Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
ĐỀ CƯƠNG PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 12 1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH Về tác phẩm này, các em ôn tập theo những dạng đề sau : Dạng 1: Phân tích 1 đoạn trích: Đoạn đầu quan trọng nhất Dạng 2: Cảm nhận/ bình luận/ phân tích 1 khía cạnh thuộc nội dung hoặc nghệ thuật của bản tuyên ngôn Dạng 3: Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm Dạng 4: Phân tích tác phẩm/ đoạn trích, từ đó liên hệ thực tế ( dạng đề tích hợp nghị luận xã hội Ngoài ra có thể ôn đề đọc hiểu về đoạn trích trong TNĐL Bài tập tham khảo : Câu 1: Bình luận về sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập- Hồ Chí Minh. Bài làm: TNĐL là một tác phẩm chứa nhiều giá trị. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, giá trị nào của tác phẩm này cũng thật sâu sắc. Về mặt thể loại văn học, Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực, đáng lưu truyền muôn thuở. Một trong những nét nổi bật của bản Tuyên Ngôn Độc Lập là sự lập luận sắc sảo, chặt chẽ tạo nên một sức thuyết phục rất lớn. Xuất phát từ quan điểm sáng tác và đặc trưng thể loại của tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy được cội nguồn của sức thuyết phục ấy. Như mọi người đều biết, Tuyên Ngôn Độc Lập là một tác phẩm chính luận. Văn chính luận thuyết phục người ta bằng những lý lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng những lý lẽ. Sức mạnh của nó là ở những lý lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lý lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên Ngôn độc Lập theo quan niệm đó. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa. Bởi vì lời giải đáp đã có sản trong văn bản: ‘Hỡi đồng bào cả nước!… “Chúng tôi (…) trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng’. Như vậy là Bác viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa. Còn viết để làm gì, thì viết để Tuyên Ngôn Độc Lập chứ còn có mục đích nào khác? Thực ra vấn đễ không hẳn chi có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và thế giới chung chung thì chắc Người không phải dùng đến lắm lý lẽ như vậy. Và chưa hẳn đã cần phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên Ngôn nhân quyền và dân quyền của Mỹ và Pháp từ thế kỷ XVIII. Vậy đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử nàyphải được tìm hiểu cặn kẽ -hơn nữa. Cần thấy rằng khi Bác Hồ đọc bản Tuyên Ngôn thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải pháp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mỹ, đã trực sản ở biên giới. Người viết bản Tuyên Ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dưong” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 1
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 15-8-1945 Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược thứ hai của mình đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ “hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi Phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại. Như vậy là bản Tuyên Ngôn không chỉ đọc trước đồng bào và một thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối tượng thế giới ở đây trước hết là bọn đế’ quốc Mỹ, Anh, Pháp. Và sự khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ở đây đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ lý lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy ông đập lưng ông”. Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì nô tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ .Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. Ngoài ra mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng cd nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau, ba bản Tuyên Ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô Đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu Đinh. Lê, Lý, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tông, Nguyên của Bắc quốc.Mà đăng đối cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên Ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay đã gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng của nước Mỹ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên Ngôn cũng viết: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”. Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII. Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ,vấn đề hàng đầu là vấn đề độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã mở đầu như thế: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới, sinh ra đầu bình dàng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Y kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của HỒ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 2
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. (HồChí Minh trong lòng nhân dân thế giới – NXB Sự thật. H. 1979). Vậy thì có thể xem cái luận điểm ”suy rộng ra’ kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỷ XX? Những kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọạ nén độc lập của dân tộc khi bản Tuyên Ngôn ra đời và bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đầu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lý của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hoá” cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quôc tế. Bản Tuyên Ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép. Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của chúng đối với Đông Dương ư? Thì bản Tuyên Ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kỳ, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào ta bị chết’ đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? ThÌ bản Tuyên Ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dươngcó còn là thuộc địa của chúng nữa đâu? Bản Tuyên Ngôn vạch rõ: ”Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sự thật là dàn ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lý cực kỳ quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên Ngôn: ”Bở thế cho nên, chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam. Xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lý lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn là lý lẽ của sự thật. Vì thế Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…” “sự thật là…” Và cuối cùng thì nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”… Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên Ngôn. Đấy là hệ thống lý lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 3
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên Ngôn đã đưa ra những lý lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định: Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng hành động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết một số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng’ thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minhđã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng Minh chống phát xít, đã nêu ao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế. “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc’ do phải được độc lập”… Tinh thầni khẳng định trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa: hưởng độc lập tự do không chỉ là một cái quvền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần có, mà đó là một hiện thực: ‘Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập’, Và vì thế “Toàn thể đàn tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập tự do ấy’ Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo là “Thiên cổ hùng văn”. Cũng có thể nói như thế đối với bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản Tuyên Ngôn ra đời không còn ở thời kỳ văn học nguyên hợp, văn sử bất phân nữa để người viết đưa vào những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài Cáo của người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chúng không ai chối cãi được. Và đằng sau những lý lẽ ấy là một tấm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã tổng kết được trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, khúc triết, kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại. Chính Bác Hồ cũng đánh giá đây là thành công thứ ba khiến Người cảm thấy “sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình./. ( Bài viết trong sách tham khảo) Câu 2 : Từ “Tuyên ngôn độc lập” (Hồ Chí Minh), anh/chị có suy nghĩ gì về độc lập, tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân. Định hướng cách làm: Mở bài: +Giới thiệu tác giả tác phẩm +Giới thiệu vấn đề nghị luận:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 4
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Vấn đề cần nghị luận là: Từ Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh), suy nghĩ về độc lập – tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân Thân bài : có thể trình bày theo định hướng sau: + Khái quát những nội dung chính của bản tuyên ngôn (Các luận điểm chính của bản tuyên ngôn) trong hoàn cảnh lịch sử- Cách mạng tháng Tám: -Hoàn cảnh lịch sử: Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp lâm le trở lại Việt Nam… – Các luận điểm chính của bản tuyên ngôn: nêu nguyên tắc về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tố cáo tội ác thực dân trong 80 năm qua, phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập. + Suy nghĩ về độc lập tự do trong thời đại ngày nay (Trong mỗi giai đoạn lịch sử, độc lập tự do có ý nghĩa khác nhau): – Thời đại ngày nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa (Xu thế không thể đảo ngược). -Độc lập tự do thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau: bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biên giới hải đảo; độc lập về kinh tế, không phụ thuộc vào các nước khác trên tinh thần hợp tác; về văn hóa: chúng ta “Hòa nhập” nhưng không “Hòa tan”, khẳng định .vị thế, bản sắc văn hóa dân tộc trên trường quốc tế… Kết bài: Bàn bạc mở rộng vấn đề: -Với mỗi cá nhân: suy nghĩ, hành động luôn trên tinh thần của công dân nước Việt Nam độc lập tự hào dân tộc. Trong đời sống cá nhân, độc lập tự do có ý nghĩa hết sức lớn lao khi ta thực sự sống là chính mình. Câu 3 : Đọc đoạn trích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 5
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 1. (1 điểm) anh (chị) hay cho biết vị trí của đoạn văn trên trong tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh? anh (chị) hay kể tên những bản tuyên ngôn độc lập đã có trong văn học Việt Nam? 2. Nêu chủ đề của đoạn trích trên? 3. Anh (chị) hãy nêu nét đặc sắc của đoạn trích trên? 4. Anh (chị) viết một đoạn văn thể hiện sự hiểu biết của mình về đoạn văn trên (không quá năm câu). Trả lời : 1 Đoạn trích nằm ở phần 2 của bản “Tuyên ngôn độc lập” Văn học Việt Nam đã ghi nhận 3 tác phẩm được xem là Tuyên ngôn độc lập: + Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt + Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi + Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh 2 Chủ đề của đoạn trích: tố cáo tội ác thực dân Pháp: Kinh tế, chính trị, văn hóa, thể hiện long căm thù giặc của Hồ Chí Minh. 3. Đặc sắc về nghệ thuật: Nghệ thuật lặp cấu trúc câu kết hợp với điệp từ, nghệ thuật liệt kê. Dẫn chứng xác đáng, chân thực vạch trần bản chất độc ác với thái độ gay gắt của tác giả. 4. Đoạn văn nằm ở phần 2 của bản Tuyên ngôn, phần tố cáo tội ác của giặc. Vạch trần bộ mặt tàn ác quỷ giữ của thự dân Pháp. Đoạn trích có vị trí quan trọng trong bản Tuyên ngôn với dẫn chứng chính xác, chân thực với cách điệp lại cấu trúc câu, lặp từ, góp phần taọ nên thành công cho bản Tuyên ngôn. Câu 4 : Đánh giá về bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh (sách Ngữ văn 12, tập một), có ý kiến cho rằng: Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá. Nhưng cũng có ý kiến nhận định: Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Bằng cảm nhận của mình về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên. Gợi ý : 1 Vài nét về tác giả, tác phẩm - Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ cách mạng đồng thời là nhà văn, nhà văn hóa vĩ đại. Sáng tác của Người phong phú, đa dạng và thống nhất sâu sắc, nhuần nhị mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương Hồ Chí Minh. - Tuyên ngôn Độc lập có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn đồng thời phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật văn chính luận của Hồ Chí Minh. 2 Giải thích ý kiến - Ý kiến thứ nhất chủ yếu đánh giá về giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập. Đó là văn kiện có ý nghĩa khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra trang sử GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 6
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang mới cho dân tộc. - Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tới giá trị nghệ thuật của tác phẩm, xem đây là tác phẩm chính luận đặc sắc, có tính thuyết phục cao. 0,5 3 Bình luận , chứng minh hai ý kiến Cần tập trung bình luận: - Cả hai ý kiến đều xoay quanh giá trị nội dung và nghệ thuật của bản Tuyên ngôn Độc lập, đánh giá về thành công tiêu biểu của tác phẩm. - Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành cách đánh giá đầy đủ, toàn diện về tác phẩm. - Về giá trị lịch sử: Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác giả đã nêu lên cơ sở pháp lí vững chắc, tố cáo những tội ác của thực dân Pháp gây ra trên đất nước ta như những bằng chúng, thước phim lịch sử để từ đó tuyên bố độc lập và khẳng định quyết tâm giữ vững nền độc lập, tự do của đất nước. - Về giá trị nghệ thuật: Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch và các phe nhóm cơ hội quốc tế, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân và khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc. - Sự kết hợp giữa giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật đã khiến cho bản Tuyên ngôn Độc lập từ khi ra đời cho đến nay là áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc hàng chục triệu trái tim con người Việt Nam. Xem thêm các đề khác tại đây : http://thutrang.edu.vn/tag/tuyen-ngon-doc-lap 2. TÂY TIẾN – QUANG DŨNG Dạng 1 :Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng Bài này các em chú ý cho cô khổ 1-2-3 nhé, khổ 4 không quan trọng mấy. Dạng 2 : Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng Dạng 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong bài thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung. Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc, Đất nước, hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,… Dạng 4 : Liên hệ thực tế. Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới hình ảnh người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,… hoặc liên hệ tới lí tưởng sống của thanh niên thời nay. Dang 5 : Cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến, cảm nhận chi tiết , hình ảnh, … Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng 1. Quang Dũng. – Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây. – Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 7
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính: Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng… 2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. – Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947. – Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. – Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 3. Đặc điểm nổi bật của bài thơ Tây Tiến – Cảm hứng lãng mạn: Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi trữ tình – nỗi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh, phát huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mộng mơ, lãng mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập: đối lập về hình ảnh, thanh điệu, tính cách của người lính TT. – Âm hưởng bi tráng: “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có âm hưởng bi tráng thường không né tránh những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ trong những cuộc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. – Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. 4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. a. Nội dung: – Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ tình. – Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. – Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 8
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” – Nỗi nhớ của tác giả: Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi – Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” , gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi tên những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả. – Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “ chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng , nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm không thể nào quên.Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ , con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét. – Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một nét riêng không dễ gì quên: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi …. Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ….. Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người …… Mai Châu mùa em thơm nếp xôi + Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua. + Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến. + Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa thật lãng mạn, trữ tình. + Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên. + Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 9
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang khiến cho con người cảm giác bất an : “cọp trêu người”. Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình. – Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua đoạn thơ: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống ….. Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,… + Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút” + Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống” . + Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu người” + Sử dụng nhiều thanh Trắc. + Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó quên. – Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách. Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. – Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 10
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do. Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét. Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc : Yêu mến, gắn bó và tự hào. ( Chế Lan Viên : Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn ) * Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” * Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ + Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào ( Tây Bắc, Lào) . “ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người. + Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “ đóa hoa” say lòng người đến thế. + Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn. + Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 11
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang * Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người. “ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” ( Chế Lan Viên ) + “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. + “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”. + Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa! Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. + Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 12
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Đoạn 3 : chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong máu lửa chiến tranh. TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành * Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm , đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,… TâyTiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm – Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ. – “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ. * Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,… – Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ. – Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 13
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang …? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc. Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp. * Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến: – Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi : “Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp:” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. – Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ: Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “ chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 14
