuế, khai thuế của NNT. Cụ thể:
170
- Đối với đối tượng đăng ký thuế: Cần thiết lập một cơ chế đăng ký thuế đơn giản cho NNT và một cơ chế quản lý khoa học của CQT đối với những đối tượng đã được đăng ký thuế, trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc đăng ký mã số thuế cho NNT. Việc đăng ký mã số thuế không chỉ cần thiết trong việc quản lý được lỗ hổng về đăng ký thuế mà còn cung cấp những cơ sở để thực hiện nhiều hoạt động khác trong quản lý thuế. Hợp nhất các thủ tục đăng ký thuế có cùng nhóm đối tượng, thành phần hồ sơ và trình tự thực hiện giống nhau vào 1 nhóm. Quy định rõ trong hồ sơ đăng ký thuế các bản sao giấy tờ nào là bản sao cần công chứng, bản sao nào không thay thế cho các quy định “bản sao hợp lệ”... Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục đăng ký thuế mà NNT nộp trực tiếp tại CQT để tạo thuận lợi cho NNT nhưng đảm bảo khả năng và thời gian giải quyết của CQT phù hợp với quy định về thời gian theo quy trình một cửa liên thông. Sửa mẫu Tờ khai đăng ký thuế, đơn giản hoá các chỉ tiêu mà NNT không có để kê khai hoặc kê khai không chính xác ngay tại thời điểm đăng ký thuế - đăng ký kinh doanh như: Số lao động, số tài khoản ngân hàng... Tăng cường phối hợp thực hiện cơ chế một cửa liên thông với cơ quan Đăng ký kinh doanh (cả cấp tỉnh/thành phố và cấp quận/huyện) để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và DN. - Về thời gian đăng ký thuế: Có các biện pháp kiên quyết hơn nữa đối với đối tượng đăng ký kê khai chậm, không nộp tờ khai. Cần có biện pháp đôn đốc, xử phạt thích đáng nhằm răn đe các hành vi vi phạm ngay từ đầu để nâng cao tính tuân thủ của NNT trong kê khai, nộp thuế. - Thực hiện tốt việc cấp và thu hồi mã số thuế, nhất là việc thu hồi mã số thuế đối với hộ bỏ kinh doanh. Cần phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan để rà soát, nắm chính xác số đối tượng thực tế kinh doanh; đưa hết các đối tượng kinh doanh vào quản lý, nắm bắt kịp thời các đối tượng kinh doanh mới để đôn đốc đăng ký mở mã số thuế và đưa vào phân loại NNT để áp dụng biện pháp quản lý thuế phù hợp. - Tổ chức phân loại NNT theo ý thức tự giác chấp hành để có những biện pháp quản lý phù hợp. CQT với các cơ quan có liên quan thường xuyên kiểm tra cơ sở kinh doanh, nếu có những biểu hiện tình trạng gian lận cần báo cáo ngay để có hướng giải quyết. Ngoài ra, hiện trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế, việc quản lý kê khai, nộp thuế của NNT sẽ được CQT thực hiện chủ yếu thông qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
171
4.3.8. Nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác kiểm tra, thanh tra thuế Trong điều kiện cơ chế tự khai tự nộp được mở rộng và phát triển thì thanh tra, kiểm tra sẽ là chức năng quan trọng nhất, đảm bảo tính tuân thủ của các NNT, nâng cao tính hiệu lực cho công tác quản lý thuế. Để nâng cao được ý thức tuân thủ thuế của NNT thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý thuế cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề cụ thể sau đây: Cần tăng cường hoạt động kiểm tra tại trụ sở CQT, lựa chọn chính xác các đối tượng cần thanh tra, kiểm tra, sau đó cần phải ban hành một quy trình thanh tra hợp lý và phải có một đội ngũ cán bộ thanh tra đủ về số lượng, tốt về chất lượng và được đào tạo một cách chuyên nghiệp. Thứ nhất, tăng cường việc kiểm tra tờ khai tại trụ sở CQT, giám sát chấp hành pháp luật thuế. Để đảm bảo thường xuyên quản lý chặt chẽ DN, ngoài việc thực hiện nghiêm túc các qui định theo qui trình quản lý thuế hiện hành cần quan tâm đến việc giám sát DN thông qua công tác kiểm tra tại bàn. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên hàng tháng với tất cả các đối tượng, đặc biệt là các DN thông qua số liệu trên tờ khai, báo cáo và các kênh thông tin khác. Bất kỳ có sự thay đổi nào như đột biến về doanh số, thay đổi loại hình kinh doanh, thay đổi tỷ trọng xuất khẩu, thay đổi tỷ trọng nhập khẩu… đều phải được cán bộ quản lý ghi nhận và có đánh giá. Những thông tin đó rất có tác dụng đối với việc quản lý DN. Thông qua việc kiểm tra tại bàn, có thể phát hiện những dấu hiệu vi phạm (như trường hợp khấu trừ khống, khấu trừ chưa có hoá đơn, các trường hợp hoàn thuế không đúng đối tượng, kê khai trùng, kê khai sai thuế suất hay hoạt động không đúng theo giấy phép…). Tất cả những thông tin có được qua công tác kiểm tra tại bàn sẽ là nguồn thông tin hữu ích cho công tác kiểm tra quyết toán thuế hàng năm và lựa chọn đối tượng kiểm tra tại cơ sở. Công tác kiểm tra tại bàn nếu được thực hiện tốt sẽ là cơ sở để hoạt động thanh tra, kiểm tra NNT đạt hiệu quả cao. Thứ hai, lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro. Cho dù có tăng nguồn lực cho công tác thanh tra, kiểm tra thì cũng không thể kiểm soát hết được 100% đối tượng nộp thuế, vì vậy, thanh tra, kiểm tra thuế cần phải có những kế hoạch và việc lựa chọn đối tượng thanh tra trong từng giai đoạn cho phù hợp. Để thực hiện việc này, kỹ thuật quản lý rủi ro sẽ được áp dụng để có thể lựa chọn được đối tượng cần thanh tra, kiểm tra một cách hiệu quả nhất. Phương pháp quản lý rủi ro được thực hiện dựa trên quy trình quản lý rủi ro - đó là một quy trình có tổ chức nhằm xác định, đánh giá, xếp loại và xử lý một cách có hệ
172
thống đối với các rủi ro tuân thủ về thuế (ví dụ như rủi ro trong việc không đăng ký thuế, không kê khai thu nhập hay kê khai không đúng...). Ngành Thuế cần thành lập một trung tâm phân tích, xử lý dữ liệu và sử dụng phương pháp quản lý rủi ro nhằm lựa chọn các đối tượng thanh tra trong toàn quốc theo những tiêu chí thống nhất cho từng năm tính thuế. Với công tác thanh tra, trung tâm phân tích và xử lý có thể khoanh vùng nhóm đối tượng cần thanh tra - chủ yếu là NNT thuộc nhóm thứ tư (không tuân thủ) và thứ ba (miễn cưỡng tuân thủ). Cùng với việc phân tích những dữ liệu trong tờ khai mà NNT cung cấp, kết hợp với việc phân tích tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định, như các vấn đề nổi cộm, những biến động lớn trong năm... trung tâm có thể xác định được vấn đề cần thanh tra. Trong một năm tính thuế nhất định, công tác thanh tra sẽ chỉ tập trung vào việc thanh tra nhóm đối tượng đã được lựa chọn theo quy trình trên với những vấn đề có mức độ rủi ro cao nhất, và như vậy, nguồn lực thanh tra sẽ được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, muốn có được các dữ liệu cho việc thực hiện việc phân tích rủi ro thì thông tin dữ liệu về NNT phải được thu thập, xây dựng và cập nhật thường xuyên thành dữ liệu của cả ngành và dữ liệu đặc thù riêng tại từng cấp quản lý thuế. Cần duy trì quản lý hồ sơ NNT sau khi đã làm xong thủ tục thuế thông qua việc x ây dựng cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thuế. Việc xây dựng, quản lý, ứng dụng hồ sơ quản lý NNT là giải pháp hữu hiệu cho việc quản lý và đánh giá quá trình tuân thủ pháp luật của NNT. Hồ sơ quản lý NNT được xây dựng trên cơ sở Bộ tiêu chí thông tin về NNT và được quản lý dưới hình thức một cơ sở dữ liệu tập trung. Cơ sở dữ liệu này sẽ giúp cho việc tích hợp, cập nhật thông tin đầy đủ về NNT. Hồ sơ quản lý NNT được quản lý, theo dõi, đánh giá theo các nhóm khác nhau như theo loại hình, theo lĩnh vực, mức độ ưu tiên… Việc đánh giá NNT được dựa trên điểm rủi ro của Bộ tiêu chí và chỉ số đánh giá NNT. Mức độ tuân thủ của NNT được dựa trên các điểm số rủi ro, được đánh giá đối với các tiêu chí về cơ cấu tổ chức, trạng thái và kết quả hoạt động; quá trình chấp hành pháp luật và quy định của ngành Thuế; kết quả thanh tra, kiểm tra thuế. Thứ ba, tăng cường đội ngũ thanh tra, kiểm tra và nâng cao năng lực cho các cán bộ thanh tra, kiểm tra Theo báo cáo của ngành Thuế, số lượng cán bộ thanh tra, kiểm tra trong tổng số công chức toàn ngành hiện nay chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra (mới khoảng 18%). Trong khi đó, nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng NNT ngày càng tăng, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó, cơ chế
173
tự khai, tự tính tự nộp thuế đang áp dụng. Vì vậy, việc tăng số lượng cán bộ thanh tra là rất cần thiết. Để đảm bảo phục vụ tốt nhất công tác quản lý thuế theo chức năng, theo kinh nghiệm ở các nước, cần phải có đến 25% - 40% cán bộ thuế làm công tác thanh tra, vì vậy, Việt Nam cũng phải có kế hoạch tăng số lượng cán bộ thanh tra thuế trong thời gian tới. Việc tăng số lượng cán bộ thanh tra có thể thực hiện bằng cách tuyển mới hoặc điều chuyển cán bộ từ các bộ phận khác. Tuy nhiên, dù được lựa chọn dưới hình thức nào thì cán bộ thanh tra vẫn phải là những cán bộ thuế có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. Song song với việc tăng số lượng cán bộ thanh tra, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ này bằng việc thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức thông qua các lớp tập huấn về nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thuế. Các lớp bồi dưỡng, tập huấn này nên được tổ chức thường xuyên tại trường Nghiệp vụ thuế hoặc trường Đào tạo cán bộ thanh tra với thời gian ngắn và được chia thành nhiều đợt để không ảnh hưởng đến công việc của CQT, đồng thời cũng thuận lợi hơn cho các cán bộ đi học. Thứ tư, hoàn thiện quy trình thanh tra, kiểm tra, trong đó cần chú trọng công tác chuẩn bị kiểm tra tại trụ sở DN . Quy trình thanh tra, kiểm tra đã được ban hành, CQT phải tuyệt đối tuân thủ các nội dung và các bước theo qui định như lập kế hoạch thanh tra, tổ chức thanh tra tại trụ sở DN, xử lý kết quả sau thanh tra, tổng hợp báo cáo và lưu giữ tài liệu thanh tra thuế. Tuy nhiên, công tác thanh tra đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN có quy mô lớn thì thời gian tiến hành thanh tra và các bước công việc chưa thật phù hợp. Vì vậy, có thể bổ sung quy trình cho những trường hợp đặc biệt như các DN ĐTNN có dấu hiệu chuyển giá, quy trình điều tra việc trốn thuế... Ngoài việc bố trí lực lượng phù hợp với yêu cầu, thực hiện đúng các qui trình thanh tra kiểm tra, công tác chuẩn bị kiểm tra có ý nghĩa quan trọng. Trước khi thanh tra, kiểm tra một DN, cục thuế thường thông báo trước cho DN trong đó nói rõ mục đích yêu cầu, các nội dung thanh kiểm tra, các tài liệu cần cung cấp. Riêng đối với các DN có sử dụng phần mềm kế toán thì yêu cầu họ cung cấp các tài liệu thông qua mạng để có thể ứng dụng máy tính trong công tác kiểm tra trước (ví dụ cần lựa chọn các chứng từ có nghi vấn, các giao dịch kinh tế hay phân tích chi phí, thuế theo tiêu thức phù hợp phục vụ thiết thực công tác kiểm tra). Việc kiểm tra tại CQT trước khi đến DN như vậy đã giảm được khối lượng rất lớn công việc cần làm trong một cuộc kiểm tra quyết toán thuế. Đối với các DN lớn, thời gian 5 ngày kiểm tra tại DN chỉ đủ để nghe DN giải trình và báo cáo. Chính vì vậy, chất lượng một cuộc kiểm tra phụ thuộc rất nhiều vào công tác chuẩn bị kiểm tra.