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ. * Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài . Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc: “ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế !” ( Tố Hữu ) * Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định , ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng. b. Nghệ thuật: – Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh. – Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,.. – Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc. – Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng. Nét bút tài hoa của Quang Dũng. Một số đề tham khảo : Đề 1 : So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến – Quang Dũng) Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm) Mở bài: Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những bài thơ đặc sắc trong nền thơ cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm này đã nói về những con người vô danh lặng thầm chiến đấu bảo vệ quê hương. Mỗi bài thơ đều để lại những cảm xúc, suy tư sâu lắng trong lòng người đọc. Trong đó có những câu thơ rất đặc sắc: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ ……………………………….” Và: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 15
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang “Có biết bao người con gái con trai ……………………………………..” Thân bài: Trước hết chúng ta tiến hành phân tích từng đoạn: a.Đoạn thơ trong bài Tây Tiến *Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn thơ +Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống một đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong thơ ông. Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” – người lính Tây Tiến. +Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Năm 1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ này. + Bài thơ có 4 khổ, đây là khổ thứ 3, nội dung khắc hoạ hình tượng người lính TT *Phân tích cụ thể: -Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình, vùng đất ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng sống cao đẹp: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành -Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện không khí trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên cương, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thái cổ kính, gợi liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sẵn sàng chấp nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại. -Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức nặng của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không phải mộ theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên con đường hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong không gian bao la, mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy gợi lên bao nỗi xót xa. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 16
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang -Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn đầy trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và “cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc, hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước. Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại“Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là lí tưởng sống cao đẹp, hào hùng. -Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng rất chân thực, ông không hề né tránh hiện thực: Áo bào thay chiếu anh về đất “Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng cái thiếu thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của người lính. Từ Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất”làm cho cái chết của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều. Nhà thơ vẫn gợi lên sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông núi. Cách nói “về đất” không chỉ là cách nói giảm, nói tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng. Cái chết không phải là ra đi vào cõi hư vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ yêu thương. Đất Mẹ cũng đã mở lòng đón những đứa con đầy trách nhiệm của mình trở về. Họ đã ra đi như thế đấy. Họ đã nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con đường hành quân đầy gian khổ, nhọc nhằn, họ đã để lại mình nơi biên cương lạnh lẽo, hoang vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái chết của họ dù để lại nhiều xót xa trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách rất thanh thản. Họ chỉ là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không phải là chết. các anh đã ngã xuống, đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỗi thế núi hình sông, mỗi tên đất tên làng đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về trong lòng Đất Mẹ để “cho cây đời mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống bất tận. – Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay động đất trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc. * Nghệ thuật:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 17
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. b.Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của nhà thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước: *Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: +Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ . Ông xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức…. +Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt . *Phân tích cụ thể: “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời” – Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện thân mật giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng nề, khô khan của chất chính luận. – Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người. Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết trân trọng đất nước hôm nay. – Từ việc xác định vai trò quan trọng của đất nước đối với mỗi con người, nhà thơ khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ. Phép điệp ngữ “phải biết” vừa có ý nghĩa cầu khiến vừa là lời thiết tha, mong chờ như mệnh lệnh từ trái tim. Ba cụm động từ cụ thể hóa trách nhiệm của mỗi con người: “Gắn bó” là lời kêu gọi đoàn kết, hữu ái giai cấp. Vì, có đoàn kết là có sức mạnh. “San sẻ” là mong muốn mỗi người có ý thức gánh vác trách nhiệm với quê hương. Còn “hóa thân” là biểu hiện tinh thần sẵn sàng hi sinh cho đất nước, là sự dâng hiến thiêng liêng, đẹp đẽ. * Nghệ thuật: – Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ “Đất Nước” dược lặp lại hai lần kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”. So sánh: * Giống nhau: Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho đất nước non sông. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 18
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang * Khác nhau: – “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ cũa người lính vùng cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Đất Nước” hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con người. -Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh. +Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh. Lí giải : Sự khác biệt như trên : Do hoàn cảnh sáng tác Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ Kết bài: Đánh giá chung về giá trị hai đoạn thơ và tài năng nghệ thuật của hai tác giả Đề2 : Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử và đoạn thơ trong bài Tây Tiến – Quang Dũng. Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa (Tây Tiến – Quang Dũng) Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? (Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử Hướng dẫn: 1. Mở bài : Giới thiệu 2 tác giả , 2 bài thơ , 2 đoạn thơ 2. Thân bài : +Ý khái quát : một vài nét về tác giả tác phẩm và vị trí đoạn thơ cần phân tích +Phân tích, cảm nhận từng đoạn thơ: a. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình. Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy”- khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 19
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thương trong tâm trí nhà thơ. Đó có thể là khi đoàn quân chia tay một bản làng Tây Bắc chăng? Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyền hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm chất lãng mạn của người lính Hà thành: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc” Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm của một thời đã xa. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây lau tưởng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn. Thiên nhiên mang “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây còn vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm chứa chan xúc cảm. Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của Quang Dũng . “trên độc mộc”- chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng?. “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết ‘đắt’ nhất mà Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế? Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao nguyên đến như vậy! Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã quyện hoà với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về đồng đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 20
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang hồn một người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. Xin nhắc mãi vần thơ của ông trong nỗi nhớ chơi vơi da diết! b. Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng. Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên” … ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mạc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”. Cũng có mây, nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường, đôi ngả: “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mạc Tử. Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ “lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người. Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn. Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng. “Thuyền, ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?” Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3 bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Cả hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải “về kịp tối nay” vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 21
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Con thuyền vô định. Phiếm chỉ — là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm kiều, e ấp, mà chơ vơ còn lại con thuyền mồ côi khắc khoải đợi chờ trăng! Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế, từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh “gió theo lối gió, mây đường mây”, cảnh thuyền ai đậu bến sông trăng đó là cảnh đẹp mà buồn., Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng. 3. Nét tương đồng và khác biệt a. Tương đồng: + Cả hai đoạn thơi đều là sự cảm nhận của cái tôi trữ tình về khung cảnh sông nước quê hương. + Chính cái tôi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung linh. Cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai thi sĩ. b. Khác biệt: + Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trạng chia ly,mong nhớ khắc khoải. + Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về kỷ niệm kháng chiến. 4. Lí giải sự tương đồng và khác biệt + Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa. + Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sông nước. + Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ. Kết bài : Đánh giá chung – Hai đoạn thơ thể hiện cho vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời cuộc, hai cảnh ngộ khác nhau -Hai đoạn thơ kết tinh tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng Đề 3 : Phân tích đoạn 1 Tây Tiến , từ đó nhận xét về bút pháp lãng mạn của Quang Dũng Bài làm : QD là một nghệ sĩ đa tài, ông có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh, cả soạn nhạc. với thơ, ông là nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hầu, thơ ông luôn có hình ảnh “Cái tôi” hào hoa, thanh lịch,giàu chất lãng mạn nhưng rất mực hồn nhiên và chân thực.Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng đề tài về người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng Chí của Chính Hữu, TT của QD lại cuốn hút một cách khác thường.Tác phẩm mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Với bút pháp lãng mạn, QD đã
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 22
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang khắc hoạ thành công hình tượng người lính TT trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ , tráng lệ : “Sông Mã xa rồi TT ơi! ………………………. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Tây Tiến là đơn vị được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt_Lào và miền Tây Bắc Bộ VN, nhằm đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh,sinh viên hà nội, trong đó có Quang Dũng, với sức trẻ họ đã vượt qua những khó khăn gian khổ một cách lạc quan nhất. sau khi QD chuyển đơn vị, tại Phù Lưu Chanh, tác giả đã viết nên “nhớ TT” sau đổi lại thành “TT” để phù hợp với ý nghĩa rộng hơn, thâu tóm cả một thời TT, gợi kỉ niệm của một đoạn đời bi tráng của người lính. Trước hết, cần hiểu cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng. Cả bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của tác giả về đoàn quân TT, người đọc cảm nhận được cảnh thiên nhiên hùng vĩ mĩ lệ của núi rừng TB và hình ảnh người lính gan dạ dũng cảm mà tâm hồn trong sáng hào hoa.Tuy nhiên, bút pháp lãng mạn của QD được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ thơ đầu: “Sông Mã xa rồi TT ơi! ………………………. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ của QD về thiên nhiên và núi rừng TB hùng vĩ nhưng thơ mộng lãng mạn, cùng con đường hành quân gian khổ. Bắt đầu cho nỗi nhớ là tiếng gọi tha thiết “ TT ơi !”, âm hưởng của vần ơi tạo nên cảm xúc lớn. Nhà thơ nhớ sông Mã hiền hòa cùng núi rừng vì đó là nơi những người chiến sĩ từng gắn bó, là địa bàn đóng quân, là nơi sống, nơi chiến đấu, nơi có nhiều kỉ niệm một thời TT. Nỗi nhớ lại thêm khắc sâu qua điệp từ “nhớ”, tác giả nhớ về TT với nỗi nhớ “chơi vơi” _đó là những nhớ thương đầy ắp, mênh mông, cảm chứ không nhìn được, nó như muốn tràn ra khỏi không gian để xoáy vào lòng người. nỗi nhớ ấy trong ca dao ta cũng từng bắt gặp: “Ra về nhớ bạn chơi vơi”
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 23
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nỗi nhớ không định hình trong” nhớ chơi vơi” còn gợi sự chông chênh, mở ra cảm xúc về đèo cao, vực sâu, dốc thẳng, là cả một chuỗi vô vàn những khó khăn nguy hiểm đang chờ dợi phía trước: “ SK sương lấp đoàn quân mỏi ML hoa về trong đêm hơi” Con người luôn trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những cái tên rất lạ SK, ML, … qua màn sương muối dầy đặc, người lính hiện ra với dáng vẻ mệt mỏi, đó là những khó khăn mà họ_những học sinh sinh viên HN_phải đối mặt, khắc nghiệt của thiên nhiên và tính chất công việc đã gần như vắt kiệt sức họ. nhưng cái “mỏi” của đoàn quân cũng dần dần biến mất trước cảnh ML thơ mộng, lãng mạn, ảo diệu với “ hoa về trong đêm hơi”. Với bút pháp lãng mạn kết hợp yếu tố tả thực, nhà thơ QD đã ghi lại chặng đường hành quân gian khổ của người lính TT : “ dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Người đọc hình dung được con đường hành quân gập ghềnh, quanh co như kéo dài vô tận thông qua các từ láy tượng hình “ khúc khuỷu” “thăm thẳm”.sự chông chênh nguy hiểm của núi rừng TB gợi con đường ra trận của tráng sĩ năm xưa trong Chinh phụ ngâm : “ Hình khe thế núi gần xa Đứt thôi lại nổi thấp đà lại cao” (Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm) Điệp từ “dốc” kết hợp thanh trắc, đó như hơi thở, như những tiếng bước chân nặng nhọc của người lính đang ngược dốc. để tăng tính biểu cảm, nhà thơ còn cường điệu độ cao của con đường hành quân” heo hút cồn mây súng ngửi trời”. trong cái khó khăn nguy hiểm , nhà thơ chiến sĩ có những liên tưởng táo bạo đầy chất lính, pha chút hóm hỉnh nghịch ngợm, núi cao tuong chừng như trên mây, mũi súng như chạm vào trời. đó là tư thế của người lính đầy khí thế sánh ngang với trời xanh “ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luôn mưa xa khơi” Các cặp hình ảnh tương phản “ lên cao_xuống” kết hợp phép lặp cú pháp và điệp ngữ ngàn thước càng làm cho cảnh thiên nhiên hiểm trở. Những khó khăn gian khổ là thế nhưng lại nhẹ đi, êm ả hơn với câu toàn gần bằng tiếp sau: “ nhà ai PL mưa xa khơi”. XDiệu trước đây cũng từng viết hai câu thơ toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc: “ Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Giữa những câu vần trắc xen lẫn câu vần bằng , âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn . Cùng với cách dùng từ bay bỏng của QD bài thơ trở nên lãng mạn và hào hùng. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở TT thật hoang sơ, kì vĩ. Trên cái nền thiên nhiên dữ dội hình ảnh đoàn quân tt thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách hào hùng kẻ thù cũng như những gian khỗ không gì khuất
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 24
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang phục nổi . Trên đường hành quân có những người lính đã nằm lại mãnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy .Nhưng tác giả đã không ngần ngại khi nói về cái chết: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Người lính hiện ra với từ xưng hô gần gũi, thân mật “ anh bạn”-họ là anh em , bạn bè, đồng đội. Những khó khăn gian khổ đã thật sự vắt kiệt sức người lính . Quang Dũng miêu tả sự hi sinh của người lính theo cảm hứng lãng mạn, dùng cách nói giảm nói tránh đầy tính nghệ thuật: “gục lên súng mũ”, “ bỏ quên đời”,”không bước nữa”. Cái chết của người lính có gợi thương như là cái chết bi hùng , không bi lụy .Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa” , “bỏ quên đời” gợi tư thế hiên ngang của người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi . Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” : “ Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” . Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến . Dường như QD không muốn người đọc chìm sâu trong cảm xúc xót thương , nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên : “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “ Hai câu thơ mở ra cảnh hoang sơ đến rợn người ở TB, nơi những hiểm nguy đang rình rập ,đe dọa tính mạng,nhưng người lính không lùi bước, vẫn ngang tàng và coi thường thử thách.”cọp trêu người”-có một cái gì só rất nghịch, rất lính .sau những thử thách của thiên nhiên , là cành thanh bình yên ấm với những kỉ niệm ấm áp tình người,tình quân dân: “Nhớ ôi TT cơm lên khói Mai Châu mùa em thêm nếp xôi” Nếu những gian khỗ đáng nhớ thì những ngọt ngào giữa gian khỗ còn đáng nhớ hơn . QD nhớ những bữa cơm nóng , ấm áp tình đồng đội. câu thơ gơi cảm xúc nồng nàn với kĩ niệm đơn sơ,nhỏ bé trong cuộc sống người lính , từng sinh hoạt hằng ngày dều hóa thân một thứ kỉ niêm thân thương.”nhớ ôi” là cảm sâu lắng , là những hồi tưởng chân thật dến da diết. hương thơm ấy không chỉ là hương nếp xôi mà còn là hương vị của tình người,”em-cô gái Mai Châu”. Bút pháp lãng mạn của QD trong TT được biểu hiện cụ thể trong lối viết không hướng về cái bi,có gợi thương, gơi sự đồng cảm nhưng không xoáy sâu vào cảm xúc bi thương . Xuyên suốt khổ thơ đầu nhà thơ luôn hướng tới những hình ảnh kỳ vĩ “đèo cao”, “vực sâu” “ dốc thăm thẳm” hay “súng ngửi trời”,…cùng những hình ảnh thơ mộng “hoa”,”sương”, hình ảnh chân thật gầu gũi đầy tình người “cơm lên khói”,” nếp xôi” ,ngoài ra ông còn kết hợp với thể thơ thất ngôn trường thiên giàu nhạc điệu hào hùng,mạnh mẽ .QD sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ: từ láy, nhân hóa, điệp từ,điệp cấu trúc ngữ pháp và nhiều hình ảnh giàu sức gợi. Tất cả tạo nên một tổng thể hài hòa , chặt chẽ, tạo nên một TT đầy cảm xúc. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 25
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bản chất thơ QD đã tràn đầy cảm hứng lãng mạn, nhưng đặc biệt khi tả về thiên nhiên và người lính, nhà thơ lại vận dụng bút pháp lãng mạn tinh tế hơn bao giờ hết . Đoạn thơ mở đầu bằng những hoài niệm và khép lại bằng những hoài niệm-hoài niệm là ý thức về thời đã qua. Với QD nó nhuốm màu lãng mạn hóa. QD đã vận dụng thành công bút pháp lãng mạn lên bức tranh thiên nhiên huy vĩ đầy những hiểm nguy và những mất mát hy sinh mà đời lính phải trải qua.QD mở rộng tâm hồn đón nhận cuộc sống chiến đấu của TT từ mọi phía , không theo bất kì khuôn mẫu nào và nhà thơ thật sự mở rộng thế giới cảm xúc của thơ.Tác phẩm là đóng góp lớn của ông trong sự nghiệp thơ ca thời kháng chiến chống Pháp . Link bài viết : http://thutrang.edu.vn/but-phap-lang-man-cua-quang-dung-trongdoan-dau-bai-tho-tay-tien Đề 4 :Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Trích chuyên đề : “Người lính qua những trang văn” Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô ,Ninh Bình .Chuyên đề được tổ chức vào chiều ngày 22-12-2-15. Chuyên đề có nhiều bài phát biểu, thầy cô và các em có thể tìm đọc các bài viết trên website của Thu Trang ( Bài tham luận của học sinh , cô Cao Sơn hướng dẫn) Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy,Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào). Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành. Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 26
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian. Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng. Nhưng nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng ghê gớm của căn bệnh quái ác đó: Giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính Tây Tiến: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. {Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời; – Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh; Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 27
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng. Đề 5 : Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Bài làm: Văn chương có khả năng tái hiện vẻ đẹp của cuộc sống đồng thời có thể làm cho nhân cách mỗi con người hoàn thiện hơn. Tác phẩm văn chương cũng là những chuyến đi đưa chúng ta tới nhiều vùng đất mới, giúp ta hiểu biết thêm về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.” Rồi: “Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.” Mặc dù chưa một lần đặt chân đến đến nhưng văn chương có thể cho ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp của đối tượng được nhắc đến. Nhắc đến Tây Bắc, văn chương không chỉ một lần đưa ta đến với mảnh đất này: ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bộ tranh tứ bình của rừng núi Tây Bắc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, qua trang thơ Quang Dũng, một lần nữa, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc lại hiện ra trước mắt độc giả rõ nhất qua đoạn thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây sung ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 28
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục bên sung mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Đoạn thơ trên trích từ phần đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, ông là một nhà thơ khoác áo lính, đã từng sống và chiến đấu cùng với đơn vị Tây Tiến. Sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng tuy khiêm tốn nhưng cũng có những bài thơ đi cùng năm tháng và một trong số đó là bài thơ “Tây Tiến”.Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiêm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lương quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào).Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng, chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ Tây đã trào dâng mãnh liệt và từ sự thôi thúc của nỗi nhớ tác giả đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, sau đó đổi thành Tây Tiến. Theo tác giả chỉ “Tây Tiến” thôi đã đủ gợi nhớ lắm rồi, vừa cô đọng lại không lộ mạch cảm xúc ngay từ đầu đề. Quang Dũng đã kết hợp hoàn hảo bút pháp hiện thực và lãng mạn để vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ lại vừa gần gũi ấm áp chỉ bằng một đoạn thơ. Hai câu thơ đầu của bài thơ là mạch nguồn cảm xúc của cả bài thơ đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.” Cảm xúc bao trùm lên toàn bài thơ đó là nỗi nhớ. Câu thơ mở đầu là một câu cảm thán nhưng dùng để gọi với hô ngữ “ơi”, câu thơ đã trở thành một tiếng gọi thiết tha trìu mến như gọi một người bạn thân. Sông Mã là địa danh gắn liền với bước đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Đã không biết bao nhiêu lần những người lính Tây Tiến hành quân qua địa danh này và cũng thật dễ dàng lí giải được tại sao hình ảnh sông Mã xuất hiện ngay trong câu thơ mở đầu, nhắc đến Tây Tiến thì dòng sông Mã hiện lên đầu tiên trong tâm trí nhà thơ. Câu thơ mở đầu là một câu cảm thán nhưng dùng để gọi với hô ngữ “ơi” khiến câu thơ trở thành một tiếng gọi thiết tha trìu mến như gọi một người bạn thân, tác giả gọi Tây Tiến mà đối với tác giả thì bây giờ Tây Tiến đã cách xa nghìn trùng. Khi người ta gọi một đối tương mà đã cách xa phải chăng nỗi nhớ trong lòng đang trào dâng mãnh liệt, không thể kìm nén được nữa đành phải bật lên thành tiếng gọi. Và đến câu thơ thứ hai cảm xúc trong lòng nhà thơ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 29
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang đã được cụ thể hóa với cách sử dụng biện pháp điệp động từ “nhớ”. Biện pháp điệp đã khẳng định nỗi nhớ trong lòng nhà thơ là vô cùng sâu sắc. Hơn nữa tác giả lại khéo léo sử dụng từ láy tượng hình “chơi vơi” để bổ sung ý nghĩa cho động từ “nhớ” xuất hiện lần thứ hai làm cho chúng ta như hình dung thấy , như nhìn thấy nỗi nhớ đang lớn dần, lớn dần và đang muốn hướng đến, tìm về một bến bờ để neo đậu. Nỗi nhớ đã dẫn tác giả về với Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Mai Châu . . . Theo dòng hoài niệm của nhà thơ, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hiện ra ban đầu là qua những nét vẽ mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói và sau đó là những nét khắc họa cụ thể bằng hình ảnh, đường nét rõ ràng. Mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ Tây Tiến là mạch cảm xúc của nỗi nỗi nhớ, nổi bật lên trong nỗi nhớ của nhà thơ là hình ảnh bức tranh thiên miền Tây Bắc hiểm trở, gập ghềnh, ẩn chứa những hiểm nguy nhưng cũng hết sức thân thuộc, gần gũi. Bằng cách sử dụng triệt để thủ pháp đối lập kết hợp cách sử dụng từ ngữ khéo léo, tác giả đã giúp ta hình dung được địa hình nơi đây hiểm trở, gập ghềnh với những núi cao, vực sâu, dốc thẳm: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn Mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” Núi cao chót vót, vực sâu thăm thẳm, trên nền núi cao, vực sâu ấy là hình ảnh những cồn mây, danh từ đơn vị “cồn” giúp ta hình dung giữa mây và người như có khoảng cách rất gần nhau, như có vị trí ngang nhau, nghĩa là người đứng miêu tả đang đứng ở vị trí rất cao, có thể ngang với mây, có thể đi trong mây. Và có lẽ vì thế mà hình ảnh nhân hóa tinh nghịch, táo bạo đã xuất hiện: “súng ngửi trời” , một phép nhân hóa nếu không hiểu rõ thì có thể ai đó sẽ cho rằng nhà thơ nói quá nhưng thực tế điều này hoàn toàn có thể sảy ra khi người chiến sĩ Tây Tiến sống và chiến đấu trên địa hình đồi núi rất cao của miền Tây Bắc. Súng khoác trên vai, mũi súng hướng lên bầu trời như chạm đến đỉnh trời, hình ảnh này làm cho ta hình dung đến một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo” hay trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Hình ảnh này một lần nữa lại khắc sâu ấn tượng về độ cao địa hình đồi núi Tây Bắc. Nếu những hình ảnh trng những câu thơ trên tác giả mở không gian miền Tây Bắc theo chiều cao, sâu thì đến hình ảnh trong câu thơ tiếp theo tác giả lại mở không gian theo chiều rộng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Hình ảnh những ngôi nhà thấp thoáng trong làn mưa vừa mở rộng tầm nhìn, vừa tạo nét thân thuộc gần gũi, những ngôi nhà như bồng bềnh trôi trên làn sương, làn mưa mờ ảo. Ở đây nhà thơ Quang Dũng đã kết hợp khéo léo giữa hai gam màu nóng, lạnh của hội họa để vẽ lên những hình ảnh, nếu ba hình ảnh đầu là gam màu nóng, nó đã làm cho người đọc phải gắng, phải lên gân thì đến hình ảnh thứ tư lại là gam màu lạnh, nó giúp chúng ta lấy lại sự thăng bằng, làm tâm hồn ta trở nên thư thái. Nếu trong ba câu thơ thứ năm, thứ sáu, thứ bẳy chủ yêu tác giả sử dụng thanh trắc kết hợp với những từ láy khó đọc, các câu thơ ngắt nhịp 4/3, mà nhịp bốn chủ yếu diễn tả GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 30
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang độ cao, nhịp ba chủ yếu diên tả độ sâu , những câu thơ bị bẻ đôi ở ranh giới của sự cao, sâu đã góp phần khắc họa ấn tượng về độ cao và độ sâu của địa hình nơi đây làm cho độ cao càng cao hơn, độ sâu càng sâu hơn. Thế những đến câu thơ thứ tám nhịp điệu lại dàn trải đều đều theo những thanh bằng, rõ ràng nhịp điệu ấy đã góp phần tô rõ hơn những thân thuộc, những gần gũi, những phẳng lặng của bình yên của thiên nhiên của thiên nhiên nơi đây. Đây là đoạn thơ minh chứng rõ ràng nhất cho nhận xét :Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, Quang Dũng không chỉ đơn thuần là một nhà thơ, ông còn là một nhạc sĩ và còn là một họa sĩ. Với tài năng của Quang Dũng chỉ trong một đoạn thơ ngắn tác giả đã giúp ta cảm nhận được hai đặc trưng của thiên nhiên miền Tây Bắc: vừa hung vĩ, dữ dội, hiểm trở nhưng cũng hết sức thân thuộc gần gũi vì miền đất này cũng mang dáng dấp một miền quê hương xứ sở. Một đoạn thơ nhưng có họa, có nhạc, đó là những hình ảnh mang tính chất đối lập cùng sự phối hợp nhịp nhàng thanh điệu với nhạc điệu. Thiên nhiên miền Tây Bắc không chỉ có núi cao, vực sâu mà còn có cọp dữ, thác gầm. Tuy nhiên bên cạnh những dữ dội, những hung bạo, những hiểm trở đó, thiên nhiên Tây Bắc cũng hết sức gần gũi thân thương. Nó vừa là sự thử thách ý chí của người chiến sĩ, vừa là người bạn đồng hành nâng đỡ những bước chân: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục bên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Trên nền thiên nhiên ấy , hình ảnh những người chiến sĩ Tây Tiến trong cuộc hành quân được hiện lên với những nét vẽ đơn sơ, giản dị. Môt cuộc hành quân có những mệt mỏi, rã rời và thậm chí đã có cả sự hi sinh. Mặc dù sự hi sinh của những người chiến sĩ đã được Quang Dũng sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh: “Gục bên súng mũ bỏ quên đời” nhưng chúng ta vẫn cảm thấy sự khốc liệt, sự tàn ác của chiến tranh mà những người chiến sĩ đang phải trải qua. Qua dòng hoài niệm của tác giả bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên với những nét vẽ sinh động, chân thực, hình ảnh người chiến sĩ được vẽ với những nét vẽ sống động , phải chăng đây là những minh chứng cho nỗi nhớ Tây Tiến của nhà thơ là cực kì sâu sắc. Đề 6 : Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng: Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 31
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang (“Tây Tiến” – Quang Dũng) Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết: “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”. (“Việt Bắc” – Tố Hữu). Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên ? Đề bài: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng: Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng viết: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. (“Tây Tiến” – Quang Dũng) Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết: “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan”. (“Việt Bắc” – Tố Hữu). Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên ? HƯỚNG DẪN LÀM: Khái quát chung: Giới thiệu Quang Dũng, Tố Hữu và hai tác phẩm: + Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. + Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc. Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng. TRÌNH BÀY CẢM NHẬN: A. Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”: *Vẻ đẹp bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân: “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 32
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. + Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính. + Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính TT: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của QD, người lính TT hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, QD vẫn dùng từ “đoàn binh” – gợi cảm giác về 1 đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế. + Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả doàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của QD khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống. Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng. Liên hệ: Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” (“Đồng chí” – Chính Hữu) “Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế”. (“Cá nước” – Tố Hữu). Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái: “Nơi thuốc súng trộn vào áo trận Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”. *Cái hào hoa:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 33
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàn rất lính, hóm hỉnh đùa vui với khó khăn gian khổ của mình. + Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ. *Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. + “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội. Người lính TT không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa,… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc, vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. B. Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”: *Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân: “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng” + Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do. + Không khí sôi nổi của những ngày chiến dịch được tác giả tái hiện sinh động qua những từ ngữ, hình ảnh: rầm rập, đất rung, những từ láy: điệp điệp, trùng trùng. Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh, vừa tạo hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật so sánh, tượng trưng được tác giả sử dụng triệt để giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đang ngày đêm tiến về mặt trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. *Vẻ đẹp lãng mạn: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Đây có thể là hình ảnh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 34
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang C. So sánh hai đoạn thơ: Giống nhau: Đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng. Khác nhau: + Trong đoạn thơ thuộc bài thơ “Tây Tiến”, vẻ đẹp hào hùng của người lính phảng phất sự bi thương. + Trong đoạn thơ thuộc bài thơ “Việt Bắc”, vẻ đẹp lãng mạn của người lính còn được Tố Hữu gắn liền với hiện thực. Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực. Bên cạnh đó, Quang Dũng là một chàng trai rất hào hoa nên thơ ông có cái lãng mạn rất riêng; còn ở Tố Hữu, thơ ông là thơ trữ tình chính trị, luôn có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào cách mạng. ĐÁNH GIÁ CHUNG: Hai đoạn thơ bên cạnh những điểm tương đồng còn có những nét riêng độc đáo, thể hiện tài năng của hai nhà thơ. Khẳng định vị trí của hai tác giả trong nền văn học cũng như trong lòng độc giả. Bài làm: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” Đã có những tháng ngày như thế, những tháng ngày đất nước hừng hực sục sôi trong khí thế của cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Đã có những con người như thế, những con người nhỏ bé nhưng tạo sức mạnh của những đoàn quân một thời làm khiếp sợ kẻ thù, ra trận với ý chí “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng. Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Trong Việt Bắc, Tố Hữu viết: “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Trước hết, chúng ta tìm hiểu hình ảnh đoàn quân Tây tiến trong đoạn thơ của Quang Dũng. Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là người nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Tây Tiến được sáng tác năm 1948, là một trong những bài thơ để đời của Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 35
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cách nghệ thuật của ông. Bài thơ thấm đượm nỗi nhớ của nhà thơ về binh đoàn Tây Tiến mà ông đã cùng gắn bó và chiến đấu trên khung nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ và mĩ lệ. Đoạn trích trên nằm ở đoạn ba của tác phẩm, khắc họa chân dung người lính Tây Tiến trong điều kiện chiến đấu khắc nghiệt mà vẫn mang nét lãng mạn, hào hoa. Xuyên suốt bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là nỗi nhớ của ông hướng về những người đồng đội đã từng cùng nhau kề vai sát cánh trong chiến đấu trên khung nền thiên nhiên Tây Bắc khắc nghiệt, nhưng thơ mộng, trữ tình. Nỗi nhớ có lúc hóa thành nỗi nhớ “chơi vơi” trong tim Quang Dũng, là nỗi nhớ vô hình vô lượng, nhưng da diết, giằng xé, bật thành tiếng gọi thiết tha, đau đớn: “Tây Tiến ơi!”. Theo lời Quang Dũng kể lại, Tây Tiến là tập hợp của những chàng trai Hà thành, xuất thân từ những mái trường, góc phố nên tuy chiến đấu trong gian khổ nhưng vẫn mang nét lãng mạn, đa tình. Nhưng lính Tây Tiến cũng là những con người hào hùng, anh dũng. Đoàn quân Tây Tiến trong đoạn trích trên hiện ra trong nét bi tráng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm” Nét vẽ ngoại hình ấy xuất phát từ một thực tế sống và chiến đấu của những anh “Vệ túm, Vệ trọc” trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Các anh phải cạo trọc đầu để thuận tiện trong sinh hoạt và trong những trận đánh giáp lá cà. Nhưng đó cũng có thể là hậu quả của những trận sốt rét liên miên trong rừng thiên nước độc. Trong những năm tháng gian khổ, thiếu thốn ấy, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, người chết như rơm rạ. Lính Tây Tiến còn được tái hiện bởi làn da xanh xao, nhợt nhạt, thiếu sức sống. Người lính trong chiến đấu phải chịu nhiều cực khổ, đói và khát, còn chưa kể là những cơn sốt rét tê liệt, dai dẳng. Ta đã từng bắt gặp những cơn sốt chết người ấy trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi” hay trong thơ Tố Hữu: “Giọt giọt mồ hôi rơi, Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế” Sau này một nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ cùng viết về căn bệnh sốt rét bằng những vần thơ tê tái: “Nơi thuốc súng trộn vào áo trận Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân” Nhưng lạ kì thay, đọc thơ của Quang Dũng, ta thấy cái gian khổ, khắc nghiệt, nhưng không thấy cái kêu than, bi quan mà lại cảm nhận được nét ngang tàng, mạnh mẽ của người lính. Bằng cách dùng từ Hàn Việt, “đoàn binh”, chứ không phải “đoàn quân”, nhà thơ khắc họa nên nét hiên ngang, khí khái “đầu đội trời chân đạp đất” của tráng sĩ thời xưa. Cụm từ “không mọc tóc” đã chuyển câu thơ từ thế bị động sang thế chủ động. Không phải là “tóc không mọc” mà chính cái khắc nghiệt, dữ dội của nhưng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 36
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cơn sốt rét rừng đã khiến họ xanh da rụng tóc. Câu thơ mang nét hóm hỉnh, vui tươi, ngang tàng của chất lính. “Xanh màu lá” chứ không phải “xanh xao” , xanh nhưng không hề yếu ớt, vẫn tràn đầy sức sống. Đặc biệt ,cụm từ “dữ oai hùm” đã xóa bỏ đi những ấn tượng của sự yếu đuối, mệt mỏi, thay vào đó là sức mạnh uy nghi, dữ dội, chế ngự và coi thường tất cả khó khăn, gian nan của đoàn quân TT. Biết được sự gian khổ của các anh, chúng ta xót xa, cảm thương các anh rất nhiều, nhưng ta còn cảm phục hơn tinh thần gang thép, bất khuất, hiên ngang toát ra từ lính Tây Tiến. Ta hiểu rằng Quang Dũng đã từng sống và chiến đấu trong những ngày tháng như thế, ông là người trong cuộc, thế nên cái “bi” mà ông khắc họa không phải là sự yếu đuối, rơi rớt tiểu tư sản, mà là thực tế chiến đấu để nâng tầm và thêm tự hào về cái “tráng”, về sự dũng cảm, ý chí kiên cường của những chàng trai “cuộc đời gió bụi pha xương máu”. Đối lập với ngoại hình kì dị, đáng sợ do hoàn cảnh sống và chiến đấu của lính Tây Tiến, là một tâm hồn rất lãng mạn, rất đáng trân trọng. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” “Mắt trừng” là mắt mở to, hướng mắt về phía trước, là ánh mắt ngùn ngụt ngọn lửa căm thù và sôi sục ý chí chiến đấu cao đẹp của những chàng trai thời loạn.“Mắt trừng” là ánh mắt thao thức, là ánh mắt không ngủ để canh giữ biên cương cho tổ quốc, giữ cho tổ quốc bình yên. Đây là một nét ước lệ của cảm hứng lãng mạn để tô đậm thêm lòng quyết tâm và dũng cảm của những chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng” ra đi vì nghĩa lớn, vì sự thôi thúc của ý chí. Nhưng có lẽ, con tim các anh đã ở lại một góc phố Hà Nội xinh đẹp, ở lại bên những “dáng kiều thơm”. Các anh chiến đấu là vì ai, là vì điều gì? Chẳng phải để bảo vệ quê hương, bảo vệ Hà Nội thân yêu khỏi bom đạn tàn phá hay sao? Sự đối lập giữa “mộng” và “mơ”, giữa lý tưởng cách mạng và tình yêu của các anh dành cho những người con gái quê nhà không thể hiện sự yếu đuối, tầm thường, mà nó nói lên động cơ chiến đấu đẹp đẽ của người lính, nói lên tâm hồn hào hoa, phong nhã của những chàng trai gốc Hà thành ngay giữa ranh giới sự sống và cái chết. Cũng giống như hình ảnh “Người ra đi đầu không ngoảnh lại- Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” để rồi “Những đêm dài hành quân nung nấuBỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” trong thơ Nguyễn Đình Thi. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, bút pháp tương phản, ngôn ngữ tinh tế, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh đoàn quân Tây Tiến ra trận trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, khó khăn và vẫn lạc quan, yêu đời, vẫn ngang tàng, hiên ngang, kiêu hùng. Bằng chất “bi tráng” ấy, lính Tây Tiến tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên không tiếc mình quyết hi sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc. Cùng khắc họa hình ảnh đoàn quân ra trận trong những năm kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã làm sống lại khí thế hừng hực, mạnh mẽ, khung cảnh sôi động của cuộc “thánh chiến” dân tộc trong bài thơ Việt Bắc. Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng. Thơ ông mang tính chất trữ tình, chính trị rất sâu sắc. Việt Bắc là đỉnh cao thơ Tố Hữu, là thành công xuất sắc của thơ ca kháng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 37