174
4.3.9. Tăng cường công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế Nếu như các biện pháp thanh tra, kiểm tra là cách thức để CQT thực hiện việc giám sát tính tuân thủ thuế của NNT, thì các biện pháp cưỡng chế, xử lý vi phạm pháp luật thuế là một công cụ để CQT có thể thể hiện quyền lực của hoạt động giám sát của mình. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, CQT sẽ phát hiện ra những NNT không tuân thủ, và để đảm bảo kết quả giám sát đó, các biện pháp cưỡng chế và xử phạt sẽ được áp dụng. Tổng số thuế đã được nộp vào vào NSNN của NNT là một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT. Do đó, công tác đôn đốc thu nộp thuế, xử lý nợ đọng thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có vai trò quan trọng trong đảm bảo huy động số thuế đầy đủ, kịp thời cho NSNN, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Để làm tốt công tác đôn đốc thu nộp thuế, xử lý nợ đọng và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, CQT cần tiến hành các biện pháp sau: - Hoàn thiện các phương thức thanh toán tiền thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT trong thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN như nộp thuế điện tử qua mạng internet, qua mạng di động, qua các phương tiện thanh toán khác. Ngoài ra, đối với các địa phương chưa đủ điều kiện, CQT cần phối hợp với các cơ quan liên quan như kho bạc, ngân hàng để bố trí thêm những điểm thu thuế thuận lợi khi cần thiết, giúp NNT dễ dàng thực hiện việc nộp thuế của mình. - Đối với các trường hợp nợ thuế, CQT cần thực hiện các biện pháp theo quy trình quản lý nợ thuế để đảm bảo số thuế nợ được huy động kịp thời vào NSNN. Cụ thể như sau: + Phải thống kê và nắm bắt đầy đủ tình hình nợ thuế của NNT, số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của NNT. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi CQT phải theo dõi được toàn bộ số thuế ghi thu, số thuế đã thu, số thuế còn nợ của từng NNT trong một thời kỳ nhất định. Đồng thời, bộ phận quản lý nợ thuế phải phản ánh được danh mục nợ thuế của một thời kỳ nhất định và lũy kế số thuế nợ của toàn bộ NNT và của từng NNT đối với từng khoản thu và tất cả các khoản thu tại một CQT ở một thời điểm nhất định. + Phân tích và đánh giá thực trạng nợ thuế thông qua việc phân loại nợ thuế, phân tích các nguyên nhân nợ thuế... Nội dung này đòi hỏi bộ phận quản lý nợ của CQT phải đánh giá được thực trạng nợ bằng cách chỉ rõ diễn biến nợ thuế trong những thời kỳ nhất định để thấy được công tác quản lý nợ tốt lên hay xấu đi; thấy được tuổi nợ, mức nợ, loại nợ theo từng tiêu chí phân loại. Đặc biệt, công tác này
175
cần làm rõ được nguyên nhân chủ quan và khách quan của tình hình nợ thuế nói chung và lý do nợ thuế trong những trường hợp cụ thể để có biện pháp cải tiến quản lý hoặc xử lý và đôn đốc thu nợ phù hợp. + Thực hiện các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc nộp tiền thuế và các khoản thu khác do CQT quản lý. Vì mục tiêu của quản lý nợ thuế là phải đảm bảo thu hồi số thuế nợ. Do vậy, nội dung cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng của công tác quản lý nợ thuế là phải nhắc nhở, đôn đốc bằng các hình thức cụ thể do pháp luật quy định để NNT thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình, chẳng hạn như nhắc nhở qua điện thoại hoặc ra thông báo bằng văn bản về việc nợ thuế... Đồng thời, phải xử lý nghiêm minh, công bằng đối với những trường hợp nợ nần, dây dưa về thuế. Nếu vi phạm tiếp lần sau sẽ phạt nặng hơn, từ đó khuyến khích và ý thức được trách nhiệm của NNT. - Đối với các trường hợp phải thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, CQT phải thực hiện các nội dung của quy trình như thu thập thông tin về NNT, xác định biện pháp cưỡng chế, xây dựng kế hoạch cưỡng chế, tổ chức cưỡng chế theo quy định để thu được số tiền thuế nợ đọng, tiền phạt thuế vào NSNN. Hiện nay, Luật Quản lý thuế cho phép CQT linh hoạt trong sử dụng các biện pháp cưỡng chế nên để đảm bảo hiệu quả của công tác cưỡng chế nói riêng, công tác quản lý thuế nói chung, việc xác định và lựa chọn biện pháp cưỡng chế là rất quan trọng. CQT cần xem xét lựa chọn biện pháp cưỡng chế nào có thể thu được tiền thuế cho Nhà nước nhưng không làm trầm trọng tình hình sản xuất kinh doanh của NNT. Ngoài ra, đối với các hành vi không tuân thủ thuế đã được phát hiện, CQT cần áp dụng nghiêm khắc các biện pháp xử lý theo quy định, đúng người, đúng tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thuế. Khi tình huống yêu cầu CQT phải có khả năng và chuẩn bị để sử dụng những hình thức trừng phạt nhanh chóng và có hiệu lực, làm cho các hình phạt kiên định và nghiêm khắc hơn đối với sự vi phạm nghiêm trọng. Các hình phạt càng cứng rắn đối với những sự vi phạm càng nghiêm trọng thì sẽ thiết lập được những sự tin tưởng đối với CQT, ngăn ngừa được những hành vi tương tự và những tái phạm của NNT, đảm bảo tính tuân thủ thuế được nâng cao. 4.3.10. Các giải pháp khác 4.3.10.1. Về cải cách tổ chức bộ máy Xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý thuế theo mô hình quản lý thuế kết hợp hợp lý giữa quản lý thuế theo chức năng với quản lý thuế theo đối tượng. Cụ thể:
176
Tổ chức bộ máy CQT theo chức năng, trong các đơn vị quản lý theo chức năng có tổ chức bộ phận chuyên trách quản lý theo các nhóm đối tượng. Triển khai mô hình quản lý được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới phân cấp quản lý thuế giữa các CQT các cấp. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ CQT các cấp và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu quản lý: Kiện toàn hệ thống pháp chế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác pháp chế của ngành Thuế; triển khai mô hình quản lý thu thuế kết hợp với quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của bộ phận quản lý thuế thu nhập các nhân đảm bảo không chồng chéo với các bộ phận chức năng khác; có bộ phận chuyên trách quản lý, giám sát, theo dõi hoạt động của các đại lý thuế tại Tổng cục Thuế; sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy cục thuế, chi cục thuế tinh gọn, đảm bảo thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý thuế chính, phù hợp với thực tiễn ở địa phương, nhằm tập trung nguồn lực để phát huy hiệu lực, hiệu quả; kiện toàn bộ máy kế toán thuế của CQT các cấp để triển khai chế độ kế toán nội địa trong toàn ngành Thuế. 4.3.10.2. Bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng công chức thuế Thứ nhất, đổi mới tuyển dụng cán bộ theo hướng phân loại cán bộ theo trình độ, chuyên ngành đào tạo để áp dụng cơ chế tuyển dụng phù hợp. Triển khai tuyển dụng hàng năm nhằm kịp thời bổ sung biên chế, đảm bảo nguồn nhân lực cho CQT các cấp. Phân loại cán bộ theo trình độ, chuyên ngành đào tạo để áp dụng cho cơ chế tuyển dụng phù hợp (nâng dần chỉ tiêu tuyển dụng, nâng dần điều kiện về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu công việc trong thời kỳ hội nhập kinh tế). Tập trung chỉ tiêu tuyển dụng đạt chất lượng cao cho cấp Tổng cục, cấp cục thuế. Thứ hai, đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức thuế đảm bảo tính liên kết giữa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức mới với đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo từng chức năng, nhiệm vụ quản lý cho cán bộ nhằm nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ ngành Thuế (xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trong suốt quá trình công tác của công chức; xây dựng mô hình chuẩn về đào tạo cán bộ thuế; xây dựng các hình thức đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo chuyên sâu...). Thứ ba, điều chỉnh dần cơ cấu cán bộ, công chức của từng bộ phận quản lý thuế theo từng chức năng đảm bảo hiệu quả, phù hợp với nhiệm vụ quản lý thuế và thông lệ quốc tế: Cơ cấu lại nguồn nhân lực theo địa bàn quản lý (tập trung nguồn
177
nhân lực cho những địa bàn trọng điểm), theo chức năng quản lý, theo đối tượng quản lý; điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực CQT các cấp phù hợp (theo hướng tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao tại các cấp Tổng cục, cục thuế; sắp xếp lại nguồn nhân lực tại các chi cục thuế phù hợp); xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực theo chất lượng, chiều sâu, đảm bảo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, có trình độ chuyên môn sâu trong tất cả các lĩnh vực quản lý thuế. Thứ tư, đổi mới phương thức đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm trên cơ sở đánh giá cán bộ theo năng lực và hiệu quả công việc, xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng. Thứ năm, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ công chức thuế đối với từng lĩnh vực công tác gắn với từng vị trí công việc; xây dựng tiêu chuẩn chất lượng đội ngũ cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo. 4.3.10.3. Tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển và quản lý tốt hoạt động của hệ thống đại lý thuế Đại lý thuế là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt. Dịch vụ làm thủ tục về thuế là loại dịch vụ vừa có tính chất là dịch vụ pháp lý, vừa có tính chất là dịch vụ thuế, dịch vụ kế toán. Loại dịch vụ này có liên quan trực tiếp đến lợi ích của cả Nhà nước, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (đại lý thuế) và những NNT có sử dụng dịch vụ làm thủ tục về thuế với tư cách là khách hàng của đại lý thuế. Bởi vậy, ở mọi quốc gia đây đều được coi là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Tuy vậy, việc quản lý chặt chẽ cần phải đi đôi với tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DN trong đó có đại lý thuế. Như đã phân tích trong chương 2 của Luận án, sự phát triển của hệ thống đại lý thuế là một trong những nhân tố tác động đến việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT. Trong khi đó, cho đến tháng 3/2017 ở Việt Nam mới có chưa đến 342 đại lý thuế đang hoạt động hợp pháp. Đây là số lượng quá nhỏ so với số lượng khoảng 570.000 DN và hơn 1,6 triệu hộ kinh doanh cá thể. Bởi vậy, việc tạo điều kiện và quản lý tốt hoạt động của đại lý thuế ở Việt Nam là giải pháp cấp bách mà lâu dài để góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Để gia tăng số lượng đại lý và đảm bảo chất lượng hoạt động của các đại lý thuế, cần chú trọng thực hiện các giải pháp cụ thể sau: - Đổi mới nội dung và hình thức tổ chức thi cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. Theo đó, nội dung thi cần tập trung vào hướng kiểm tra mức độ hiểu biết và vận dụng thực hành của thí sinh hơn là tập trung vào kiểm tra học thuộc lòng. Trước mắt, cần ứng dụng công nghệ hiện đại để tổ chức ít nhất 2 kỳ thi