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang chiến chống Pháp, thể hiện sâu sắc tư tưởng sáng tác của ông. Bài thơ là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Đoạn trích trên thuộc phần đầu của bài thơ Việt Bắc. Nhà thơ đã tái hiện lại những đoàn quân hùng mạnh đang hành quân trên con đường Việt Bắc ban đêm. “Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung” Giọng thơ vang lên tha thiết mà hào hùng, vang dội. Từ sở hữu “của ta” thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả về những con đường Tổ quốc, những con đường đã làm chứng nhân lịch sử cho những ngày đêm nằm gai nếm mật, nuôi chí phục thù và những chiến thắng vang dội của dân tộc. Hơn một lần hình ảnh những con đường ấy xuất hiện trong thơ ca, như tác giả đã từng viết: “ Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái, ung dung ta bước Đường ta rộng, thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên Đường qua Tây bắc, đường lên Điện Biên Đường cách mạng, dài theo kháng chiến…” Trên chính chặng đường ấy, sức mạnh của con người, của những đoàn quân tái hiện một cách sống động. Bằng cách dùng từ láy tượng thanh – đoàn quân đi “rầm rập” trong những “đêm đêm” như làm cho người đọc được sống trong những khoảnh khắc ấy, được nhìn thấy những đoàn quân đông đảo đang bước đi trong khí thế hừng hực, quyết liệt, khẩn trương của thanh niên, tuổi trẻ, của những con người mạnh mẽ sắt đá, những “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình ảnh so sánh cường điệu của cảm hứng sử thi hùng tráng đã nâng sức mạnh của đoàn quân lên tầm vóc vũ trụ. Trong những năm tháng chiến đấu gian lao, khắc nghiệt như thế, nhưng dường như quân dân ta chưa bao giờ nản lòng, thối chí, chưa bao giờ lùi bước bởi lẽ ấy không phải là cuộc chiến ngày một ngày hai, mà là cuộc kháng chiến trường kì, chỉ có lòng quyết tâm và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc mới làm nên chiến thắng và độc lập cho dân tộc. Hai câu thơ tiếp miêu tả cụ thể hình ảnh của người bộ đội ra trận: “Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho ta thấy những đoàn quân đông đảo tầng tầng lớp lớp, như những đợt sóng nối tiếp nhau tiến về phía tiền phương. Còn nhớ ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khi đó mới chỉ 34 người. Vậy mà đến ngày hôm nay, quân đội đã trưởng thành mạnh mẽ, thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc có thể đập tan quân thù, làm nên độc lập tự do dân tộc. Đọc câu thơ lên chúng ta cảm thấy tự hào, cảm phục những đoàn quân ấy biết bao, nhưng đó còn là lòng yêu mến với những con người chiến đấu trong gian khổ, khắc nghiệt mà vẫn giữ vững niềm tin, niềm lạc quan và vẻ đẹp của người lính qua câu thơ: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 38
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Sau dòng cảm xúc về đoàn quân “điệp điệp trùng trùng”, tác giả lại hướng ánh nhìn về những người lính nhỏ bé đang bước đi trong đoàn quân hùng mạnh. Trong những ngày tháng chiến đấu ấy, người lính chỉ có chiếc mũ nan nhỏ bé làm bạn, nhưng điều bình dị ấy chỉ càng làm nổi bật ý chí kiên cường của người lính. Đã từng có lần Tố Hữu khắc họa người lính như thế: “Vẫn đôi dép lội chiến trường Vẫn vành lá mũ coi thường hiểm nguy Tuốt gươm không chịu sống quỳ Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu!” Và trong những đêm dài hành quân ấy, hình “ánh sao đầu súng” sẽ theo mãi người lính, sẽ soi sáng con đường và cho trái tim lý tưởng của các anh nữa. Trăng và sao luôn là hình ảnh thực gắn với người chiến sĩ trên con đường hành quân. Như Chính Hữu đã từng viết: “Đầu súng trăng treo”. Thì lúc này đây, ánh sao lấp lánh lan tỏa gương mặt anh lính, ánh sao thể hiện lý tưởng cao đẹp của tuổi trẻ, ánh sao đem người lính đến ngày mai chiến thắng, đến độc lập tự do của dân tộc. Bằng cách sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống, bằng những từ láy tượng thanh, gợi cảm, ngôn ngữ sử thi hùng tráng, giọng thơ sôi nổi hào hùng, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh tổng kết về không khí sôi động, hào hùng, lớn mạnh của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp. Qua hai đoạn thơ trên, ta thấy rằng những đoàn quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp đều được tái hiện bởi vẻ đẹp hào hùng, bởi lý tưởng cao đẹp và ý chí kiên cường bất khuất trong cái gian nan, hiểm nguy, thiếu thốn nơi chiến trường. Chính bút pháp sử thi hùng tráng và bút pháp lãng mạn đã khiến ta thêm tự hào về những đoàn quân thể hiện sức mạnh dân tộc ấy. Tuy nhiên, hai đoạn thơ còn thể hiện những nét riêng biệt trong phong cách sáng tác của hai tác giả. Vẻ đẹp người lính hiện lên trong thơ Quang Dũng là người lính hào hoa, phóng khoáng, được tái hiện trong khung cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc, trong đói khổ, thiếu thốn và căn bệnh sốt rét hoành hành mà vẫn hiên ngang, bất khuẩt. Trong khi đó, Tố Hữu chủ yếu ngợi ca sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, hình ảnh người lính hiện ra giản dị, nhưng dũng cảm, hiện ra trong đoàn quân đông đảo, hào hùng. Có những nét khác biệt ấy là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật khác nhau của hai tác giả. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Hồn thơ ông mang nét phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn. Còn Tố Hữu viết Việt Bắc trong thời kì thắng lợi, giải phóng miền Bắc, lịch sử bước sang trang mới, nên thơ ông có phần lạc quan và có niềm tin hơn. Bên cạnh đó, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị, do đó, ông thiên về ngợi ca lòng tin với cách mạng, với chiến thắng dân tộc. Qua hai đoạn thơ trên, hình ảnh đoàn quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp hiện qua có những nét riêng biệt bởi hai nhà thơ khác nhau. Song, những nét chung và riêng ấy khiến ta có cái nhìn rõ hơn và yêu hơn tâm hồn và vẻ đẹp người lính, để lại những ấn tượng khó phai nhòa trong lòng người đọc nhiều thế hệ. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 39
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Link bài viết: http://thutrang.edu.vn/bai-van-mau-so-sanh-hinh-anh-doan-quan-tay-tien-va-viet-bac Đề 7 : Về đoạn thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” (Trích Tây Tiến – Quang Dũng – SGK Ngữ Văn 12, tập 1 – Trang 88) Có ý kiến cho rằng: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Trên cơ sở kiến thức về nhà văn, về tác phẩm, thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cơ bản nêu được các ý sau: 1. – Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm. – Giới thiệu khái quát về đoạn thơ và ý kiến nhận định. 2. Nhận định thứ nhất: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt: – Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng: + Các hình ảnh sương mờ bao phủ cả vùng Tây Bắc rộng lớn, hoa về trong đêm hơi, những ngôi nhà bồng bềnh trong biển sương mờ,… + Không gian núi rừng bao la cứ trải ra mênh mông, vô tận trước mắt người lính. + Những câu thơ nhiều thanh bằng, … – thiên nhiên cũng rất dữ dội, khắc nghiệt: + Các địa danh xa xôi, heo hút: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. + Các hình ảnh miêu tả: núi cao, vực sâu, đèo dốc, sương rừng, mưa núi, thác gầm, cọp dữ… + Những câu thơ nhiều thanh trắc, nghệ thuật đối, lặp từ, lặp cấu trúc, ngắt nhịp câu thơ, … 3. Nhận định thứ hai: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 40
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đoạn thơ vẽ nên bức tượng đài về người chiến sĩ Tây Tiến gian khổ, hi sinh song cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa. * Họ phải đối mặt với bao khó khăn, thử thách, mất mát, hi sinh: – Ấn tượng đầu tiên của Quang Dũng về người lính Tây Tiến trên đường hành quân là những bước đi mệt mỏi lẩn khuất như chìm đi trong sương dày đặc – Người lính Tây Tiến phải đối mặt, vượt qua những dốc núi vô cùng hiểm trở với bao gian lao, vất vả: những dốc núi cao như chạm trời xanh, những vực sâu thăm thẳm, những sườn đèo dốc. – Cái hoang dại, dữ dội của núi rừng thường trực, đeo bám người lính Tây Tiến như một định mệnh, luôn hiện hình để hù doạ và hành hạ họ. – Dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã quá sức chịu đựng đã khiến cho người lính gục ngã. Họ hi sinh trong tư thế vẫn hành quân, vẫn chắc tay súng, vẫn ôm lấy và gục lên quân trang. * Tâm hồn vẫn rất lãng mạn, hào hoa: – Vẻ tinh nghịch, tếu táo, chất lính ngang tàng như thách thách cùng hiểm nguy, gian khổ của người lính Tây Tiến. – Trên đường hành quân vất vả, họ thả hồn mình vào thiên nhiên, để trút bỏ hết mọi nhọc nhằn khỏi thân xác, phục tâm, phục sức. – Có lúc họ được dừng chân ở một bản giữa rừng sâu, quây quần bên những bữa cơm thắm tình quân dân cá nước. Tình cảm đầm ấm xua tan đi vẻ mệt mỏi trên gương mặt, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên – Cái nhìn lãng mạn đã nâng đỡ cho ngòi bút Quang Dũng, tạo nên màu sắc bi tráng khi nói tới sự hi sinh của người lính Tây Tiến. – Nét đẹp trong tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những chàng lính thủ đô giúp họ vượt qua được khó khăn, thử thách để tiếp bước trên đường hành quân, hoàn thành nhiệm vụ. 4. Đánh giá chung: – Hai nhận định đều khái quát được nội dung cơ bản của đoạn thơ. – Cả hai đã cho thấy cái nhìn đầy đủ, rõ nét về thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến hiện về trong nỗi “nhớ chơi vơi” của nhà thơ khi ông đã rời xa Tây Tiến, rời xa con sông Mã. – Đoạn thơ không chỉ là thiên nhiên Tây Bắc, người chiến sĩ Tây Tiến mà còn là tình yêu, sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với Tây Bắc, với Tây Tiến. – Đoạn thơ là sự phối hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực và bút pháp lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thuỷ mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. (so sánh với bút pháp miêu tả người lính trong các sáng tác khác) 5. Khái quát lại vấn đề và đánh giá về thành công của tác giả, tác phẩm trong VHVN giai đoạn 1945 – 1954. Đề 8 : Cảm nhận của em về vẻ đẹp của người chiến sỹ trong bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng , qua đó liên hệ tới vẻ đẹp của người chiến sỹ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương? Có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 41
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang a, Vẻ đẹp của người chiến sỹ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khác hoạ thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn đậm chất bi tráng. Vẻ đẹp tiêu biểu của người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp: + Vẻ đẹp của bức chân dung lẫm liệt, oai hùng: vẻ đẹp bật lên từ sự đối lập giữa cái vẻ bề ngoài có phần xanh xao, tiều tuỵ với phong thái oai phong lẫm liệt của những vị “chúa tể sơn lâm”. Vẻ đẹp của ý chí, của hào khí ngút trời. + Vẻ đẹp tâm hồn đầy mơ mộng, dào dạt tình yêu thương: vẻ đẹp bật lên từ những cảm xúc đối lập mà thống nhất: căm thù quân xâm lược. tình yêu và nỗi nhớ nhung những người con gái nơi quê nhà. → Chất hào hoa của của những chàng trai đất Hà Thành +Vẻ đẹp của lí tưởng sống cao cả, chói ngời: vẻ đẹp được bật lên từ cách miêu tả những sự hi sinh thầm lặng của những người chiến sĩ nơi đất khách quê người. Đó là cái bi nhưng đã được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng nên đã trở thành bi tráng, bi tráng đến mức hào hùng. Với tinh thần dấn thân họ tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho một lí tưởng cao đẹp nhất: Độc lập- Tự do. Vì vậy vẻ đẹp của người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử. → Vẻ đẹp của người chiến sỹ Tây Tiến là vẻ đẹp biểu trưng cho cả một thế hệ người Việt Nam ta trong thời kháng chiến chống Pháp. b, Vẻ đẹp của người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương: – Những người chiến sĩ (chiến sĩ hải quân, chiến sỹ cảnh sát biển, chiến sĩ biên phòng…) đang hàng ngày hàng giờ đối mặt với sóng to gió lớn, thậm chí cả bão tố, cuồng phong. Đặc biệt, họ còn phải đối mặt với những âm mưu xâm lược, bành trướng, độc chiếm Biển Đông của nước láng giềng Trung Quốc. Cụ thể như việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển đặc quyền của Việt Nam cùng với những hành động đâm va hung hăng vào những tàu của Cảnh sát biển; việc ngang nhiên xây dựng sân bay, căn cứ quân sự, khu dân cư…trên vùng biển thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa… Trong hoàn cảnh ấy, những người chiến sĩ vẫn ngày đêm kiên cường bám biển với quyết tâm bảo vệ toàn vẹn hải phận của Tổ quốc. Đã có những tấm gương hi sinh anh dũng cho sự bình yên của biển đảo quê hương. – Những người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với hiểm nguy, gian khổ nhưng tâm hồn họ vẫn vô cùng lãng mạn. Họ không quên viết những cánh thư gửi người yêu dấu, không quên gửi những kỉ vật của biển về quê hương… → Vẻ đẹp của những người chiến sĩ ấy cũng là vẻ đẹp biểu trưng cho tuổi trẻ Việt Nam trong thời đại mới. c, Đánh giá chung Vẻ đẹp của người chiến sỹ ở mọi thời đại luôn có sức lay động và lan toả mãnh liệt. Vẻ đẹp vừa có tính truyền thống vừa mang tính thời đại. 3. ÔN TẬP BÀI VIỆT BẮC- TỐ HỮU GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 42
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Kiến thức cơ bản về Bài thơ Việt Bắc ( Đoạn trích trong SGK thôi nhé ) I.Hoàn cảnh sáng tác – Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. – Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó. II. Bài thơ 1.Kết cấu của bài thơ + Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai. + Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca. + Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau. + Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu. + Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ởngười đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân. 2.Phân tích văn bản. 2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi. – Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại. + Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình. + Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi. + Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 43
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi + Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm: chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc. lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi. + Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân VB. khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ. 2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình: – Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB: + Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù” + Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối thù nặng vai. + Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai. + Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng. + Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa. – Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai. – Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu. – Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình. 2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình. Nhớ gì như nhớ người yêu …… Chày đêm nện cối đều đều suối xa – Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết. – Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể. – Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 44
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi. – Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung: + Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. + Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô. + Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao… núi đèo – Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa =>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu. 2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Ta về mình có nhớ ta ….. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung – Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng. – Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người. – Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa: + Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian + Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng. + Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách. + Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên. – Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường: + Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”. + Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình + Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng. – Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại + Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả + Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 45
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến. a. Từ câu 53-> 74 “Nhớ khi giặc đến giặc lùng ……………….. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc kháng chiến chống Pháp. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ. + Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc. + Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù. + Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây… + Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi. + Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi: ~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc. ~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập. ~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng. ~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. + Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên… + Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. + Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng. b.Từ câu 75- câu 83. Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”. 3. Đặc sắc nghệ thuật : Đoạn trích đậm đà tính dân tộc ở cả nội dung lẫn hình thức Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 46
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. Nội dung – Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả. – Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc. – Hình thức + Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng. + Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình + Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ) + Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc. 4. Chủ đề Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung Phần hai : Những đề thi liên quan đến bài Việt Bắc : Có các dạng đề sau : Dạng 1 .Cảm nhận về đoạn thơ: Bài này quá dài,chúng ta lưu ý mấy đoạn trọng tâm sau : 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu… Chày đêm nện cối đều đều suối xa Đoạn Bức tranh tứ bình : Ta về mình có nhớ ta…. Thuỷ chung Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến : Những đường Việt Bắc của ta…Đèo De núi Hồng Dạng 2. Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ Việt Bắc, chứng minh nhận định về bài Việt Bắc Dạng 3. Đề so sánh văn học : so sánh đoạn thơ trong bài Việt Bắc với đoạn thơ trong bài Tây Tiến, đây thôn Vĩ Dạ, Sóng,…. Một số đề tham khảo Đề bài 1 : Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau: Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu. ( Việt Bắc – Tố Hữu) GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 47
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương. ( Sóng – Xuân Quỳnh) Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân , cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ: ” Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.” trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ: “Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương.” trích trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế. Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học VIệt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình. Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu lứa đôi . Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trớch trong bài Việt Bắc là lời người ra đi đáp lại người ở lại . Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bài Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình-ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 48
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,…bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điềm (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu. Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược” .Sóng dù xuôi về phướng Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ: “Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương.” Thông thường người ta haynói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái lô-gic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua. Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thỡ anh vẫn mói là bến bờ hạnh phúc , là nơi duy nhất em tìm về. í thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diêt, đằm thắm. Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch ” lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu. Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng người yêu thương phải xứng đáng với mình.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 49
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu con người, đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề. Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân cảu chủ thể trữ tình. “sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chung thủy, sắt son. Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điều ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng – đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc. Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, Còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn. Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc khụng chỉ cảm nhận được nột đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũn thấy được vẻ đẹp tõm hồn con người Việt Nam yờu thương đằm thắm, dịu dàng mà mónh liệt, tỡnh nghĩa thủy chung, son sắt. Đề bài 2 : Anh (chị) hãy phát biểu cảm nhận của mình về hai đoạn thơ sau: “Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy (Việt Bắc – Tố Hữu) và “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức.” (Sóng – Xuân Quỳnh)
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 50
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Định hướng cách làm : I. MỞ BÀI Giới thiệu về hai tác giả và hai bài thơ, hai đoạn thơ: II. THÂN BÀI 2. Cảm nhận hai đoạn thơ 2.1. Đoạn thơ trong bài thơ Sóng – Nỗi nhớ tràn ngập khắp không gian: dưới lòng sâu, trên mặt nước – Nỗi nhớ tràn ngập khắp thời gian: ngày đêm không ngủ được – Nỗi nhớ tràn cả vào ý thức, vô thức, tiềm thức “cả trong mơ còn thức” * Nghệ thuật: thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu; phép ẩn dụ, nhân hóa, điệp cấu trúc, tươgn phản.. 2.2. Đoạn thơ trong Việt Bắc – Nỗi nhớ tràn ngập không gian thời gian, thấm vào cảnh vật thiên nhiên: + Thiên nhiên bình dị tươi đẹp: nắng chiều, trăng lên đầu núi, bản khói cùng sương, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê… + Con người Việt Bắc cần cù chăm chỉ, chịu thương chịu khó: sớm khuya bếp lửa người thương đi về * Nghệ thuật: – Thể thơ lục bát âm điệu ngọt ngào sâu lắng; sử dụng phép điệp từ, ngôn ngữ bình dị 3. So sánh: – Giống nhau: Cả hai đoạn thơ đều tập trung thể hiện nỗi nhớ của một tình yêu tha thiết sâu đậm đối với con người, cuộc sống, quê hương, đất nước của hai thi sĩ. Nội dung cảm xúc: Cả hai đoạn thơ đều viết về nỗi nhớ, một trạng thái cảm xúc nảy sinh trong cuộc chia ly với những con người đã từng gắn bó sâu nặng, thắm thiết, những mảnh đất để lại dấu chân đi qua. – Nghệ thuật thể hiện: Hai đoạn thơ, các tác giả đều tập trung khắc họa những cung bậc trạng thái phong phú, đa chiều của nỗi nhớ. Nỗi nhớ mênh mang được đặt trong quan hệ với không gian thiên nhiên vô tận. Nỗi nhớ triền miên da diết được đặt trong thời gian của đêm – ngày, sớm – chiều. Nỗi nhớ còn được so sánh, thể hiện trong những điều sâu thẳm, mãnh liệt nhất (nhớ người yêu, cả trong mơ còn thức). (Hai đoạn thơ đều sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ để khéo léo diễn tả nỗi nhớ sâu đậm, giọng điệu da diết, khắc khoải của con người khi phải chia ly. – Điểm khác biệt: Việt Bắc (Tố Hữu) – Nội dung cảm xúc: nỗi nhớ trong thơ Tố Hữu thuộc về tình cảm lớn lao, tình cảm chính trị, tình cảm cách mạng. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt bắc ân tình đùm bọc, cưu mang họ trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Đoạn thơ sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 51
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang trữ tình sâu lắng, da diết. Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), ẩn dụ (ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê) và tiểu đối đã góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng. Sóng (Xuân Quỳnh) – Cảm xúc của chủ thể trữ tình được thể hiện vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ (có nỗi nhớ cồn cào, cháy bỏng, có nỗi nhớ triền miên, da diết, có nỗi thao thức, bồi hồi trăn trở, nỗi nhớ còn lặn cả vào trong tiềm thức, trong giấc mơ). Sóng – Đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt sâu sắc. Đoạn thơ có hình ảnh sáng tạo diễn tả nỗi nhớ trong mơ (Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức). Kết luận chung: – Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được nét đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung. III. KẾT BÀI Đánh giá chung Đây là đề thi của Thầy PHAN DANH HIẾU Ví dụ 3 : Đề bài: “ Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”. Hãy bình luận ý kiến trên Gợi ý:http://thutrang.edu.vn/bai-tho-viet-bac-la-khuc-tinh-ca-va-cung-la-khuc-hungca-ve-cuoc-khang-chien-va-con-nguoi-khang-chien Ví dụ 4 : Phân tích bức tranh tứ bình- Việt Bắc Ta về, mình có nhớ ta ? Ta về ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng, Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Ve kêu rừng phách đổ vàng, Nhớ cô em gái hái măng một mình. Rừng thu trăng rọi hòa bình, Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bài làm :http://thutrang.edu.vn/phan-tich-buc-tranh-tu-binh-viet-bac Ví dụ 5 : GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 52
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đề bài: “ Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”. Hãy bình luận ý kiến trên Mở bài : Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN trong đó bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 101954 sau thắng lợi chiến dịch ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ VB của TH là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến” Thân bài : Vài nét về tác giả tác phẩm: Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình. Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. 2. Giải thích nhận định Ý kiến nhận định về bài thơ hoàn toàn xác đáng, đã chạm đến thần thái của tư tưởng thơ TH. Bài thơ là một “khúc tình ca” đã khắc họa hết thảy mọi cung bậc tình cảm của tác giả hay nói đúng hơn là giữa kẻ ở – người đi, giữa nhân dân đồng bào VB với cán bộ cách mạng qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống gắn bó, mặn nồng nơi quê hương kháng chiến. Đồng thời, bài thơ cũng là “khúc hùng ca” ca khúc khải hoàn về cuộc chiến thắng vĩ đại của quân và dân ta trong những ngày đêm ra trận tuy vất vả mà cũng rất đỗi hào hùng. Có thể nói, cả bài thơ VB là sự hòa quyện giữa khúc tình ca và khúc hùng ca, giữa chất trữ tình và chất hiện thực, giữa tính sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Chính sự hài hòa các yếu tố ấy đã tạo nên tuyệt tác của thi phẩm này. 3. Chứng minh nhận định: a. Trước hết, VB là khúc tình ca, ca ngợi cuộc kháng chiến vĩ đại và con người kháng chiến. + Điều này được nhà thơ diễn tả bằng việc khắc họa miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên VB và con người kháng chiến đậm đà tình quân dân “cá – nước”. +Bức tranh thiên nhiên VB đã gợi tứ cho cảm hứng thơ TH bay xa, dội lại trong mảng ký ức tươi đẹp hiện về trong nỗi hoài niệm, ưu tư về một khung cảnh đẹp đến toàn diện toàn mĩ trong đêm trăng thanh. Đó là hình ảnh “ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, là hình ảnh của ánh sương ban mai vào buổi sáng sớm mờ ảo GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 53
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang quấn quýt bao phủ khắp bản làng. Để rồi mỗi sự vật địa danh được nhắc đến như một nét thân thương dội lại của thiên nhiên núi rừng miền Tây thơ mộng, trữ tình: “ Ngòi thia, sông Đáy, suối Lê với đầy”. +Đặc biệt hơn, chất trữ tình lãng mạn cũng là khúc tình ca còn được viết lên trong một bản đàn thi ca mà mỗi nốt nhạc của mỗi mùa ( đông – xuân- hạ – thu) ở bức tranh tứ bình đều như đang vang lên bài ca đất nước: “ Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Mùa xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” Bộ bức tranh tứ bình như được trạm, được khắc bằng bút pháp nghệ thuật chấm phá tả ít gợi nhiều. Hòa quyện trong bức tranh tứ bình ấy là sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người đang giao hòa với nhau tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh. Vì thế có thể nói mỗi mùa đều là một bức tranh riêng độc đáo tạo nên cái đặc trưng riêng của núi rừng VB. Ta như chiêm nghiệm thấy một cái tôi TH đang ngả nghiêng, đang ngây ngất thả hồn đắm chìm trong nỗi nhớ hoài niệm của một bức tranh VB. Chính vì thế mà sự xáo trộn không tuân theo quy luật khách quan của vũ trụ ( xuân – hạ – thu – đông) đã phải những chỗ cho tâm trạng cảm xúc của thi nhân đang rung lên đồng điệu với bức tranh thiên nhiên đẹp. + Bên cạnh đó, hình dáng của con người trong bài thơ cũng được TH khắc họa hiện lên thật duyên dáng, yêu thương. TH không đi vào khắc họa vóc dáng bên ngoài của con người, của đồng bào nhân dân VB mà ông chỉ chú trọng vào diễn tả tâm tư tình cảm mà đồng bào nhân dân VB dành cho cách mạng, dành cho những người cán bộ, chiến sĩ kháng chiến. Đó là hình ảnh của sự đùm bọc yêu thương tuy thiếu thốn vất chất ( Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son) mà cũng đậm thật lãng mạn, cũng thật cảm động chan chứ niềm yêu thương : “ Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” + Trong cuộc kháng chiến ấy, tuy vất vả, trên chiến trường người chiến sĩ mạnh mẽ hiên ngang, cầm chắc tay sung tiêu diệt kẻ thù nhưng khi trở về, họ lại được chăm sóc, chia ngọt sẻ bùi với nhân dân địa phương và trong hoàn cảnh ấy, TH cũng không quên nhắc đến bóng dáng của những tình yêu đôi lứa, tình yêu giữa những cô gái bản làng với anh vệ trọc, với chiến sĩ cụ Hồ: “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 54
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Hai chữ “ người thương” gói ghém biết bao tình yêu thương đong đầy, tình yêu ấy vừa là tình quân dân, vừa là tình yêu đôi lứa. + Chất trữ tình, khúc tình ca còn được thể hiện trong một bức tranh sinh hoạt đậm đà nơi kháng chiến gắn với những con người sẵn sang cùng kề vai sát cánh với chiến sĩ bộ đội trong cuộc kháng chiến một mất một còn với quân giặc: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ ao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…” Đó là những hình ảnh của bà mẹ vất vả vừa lo toan cho gia đình, vừa tăng gia sản xuất phục vụ cách mạng, đó là những âm thanh “ i tờ” vỡ nòng ngượng ngịu, đó là những tiếng chày nện cối giã gạo nuôi cách mạng và đó cũng là tiếng hát réo rắc “ ca vang núi đèo” “ đều đều suối xa” réo rắc ngân vang. Tất cả như hiện lên vừa là hiện thực lại vừa lãng mạn đan xen góp phần diễn tả cuộc sống nơi chiến đấu trong những năm tháng kháng chiến nơi VB tuy vất vả gian nan nhưng cũng rất tự hào tình nghĩa. Như vậy, nhờ yêu tố lãng mạn bay bổng, TH đã tạo nên một bài thơ độc đáo mà mỗi sự vật thiên nhiên và con người được nhắc đến giống như một nốt nhạc trong khúc tình ca kháng chiến. Tất cả như tạo ra chất men say trong tâm hồn thơ Tố Hữu. b. Việt Bắc là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến Bên cạnh yếu tố trữ tình lãng mạn, bài thơ VB còn quyện hòa trong chất sử thi hùng tráng. Đó là khúc hùng ca kháng chiến mạnh mẽ tạo nên những trang thơ đậm đà tính dân tộc. Phản ánh hết thảy khi thế anh hùng của quân và dân ta trong những ngày cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mỗi câu thơ vang lên như biểu tượng cho tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” được tạo nên bởi những người anh hùng dũng cảm. “Những đường VB của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan Dân công công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” Ấy là khí thế của những con đường ra trận, những ngả đường kháng chiến đã được TH như trạm, như khắc hiện hình nổi sắc trước mắt người đọc vậy. Dưới ánh trăng đêm, hình ảnh đoàn quân ra trận thật hào hùng, thật mạnh mẽ trải dài ra vô tận “điệp điệp trùng trùng” với một khí thế mang biểu tượng của tinh thần tự do, cho khát vọng độc lập. Vì thế hình ảnh “Bước chân nát đá” như tự nó đã mang sức nặng của tinh thần yêu nước. Như HCM đã nói: “ tinh thần yêu nước sẽ nhận chìm cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Không có một thế lực nào có thể ngăn cản được bước đi của quân GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 55
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang dân ta. Để khắc họa được cái khí thế ấy, TH đã dùng hàng loạt các động từ, từ láy giàu sức tạo hình và biểu cảm: “ rầm rập”, “ nát đá”, “điệp điệp trùng trùng” khiến cho hình ảnh ra trận hiện lên không hề bi thương mà ngược lại rất đỗi hào hùng, mạnh mẽ. Dưới mỗi bước chân quân ta đi đều mang trong mình lý tưởng của Đảng, của Bác Hồ sáng soi, vì thế mới có hai chữ “ ánh sao đầu súng” như là biểu tượng cho cuộc đấu tranh chính nghĩa, cho lẽ phải của công lý trước vó ngựa xâm lăng của kẻ xâm lược. Để phán ánh được cuộc chiến đấu mang biểu tượng của tinh thần tự do và khát vọng độc lập ấy, TH còn khắc họa như diễn tả những chiến lược, chiến thuật mà quân dân ta đã từng sử dụng: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đã ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng” Khí thế hào hùng được nhà thơ diễn tả bằng nhịp điệu thơ dồn dập, nhanh, gọn, lẹ. Bộ đội ta biết dựa cả vào những địa hình tự nhiên “núi đá” để “ ta cùng đánh Tây”, biến địa hình trận đồ giống như một mê cung, một bức tường thành vũng chắc “thành lũy sắt dày” mà bủa vây quân thù. Để làm được điều ấy là do quân dân ta đoàn kết một lòng cùng hướng về non song gấm vóc, cùng chung một lý tưởng chiến đấu vì nước quên thân. Cả đất nược như đang đứng lên mà dẹp tan mọi âm mưu xâm lược. Hình ảnh đất nước ấy đã được Nguyễn Đình Thi diễn tả qua ý thơ: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước VN từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” Để cuối cùng niềm vui chiến thắng đã đến, lan tỏa khắp nẻo đường đất Việt từ địa đầu cách mạng đến cuối dải hình đất nước rồi lại trở về Việt Bắc : “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bất sáng như ngày mai lên Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên VB, đèo De, núi Hồng” Có thể nói đây là một “bản đồ vui” khi mà mỗi câu thơ đều xuất hiện từ “vui” liên tiếp. Mỗi câu thơ hiện lên như một nốt nhạc ngân vang réo rắc trong một khúc hùng ca cách mạng. Niềm vui ấy gắn liền với địa danh: Hòa Bình, Tây Bắc đến Đồng Tháp, AN Khê rồi lại quay trở về VB, đèo De, núi Hồng… Đoạn thơ mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết thúc bài thơ là cái nhìn của TH về hình ảnh ĐN ngày mai tươi sáng. Khẳng định niềm tin vững chắc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ và đồng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 56
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thời nó giống như một lời thề nguyền thiêng liêng hướng tới đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của cội nguồn dân tộc: “ Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng lên Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” Kết bài : Bài thơ VB là một tác phẩm tuyệt tác viết về tình yêu đất nước, Sự thể hiện độc đáo trong nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát dân tộc, kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên cùng một ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian… tất cả đã góp phần đắc lực trong việc diễn tả tư tưởng tình cảm sâu đậm giữa kẻ ở – người đi, giữa cán bộ cách mạng về xuôi với đồng bào nhân dân VB, giữa núi rừng cội nguồn cách mạng với những người chiến sĩ cộng sản…VB vì thế vừa là khúc hùng ca có ý nghĩa biểu tượng ca ngợi tinh thần yêu nước quân dân đoàn kết một lòng lại vừa là khúc tình ca về cách mạng, về con người kháng chiến trong sự yêu thương, gắn bó chia sẻ ngọt bùi bên nhau. Tác phẩm xứng đáng trở thành bài ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về đất nước. 4.ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM Phần 1, hệ thống kiến thức cơ bản về bài Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ như: Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hòang Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân…. Đây là lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường, không chỉ có trình độ văn hóa, niềm say mê lý tưởng mà còn có mặt trực tiếp trong cuộc kháng chiến dân tộc. Họ ý thức cao về vai trò và trách nhiểm của tuổi trẻ về đất nước, những trang thơ của họ nóng bỏng, nhiệt tình yêu nước và hiện thực kháng chiến của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức…. II. Đề tài Tổ quốc: Tổ quốc là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước NKĐ đã có nhiều bài thơ hay, nhiều tác giả thành công về đề tài này. Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hòang Cầm. Đất nước hóa thân cho một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, NKĐ đã tìm đc một cách GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 57
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất nước của nhân dân. III. vị trí đọan trích: Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt Ý nghĩa đọan trích Đọan trích thâu tóm ý nghĩa của tòan bộ chương V. Chương thơ là sự cảm nhận về Đất nước một cách cụ thể, sâu sắc mà cốt lõi trong tư tưởng là: Đất nứơc của Nhân dân. Từ đó, nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nứơc thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đc NKĐ triển khai ở nhiều bình diện: Địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ dậm đà sắc thái dân gian, nhưng đặc biệt, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. IV. Lịch sử đất nước 1. Đất nứơc có từ bao giờ? Mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa ng đọc trở về với cội nguồn của đất nước: Đất nước có từ bao giờ? “Khi ta lớn lên…đất nứơc có từ ngày đó” “Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta – những ng dân đất Việt. Đúng là, khi mỗi chúng ta lớn lên, đất nước đã có rồi. Dù chưa đủ trí tuệ để hiểu đất nứơc với những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi chúng ta cũng đã cảm nhận đc đất nứơc là một cái gì đó rất gần gũi, qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hồ của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về một thuở rất xa, khi đất nước phôi thai. Những từ “bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước. Từ phong tục tập quán: Đất nước đc hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, lao động, văn hóa. Trứơc hết là truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân. Từ miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 58
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cột” dân dã đến tình yêu gắn bó thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. Từ truyền thống yêu nước: Câu thơ “Đất nứơc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa. Truyền thống yêu nước, bền bỉ kiên cường giữ nước luôn đc khơi dậy qua những lời kể đậm đà của mẹ và trở thành hồn thiêng dân tộc. Từ truyền thống lao động: Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan một nắng hai sương, đã đổ bao mồ hôi với bao công việc nhà nông nhọc nhằn “xây giã giần sàng” mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất, nhưng cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Truyền thống lao động cần cù từ bao đời của nhân dân cũng là một phần của hồn nứơc. Tiểu kết: Chín dòng thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Đất nước đc cảm nhận cụ thể trong những cái hằng ngày như“miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương như “ông – bà”, “cha – mẹ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình đất nước. Ẩn trong đó là tình yêu nứơc thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều đó ko đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng ko phải là một môtúyp sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng “đất nứơc của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. 2. Đất nứơc là gì? Đất nước là những gì gần gũi, thân thương: Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một ng con gái yêu thương, nhà thơ đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ. Và ở đọan thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, NKĐ đã tách từ “Đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm “đất nước” GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 59