178
một năm, tạo cơ hội cho thí sinh sớm được thi lại khi thi chưa đạt. Trong trung hạn cần nghiên cứu triển khai hệ thống thi trực tuyến và các trung tâm kiểm định ở cả 3 miền để thí sinh có thể dự thi vào mọi thời điểm trong năm và được chấm điểm tự động, báo kết quả tự động và ghi nhận vào hệ thống của Tổng cục Thuế. - Ứng dụng công nghệ hiện đại vào việc cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những người muốn hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. - Đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức cho những người hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế cũng như những người ôn thi lấy chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. - Nghiên cứu phát triển mô hình kết nối và phối hợp giữa DN kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế với các DN kiểm toán để phối hợp và nâng cao chất lượng dịch vụ thuế. 4.4. CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU KIỆN NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM
4.4.1. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật để đảm bảo đầy đủ tính nghiêm minh của pháp luật Pháp luật thuế là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Pháp luật thuế được tuân thủ một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời phải được đặt trong bối cảnh hệ thống pháp luật nói chung đã được xây dựng đầy đủ, đồng bộ và cũng được thực thi nghiêm minh, có hiệu quả cao. Do vậy, để có thể đảm bảo pháp luật thuế được NNT tuân thủ tối đa thì Nhà nước cần xem xét, rà soát, hoàn thiện các pháp luật có liên quan như Luật DN, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Khiếu nại, tố cáo… Chỉ khi hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh, đồng bộ thì sẽ tạo ra sức mạnh toàn diện, phát huy được pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ của các tổ chức, cá nhân liên quan. 4.4.2. Phát huy vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng xã hội đối với công tác quản lý thuế để nâng cao tính tuân thủ thuế Như quan điểm đã nêu, việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT không chỉ là trách nhiệm của CQT mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Do đó, phải có sự tham gia của nhiều tổ chức cá nhân, nhiều cấp, nhiều ngành, nhằm tạo sự đồng thuận, sự phối hợp trong công tác quản lý và thu ngân sách. Cụ thể: - Công tác thuế phải được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia, từ khâu dự thảo ban hành luật đến khi luật đi vào cuộc sống. Từ đó, góp phần xây dựng chính sách
179
thuế một cách dân chủ, minh bạch, nâng cao các quyền của NNT, quyền giám sát của người dân; đồng thời tạo ra sự thay đổi cơ bản về nhận thức của xã hội, nâng cao ý thức nghĩa vụ thuế, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của mọi tổ chức cá nhân trong xã hội đối với công tác thuế. - CQT phải làm tốt công tác tham mưu với Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp để chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc chấp hành các Luật thuế. Kiện toàn và phát huy vai trò của Hội đồng tư vấn thuế phường xã trong việc tham gia tư vấn cho CQT về các khoản thuế ở xã, phường, thị trấn cho đảm bảo đúng pháp luật, dân chủ, công khai, công bằng, hợp lý. - Phối hợp cung cấp thông tin và phối hợp trong công tác quản lý thuế: Rà soát, xác định các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin trong quản lý theo quy định của Luật Quản lý thuế; hoàn thiện, bổ sung, cụ thể hoá các nội dung cung cấp thông tin cụ thể như ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cung cấp nội dung giao dịch qua tài khoản của NNT; các cơ quan quản lý nhà nước ở các ngành, lĩnh vực như công an, quản lý nhà đất, quản lý thị trường, thương mại, các cơ quan chi trả thu nhập, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội… trong phạm vi nhiệm vụ quản lý hoặc có nắm giữ các thông tin liên quan đến NNT cung cấp cho CQT, kể cả tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật thuế; phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc quản lý thuế. - Tăng cường công tác động viên, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp làm tốt vai trò động viên nhân dân, giáo dục các hội viên nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật thuế; các cơ quan này cùng với các cơ quan thông tin, báo chí thường xuyên tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về thuế, nêu gương tốt và phản ánh, phê phán những hành vi vi phạm pháp luật thuế. - Thực hiện tốt công tác phối hợp trong quản lý thu nợ thuế, cưỡng chế thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế: CQT chủ động phối hợp thực hiện các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế thông qua các cơ quan khác như phối hợp với ngân hàng, tổ chức tín dụng trích từ tài khoản của NNT sang tài khoản ngân sách khi người nợ thuế thuộc diện bị ra quyết định cưỡng chế thuế; thực hiện tốt việc cấp mã số thuế đối với các cơ quan sử dụng lao động để khấu trừ một phần tiền lương và thu nhập để nộp thuế. - Thường xuyên đánh giá, tổng kết quy chế phối hợp với các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án trong trong việc cung cấp thông tin, khởi tố, điều tra, truy tố,
180
xét xử kịp thời, nghiêm minh tội phạm vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật và thông báo tiến độ, kết quả xử lý vụ việc cho cơ quan quản lý thuế. 4.4.3. Mở rộng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt Nền kinh tế tiền mặt hiện đang tồn tại phổ biến ở Việt Nam, điều này gây ra nhiều khó khăn cho CQT trong việc quản lý, giám sát sự tuân thủ thuế của NNT. Do đó, để có thể quản lý, giám sát được quá trình sản xuất, kinh doanh, quá trình tuân thủ thuế của NNT, một điều kiện quan trọng là phải phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây được coi như một điều kiện cơ bản về môi trường kinh tế để đảm bảo kiểm soát được các khoản thu nhập của NNT và vì vậy, cần thiết phải có sự tham gia không chỉ của ngành Thuế, ngân hàng hay các tổ chức tín dụng mà còn phải có sự chỉ đạo thống nhất và đầu tư thích đáng của Chính phủ. Trong điều kiện nước ta hiện nay, điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ với mục đích đánh thuế mà còn góp phần thực hiện công khai, minh bạch hóa các hoạt động giao dịch trên thị trường và các khoản thu nhập phục vụ cho các chính sách kinh tế - xã hội khác. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, bên cạnh chính sách đẩy mạnh phát triển ngân hàng và công nghệ ngân hàng, cần áp dụng các biện pháp bắt buộc kết hợp với khuyến khích tự nguyện đối với các đối tượng tổ chức và cá nhân tham gia các hoạt động kinh tế có thu nhập. Đối với việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công, cần đẩy mạnh và nhanh chóng có các giải pháp quản lý chi tiêu trong khu vực chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt; trả lương qua tài khoản và chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản ngân hàng. Đối với khu vực DN cần có những biện pháp giám sát chặt chẽ việc thực hiện những quy định về việc thanh toán không dùng tiền mặt như quy định về việc yêu cầu bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng… Đối với khu vực dân cư, cần có những biện pháp cụ thể hơn do đây là khu vực khó áp dụng nhất vì số lượng giao dịch trong dân cư lớn, khó quản lý và chủ yếu là các giao dịch tiền mặt. Để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, cần thiết phải phát triển đồng thời các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng nhu cầu của dân cư và phù hợp với tiến trình hội nhập và phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Muốn vậy, cần chú trọng vào hai nhóm giải pháp chính đó là gia tăng các tiện ích đi kèm dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại, dần thay thế
181