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang trừu tượng thành cụ thể, gợi cảm: “Đất là nơi anh đến trường…nỗi nhớ thầm” Ý thơ rất mới mẻ, cụ thể. Đất nứơc trở thành những gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi ng. Thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước – nơi lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ, chỉ hai ng biết, hai ng hay rất riêng tư nhưng cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng: “Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất Khăng thương nhớ ai khăn vắt lên vai” Đất nước mênh mông không phải tự nhiên mà có: Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải: “Đất là nơi con chim phượng hòang…đất nứơc là nơi dân mình đòan tụ” Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa ng đọc về với không gian thân thương. Những từ “núi bạc, biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Sự mênh mông, giàu đẹp đó ko tự nhiên mà có đc, nó gắn với thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, để xây dựng bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S thân thuơng, cho “dân mình đòan tụ” trong yêu thương tự hào bởi: Đất nứơc là nơi chim về, rồng ở: “Đất là nơi chim về…bọc trứng” Những hình tượng quen thuộc trong thần thọai, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng” cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc”, đất nứơc ta là “đất lành chim về, đất thiêng rồng ở”, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng đc sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Một đất nước có cội nguồn văn hóa và truyền thống lâu đời rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là “Đất nước của nhân dân” 3. Trách nhiệm với đất nước:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 60
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đất nứơc qua cách cảm nhận của NKĐ không khô khan, trừu tượng mà tươi rói cảm xúc. Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Đất nứơc còn là sự kết tinh sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân, đều gắn bó với đất nước, nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang: Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn mà ông cha giao lại, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” một cách ân cần, chu đáo, để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nứơc đi xa, đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là khát vọng của thời đại nhà thơ nhưng là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy, ngày nay đã thành sự thật. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ thật cao đẹp và đáng quý. Vì sự mưu sinh, mỗi ng có thể làm ăn và lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẫm sâu tâm hồn, mỗi chung ta đều mang trong ng dòng máu Lạc Hồng. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào đối với truyền thống dân tộc lại trỗi dậy mãnh liệt: “Hằng năm ăn đâu làm đâu…giỗ Tổ” Hai chữ “cúi đầu” đầy yêu thương thành kính với đất nước. Ở đây, nhà thơ đã phát hiện ra một chân lí giản dị mà sâu sắc “Trong anh và em hôm nay…một phần đất nước” Giọng thơ tâm tình, với lối xưng hô anh – em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: đất nước ko chỉ tồn tại khách thể, mà đã hóa thân trong máu xương mỗi ng, trở thành một phần tâm hồn trí tuệ của “anh và em”. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại. “Khi hai đứa cầm tay’ tình yêu lứa đôi riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc. “Khi chúng ta cầm tay mọi ng”, tình yêu của hai đứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước. Mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn vào cộng đồng, tạo nên một khối đại đòan kết dân tộc, làm cho đất nước “vẹn tròn to lớn”, trường tồn và phát triển. Trách nhiệm với đất nước, cũng chính là trách nhiệm với chính bản thân mình bởi “Đất nước là máu xương of mình” Vì thế, mỗi chúng ta đều tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình yêu thiết tha, san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thế “hóa thân”bằng hành động hi sinh cho đất nứơc. Động từ “hóa thân” đc nhà thơ sử dụng ko chỉ phù hợp với màu sắc dân gian của chương thơ mà còn diễn ta sâu sắc sự tự nguyên dâng hiến trọn vẹn GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 61
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cho đất nước để bất tử hóa cùng non sông của mỗi ng dân. Điệp ngữ “phải biết” vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục của con tim, tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc Tiểu kết: Đc bao bọc trong ko khí của văn học dân gian, hình tượng đất nứơc trên trang thơ của NKĐ thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương gắn bó thiết tha với mỗi ng dân. Cảm nhận về đất nứơc tản mạn mà thống nhất, sâu sắc. Hai chữ “đất nứơc” đc viết hoa và điểm lại nhiều lần như một con mắt thơ đầy kính yêu, tự hào. Nhà thơ định nghĩa về đất nước bằng thơ, lời thơ lấp lánh màu sắc của huyền thọai dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang trong lòng ng đọc So sánh: Nếu “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng và kiên cường thì“Đất nước” của NKĐ lại đậm đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa của dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào đối với đất nứơc, nhưng mỗi bài thơ có một vẻ đẹp riêng, khiến cho cảm hứng về quê hương trở nên đa dạng, hấp dẫn. V. Đất nước của nhân dân – tư tưởng cốt lõi: Nếu như phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử cùng với định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình. Thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân bằng cách nhìn tòan diện không gian địa lí và thời gian lịch sử. 1. Phương diện địa lí: “Những ng vợ nhớ chồng…Bà Đen, Bà Điểm” Tư tưởng đất nước của nhân dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng thủ pháp liệt kê độc đáo, ng đọc được tiếp nhận một phát hiện mới rất thú vị: những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như Hòn Vọng Phu, Núi Bút, Non Nghiên, những di tích lịch sử như Làng Gióng, Đất Tổ trải dài trên khắp đất nước ta. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa đã ban tặng, mà còn đc cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận của nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học…
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 62
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nếu ko có những ng vợ VN chung thủy đợi chồng, mòn mỏi qua bao cuộc chiến tranh và li tán thì ko thể có cảm nhận Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái. Phải chăng truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến ao đầm làng gióng lấp lánh vẻ đẹp của tinh thần yêu nước? Một truyền thuýet Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng mới đc gọi là “Chín mươi chín…đất tổ HV”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu Long – tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam. Truyền thống hiếu học của những ng học trò nghèo VN bao đời đã đc tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoan của những ng dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp Hình ảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vầng thơ, soi bóng tâm hồn của những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân, đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã, thiêng liêng, gần gũi… “Và ở đâu…núi sông ta” Ý thơ đc nâng lên tầm khái quát, sự hóa thân bóng hình của nhân dân vào đất nước đã lý giải chính nhân dân là ng tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất 2. Phương diện lịch sử: Đó là nhìn ở phương diện ko gian địa lí, còn nhìn ở phương diện lịch sử – thời gian, nhà thơ cũng đã khẳng định tư tưởng Đất nước của nhân dân. Chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ suy nghĩ of nhà thơ khi nhìn vào lịch sử bốn ngàn năm đất nước: “Em ơi em…nuôi cái cùng con” Khi nói về lịch sử of đất nước, NKĐ ko nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lý, Trần, Lê, cũng ko nhắc đến những anh hùng đã từng đc khắc tên trong sử sách, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con ng vô danh, bình thường. Đó là “họ”, là “lớp lớp, con gái, con trai” đã lao động chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nứơc và giữ nước. Họ là Nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần đc khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng of mỗi ng đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách of giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta, hòa quyện với cái cao cả, thiêng liêng, cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng of đất nước và sự trường tồn of dân tộc gắn liền với muôn triệu nhân dân of mọi thế hệ, trôi theo dòng chảy văn hóa đất nước: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 63
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
“Có biết bao ng con gái con trai…làm ra Đất Nước” 3. Phương diện văn hóa: Khi nhìn vào phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò of nhân dân: “Họ giữ và truyền cho ta….mỗi chuyến di dân” Đất nước of nhân dân ko chỉ hiện diện ở bề rộng of ko gian địa lí, ở chiều dài of thời gian lịch sử mà còn ở thẳm sâu của tâm hồn, tầm cao of lí trí giống nòi, bề dày of văn hóa, phong tục. Nhân dân ko chỉ lao động, chiến đấu, mà con là những ng sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ đc liệt kê “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ VN. Những “hạt lúa, hòn than, tiếng nói”đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống of mỗi cá nhân, sự sống of cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa VN. Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào, để nhà thơ khẳng định một chân lí: “Để đất nứơc này là…ca dao thần thọai” “Đất nước of nhân dân” cũng chính là “đất nước of ca dao thần thọai”, bởi nói đến nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy, những nét đẹp này vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thọai. Hay nói cách khác “ca dao thần thọai”chính là sáng tác of nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm of nhân dân. Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải nhờ đến “Một mối gia thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, NKĐ đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi ng dân trong đất nước này. “Dạy anh biết yêu em…ko sợ dài lâu…sông xuôi” Ở đọan thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc ba câu đểe nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình yêu nhân văn – “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa – “biết quý GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 64
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước – “biết trồng tre…dài lâu” Vẫn là ý và hình ảnh của những câu ca dao, vẫn gợi ý tứ của ca dao nhưng đã trở thành một câu thơ, gắn bó với toàn mạch cảm xúc của chương V. Đó chính là nét đặc biệt of chương thơ Đất nước. Cái gì đã làm cho nước VN tồn tại mà ko xóa nhòa bản sắc of mình? Cái gì đã làm cho con ng VN có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân VN đã sống rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hòan cảnh lịch sử phá vỡ ko khí đời thường đó. Đọan thơ khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: đất nứơc ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng với tương lai. Trên dòng sông đất nước, âm vang những sắc màu và giai điệu văn hóa VN, phẩm chất tâm hồn VN vô cùng tự hào và yêu quý. Thán từ “ôi” mang một cảm xúc vỡ òa giữ dòng chảy văn hóa. “Gợi trăm màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy nạp đấm chất trữ tình đầy sáng tạo của nhà thơ. VI. Chủ đề tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật: 1. Nghệ thuật: Đọan thơ trích trong chương V, giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt of cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng ng. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, đc lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuuyết nên đậm đà sắc thái dân tộc, mở ra một đất nứoc thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng of ca dao, dân ca. 2. Nội dung – chủ đề – so sánh: Tư tưởng đất nước of nhân dân ko phải đến NKĐ mới có. Tư tưởng này đã có một quá trình dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc, từ những tác phẩm văn học trugn đại như Bình ngô đại cáo of Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyển Đình Chiểu. Trong Bình ngô, Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 65
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đó chính là sự đề cao vai trò of nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngọai xâm. Còn trong Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, ca ngợi ng anh hùng giữ nước là ng chíen sĩ nguồn gốc nông dân. Đó là hình ảnh ng nông dân lam lũ, côi cút bứơc vào cuộc chiến đấu, họ hi sinh nhưng là hi sinh bi tráng vì quê hương đất nước. Đến thơ văn hiện đại như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, vai trò of nhân dân với Đất nước cũng đã tiếp tục đc đề cao. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi viết: “Ôm đất nước những ng áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng” Còn trong bài Tre VN, nhà thơ đã mượn hình tượng cây tre để nói đến những phẩm chất bình dị of nhân dân trong lao động và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi” Như vậy, đề cao vai trò nhân dân với đất nứơc là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tưởng đó trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất of hình tượng đất nứoc, lại đc cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện thì đó là một đóng góp đặc sắc of NKĐ ở chương thơ này. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng ng đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm of bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung of cả thể hệ đối với đất nước. Góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đã chất dân gian là vẻ đẹp riêng of chương thơ Đất nước of NKĐ. Kết bài tham khảo : Tuy ra đời cách đây hơn bốn mươi năm nhưng cho đến nay tư tưởng của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng” vẫn còn nguyên giá trị. Riêng tôi, là một người con của đất nước anh hùng tôi luôn quý trọng những thành quả mà cha ông để lại, luôn cố gắng gìn giữ và phát huy những giá trị của dân tộc góp sức mình vào xây dựng đất nước vì bởi “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Phần 2 : Những đề thi liên quan đến bài Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm. Dạng 1 :Cảm nhận về đoạn trích trong bài Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 66
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bài này dài, các em cần chú ý những đoạn tiêu biểu sau : Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi….Đất nước có từ ngày đó Đất là nơi anh đến trường…Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ Trong anh và em hôm nay…làm nên đất nước muôn đời Em ơi em hãy nhìn rất xa….đất nước của ca dao thần thoại Dạng 2 : Nghị luận ý kiến bàn về bài Đất nước Dạng 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước với đoạn thơ trong bài Sóng, Việt Bắc, Tây Tiến, so sánh với bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. … Một vài ví dụ sau : ĐỀ 1 : : Bàn về đoạn thơ trên, có ý kiến cho rằng: Trong đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác. Xem đáp án cụ thể ở đây nhé : http://thutrang.edu.vn/nghi-luan-y-kien-ban-ve-bai-dat-nuoc-nguyen-khoa-diem Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó… (Đất Nước-Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.118 ) Bàn về đoạn thơ trên, có ý kiến cho rằng: Trong đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác. Gợi ý trả lời: Mở bài : + Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, trường ca Mặt đường khát vọng và đoạn trích trong đề bài +Giới thiệu ý kiến trong đề bài:Trong đoạn thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi con đường riêng của mình không lặp lại người khác. Thân bài : Luận điểm 1: + Giải thích ý kiến: Ý kiến này khẳng định: nhà thơ đã xây dựng hình ảnh một Đất nước giản dị, quen thuộc với tất cả mọi người chứ không phải là một Đất nước kì vĩ,
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 67
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang xa xôi. Nội dung đó được thể hiện qua những hình thức nghệ thuật đặc biệt. Đây chính là nét riêng trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Luận điểm 2 : + Phân tích đoạn thơ để làm rõ ý kiến: đoạn thơ thể hiện cảm nhận mới mẻ và độc đáo về đất nước. ++ Tác giả đã cảm nhận đất nước trong chiều sâu văn hóa – lịch sử và trong cuộc sống đời thường của mỗi con người. Nhà thơ không dùng niên đại và sự kiện lịch sử để nói về đất nước, mà dùng giọng điệu quen thuộc của cổ tích bắt đầu bằng ‘‘ngày xửa ngày xưa…’’. – Sự ra đời của Đất nước gắn với sự ra đời của những truyện cổ tích, của phong tục ăn trầu và tập quán búi tóc sau đầu, của lối sống chung thủy tình nghĩa, của truyền thống chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, của truyền thống lao động cần cù, của cách ăn cách ở trong sinh hoạt… Nói cách khác, sự ra đời của Đất nước gắn liền với sự hình thành văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người Việt Nam, gắn với đời sống gia đình. Những gì làm nên Đất nước cũng là những gì làm nên điệu hồn dân tộc, làm nên sự sống của mỗi người. Vì vậy mà Đất nước hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính, lại vừa gần gũi, thân thiết. ++ Cái đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm là đã nói về sự ra đời của Đất Nước bằng một cách nói giản dị đến bất ngờ. Đó là: +++ Sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian (dùng những hình ảnh gần gũi trong cuộc hằng ngày, những tình cảm gia đình thân thương, những hình ảnh quen thuộc của ca dao, cổ tích, truyền thuyết…). Tác giả chỉ bắt lấy linh hồn của những câu chuyện, những phong tục…để từ đó đem đến cho người đọc những trường liên tưởng sâu xa. Vì vậy mà Đất nước trong mỗi người đẹp một cách riêng đồng thời ĐN hiện lên trong tâm thức người đọc cả một chiều dài văn hóa. +++ Kết hợp chất chính luận và trữ tình. Giọng thơ trữ tình trầm lắng, cảm xúc dồn nén. Nén trong từng câu chữ là vốn sống, vốn văn hóa, tình yêu Đất nước. Ngôn ngữ dung dị. + Bình luận về ý kiến: Đây là một ý kiến chính xác đã khái quát được giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ và thấy được những phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đề tài Đất nước – Đất nước của Nhân dân, của ca dao thần thoại, của đời thường. Bởi vậy, mỗi nhà thơ khi sáng tạo cần tạo cho mình một lối đi riêng, đó là con đường duy nhất để khẳng định tên tuối của nhà thơ, sức sống của tác phẩm Kết bài : đánh giá chung về đoạn trích Thu Trang biên soạn ĐỀ 2 :: phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn thơ Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Đáp án ở đây nhé : http://thutrang.edu.vn/hinh-tuong-dat-nuoc-trong-hai-bai-tho-cua-nguyen-dinh-thiva-nguyen-khoa-diem
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 68
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Định hướng cách làm bài a. Mở bài: Giới thiệu khái quát về hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Giới thiệu vấn đề nghị luận : Hình tượng đát nước trong hai bài thơ b. Thân bài: Làm rõ đối tượng thứ nhất : Hình tượng đất nước trong Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi Làm rõ đối tượng thứ 2 : Hình tượng đất nước trong Bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật Những đặc điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ Nguyễn Đình Thi khởi đầu bài thơ bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp mùa thu. Đây là một quyết định khéo léo bởi vì trước kia mùa thu bao giờ cũng là thu thảm thu sầu còn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở đi thì mùa thu vui – mùa thu cách mạng, mùa thu khai sinh ra đất nước. Khởi đầu bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp mùa thu giúp cho Nguyễn Đình Thi có được những suy tư về đất nước một cách tự nhiên và thoải mái hơn. Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình bằng cách đặt hình tượng này trong mối liên hệ với thời gian và không gian cụ thể còn về sau là thời gian không gian trừu tượng. đất nước được nhìn qua chiều dài của thời gian và mặt khác đất nước được xác định bởi những không gian có thể là những không gian nhỏ, không gian cụ thể và cũng có thể là những không gian mênh mông không gian trừu tượng trong lòng người. Hình tượng đất nước sẽ rất hoàn thiện khi nó đươc đặt trong 2 mối liên hệ này. * Còn khi xét về phương diện con nghệ thuật thì hình tượng đất nước trong 2 bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có khá nhiều nét tương đồng. Vì đây là hình tượng đất nước được khắc họa trong thơ ca mà hình tượng thơ lại là hình tượng cảm xúc, cho nên cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau. Đấy là một đất nước vất vả đau thương với những cảnh đồng quê chảy máu dây thép gai đâm nát trời chiều, với cái cảnh “bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Tuy nhiên đất nước chúng ta còn là một đất nước anh hùng quật khởi và một cái đất nước quật cường đã khiến cho kẻ thù bất lực. “Xiềng xích chúng bay … … Lòng dân ta yêu nước thương nhà” Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn miêu tả những hình ảnh dân tộc bằng cách nối liền hiện tại với quá khứ và tương lai. Từ điểm nhìn hiện tại, Nguyễn Đình Thi lắng nghe những tiếng rì rầm trong lòng đất của quá khứ vọng về. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 69