dịch vụ đơn mục đích bằng những dịch vụ đa mục đích (như sử dụng thẻ cho nhiều mục đích như thanh toán, chi trả hóa đơn định kỳ, vấn tin, rút tiền mặt… thay cho việc sử dụng thẻ chỉ để rút tiền mặt) và tăng cường việc chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán của các tổ chức, cá nhân. Tăng cường mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cần được thực hiện theo tiến trình phát triển của hệ thống thương mại dịch vụ để hỗ trợ các giao dịch thanh toán mặt đối mặt, cũng như giao dịch thanh toán từ xa trong thương mại điện tử phục vụ cho các giao dịch thanh toán mua hàng hóa, dịch vụ không mang tính định kỳ tại khách sạn, nhà hàng, siêu thị... Phát triển mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại điểm bán: Tập trung phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ở hệ thống phân phối hàng hoá bán lẻ hiện đại (bao gồm các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn v.v...), ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng, hàng không. Trước mắt, đạt ra chỉ tiêu 100% trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn và nhà hàng, khách sạn lớn tại các tỉnh, thành phố trọng điểm sẽ trở thành đơn vị chấp nhận thẻ và các phương tiện thanh toán hiện đại và sau đó triển khai mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Song song với các biện pháp trên, cần tuyên truyền và phổ biến kiến thức để người dân và các tổ chức nhận thức rõ được những lợi ích của việc thanh toán không dùng tiền mặt và cách thức sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để việc thanh toán không dùng tiền mặt trở thành thiết yếu đối với bản thân họ. Khi đó, công tác quản lý, giám sát của cơ quan quản lý thuế sẽ có nhiều thuận lợi hơn, giúp cho việc nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT cũng dễ dàng hơn. 4.4.4. Nâng cao tính liêm chính của toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chức nhà nước hiện nay đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói riêng. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, không làm tròn công vụ, sao nhãng với công việc, ít có sự đầu tư công sức cho nhiệm vụ được giao. Một số công chức có biểu hiện lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, tham ô, tham nhũng, vòi vĩnh, nhận hối lộ... Trong lĩnh vực quản lý thuế, một số công chức thuế không liêm khiết, lợi dụng chức quyền nhũng nhiễu NNT. Một bộ phận cán bộ có chức vụ sử dụng ảnh hưởng của mình để tác động vào quá trình tuân thủ thuế của NNT. Bên cạnh đó,
182
NNT sử dụng các mối quan hệ với cán bộ, công chức có chức vụ và quyền hạn để can thiệp vào quá trình thanh tra, kiểm tra về thuế. Khi vi phạm pháp luật thuế, NNT thuế thường nhờ cậy, chạy chọt nhằm làm giảm mức độ xử lý của các cơ quan chức năng. Với những tồn tại, hạn chế đó cần thiết phải làm tốt công tác quản lý nhà nước. Nhà nước phải sử dụng tốt các công cụ kiến tạo phát triển như hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, phục vụ tốt nhất nhu cầu của người dân và DN, sử dụng có hiệu quả NSNN và tiền thuế của nhân dân. Xây dựng chính phủ kiến tạo, hệ thống chính trị liêm chính, nâng cao uy tín của Nhà nước đối với nhân dân, từ đó hướng đến sự tuân thủ tự nguyện các chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và tuân thủ thuế nói riêng. 4.4.5. Tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan dân cử đối với việc thực thi pháp luật nói chung, pháp luật thuế nói riêng Cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo pháp luật thì giám sát là một chức năng của các cơ quan dân cử. Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi có Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các cơ quan dân cử đã thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát thực thi pháp luật. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử đã đảm bảo cho các chủ trương chính sách của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được thực thi và đi vào cuộc sống. Giám sát của các cơ quan dân cử cũng đã giúp cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ được giao; đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước và chế độ xã hội góp phần quan trọng đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được của hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định như: Hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động giám sát còn hạn chế; chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu các cơ quan dân cử chưa cao; việc đôn đốc kiểm tra thực hiện các kiến nghị sau giám sát chưa được coi trọng đúng mức; giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân chưa đáp ứng được mong mỏi của nhân dân. Để tăng cường vai trò giám sát của các cơ quan dân cử đối với việc thực thi pháp luật nói chung, pháp luật thuế nói riêng nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, ban hành các chế tài kiểm tra, giám sát và xử lý đối với các đối tượng chịu sự giám sát của các cơ quan dân cử. Đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả giám sát tại các kỳ họp của Quốc hội và hội đồng nhân dân
183
các cấp. Nâng cao vai trò hoạt động giám sát của thường trực, các ban và các đại biểu nhằm đảm bảo quyền lực thực sự của các cơ quan dân cử. Tăng cường hơn nữa việc giám sát quá trình thực hiện các biện pháp khắc phục sau chất vấn và trả lời chất vấn của các đại biểu, đồng thời đẩy mạnh việc thu thập, nắm bắt thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin từ nhân dân. Công khai, minh bạch và thông tin cho nhân dân biết kết quả giám sát của các cơ quan dân cử.
184
KẾT LUẬN Tính tuân thủ pháp luật của NNT là việc NNT chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời các qui định, thủ tục về thuế theo pháp luật. Tính tuân thủ thuế của NNT luôn là vấn đề được các nhà hoạch định chính sách thuế cũng như các nhà quản lý thuế quan tâm, bao gồm cả những vấn đề mang tính lý luận cũng như trong thực tiễn quản lý thuế. Việt Nam đã trải qua các cuộc cải cách lớn đối với hệ thống chính sách thuế và đã có nhiều chuyển biến trong quản lý thuế theo hướng hiện đại, hiệu quả nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT. Tính đến nay, hệ thống chính sách thuế Việt Nam và công tác quản lý thuế đã có nhiều kết quả rất đáng ghi nhận, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và xu hướng cải cách trên thế giới. Sự tuân thủ thuế của NNT cũng có sự tiến bộ rõ rệt so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra của công tác quản lý, sự tuân thủ này của NNT vẫn chưa đạt được theo mong muốn. Các hành vi vi phạm, không tuân thủ trong đăng ký thuế, trong kê khai tính thuế, trong nộp thuế và trong chấp hành các quy định khác của pháp luật thuế vẫn còn không ít. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế, tính nghiêm minh của pháp luật thuế và sự công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế giữa những NNT. Việc nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT sẽ có những tác động tích cực như tăng cường kỷ cương, phép nước; tạo môi trường bình đẳng trong sản xuất kinh doanh và cạnh tranh; đảm bảo hệ thống pháp luật về thuế thực hiện đầy đủ chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước đồng thời tạo nguồn thu ổn định cho NSNN. Bởi vậy, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu, xem xét, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT là một yêu cầu hết sức cần thiết. Với mục tiêu chính là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam thời gian tới, Luận án đã tập trung nghiên cứu, phân tích và làm rõ được những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, Luận án đã tổng hợp và hệ thống hóa và phát triển, bổ sung các vấn đề lý luận về tính tuân thủ thuế của NNT như khái niệm, phân loại, các tiêu chí đánh giá, phương pháp đo lường tính tuân thủ thuế của người nộp thuế; các nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ thuế của NNT. Thứ hai, Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở một số nước trên thế giới như Singapore, Vương quốc Anh,
185
Australia, Hoa Kỳ, của các quốc gia trong Hiệp hội nghiên cứu và quản lý thuế Châu Á, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam. Thứ ba, nghiên cứu thực trạng, đánh giá sơ bộ những kết quả đạt được, một số tồn tại hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu của tình hình tuân thủ thuế và thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016. Phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở tìm hiểu tình hình thực tế qua các báo cáo và số liệu thứ cấp kết hợp với việc thực hiện khảo sát thực tế đối với NNT và cán bộ thuế. Những nghiên cứu này của Luận án là cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp cần thiết để nâng cao hơn nữa sự tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam giai đoạn tới. Thứ tư, trên cơ sở một số quan điểm và định hướng nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam, Luận án đã đề xuất các giải pháp cơ bản hướng đến mục tiêu nghiên cứu như: Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế; xây dựng chiến lược quản lý thuế dựa trên mức độ tuân thủ thuế; tăng cường giám sát việc tuân thủ bằng cách mở rộng áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào quản lý thuế; hoàn thiện nhóm chỉ số đánh giá tuân thủ thuế của người nộp thuế trong bộ chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế; đẩy mạnh và đổi mới công tác tuyên truyền, hỗ trợ nhằm thúc đẩy ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế; quản lý tốt việc đăng ký, kê khai và nộp thuế của người nộp thuế; nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác kiểm tra, thanh tra thuế; tăng cường công tác quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế... Đồng thời phải cải cách bộ máy quản lý thuế, thủ tục hành chính thuế, bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng công chức thuế, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển và quản lý tốt hoạt động của hệ thống đại lý thuế. Thứ năm, Luận án cũng đề xuất một số giải pháp điều kiện nhằm thực thi có hiệu quả các giải pháp nêu trên. Hệ thống các giải pháp đó vừa được thực hiện thống nhất theo các mục tiêu, yêu cầu đặt ra nhưng lại được sử dụng bằng những cách thức khác nhau đối với những nhóm NNT khác nhau dựa vào các cấp độ tuân thủ thuế của họ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên sẽ góp phần to lớn vào công cuộc cải cách, hoàn thiện chính sách thuế và công tác quản lý thuế, nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam hiện nay cũng như trong thời gian tới./.
186
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lèng Hoàng Minh (2011): Nâng cao hiệu quả quản lý và tính tuân thủ thuế của người nộp thuế, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, Số 8 - 2011. 2. Lèng Hoàng Minh (2015): Nâng cao tính tuân thủ thuế: Khảo sát kinh nghiệm quốc tế, Tạp chí Tài chính, Kỳ I - tháng 11/2015 (620). 3. Lèng Hoàng Minh (2016): Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế, Tạp chí Thanh tra Tài chính, Số 165 (3-2016).
187
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tài liệu tiếng Việt 1. Ban Kinh tế vĩ mô và Dự báo, Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, Bộ Tài chính (2016): Kết quả phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng trong giai đoạn 2016 - 2020; mof.gov.vn; 20/01/2016 08:40:28. 2. Bộ Tài chính (2016): Thông cáo Báo chí, ngày 6/9/2016. 3. Chính phủ (2011): Quyết định số 723/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020. 4. Phan Thị Mỹ Dung và Lê Quốc Hiếu (2015): Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của các doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính - Kỳ 2, Tháng 7, 2015. 5. Nguyễn Chí Dũng (2009): Thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. 6. Lý Phương Duyên (2011): Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế và tính hiệu lực trong quản lý thuế, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 7. Nguyễn Thị Minh Hằng (2011): Tính đơn giản, công khai, minh bạch của chính sách thuế đối với sự tuân thủ thuế tại Việt Nam, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 8. Thu Hằng (2016): Gian nan kiểm soát nợ thuế, http://www.baohaiquan.vn/Pages/Gian-nan-kiem-soat-no-thue.aspx; Thứ Hai, 07/03/2016 10:07 GMT+7 9. Nguyễn Thị Minh Hòa (2011): Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế hướng tới quản lý tuân thủ, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 10. Nguyễn Thị Thanh Hoài (2011): Một số vấn đề lý luận về tuân thủ thuế, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 11. Tôn Thu Hiền (2011): Khung chiến lược thúc đẩy sự tự nguyện tuân thủ thuế - Kinh nghiệm Sinhgapore, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 12. Vương Thị Thu Hiền (2011): Phát triển dịch vụ thuế điện tử ở Việt Nam Giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.
188
13. Dương Công Hợp (2016): Vì sao vẫn còn “kẽ hở” để doanh nghiệp trốn thuế, http://www.baoquangbinh.vn/phap-luat/201608/vi-sao-van-con-ke-ho-dedoanh-nghiep-tron-thue-2137491/, 07:01, Thứ Năm, 11/08/2016 (GMT+7). 14. Nguyễn Thị Thương Huyền (2011): Giám sát kê khai thuế - Giải pháp nâng cao tính tuân thủ thuế trong mô hình quản lý thuế hiện đại, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 15. http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/Pages/trienvongkinhtevietnam-nd17230.html. 16. Nguyễn Thị Liên (2011): Tính tuân thủ của người nộp thuế và hiện đại hóa quản lý thuế, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 17. Ngân hàng thế giới (Gangadhar Prasad Shukla, Daniel Alvarez, Lê Minh Tuấn và Phạm Minh Đức) (2011): Cải cách thuế ở Việt Nam: hướng tới một hệ thống hiệu quả và công bằng hơn (Tr 61-78; Tr 107 -136). 18. Nguyễn Thị Kim Oanh (2011): Kiểm tra sau thông quan góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của doanh nghiệp, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 19. Phạm Văn Phong (2009): Nghiên cứu giải pháp nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế theo Luật Quản lý thuế hiện nay ở tỉnh Hoà Bình, Luận văn thạc sĩ, Học viện Tài chính, Hà Nội. 20. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI (2016): Báo cáo tình hình doanh nghiệp thường niên năm 2015, NXB Thông tin và Truyền thông. 21. Phan Sáng - Tuấn Đức (2015): Tổng cục Thuế thừa nhận có tình trạng cán bộ nhũng nhiễu, http://www.tienphong.vn/kinh-te/tong-cuc-thue-thua-nhan-co-tinhtrang-can-bo-nhung-nhieu-878165.tpo, 01/7/2015 06:13 GMT +7. 22. Hồ Thị Đoan Thanh (2014): Quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng. 23. Thanh tra Chính phủ (2016), Thông báo số 2695/TB-TTCP ngày 10/10/2016 về Kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, chống thất thu ngân sách nhà nước tại Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh. 24. Lê Duy Thành (2007): Đổi mới quản lý thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
189
25. Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Thanh Tùng, Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách, Đại học Quốc gia Hà Nội (2017): Kinh tế Việt Nam: Nhìn lại năm 2016 và triển vọng năm 2017, Bài đăng trên tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 1/2017. 26. Nguyễn Xuân Thành (2014): Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra người nộp thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. 27. Lưu Ngọc Thơ (2013): Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009): Hoàn thiện quản lý thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của Doanh nghiệp (Nghiên cứu tình huống của Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 29. Tổng cục Thuế (2011): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2011; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2012” ngày 15/12/2011. 30. Tổng cục Thuế (2013): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2012; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2013” ngày 17/01/2013. 31. Tổng cục Thuế (2014): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2013; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2014” ngày 14/01/2014. 32. Tổng cục Thuế (2014): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2014; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2015” ngày 26/12/2014. 33. Tổng cục Thuế (2016): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2015; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2016” ngày 26/2/2016. 34. Tổng cục Thuế (2017): Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm 2016; Nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2017” ngày 11/1/2017. 35. Trung tâm Từ điển học (1998): Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 36. Lê Xuân Trường (2010): Giáo trình Quản lý thuế, Học viện Tài chính, Nhà Xuất bản Tài chính, Hà Nội. 37. Lê Xuân Trường (2016): Giáo trình Quản lý thuế, Học viện Tài chính, Nhà Xuất bản Tài chính, Hà Nội. 38. Lê Xuân Trường (2011): Thúc đẩy tính tuân thủ thuế - Từ quan điểm cổ điển đến hiện đại và thực tiễn Việt Nam, Kỷ yếu Nghiên cứu Khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội. 39. Lê Xuân Trường, Nguyễn Đình Chiến (2013): Nhận diện các hành vi gian lận thuế, Tạp chí Tài chính, số 09 (857), 2013. 40. Lê Xuân Trường (2014): Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính (10/2014).
190
41. Lê Xuân Trường (2016): Cải cách thủ tục hành chính thuế: Nỗ lực vượt bậc, Tạp chí Tài chính, 624 + 625 Kỳ 1+2, tháng 1/2016. 42. Lê Xuân Trường (2016): Chống gian lận thuế trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính. 43. Trần Huy Trường (2014): Quản lý rủi ro trong thanh tra thuế góp phần nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của doanh nghiệp, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, Thanh tra Tài chính. 44. Trần Huy Trường (2015): Quản lý rủi ro trong hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính. 45. Trần Đình Tuấn (2016): Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO; Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2016. 46. Đặng Thị Bạch Vân (2014): Xoay quanh vấn đề người nộp thuế và tuân thủ thuế, Tạp chí Phát triển và Hội nhập - Số 16 (26) - Tháng 05-06/2014. 47. Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội, (2011): Giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt Nam, Chuyên đề nghiên cứu. 48. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam (2015): Báo cáo kết quả Chương trình phối hợp giám sát Thuế - Hải quan năm 2015.
* Tài liệu tiếng Anh: 49. Andreoni J., Erard B. (1998): Tax compliance, Journal of Economic Literature, Vol XXXVI, pp818 - 860. 50. Ann Dryden Witte (Wellesley University), Helen Tauchen (University of North Carolina) (1987): Tax compliance research: Model, Data and Methods 51. Azrina Mohd Yusoft, Lai Minh Ling, Yap Bee Wah (Đại học kỹ thuật Mara, Malaysia) (2014): Tax non-compiliance among SMCs in Malaysia: tax audit evidence. 52. B. Ravikumar và Yuzhe Zhang (Khoa Kinh tế, Đại học Iowa) (May 12, 2009): Optimal Auditing and Taxation in a Dynamic Model of Tax compliance 53. Braithwaite,V. (2001): A new approach to Tax compliance, Working paper, pp2-11, Centre for tax system integrity, the Australian National University, Canberra.
191
54. Cash Economy Task Force (1998): Improving Tax compliance in the cash economy, Australia Task office, Canberra. 55. James Alm (Department of Economics, Andrew Young School of Policy Studies, Georgia State University, Atlanta, GA 30303-3083, USA) và Michael McKee (Department of Economics, University of Tennessee, Knoxville, TN, USA) (2004): Tax compliance as coordination game, Journal of Economic Behavior & Organization, Vol. 54 (pp297-312) 56. Lars P.Feld and Bruno S. Frey (2007): Tax Compliance as the Result of a Psychological Tax Contract: The Role of Incentives and Responsive Regulation, Law & Policy, Vol. 29, No. 1, pp. 102-120, January 2007. 57. Matthew Rablen - HM Revenue & Customs; Stephanie Clarke - HM Revenue & Customs) (October 2007): Enforcing Tax Compliance: Audit Probability versus Audit Effectiveness. 58. Pablo Serra (Đại học Chile, Santiago Chile) (2005): Performance Maesures in Tax administration: Chile as a case study. 59. Tapan K. Sarker (2003): Improving Tax Compliance in Developing Countries via Self-Assessment Systems - What Could Bangladesh Learn from Japan?, AISA-PACIFIC TAX BULLETIN Vol. 9, No. 6 JUNE 2003 International Bureau of Fiscal Documentation. 60. The Staff of the joint committee on taxation (January 27, 2005): Options to improve tax compliance and reform tax expenditures.