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đấy là tiếng nói hình ảnh của đất nước chưa bao giờ khuất. Đồng thời cảm hứng thơ còn đưa Nguyễn Đình Thi hướng tới tương lai. Ông như nhìn trước một nước Việt Nam từ trong máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Còn ở trong bài thơ đất nước của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc của ông về những hình ảnh văn hóa lâu đời. Để viết nên bài thơ đất nước của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng với một mật độ rất cao các chất liệu văn hóa dân gian. Dựa trên rất nhiều câu ca dao tục ngữ, để viết nên những câu thơ của mình. Ông còn đưa vào bài thơ rất nhiều truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm còn ý thức một cách rất sâu sắc về những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước. Đó là những đóng góp từ nhỏ nhặt cho đến lớn lao, những đóng góp được ghi lại trong sử sách và cả những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai biết. Đó còn là những đóng góp kiên nhẫn, bền bỉ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Trong khi ấy Nguyễn Khoa Điềm lại viết bài thơ này theo một định hướng tư tưởng nhằm chứng minh: “đất nước này là đất nước của người dân”, mà tư tưởng cơ bản này đã chi phối toàn bộ bài thơ và nó qui định bút pháp, nó buộc Nguyễn Khoa Điềm phải chọn cái giải pháp đi từ cụ thể đến khái quát. Điều này là rất dễ explain bởi vì bản thân tư tưởng đất nước của người dân vốn đã là trừu tượng. Để cho sáng tỏ nó chỉ có 1 cách là đi từ rất nhiều những hình ảnh cụ thể, những đóng góp của người dân cho đất nước, những chất liệu văn hóa dân gian… để rồi từ rất nhiều hình ảnh cụ thể ấy tư tưởng đất nước của người dân mới được làm sáng tỏ. Lí giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học… – Do sự khác biệt về phong cách: Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính có chất hội họa và điều đặc sắc nhất là có cả những suy tư sâu sắc của một tư duy triết học. Còn thơ NKĐ thường viết về cuộc đấu tranh cách mạng. Ông hay đề cao phẩm chất của những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường… Đặc biệt ông có những cảm nhận rất phong phú và sâu sắc về đất nước trong những năm chống Mĩ. – Về phương diện bố cục: Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy ở 2 bài thơ đất nước đều chia làm 2 phần nhưng sự liên kết 2 phần ở mỗi bài lại rất khác nhau. Bài đất nước của Nguyễn Đình Thi được bắt đầu bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp của mùa thu, mùa thu Hà Nội trong hồi tưởng và mùa thu Việt Bắc trong hiện tại. Để GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 70
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang rồi sau đó mới chuyển sang quá khứ 2 thời điểm để diễn tả những suy tư cả tác giả đối với đất nước. Trong khi ấy thì bố cục 2 phần của bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại theo một cách hoàn toàn khác. Phần 1 dành cho việc khắc họa hình tượng đất nước trong mối liên hệ với thời gian. Để rồi toàn bộ phần 2 nhằm chứng minh cho tư tưởng với đất nước của người dân. c. Kết bài: – Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu. – Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân. Lưu ý : Học sinh có thể kết hợp phân tích và so sánh đồng thời hai tác phẩm theo bài văn tham khảo dưới đây : BÀI LÀM: Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm. Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ …. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó. Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quỵên vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 71
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ csai nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận: Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa. Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏng sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 72
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Sau lăng thềm nắng lá rơi đầy Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ: Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha. Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước: Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cò lả Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo (Chế Lan Viên) Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi găm stình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp nhữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên: Nước chúng ta Nước của những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về. Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 73
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hưúng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát. Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chíên tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn: Những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều. Từ xúc cảm khôgn chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối. Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”. Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 74
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước …Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời… Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rông lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại. Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta: Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà (Huy Cận) Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 75
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang “Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…” Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung xlà một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan: Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi” “Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng. Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùôn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…” Nguồn bài viết : có tham khảo bài viết trên http://www.elib.vn/ và http://www.baomoi.com/ Đề 3 : Cảm nhận về hai đoạn thơ sau: “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hẹn hò Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” (Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Con sóng dưới lòng sâu Con song trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh) Gợi ý:http://thutrang.edu.vn/sanh-hai-doan-tho-trong-bai-song-xuan-quynh-va-datnuoc-nguyen-khoa-diem Đề bài :Cảm nhận về hai đoạn thơ sau: “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hẹn hò GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 76
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” (Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Con sóng dưới lòng sâu Con song trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh) Gợi ý: Mở bài: Đề tài tình yêu là một trong những đề tài làm tốn nhiều giấy mực nhất đối với các thi nhân.Cuộc sống càng muôn màu thì tình yêu càng muôn vẻ, có bao nhiêu người yêu nhau thì có bấy nhiêu cách cảm nhận về tình yêu.Bằng sự cảm nhận của riêng mình, mỗi thi sĩ lại khoác cho tình yêu ấy một vẻ đẹp khác nhau. Điều đó đã được Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh thể hiện rất rõ trong hai đoạn thơ trích trong hai tác phẩm “Đất Nước” được sáng tác 1971 in trong trường ca “Mặt đường khát vọng” và “Sóng” sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” 1968: “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” (Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) Và: “Con sóng dưới lòng sâu Con song trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh) Khi chúng ta đi đối chiếu so sánh hai đoạn thơ sẽ thấy được điểm tương đồng và khác biệt một cách độc đáo của hai đoạn thơ, hai phong cách, hai thi sĩ này. Thân bài : Luận điểm 1 : Giới thiệu vài nét về hai tác giả, hai tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và vị trí hai đoạn thơ cần phân tích Sóng- Xuân Quỳnh GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 77
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang .– Nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị. – Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc. Tác phẩm + Xuất xứ: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào. + Đoạn thơ thứ 5 miêu tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình ” Em” Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm Thơ Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút người đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng, ông cất lên tiếng nói của một người trí thức thiết tha gắn bó với quê hương, giàu ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nước. Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm này được hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước. Đoạn thơ trên thuộc phần đầu chương V Luận điểm 2 : Điểm giống nhau -Trước hết điểm tương đồng giữa hai đoạn thơ chính là viết về tình yêu đôi lứa trong nỗi nhớ, niềm thương. +Đúng vậy, tình yêu thì luôn gắn liền với nỗi nhớ, có ai yêu mà chưa bao giờ nếm mùi của cảm giác chờ mong, khắc khoải. Tất cả biểu hiện của nỗi nhớ trong tình yêu rốt cuộc cuối cùng chỉ là khát khao hướng tới người mình yêu, mong muốn được ở gần người trong trái tim mình. +Trong ca dao xưa chẳng phải người xưa họ cũng đã từng diễn tả cái nỗi nhớ trong tình yêu rồi hay sao: “ Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than” Hay “ Đêm nằm lưng chẳng tới giường Mong cho mau sáng ra đường gặp anh” + Âý thế nhưng, trong đoạn thơ của NKĐ để diễn tả nối nhớ trong tình yêu, tác giả đã mượn hình ảnh của chiếc khăn – tín vật giao ước kết đôi mà biểu hiện nỗi nhớ: “ ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Tín vật tình yêu chính là điểm giao kết cho đôi bạn tình. Từ xừa đến nay, những người yêu nhau như càng muốn thể hiện sự khăng khít gắn bó mặn nồng, thường lấy một tín vật nào đó mà kết duyên, giao ước.Họ coi đó như là “sợi chỉ hồng” của ông lão bà tơ se duyên kết mối. Hình ảnh chiếc khăn được nhắc đến trong đoạn thơ là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao xưa: “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 78
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt…” Đó là chiếc khăn tín nghĩa, biểu trưng cho tình cảm thật đẹp, thật trong sáng trong nỗi nhớ yêu thương. +Còn trong đoạn thơ của bài Sóng, cái tình yêu khát vọng của người phụ nữ “khát khao sống, khát khao yêu” dù bình dị nhưng rất đỗi mãnh liệt này không cần đến vật giao ước kêt đôi mà vẫn diễn tả được hết tất thảy cái nỗi nhớ đến điên cuồng mãnh liệt. Bởi tình yêu ấy đã vượt qua mọi chiều kích giới hạn chật hẹp để đến với tình yêu( sâu- rộng), vượt qua mọi bến bờ của vũ trụ, xuyên qua không gian, thời gian ( ngày – đếm) và kết tụ ngay cả khi “thức” lẫn khi “ngủ” của Xuân Quỳnh. Nó rợn ngợp giống như nỗi nhớ đã bao trùm giăng mắc mọi thứ xung quanh như ám vào vạn vật nên cần chi “vật giao ước” mà thể nghiệm nỗi lòng thương yêu?. Cho nên tình yêu ấy với nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, khắc khoải hơn bao giờ hết. Nó không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ bình thường vụt đến rồi vụt tan mà nỗi nhớ ấy đã trở thành gánh nặng tâm tư trong lòng người con gái đang yêu mất rồi. -Nếu thật thiếu sót nếu chúng ta không nhìn nhận ra điểm tương đồng của hai đoạn thơ ấy chính là: cả hai thi sĩ đều rất tài tình dụng công mượn hình ảnh, sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh để diễn tả tâm tư tình cảm của mình. + Với đoạn trích trong bài thơ ĐN, tác giả đã kể đến những sự vật xung quanh mỗi chúng ta. Đó là trường học, là nơi sinh hoạt hằng ngày ( nơi em tắm), là nơi cu trú, định cư ( nơi chim về, nơi rồng ở). Tất cả nhưng sự vật xung quanh của mỗi chúng ta ấy đều là những cái bình dị, thân thương mà chúng ta ít chú ý đến. Tác giả nhắc đến mỗi sự vật ấy đều gắn với hai tiếng ĐN chính là muốn truyền tải tư tưởng: ĐN không tồn tại ở đâu xa xôi mà nó hóa thân, hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Đó chính là mỗi sự vật mà chúng ta nhìn thấy, tất cả những sự vật nhỏ bé ấy đều góp phần làm nên dáng hình, diện mạo ĐN. + Còn Sóng của XQ cũng vậy, chị đã mượn hiện tượng tự nhiên của sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng lên khát vọng trong tình yêu và nỗi nhớ: “Con sóng dưới lòng sâu Con song trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được” Những đợt sóng dâng trào, sóng tiếp sóng ào ạt lúc thì lăn tăn gối lên nhau trên “ mặt nước”, lúc lại luôn tiềm ẩn cái dữ dội, ồn ào “ lòng sâu” dưới đáy bể đại dương bao la thăm thẳm. Tất thảy những đợt sóng đều cuồn cuộn xô đuổi nhau đến tận chân trời, đưa sóng đến gần hơn với bờ. Bởi bờ chính là điểm đến của sóng, là chỗ dựa vững chắc cho điểm về của sự bình yên, phẳng lặng. Luận điểm 3 :Sự khác biệt -Bên cạnh điểm giao thoa, kết sóng thì giữa hai đoạn thơ còn có điểm khác biệt rõ ràng. Nhưng chính điểm khác biệt ấy đã tạo nên cái độc đáo, cái sức hấp dẫn riêng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 79
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang của mỗi phong cách thi nhân. +Tình yêu đôi lứa trong đoạn thơ ĐN của NKĐ gắn liền với tình yêu ĐN, tình yêu đôi lứa dưới con mặt của ông là một thứ tình yêu “hóa thân”, “nảy mầm” nên tình yêu ĐN. Chính tình yêu đôi lứa cũng là một yếu tố góp phần làm nên diện mạo của một đất nước trù phú, tươi vui. Điều này, cũng đã được các nhà thơ cùng thời với NKĐ ý thức rất rõ, ta có thể lấy dẫn chứng tiêu biểu trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên: “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng long trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương” + Còn trong đoạn thơ của bài thơ Sóng, tình yêu luôn tuyệt đối hóa trong tình yêu riêng tư, tình yêu đời thường. Cái chất đời thường trong tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ấy đã được XQ diễn tả thông qua hình tượng “ sóng” với sự phân thân của nhân vật trữ tình “em”: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” Đó là một “cái tôi” tràn đầy cảm xúc khi đang tự lòng mình diễn tả nỗi nhớ người yêu trào qua đầu ngọn bút. Tất cả như cuồng nhiệt, như say mê mà muốn nhấn chìm đi mọi thứ xung quanh. Chả thế mà bài thơ vốn được viết theo thể ngũ ngôn nay đến khổ thơ này đã tự dôi ra hẳn hai câu thơ và nhà thơ lại còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ ấy bằng chính nhịp đập của trái tim mình thì quả thực cái nỗi nhớ của cái tôi cá nhân ấy không có một bút lực nào có thể tả xiết. Trong một bài thơ khác của chị, chị cũng đã từng thẳng thắn bộc bạch hết mọi tâm can của mình hướng tới người mình yêu. Đó là biểu hiện của một trái tim đang yêu chân thành, đằm thắm: “ Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chả có Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Vẫn yêu anh cả khi chết đi rồi” +Đoạn thơ ĐN sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với nghệ thuật chiết tự từ ( Đất là gì?, Nước là gì?) cùng với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh sự vật tự nhiên đã có tác dụng diễn tả thật đắt tư tưởng Đất Nước của mình. Hướng người đọc đến sự hóa thân kỳ diệu của ĐN trong từng sự vật nhỏ bé, đơn sơ, bình dị đến lạ thường. +Đoạn thơ trong bài sóng của XQ sử dụng thể thơ ngũ ngôn với việc mượn hình tượng sóng biển để soi tỏ nhịp đập thổn thức của trái tim người phụ nữ đang yêu có tác dụng diễn tả thật đát nỗi nhớ niềm thương và tấm lòng thủy chung son sắt của một tâm hồn đa sầu, đa cảm. -Như ta đã biết, Nghệ thuật luôn đòi hỏi tính sáng tạo, mỗi người ngệ sĩ luôn cố gắng tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Vì thế các tác phẩm tạo ra mới không bị nhòe lẫn vào các tác phẩm của nhà thơ khác. + Không nằm ngoài lệ, NKĐ luôn thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Với sự tự ý thức về vai trò- chức năng của một nghệ sĩ – chiến sĩ thì đối với ông, thơ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 80
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ca chính là ngọn nguồn cảm hứng viết lên những bản tình ca bất hủ về ĐN. Cho nên tình yêu đôi lứa dưới con mắt của nhà thơ nó chính là một phần biểu hiện của một tình yêu đất nước muôn đời. +Còn thi sĩ XQ thì ngược lại, chị tìm cho mình một tiếng nói riêng trong trái tim của một người phụ nữ hồn hậu đa sầu, đa cảm với những khoảnh khắc rung động trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy luôn cháy rực ngọn lửa trong các trang thơ của XQ thật muôn vẻ muôn phần. Vì thế, dưới con mắt của thi sĩ, tình yêu luôn được cụ thể hóa trong một tâm hồn khát khao hướng tới hạnh phúc riêng tư, đời thường. Luận điểm 4 :\ Lí giải sự khác biệt : + Do hoàn cảnh sáng tác + Do phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ Kết bài :Như vậy,qua việc cảm nhận ở trên ta thấy rằng cả hai đoạn thơ đều có chung đặc điểm viết về tình yêu đôi lứa nhưng mỗi thi sĩ lại có một tiếng nói riêng cho tư tưởng của bản thân mình. Với NKĐ tình yêu đất nước là vĩnh cửu, với XQ tình yêu đôi lứa là muôn thưở muôn đời. Chính mỗi người lại có một phong cách thơ và cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc sống, đều góp phần đắc lực cho vườn thơ dân tộc thêm sáng trong và tỏa hương thơm ngát. Dạng 4 : liên hệ thực tế. Ví dụ như đề bài cho cảm nhận đoạn trích, sau đó yêu cầu liên hệ tới trách nhiệm của thanh niên trong tình hình biển đảo hiện nay, hoặc liên hệ tới lòng yêu nước, nghĩa vụ với đất nước, … Ví dụ đề bài sau : Đề bài 4: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng) Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước hiện nay. Đáp án ở link này nhé :http://thutrang.edu.vn/189 Đề bài 5 :Tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện như thế nào trong đoạn trích ĐN Đáp án ở link này nhé : http://thutrang.edu.vn/phan-tich-doan-trich-dat-nuoc-de-lam-ro-tu-tuong-dat-nuoccua-nhan-dan Bài làm : Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với văn học của những đất nước cđ chiến tranh, vì thế là một chủ
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 81
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang để xuyên suốt lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có mộ cách hiểu, cách quan niệm riêng về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công láo của các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng ấy: “Để đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”. Tư tưởng này đã được Nguyễn Khoa Điểm thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong cả chương thơ rất dài, trước hết bằng một chất liệu hết sức phù hợp: chất Ịiệu văn hoá dân gian. Quả là viết về tư tưởng đất nước của nhân dân thì không có chất liệu nào có thể có ưu thế bằng văn hoá dân gian. Chính vì thế mà Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách phong phú vốn văn hoá dân gian giàu có của ta để viết nên bài thơ này. Có thể nói cả bài thơ đã được sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hoá dân gian lâu đời của người Việt Nam. Có thể thấy hàng loạt những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca, hàng loạt những truyện cổ, hàng loạt những phong tục, tập quán, hàng loạt những địa danh rải trên khắp sông núi đã được huy động vào trong bài thơ này. Có những câu thơ, đoạn thơ tác giả trích nguyên văn từ những câu ca dao. Nhưng phần quan trọng hơn là những chất liệu ấy đã được nhào nặn bằng một cảm xúc mới với một ánh sáng mới, khiến cho những câu thơ vừa rất hiện đại vừa thấm đẫm chất dân gian truyền thống. Chúng ta không khó khăn gì khi chỉ ra những truyện cổ, những câu thành ngữ, tục ngữ đã hoá thân thành các câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đọc câu: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” hay câu – “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” . Chúng ta có thể thấy ngay trong đó diện mạo của các câu thành ngữ “một nắng hai sương”, câu ca dao “Em ơi chua ngọt đã từng – Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”, và bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhó ai – khăn rơii xuống dát Khăn thương nhớ ai – khăn vắt trên vai’. Thậm chí có những câu thơ rất giản dị nhưng dường như đã được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn chất liệu khác nhau. Ví như: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Nó gợi lên trong chúng ta một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của người Việt: tục ân trầu, nó gợi lên những thành ngữ quen thuộc: ”Miếng trầu là đầu câu chuyện” “Cơi trầu nên dâu nhà người”
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 82