192
PHỤ LỤC Phụ lục 1 PHIẾU KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ (Đối tượng trả lời: Công chức thuế) Kính thưa quý vị, Chúng tôi đang nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Chúng tôi thiết lập phiếu khảo sát này với mục đích tìm hiểu một số thông tin liên quan đến hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế và tác động của các hoạt động này đến mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế nhằm đưa ra các hướng giải quyết các khó khăn, vướng mắc để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế trong thời gian tới. Chúng tôi kính mong quý vị bớt chút thời gian trả lời các câu hỏi trong phiếu khảo sát này. Ý kiến của quý vị thể hiện qua việc trả lời phiếu khảo sát là sự đóng góp rất lớn cho sự thành công của nghiên cứu này. Chúng tôi xin cam đoan rằng, tất cả các nội dung trong tài liệu này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý vị! 1. Ông (bà) làm ở bộ phận nào trong cơ quan thuế (Đánh dấu (X) vào lựa chọn thích hợp) Bộ phận công tác Lãnh đạo cục/chi cục thuế Tuyên truyền - hỗ trợ Quản lý kê khai và kế toán thuế Thanh tra/kiểm tra thuế Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế Tổng hợp, nghiệp vụ, dự toán Tổ chức/Hành chính/Ấn chỉ/Tài vụ Pháp chế Kiểm tra nội bộ Đội thuế xã, phường, thị trấn Bộ phận khác 2. Xin Ông (bà) cho biết quan điểm đánh giá của ông (bà) đối với những nhận xét sau (Cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ đồng ý tăng dần: 0 điểm là không đồng ý, 5 điểm là hoàn toàn đồng ý) Nội dung nhận xét Điểm Ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam hiện nay không cao Hiệu lực và hiệu quả quản lý của cơ quan thuế chưa cao nên đã tạo cơ hội cho người nộp thuế vi phạm pháp luật thuế Việc xử lý vi phạm của cơ quan thuế chưa thật sự nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe người nộp thuế khi họ không tuân thủ thuế Cải cách thủ tục hành chính thuế thời gian qua đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ thuế Việc triển khai các ứng dụng kê khai thuế và nộp thuế điện tử thời gian qua đã góp phần nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế Ứng dụng Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) góp phần nâng cao hiệu quả quản
193 lý thuế, qua đó, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế Việc bỏ yêu cầu người nộp thuế nộp Phụ lục bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra và mua vào trong bộ hồ sơ khai thuế GTGT gây khó khăn cho công tác kiểm tra phát hiện những sai phạm về hóa đơn và sai sót trong kê khai, tính thuế GTGT Việc bổ sung điều kiện phải thanh toán không dùng tiền mặt đối với các khoản chi trả từ 20 triệu đồng/lần trở lên để được khấu trừ thuế GTGT đầu và và xác định chi phí tính thuế TNDN đã góp phần rất tốt ngăn chặn hành vi kê khai khống thuế GTGT đầu vào và chi phí được trừ 3. Xin Ông (bà) cho biết đánh giá của ông (bà) về mức độ tuân thủ thuế của các loại hình người nộp thuế theo các nội dung tuân thủ thuế dưới đây (cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ tuân thủ tăng dần) Điểm đánh giá theo từng loại hình Nội dung tuân DNN DN có DN DN dân HTX Hộ Cá Khác thủ N vốn FDI doanh KD nhân NN Đăng ký thuế Kê khai thuế Nộp thuế Quyết toán thuế Chế độ kế toán Hóa đơn, chứng từ Chấp hành các quy định khác của cơ quan thuế Mức độ tuân thủ chung 4. Khó khăn lớn nhất ảnh hưởng đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế là (cho điểm từ 0 đến 5 với mức khó khăn tăng dần) Nhân tố ảnh hưởng Điểm Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục Thủ tục thuế quá phức tạp Các thời hạn quy định quá nhanh, gây khó khăn trong việc thực hiện kịp thời Mẫu biểu, hồ sơ khai thuế quá khó thực hiện Số thuế phải nộp quá nhiều Năng lực cán bộ kế toán thuế quá kém DN không thể lưu trữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ 5. Ông (bà) hãy cho biết mức độ các sai sót trong các nội dung tuân thủ thuế sau đây: (cho điểm từ 0 đến 5 điểm với mức độ thường xuyên tăng dần) 5.1. Những sai sót thường mắc phải trong đăng ký thuế: Nội dung sai sót Không đăng ký thuế Không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn Hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế Không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế
Điểm
194 Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời Khác:……………………………………………………………………………… 5.2. Những sai sót thường mắc phải trong khai thuế định kỳ: Nội dung sai sót
Điểm
Không nộp hồ sơ khai thuế Không nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn Hồ sơ khai thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế Không khai bổ sung hồ sơ khai thuế Khác:……………………………………………. 5.3. Những sai sót thường mắc phải trong khâu nộp thuế: Nội dung sai sót Không nộp thuế Không nộp thuế đúng thời hạn Không nộp đủ số thuế đã xác định Nộp sai mục lục NSNN Khác:………………………………..
Điểm
5.4. Những sai sót thường mắc phải trong khâu quyết toán thuế: Nội dung sai sót Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn Hồ sơ khai quyết toán thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế Khác:……………………………………………..
Điểm
5.5. Những sai sót hoặc gian lận thường mắc phải trong các nội dung tuân thủ khác: Nội dung sai sót Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho cơ quan thuế khi có yêu cầu Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của cơ quan thuế Không tuân thủ quy định về kê khai giao dịch liên kết và vi phạm các quy định về kiểm soát chuyển giá Cố tình gian lận, trốn thuế
Điểm
6. Xin Quý cơ quan, ông, bà cho biết đánh giá của mình về hiệu quả của các hoạt động quản lý của cơ quan thuế đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế hiện nay (cho điểm từ 0 đến 5 với mức hiệu quả tăng dần)
195 Hoạt động quản lý Giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế Hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế Quản lý kê khai thuế Kiểm tra thuế Thanh tra thuế Xử lý vi phạm pháp luật về thuế Đôn đốc thu nộp thuế bằng các biện pháp hành chính Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế Khác:………………………………………………………………………..
Điểm
7. Xin ông, bà cho biết những biện pháp sau đây sẽ tác động đến việc nâng cao ý thức tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế như thế nào (Cho điểm từ 0 đến 5 với tác động tích cực tăng dần) Nội dung biện pháp Tăng cường hoạt động giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế Khen thưởng, động viên người nộp thuế tuân thủ tốt pháp luật thuế Tăng cường hoạt động hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế Cải cách các thủ tục hành chính thuế Sử dụng hóa đơn điện tử trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ Tăng cường mức độ giám sát của cơ quan thuế Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan thuế Xử lý nghiêm minh các hành vi không tuân thủ thuế Khác:………………………………………………………………………..
Điểm
8. Để nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế, xin quý doanh nghiệp, các công, bà đề xuất các khuyến nghị liên quan đến các vấn đề sau đây: 8.1. Về chính sách và pháp luật thuế:………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.2. Về Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế:…………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.3. Về Cải cách thủ tục hành chính thuế:……………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.4. Về Thanh tra, kiểm tra thuế:……………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.5. Về Xử lý vi phạm hành chính thuế:………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………
196 ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.6. Về Quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:…………… ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… 8.7. Về các nội dung khác:…………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………
Phụ lục 2 PHIẾU ĐIỀU TRA
197 VỀ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ (Đối tượng trả lời: Tổ chức/cá nhân nộp thuế) Kính thưa quý vị, Chúng tôi đang nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến tính tuân thủ thuế của người nộp thuế. Chúng tôi thiết lập phiếu khảo sát này với mục đích tìm hiểu và đề xuất các biện pháp nhằm giải quyết các khó khăn, vướng mắc nảy sinh, gây cản trở đến quá trình thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của người nộp thuế. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình đối với pháp luật thuế. Chúng tôi kính mong quý vị bớt chút thời gian trả lời các câu hỏi trong bảng câu hỏi này. Ý kiến của quý vị thể hiện qua các nội dung trả lời là sự đóng góp rất lớn cho sự thành công của nghiên cứu này. Chúng tôi xin cam đoan rằng, tất cả các nội dung trong tài liệu này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý vị! 1. Xin Ông (bà) giới thiệu một số thông tin về doanh nghiệp, cá nhân: (Đánh dấu (X) vào lựa chọn thích hợp hoặc điền thông tin vào những chỗ trống trong các thông tin sau) 1.1. Tên doanh nghiệp của ông (bà): (có thể trả lời hoặc không) …………………………………...……………………………………………………….…… 1.2. Năm thành lập:..................................................... 1.3. Ngành sản xuất kinh doanh chính hiện nay: …………………………………………………………………...…………………………… 1.4. Loại hình doanh nghiệp? Doanh nghiệp Nhà nước Công ty TNHH có vốn nhà nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần Doanh nghiệp Liên doanh hoặc Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Hợp tác xã Hộ kinh doanh cá thể Cá nhân hành nghề độc lập Cá nhân làm công ăn lương Loại hình khác 1.5. Số lượng lao động của doanh nghiệp hiện nay là ………… người 1.6. Vốn hoạt động của doanh nghiệp…………..…….…VND 1.7. Doanh thu của doanh nghiệp ông (bà) trong năm 2015:……….…….……….VND 2. Xin Ông (bà) cho biết quan điểm đánh giá của ông (bà) đối với những nhận xét sau (cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ đồng ý tăng dần) Nội dung nhận xét Điểm Tất cả các doanh nghiệp, người kinh doanh phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước Người nộp thuế phải khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn Trách nhiệm của người nộp thuế là phải nộp đầy đủ, chính xác và kịp thời số thuế của mình vào ngân sách nhà nước Người nộp thuế phải chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Người nộp thuế phải cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế Người nộp thuế phải chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý
198 thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Người nộp thuế có quyền yêu cầu cơ quan thuế hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế. Việc tuân thủ thuế đầy đủ sẽ đem lại nhiều quyền lợi hơn cho các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong xã hội Mọi hành vi không tuân thủ thuế sớm hay muộn cũng sẽ bị phát hiện và xử lý Doanh nghiệp khôn ngoan nhất là không bao giờ vi phạm pháp luật về thuế 3. Những yếu tố gây khó khăn cho việc tuân thủ thuế (cho điểm từ 0 đến 5 với mức khó khăn tăng dần) Nội dung nhận xét Điểm Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục Thủ tục thuế quá phức tạp Các thời hạn quy định quá nhanh, gây khó khăn trong việc thực hiện kịp thời Mẫu biểu, hồ sơ khai thuế quá khó thực hiện Số thuế phải nộp quá nhiều Năng lực cán bộ kế toán thuế quá kém DN không thể lưu trữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ 4. Ông (bà) hãy cho biết mức độ thường gặp của các sai sót trong các nội dung tuân thủ thuế sau đây: (cho điểm từ 0 đến 5 điểm với mức độ thường xuyên tăng dần) 4.1. Những sai sót thường mắc phải trong đăng ký thuế: Nội dung sai sót Không đăng ký thuế Không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn Hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế Không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời Khác:………………………………………………………………………………
Điểm
4.2. Những sai sót thường mắc phải trong khai thuế định kỳ: Nội dung sai sót Không nộp hồ sơ khai thuế Không nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn Hồ sơ khai thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế Không khai bổ sung hồ sơ khai thuế Khác:…………………………………………….
Điểm
4.3. Những sai sót thường mắc phải trong khâu nộp thuế: Nội dung sai sót Không nộp thuế Không nộp thuế đúng thời hạn Không nộp đủ số thuế đã xác định Nộp sai mục lục NSNN Khác:………………………………..
Điểm
199 4.4. Những sai sót thường mắc phải trong khâu quyết toán thuế: Nội dung sai sót Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn Hồ sơ khai quyết toán thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế Khác:……………………………………………..
Điểm
4.5. Những sai sót thường mắc phải trong các nội dung tuân thủ khác: Nội dung sai sót Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho cơ quan thuế khi có yêu cầu Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của cơ quan thuế Khai thiếu thuế Trốn thuế
Điểm
5. Xin Quý doanh nghiệp, ông, bà tự đánh giá mức độ tuân thủ thuế của mình theo các nội dung tuân thủ thuế (cho điểm từ 0 đến 5 theo mức độ tăng dần của sự tuân thủ) Nội dung tuân thủ Đăng ký thuế Nộp hồ sơ khai thuế Kê khai các căn cứ tính thuế Nộp thuế Quyết toán thuế Chế độ kế toán Chế độ hóa đơn, chứng từ Chấp hành các quy định khác của cơ quan thuế
Điểm
6. Xin Quý Doanh nghiệp, ông, bà cho biết đánh giá của mình về hiệu quả của các hoạt động quản lý của cơ quan thuế đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế hiện nay (cho điểm từ 0 đến 5 với mức hiệu quả tăng dần)
Hoạt động quản lý Giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế Hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế Quản lý kê khai thuế Kiểm tra thuế Thanh tra thuế Xử lý vi phạm pháp luật về thuế Đôn đốc thu nộp thuế Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
Điểm
200 Khác:……………………………………………………………………….. 7. Xin ông, bà tự đánh giá mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp mình, cá nhân mình trên các giác độ sau (đánh dấu X vào ô tương ứng) Hoàn toàn tuân thủ một cách tự nguyện Tuân thủ khi có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan thuế Tuân thủ khi chi phí của việc “không tuân thủ quá lớn” Tuân thủ khi có những hình phạt nặng đối với những người không tuân thủ Tuân thủ khi pháp luật thuế công bằng và nghiêm minh Không tuân thủ 8. Xin ông, bà cho biết những biện pháp sau đây sẽ tác động đến việc nâng cao ý thức tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế như thế nào (Cho điểm từ 0 đến 5 với tác động tích cực tăng dần) Nội dung biện pháp Tăng cường hoạt động giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế Tăng cường hoạt động hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế Cải cách các thủ tục hành chính thuế Sử dụng hóa đơn điện tử trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ Tăng cường mức độ giám sát của cơ quan thuế Tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan thuế Xử lý thật nghiêm minh các hành vi không tuân thủ thuế Khác:………………………………………………………………………..
Điểm
9. Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp/tổ chức/cá nhân tuân thủ thuế, xin quý vị đề xuất các kiến nghị nghị liên quan đến các vấn đề sau đây: 9.1. Về chính sách và pháp luật thuế:…………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… … 9.2. Về Tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế:…………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.3. Về Cải cách thủ tục hành chính thuế:……………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.4. Về Thanh tra, kiểm tra thuế:……………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.5. Về Xử lý vi phạm hành chính thuế:……………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.6. Về tính tiền chậm nộp thuế:……………………………………………………………….
201 ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.7. Quản lý nợ cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… 9.8. Về nội dung khác:…………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………
Phụ lục 3 TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ (Đối tượng khảo sát: Công chức thuế) 1. Bảng tổng hợp đối tượng khảo sát công chức thuế công tác tại các bộ phận
202 Bộ phận công tác Lãnh đạo cục/chi cục thuế Tuyên truyền - hỗ trợ Quản lý kê khai và kế toán thuế Thanh tra/kiểm tra thuế Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế Tổng hợp, nghiệp vụ, dự toán Tổ chức/Hành chính/Ấn chỉ/Tài vụ Pháp chế Kiểm tra nội bộ Đội thuế xã, phường, thị trấn Bộ phận khác Tổng
Số người trả lời 50 44 44 42 45 62 44 42 37 46 44 500
Tỷ lệ (%) 10,0 8,8 8,8 8,4 9,0 12,4 8,8 8,4 7,4 9,2 8,8 100
2. Kết quả đánh giá nhận xét về quản lý thuế Nội dung nhận xét Ý thức tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam hiện nay không cao Hiệu lực và hiệu quả quản lý của cơ quan thuế chưa cao nên đã tạo cơ hội cho người nộp thuế vi phạm pháp luật thuế Việc xử lý vi phạm của cơ quan thuế chưa thật sự nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe người nộp thuế khi họ không tuân thủ thuế Cải cách thủ tục hành chính thuế thời gian qua đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ thuế Việc triển khai các ứng dụng kê khai thuế và nộp thuế điện tử thời gian qua đã góp phần nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế
Số phiếu nhận xét ở từng mức điểm 0 1 2 3 4 5
Điểm TB
3
1
3
25
74
394
4,70
4
4
6
59
331
96
3,99
2
7
11
58
319 103
3,99
0
1
3
7
199 290
4,55
0
0
5
8
145 342
4,65
203 Ứng dụng Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, qua đó, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế Việc bỏ yêu cầu người nộp thuế nộp Phụ lục bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra và mua vào trong bộ hồ sơ khai thuế GTGT gây khó khăn cho công tác kiểm tra phát hiện những sai phạm về hóa đơn và sai sót trong kê khai, tính thuế GTGT Việc bổ sung điều kiện phải thanh toán không dùng tiền mặt đối với các khoản chi trả từ 20 triệu đồng/lần trở lên để được khấu trừ thuế GTGT đầu và và xác định chi phí tính thuế TNDN đã góp phần rất tốt ngăn chặn hành vi kê khai khống thuế GTGT đầu vào và chi phí được trừ
0
1
5
10
135 349
4,65
2
1
4
10
151 332
4,61
0
1
0
13
159 327
4,62
3. Kết quả khảo sát đánh giá mức độ tuân thủ thuế đối với các loại hình người nộp thuế
Nội dung tuân thủ
DNN N
Điểm đánh giá theo từng loại hình NNT DN có DN DN Hộ Cá vốn dân HTX FDI KD nhân NN doanh
Khác
Đăng ký thuế
4,09
3,88
4,13
3,55
3,14
2,62
1,92
2,32
Kê khai thuế
3,81
3,41
3,34
3,12
2,93
2,36
1,73
2,19
Nộp thuế
3,75
3,48
3,43
3,10
2,93
2,37
1,72
2,17
Quyết toán thuế
3,77
3,49
3,56
3,12
2,93
2,33
1,67
2,15
Chế độ kế toán
3,78
3,55
3,60
3,24
2,91
2,11
1,32
2,08
Hóa đơn, chứng từ
3,77
3,53
3,61
3,20
2,92
2,09
1,27
2,04
3,72
3,49
3,56
3,19
2,92
2,27
1,52
2,09
3,77
3,54
3,62
3,20
2,92
2,34
1,67
2,18
Chấp hành các quy định khác của cơ quan thuế Mức độ tuân thủ chung
4. Kết quả khảo sát những khó khăn ảnh hưởng đến đến việc tuân thủ thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nhân tố ảnh hưởng Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện
0
1
2
3
4
5
2
4
13
32
264
185
Điểm trun g bình 4,21
204 Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục
1
3
10
22
252
212
4,31
Thủ tục thuế quá phức tạp
2
5
11
29
252
201
4,25
Các thời hạn quy định quá nhanh, gây khó khăn trong việc thực hiện kịp thời
4
8
11
42
247
188
4,17
Mẫu biểu, hồ sơ khai thuế quá khó thực hiện
5
8
17
45
243
182
4,12
Số thuế phải nộp quá nhiều
4
13
19
99
323
42
3,70
Năng lực cán bộ kế toán thuế quá kém
1
11
23
197
241
27
3,49
DN không thể lưu trữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ
5
10
15
136
304
30
3,63
5. Kết quả khảo sát về mức độ các sai sót trong các nội dung tuân thủ thuế 5.1. Những sai sót thường mắc phải trong đăng ký thuế: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung sai sót Không đăng ký thuế Không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn Hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế Không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời Khác
0
1
2
3
4
5
Điểm trung bình
5
31
49
295
117
3
2,99
1
8
9
40
331
111
4,05
1
3
15
36
298
147
4,14
1
4
12
17
158
308
4,50
3
3
10
30
334
120
4,10
1
4
9
28
286
172
4,22
2
7
12
203
251
25
3,54
5.2. Những sai sót thường mắc phải trong khai thuế định kỳ: Kết quả đánh giá ở từng mức điểm 0
1
2
3
4
5
Điểm trung bình
Không nộp hồ sơ khai thuế
5
41
69
322
61
2
2,80
Không nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn
2
6
7
50
339
96
4,01
Nội dung sai sót
205 Hồ sơ khai thuế không đầy đủ Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế Không khai bổ sung hồ sơ khai thuế
1
9
11
38
301
140
4,10
2
7
7
21
137
326
4,52
1
11
7
43
344
94
4,00
Khác
1
9
15
227
231
17
3,46
5.3. Những sai sót thường mắc phải trong khâu nộp thuế: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm 0
1
2
3
4
5
Điểm trung bình
Không nộp thuế
18
71
63
215
131
2
2,75
Không nộp thuế đúng thời hạn
0
5
6
38
301
150
4,17
Không nộp đủ số thuế đã xác định
0
6
8
47
309
130
4,10
Nộp sai mục lục NSNN
4
19
59
266
138
14
3,11
Khác
2
9
34
319
127
9
3,17
Nội dung sai sót
5.4. Những sai sót thường mắc phải trong khâu quyết toán thuế: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm 0
1
2
3
4
5
Điểm trung bình
Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế
14
44
71
295
76
0
2,75
Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn
1
9
14
43
316
117
4,03
Hồ sơ khai quyết toán thuế không đầy đủ
1
6
16
37
276
164
4,15
Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế
1
8
7
31
117
336
4,53
Khác
2
9
16
180
278
15
3,54
Nội dung sai sót
5.5. Những sai sót hoặc gian lận thường mắc phải trong các nội dung tuân thủ khác: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung sai sót Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định
0
1
2
3
4
5
3
6
8
32
129
322
Điểm trun g bình 4,49
206 Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho cơ quan thuế khi có yêu cầu Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của cơ quan thuế Không tuân thủ quy định về kê khai giao dịch liên kết và vi phạm các quy định về kiểm soát chuyển giá Cố tình gian lận, trốn thuế
1
5
10
18
145
321
4,53
3
5
5
20
181
286
4,46
4
10
13
75
320
78
3,86
2
11
20
214
228
25
3,46
3
10
27
219
225
16
3,40
2
7
31
240
201
19
3,38
2
9
28
224
220
17
3,40
2
11
29
250
191
17
3,34
3
5
11
83
375
23
3,78
3
3
9
23
133
329
4,53
6. Kết quả khảo sát về đánh giá hiệu quả của các hoạt động quản lý của cơ quan thuế đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Hoạt động quản lý
Điểm trun g bình
0
1
2
3
4
5
Giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế
0
1
4
32
382
81
4,08
Hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế
0
1
2
12
87
398
4,76
Quản lý kê khai thuế
0
1
4
24
348
123
4,18
Kiểm tra thuế
0
2
2
11
262
223
4,40
Thanh tra thuế
0
1
2
11
262
224
4,41
Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
0
1
1
15
219
264
4,49
Đôn đốc thu nộp thuế bằng các biện pháp hành chính
0
1
4
14
309
172
4,29
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
0
1
3
16
215
265
4,48
207 7. Kết quả khảo sát về những biện pháp nâng cao ý thức tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Điểm trun Nội dung biện pháp g 0 1 2 3 4 5 bình Tăng cường hoạt động giáo dục, tuyên truyền 0 1 1 10 75 413 4,80 về thuế và tuân thủ thuế Khen thưởng, động viên người nộp thuế tuân 1 1 4 13 194 287 4,52 thủ tốt pháp luật thuế Tăng cường hoạt động hỗ trợ người nộp thuế 0 1 1 4 48 446 4,87 trong quá trình tuân thủ thuế Cải cách các thủ tục hành chính thuế
0
1
0
4
67
428
4,84
Sử dụng hóa đơn điện tử trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ
0
1
4
5
63
427
4,82
Tăng cường mức độ giám sát của cơ quan thuế
0
1
0
5
53
441
4,87
0
1
1
7
67
424
4,82
0
1
2
5
43
449
4,87
Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan thuế Xử lý nghiêm minh các hành vi không tuân thủ thuế
Phụ lục 4 TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ TÌNH HÌNH TUÂN THỦ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ (Đối tượng trả lời: Tổ chức/cá nhân nộp thuế) 1. Kết quả khảo sát về loại hình người nộp thuế
208 Số lượng khảo sát 63 64 116 60 50 47 45 71 19
Loại hình người nộp thuế Doanh nghiệp Nhà nước Công ty TNHH có vốn nhà nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần Doanh nghiệp Liên doanh hoặc Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Hợp tác xã Hộ kinh doanh cá thể Cá nhân hành nghề độc lập Cá nhân làm công ăn lương Loại hình khác
2. Kết quả khảo sát đánh giá của người nộp thuế về tuân thủ thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung đánh giá Tất cả các doanh nghiệp, người kinh doanh phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước Người nộp thuế phải khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn Trách nhiệm của người nộp thuế là phải nộp đầy đủ, chính xác và kịp thời số thuế của mình vào ngân sách nhà nước Người nộp thuế phải chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
Điểm trun g bình
0
1
2
3
4
5
2
4
1
11
27
490
4,85
1
2
2
11
35
484
4,86
0
3
2
16
34
480
4,84
0
3
3
13
36
480
4,84
209 Người nộp thuế phải cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế Người nộp thuế phải chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Người nộp thuế có quyền yêu cầu cơ quan thuế hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế. Việc tuân thủ thuế đầy đủ sẽ đem lại nhiều quyền lợi hơn cho các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong xã hội Mọi hành vi không tuân thủ thuế sớm hay muộn cũng sẽ bị phát hiện và xử lý Doanh nghiệp khôn ngoan nhất là không bao giờ vi phạm pháp luật về thuế
1
3
3
18
42
468
4,81
3
3
6
23
47
453
4,74
0
2
0
5
35
493
4,90
6
5
7
19
44
454
4,71
3
8
11
26
258
229
4,27
4
7
8
21
264
231
4,29
Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm
Điểm trun g bình
3. Kết quả khảo sát nhưng yếu tố gây khó khăn cho việc tuân thủ thuế
Những yếu tố khó khăn trong tuân thủ thuế
0
1
2
3
4
5
Các quy định của pháp luật thuế quá khó hiểu, khó thực hiện
3
9
12
27
145
339
4,47
Chính sách thuế thay đổi quá nhanh, liên tục
2
4
6
16
127
380
4,62
Thủ tục thuế quá phức tạp
2
7
15
16
142
353
4,52
Các thời hạn quy định quá nhanh, gây khó khăn trong việc thực hiện kịp thời
3
10
12
25
139
346
4,48
Mẫu biểu, hồ sơ khai thuế quá khó thực hiện
6
13
19
45
176
276
4,24
Số thuế phải nộp quá nhiều
6
13
14
109
275
118
3,85
Năng lực cán bộ kế toán thuế quá kém
5
8
23
239
207
53
3,48
DN không thể lưu trữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ
12
20
23
108
319
53
3,61
4. Kết quả khảo sát về các sai sót trong các nội dung tuân thủ thuế 4.1. Những sai sót thường mắc phải trong đăng ký thuế: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung sai sót
0
1
2
3
4
5
Điểm trun g bình
210 Không đăng ký thuế
25
34
23
301
140
12
3,00
Không nộp hồ sơ đăng ký thuế đúng thời hạn
10
16
25
32
429
23
3,73
Hồ sơ đăng ký thuế không đầy đủ
7
13
24
28
413
50
3,83
7
9
21
29
56
413
4,54
8
8
24
26
425
44
3,84
6
8
19
31
428
43
3,86
Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên hồ sơ đăng ký thuế Không khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế Khai bổ sung, thay đổi thông tin đăng ký thuế không kịp thời
4.2. Những sai sót thường mắc phải trong khai thuế định kỳ: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung sai sót
Điểm trun g bình
0
1
2
3
4
5
Không nộp hồ sơ khai thuế
24
36
28
352
87
8
2,87
Không nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn
15
19
20
36
420
25
3,69
Hồ sơ khai thuế không đầy đủ
13
17
20
33
411
41
3,75
Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai thuế
7
19
21
26
64
398
4,46
Không khai bổ sung hồ sơ khai thuế
14
15
19
34
425
28
3,73
Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm
Điểm trun g bình
4.3. Những sai sót thường mắc phải trong khâu nộp thuế:
Nội dung sai sót
0
1
2
3
4
5
Không nộp thuế
34
30
30
262
174
5
2,99
Không nộp thuế đúng thời hạn
8
20
16
49
320
122
3,90
Không nộp đủ số thuế đã xác định
17
18
23
34
362
81
3,77
Nộp sai mục lục NSNN
14
30
28
299
147
17
3,10
3.4. Những sai sót thường mắc phải trong khâu quyết toán thuế: Nội dung sai sót
Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm
211 0
1
2
3
4
5
Điểm trun g bình
Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế
27
29
33
359
77
10
2,86
Không nộp hồ sơ khai quyết toán thuế đúng thời hạn
15
15
20
59
403
23
3,66
Hồ sơ khai quyết toán thuế không đầy đủ
15
10
19
36
414
41
3,77
Khai sai, khai sót các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế
9
14
18
27
52
415
4,51
4.5. Những sai sót thường mắc phải trong các nội dung tuân thủ khác: Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Nội dung sai sót
Điểm trun g bình
0
1
2
3
4
5
Không lập hóa đơn, chứng từ đầy đủ, đúng quy định
19
15
11
31
145
314
4,26
Hạch toán kế toán chưa đầy đủ, đúng quy định
13
14
13
24
157
314
4,32
17
12
15
24
169
298
4,26
21
8
15
60
301
130
3,87
20
13
20
95
286
101
3,71
22
15
19
114
275
90
3,64
20
12
14
126
273
90
3,66
22
10
22
114
297
70
3,61
19
13
20
266
175
42
3,29
Chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ cho cơ quan thuế khi có yêu cầu Chưa tuân thủ các quyết định ấn định thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định kiểm tra và biên bản kiểm tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định thanh tra và biên bản thanh tra của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định đôn đốc thu nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế Chưa tuân thủ các quyết định hành chính khác của cơ quan thuế
5. Kết quả tự đánh giá mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế theo các nội dung tuân thủ thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Điểm trun Tự đánh giá về mức độ tuân thủ thuế g 0 1 2 3 4 5 bình Đăng ký thuế
3
7
28
126
273
98
3,78
Nộp hồ sơ khai thuế
2
6
74
139
243
71
3,55
212 Kê khai các căn cứ tính thuế
2
11
89
152
220
61
3,42
Nộp thuế
2
10
80
164
214
65
3,44
Quyết toán thuế
8
42
79
139
201
66
3,27
Chế độ kế toán
23
59
65
157
174
57
3,07
Chế độ hóa đơn, chứng từ
22
60
62
159
183
49
3,06
Chấp hành các quy định khác của cơ quan thuế
2
2
61
182
236
52
3,50
6. Kết quả khảo sát về hiệu quả của các hoạt động quản lý của cơ quan thuế đến việc tuân thủ thuế của người nộp thuế hiện nay Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Điểm trun Hoạt động quản lý thuế g 0 1 2 3 4 5 bình Giáo dục, tuyên truyền về thuế và tuân thủ thuế
4
9
26
35
323
138
4,01
Hỗ trợ người nộp thuế trong quá trình tuân thủ thuế
3
16
24
29
76
387
4,47
Quản lý kê khai thuế
2
11
23
31
293
175
4,11
Kiểm tra thuế
2
7
20
37
124
345
4,45
Thanh tra thuế
2
6
16
37
140
334
4,45
Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
1
9
21
27
114
363
4,49
Đôn đốc thu nộp thuế
1
8
16
25
149
336
4,47
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
3
6
17
29
124
356
4,49
7. Kết quả khảo sát tự đánh giá mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế theo Số lượng Mức độ tuân thủ thuế tự đánh giá Hoàn toàn tuân thủ một cách tự nguyện
226
Tuân thủ khi có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan thuế
90
Tuân thủ khi chi phí của việc “không tuân thủ quá lớn”
68
213 Tuân thủ khi có những hình phạt nặng đối với những người không tuân thủ
63
Tuân thủ khi pháp luật thuế công bằng và nghiêm minh
88
Không tuân thủ
0
8. Kết quả khảo sát về những biện pháp tác động đến việc nâng cao ý thức tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế Số phiếu đánh giá ở từng mức điểm Điểm trun Các biện pháp g 0 1 2 3 4 5 bình Tăng cường hoạt động giáo dục, tuyên truyền 1 7 10 19 36 462 4,74 về thuế và tuân thủ thuế Tăng cường hoạt động hỗ trợ người nộp thuế 0 4 5 12 40 474 4,82 trong quá trình tuân thủ thuế Cải cách các thủ tục hành chính thuế
0
2
5
8
40
480
4,85
Sử dụng hóa đơn điện tử trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ
0
3
9
15
30
478
4,81
Tăng cường mức độ giám sát của cơ quan thuế
2
3
9
20
38
463
4,76
4
3
12
22
36
458
4,72
2
5
10
15
28
475
4,78
Tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan thuế Xử lý thật nghiêm minh các hành vi không tuân thủ thuế