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đồng thời nó cũng gợi lên trong chúng ta một sự tích vào loại cổ nhất của người Việt: “Sự tích trầu cau”. Ngoài ra nó cũng đánh thức dậy hình ảnh những miếng trầu đã trở thành các biểu tượng của tình yêu, lòng thuỷ chung: miếng trầu của cô Tấm, miếng trầu của Xuân Hương. Nhờ am hiểu khá sâu sắc và phong phú vốn văn hoá dân gian cho nên ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm tỏ ra rất linh hoạt. Người ta thấy rõ những hình ảnh, hình tượng trong bài “Đất nước” này được khơi dậy, được vun trồng bằng văn hoá dân gian và bản thân chúng cũng bắt rễ rất sâu vào nguồn văn hoá dân gian ấy. Văn hoá dân gian đã nuôi dưỡng cho một hồn thơ, khơi dòng cho một cảm hứng và nuôi dưỡng cho đến từng câu thơ trong bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Được viết trong thời chống Mỹ, bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm dường như là một sự nhận thức lại về một vấn đề đã trở nên quen thuộc: vấn đề đất nước. Đất nước được hình thành như thế nào? Đất nước của ai, đất nước được hiện lên trong đời sống hàng ngày ra sao? Nguyễn Khoa Điềm đã nghiền ngẫm để trả lời những câu hỏi ấy. vì thế nhà thơ đã khám phá, phát hiện vé đất nước. Mà tựu chung là khám phá trên ba bình diện: bề rộng không gian, chiều dài lịch sử, bé dày văn hoá ở bình diện nào cũng có những phát hiện thật lí thú, sắc sảo và hết sức bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào thì hai thành phần khởi đầu, hai “nguyên tố”, hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đều cũng là Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau, giao hoà với nhau để rồi từ đó mà sinh thành nên cái cơ thể của đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu khám phá bề rộng không gian từ hai nguyên tố ấy: “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đát nưóc là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đoạn thơ trên đây đã được viết bằng tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca, vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm một phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm, một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất nước cũng tách riêng thành hai chữ. Nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, Anh với Em hợp lại để thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người. Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp trong đótình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu của đất nước. Cứ thế, đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả trong phạm vi đôi lứa, cả trong phạm vi của cộng đồng. Tư duy của Nguyễn Khoa Điểm cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của cả đất nước: “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay vê hòn núi bạc Nước là nơi con cá ngư ông mong nước biền khơi” “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 83
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nước là nơi Rồng ờ Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”. Song song với quá trình sinh thành đất và nước để tạo ra thành địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua, là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời, mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại. Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống của con người. Vì thế khi địa danh lan đi đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Cho nên lần theo những địa danh Nguyễn Khoa Điểm đã dựng lại được cả diện mạo non sông đất nước, mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi bút non nghiên, hòn Trống Mái, Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Mỗi địa danh là một cuộc đời, mối cuộc đời hoá thân thành sông núi. Điều đó cũng có nghĩa là chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ nên đất nước này. Một đất nước mới chỉ có lãnh thổ không thôi thì chưa đủ. Nó còn phải có lịch sử, lịch sử của một dân tộc chính là sự sống của dân tộc ấy trong chiều dài thời gian. Điểm vé lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tên những triều đại nổi tiếng, những anh hùng hữu danh. Trái lại nhà thơ thấy bốn nghìn năm lịch sử là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của bốn nghìn thế hệ. Họ cầm trong tay ngọn đuốc sự sống của Việt Nam. Mỗi thế hệ chạy một quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp: “Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ dã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Cứ như thế sự sống của đất nước được duy trì, được gìn giữ và phát triển bởi vô số những con người vô danh. Và lịch sử cũng không chỉ được hiểu như là những cuộc chống ngoại xâm kế tiếp. Mà lịch sử là toàn bộ sự sống của người Việt. Chính những người vô danh đã gìn giữ sự sống này qua những việc rất cụ thể: ‘Họ truyền lửa qua mồi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân …vùng lên đánh bại”. Cứ như thế đã suốt bốn nghìn năm, lịch sử này thuộc về những người vô danh, thuộc về nhân dân. Nói về một đất nước mà mới chỉ dừng lại ở lãnh thổ và lịch sử không thồi thì rõ ràng chưa đủ. Sự sống của một cộng đồng trong thời gian, cẩn phải được kết tinh thành lối sống riêng, cốt cách riêng, tâm hổn riêng, khuôn mặt riêng… không lẫn với những dân tộc khác. Có nghĩa là nó phải kết tinh thành bản sắc văn hoá. Thiếu điều này, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 84
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang người ta chưa thể hình dung được đầy đủ về một đất nước thực thụ. Chính vì thế, Nguyễn Khoa Điểm đã nghiền ngẫm và tiếp tục khám phá đất nước ở bình diện thứ ba: bề dày văn hoá. Cũng thống nhất với các bình diện trên, ở đây khi điểm về văn hoá, Nguyễn Khoa Điểm khống nhấc đến những công trình nổi tiếng thuộc nén văn hoá bác học như những công trình kiến trúc: chùa Một Cột, chùa Bụt Tháp, không kể đến những công trình điêu khắc: tượng các vị la hán chùa Tây Phương ,các tác phẩm văn học như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm… Đó cũng là những công trình tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ văn hoá dễ thấy, nó cũng giống như những người anh hùng hữu danh, ai cũng ngưỡng mộ. Nguyễn Khoa Điềm quan tâm đến một thứ văn hoá khác, đó là những sản phẩm văn hoá nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, đã quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, khiến cho chúng ta dửng dưng, lãng quên. Đất nước đã được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê, được phát hiện từ cái kèo, cái cột nôm na, được phát hiện từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, được phát hiện từ cách làm ra hạt gạo, dãi dầu một nắng hai sương, được phát hiện từ cách bới tóc sau đầu của người Việt… khiến cho chính người đọc cũng phải bất ngờ,- vỡ lẽ ra rằng: không phải tìm kiếm đất nước ở đâu xa mà đất nước ở quanh ta, ở trong ta, ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất. Nhưng có lẽ bất ngờ nhất vẫn là sự phát hiện này: “Đất nước bắt đầu vói miếng trầu bảy giờ bà ăn”. Câu thơ dường như là một nghịch lý, phi lý. Đất nước là một khái niệm lớn lao thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng trầu nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trọng? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phải ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bất đầu với miếng trầu của “bây giờ”? Câu thơ xem ra thật là phi logic. Nhưng ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy cái phi lôgic kia chỉ là hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn hình thức phi lí để chứa đựng ,một điều hợp lí Đó là một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi. Vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói một cách khác, không có cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu kia đều gánh trong nó một phần đất nước, mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi. Cho nên cái hiện diện của hôm nay, của bây giờ, đằng sau nó có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện với hôm nay. Những câu thơ như thế thực sự lặ một phát hiện bất ngờ khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng. Nổ không chỉ là sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng. Nếu không có một sự trân trọng với tất cả những gi mà tổ tiên đã chắt chiu, chi chút, gìn giữ suốt mấy nghìn năm, thì Nguyễn Khoa Điềm không thể có được những câu thơ cứ thể làm rung động tâm linh người Việt đến như thế. Toàn bộ đoạn thơ này được viết bằng hình thức một cuộc tâm tình của một đôi traịgái. Họ ‘hẹn hò vớí nhau, họ tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện sâu kín nhất, họ lại nói về đất nước. Đất nước đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả dân tộc, của từng con người, của mỗi đôi lứa. Qua đó Nguyễn GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 85
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Khoa Điềm đã biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, một dòng tâm sự. Có lẽ nhờ thế mà tính truyền cảm của bài thơ trở nên mạnh mẽ hơn, sâu hơn. Nguyễn Khoa Điềm cũng phát huy một tư duy thơ độc đáo, đó làmột lối tư duy nghiêng về suy ngẫm, thâm trầm, sâu lắng. Mối một lời thơ kết tinh bao suy tư. Cho nên lời thơ nào, câu thơ nào cũng nặng ý tưởng. Khiến cho người đọc thơ phải cùng suy ngẫm với tác giả mới có thể thấu hiểu được những ý tưởng giản dị mà hàm súc, chất chứa đằng sau mỗi lời thơ đó. Và là nhờ suy tư thâm trầm sắc sảo mà Nguyễn Khoa Điểm mới có thể phát hiện ra được rằng: đất nước là ở quanh ta, thậm chí đất nước ở ngay trong ta: ” Trong anh và em hôm nay Đầu có một phần đát nước Khi hai đứa cầm tay Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thấm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn”. Và cũng chính nhờ đó mà Nguyễn Khoa Điềm mới tiếp cận chân lí: đất nước này là đất nước của nhân dân. Đất nước là một đề tài muôn thuở. Chừng nào mỗi con người vẫn là con đẻ của một dân tộc, của một mảnh đất, chừng ấy người ta vẫn còn viết về cái mảnh đất thiêng liêng được gọi là Tổ quốc của mình. Mỗi thời có một cảm nhận riêng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ một tấm lòng chung, đó là sự thiết tha, sự thuỷ chung với giang sơn Tổ quốc. Nếu thiếu điều này thì dù sự am hiểu văn hoá phong phú đến đâu, tư duy dù sắc sảo đến đâu cũng không giúp cho thi sĩ viết nên những tiếng thơ có khả năng rung động hàng triệu trái tim người. (Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh ) Còn nhiều đề thi nữa, các em vào web thường xuyên để cập nhật những bài viết mới nhé, đọc thêm các đề thi khác ở tags này :http://thutrang.edu.vn/tag/dat-nuocnguyen-khoa-diem 5. SÓNG – XUÂN QUỲNH Kiến thức cần nhớ về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm a. Tác giả + Xuất thân: gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội. + Con người: – Thông minh, chân thành, nhân hậu. – Nghị lực vượt lên những bất hạnh của tuổi thơ, những trắc trở của duyên phận và cuộc sống để yêu thương. + Phong cách nghệ thuật: – Nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 86
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc. b. Tác phẩm + Xuất xứ: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào. + Vị trí văn học sử: bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh, góp phần tạo nên vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam”. + Cảm nhận chung: – Nhan đề: Sóng • Hình tượng trung tâm của tác phẩm: sóng > nói về sóng, nói bằng sóng. • Trong mối quan hệ với em: vừa song hành vừa chuyển hoá. Sóng chính là em, em chính là tình yêu: sóng = em = tình yêu. Sự sống của em và sóng chỉ thật sự cất nhịp khi tình yêu bắt đầu, còn em, còn sóng là còn yêu và ngược lại ( Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi). • Hành trình của sóng và em: “Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.” – Vẻ đẹp của hình tượng: vừa truyền thống vừa hiện đại (Sóng gợi nhắc hình ảnh thuyền và bến – biểu trưng cho tình yêu trong ca dao nhưng ở bài thơ, người phụ nữ không bị động mà chủ động tự bạch, tự nhận thức để khao khát dâng hiến) – Thể thơ: tự do 5 chữ > phù hợp với việc diễn tả cảm xúc như những con sóng miên man vô hồi vô hạn, lúc trầm tư dịu dàng lúc dạt dào dữ dội. 2. Phân tích văn bản a. 4 khổ đầu: Băn khoăn và khát vọng + Khổ 1: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể – Sóng được đặc tả ở hai đối cực: “dữ dội” >< “dịu êm”, “ồn ào”><”lặng lẽ” > những trạng thái có thật của sóng ngoài tự nhiên. – Tương quan sông – bể: tính chất mâu thuẫn • Sông: không gian nhỏ, hẹp, hữu hạn,nông cạn • Bể: không gian lớn, rộng, khoáng đạt, sâu sắc > Băn khoăn và tìm cách giải đáp: không hiểu nổi mình, tìm ra tận bể > mượn một qui luật tự nhiên để biểu trưng cho những băn khoăn trong lòng mình. Nước sông tự bao đời vẫn đổ ra biển lớn. Sóng chủ động từ bỏ không gian nông cạn chật chội về với không gian rộng lớn vô hạn> khát khao vượt giới hạn nhỏ bé, vươn tới không gian rộng lớn hơn để lí giải chính mình của con người. – Đặt trong tính sóng đôi của hình tượng sóng và em: trạng thái của sóng gắn với khí chất của người phụ nữ > luôn luôn hài hòa những đối cực (vừa khao khát mãnh liệt vừa trầm tư dịu dàng, vừa sôi nổi rộn rã vừa lặng lẽ âm thầm, thoắt ồn ào vui tươi thoáng đã chìm lắng sâu sa…), khát vọng giải mã chính mình của sóng cũng là khát GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 87
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang vọng thành thực, khơi tìm bản chất tâm hồn mình của người con gái. + Khổ 2 Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ – Thời gian: “ngày xưa” và “ngày sau” > tình yêu chạy theo chiều thời gian thăm thẳm vẫn mãi mãi tươi mới, mãi không hết “bồi hồi” – Khám phá mới về sóng: tượng trưng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu. – Mượn qui luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm thía về tình yêu và tuổi trẻ: còn tuổi trẻ là còn khát vọng, mà khát vọng yêu thương mãi còn tức là con người mãi trẻ trung. (so sánh với triết lí của Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại) + Khổ 3, 4 Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau. – Chuỗi câu hỏi liên tiếp truy đến cùng nguồn gốc của song cũng chính là nguồn gốc của tình yêu. – Lí trí vận động “em nghĩ” (2 lần) nhưng bất lực “em cũng không biết nữa” > lời thú nhận thành thật, đáng yêu: không biết nguồn gốc của sóng, nguồn gốc của tình yêu – Khái quát một điều sâu kín trong tình yêu: tình yêu gắn với đức tin, với cảm xúc mà lí trí bất lực. (liên hệ với Xuân Diệu: “Làm sao lí giải được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…” b. Khổ 5 – 6: Nhớ thương và chung thuỷ + Khổ 5: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức – Quan sát nhịp vỗ của sóng: • Chìm (dưới lòng sâu) – nổi (trên mặt nước) • Nhớ bờ – ngày đêm không ngủ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 88
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang >Nhận xét • Từ vận động bình thường của sóng, liên tưởng: sóng vì nhớ bờ mà vỗ miên man, vô hồi vô hạn, bất kể ngày đêm. • Cách nói: dưới lòng sâu – trên mặt nước đã choán nỗi nhớ lên khắp chiều rộng chiều sâu của đại dương – nơi những con sóng mãi thao thức > chiều sâu, chiều rộng của nỗi nhớ, da diết và khắc khoải. – Liên tưởng nỗi nhớ anh trong em: “cả trong mơ còn thức” > nếu sóng nhớ bờ cả ngày đêm thì nỗi nhớ của em còn vượt mọi giới hạn thời gian, không gian, tràn cả vào chiều sâu của vô thức > nỗi nhớ lắng đọng da diết nhất, sâu kín nhất > nhớ anh là sự sống của trái tim em. – Hình thức: khổ thơ duy nhất có 6 câu: tăng thêm dung lượng ngôn từ để diễn đạt trọn vẹn hơn nỗi nhớ > nỗi nhớ tràn bờ, phá vỡ mọi giới hạn câu chữ > giống như con sóng nhớ thương bồi mãi, điệp mãi, dềnh lên mãi, vỗ tràn cả thi ca. + Khổ 6: Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh – một phương. – Vận động của sóng: phong phú, nhiều chiều (xuôi bắc – ngược nam) nhưng nhất phiến (hướng về anh một phương) – Khẳng định tấm lòng sắc son, như nhất. – Đến đây, sóng và em đã hoà làm một. c. Khổ 7 – 8: Lo âu phấp phỏng Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa – Hành trình vượt khó khăn để tới bờ của sóng: “muôn vời cách trở”, nhưng “con nào chẳng tới bờ” – Dự cảm lo âu phấp phỏng: “Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”> cái đa cảm của trái tim phụ nữ. d. Khổ 9: Ước nguyện dâng hiến, khát vọng bất tử Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ. + Số từ: trăm – ngàn. + Ước nguyện chân thành, lớn lao: muốn hoá thân vào sóng, đại dương để được bất GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 89
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang tử bởi chỉ thiên nhiên mới vĩnh viễn trường cửu > vượt qua giới cái hữu hạn của đời người, khát vọng hoá thân vào thiên nhiên để bất tử hoá tình yêu. + Lí giải bản lĩnh của sóng ở đoạn đầu tiên “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”: bởi sóng mang trong mình khát vọng nhận thức và khát vọng yêu thương mãnh liệt. > Nhận xét: • Vẻ đẹp tình yêu, tâm hồn, thơ Xuân Quỳnh: thuỷ chung, dịu dàng, chân thật mà mãnh liệt, khao khát. • Nét truyền thống và hiện đại: vẫn mang những nét đẹp truyền thống nhưng tâm thế hoàn toàn hiện đại- vẻ đẹp của trí tuệ – tự nhận thức và khát vọng hiến dâng bất tử (so sánh với hình ảnh người phụ nữ trong ca dao: “Thân em như hạt mưa rào…”) Tổng hợp những dạng đề thi về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Dạng 1 : Cảm nhận, phân tích hình tượng sóng / hình tượng em trong bài thơ Dạng 2 : Cảm nhận khổ thơ Với bài này, khổ nào cũng quan trọng nhé Dạng 3 : Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, chứng minh nhận định Dạng 4 :Dạng đề so sánh văn học: Với bài thơ Sóng, đề bài có thể cho ss với đoạn thơ trong những bài cùng chủ đề sóng hoặc tình yêu. Ví dụ so sánh Sóng- Việt Bắc, Sóng- Đất nước, Sóng với bài thơ, đoạn thơ viết về tình yêu…. Dạng 5 : Liên hệ thực tế. Ví dụ đề bài cho phân tích, cảm nhận hình tượng sóng, em, sau đó liên hệ tới vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ XƯA VÀ NAY. Đây là ví dụ thôi nhé. Ví dụ 2 :Bài thơ “Sóng” gợi cho anh chị những suy nghĩ gì về tình yêu? Một số đề tham khảo : Đề 1 : Đề bài :Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ sóng của Xuân Quỳnh Đáp án: http://thutrang.edu.vn/phan-tich-hinh-tuong-song-trong-bai-tho-song-cuaxuan-quynh Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con ngựời Việt Nam, nhựng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tì nh yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 90
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó.Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhuỵ giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó. Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hôn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ? Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 273: Dữ dội / và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cấu kỳ hơn là 1/2/2): Sóng/ không hiểu /nổi mình Sóng/ tìm ra tận bể nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đấp đổi nhau vể bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” – “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là: “Ôi con sóng ngày xua – và ngày sau vẫn thế… cứ thế: -Em nghi vẽ anh em Em nghĩ về biển lớn -Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước -Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam. V.V.. Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 91
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang xô đuổibnhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu. Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về ‘chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định Sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh,Mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác, Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bất hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chi cổ thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi Mở đầu bài thơ, sông hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang ỵêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ si Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ .Có phả i nhà thơ trữ tính thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình; Dữ dội và dịu êm….tận bể Trong khi chất của sóng , thấy có sự hài hoà của các đối cực Vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất . Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn Và đó la khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt, Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sóng không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt. Đứng trước biến, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biến vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biến vẫn thế kia, Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tỉnh vẽti vấn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ: Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 92
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ. Đến khổ thơ thứ bà, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu: Sóng bát dầu từ gió Gió bất dầu từ dâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau “Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng ỉiêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng! Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ” Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xã”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhỡn tiền là sự vồ hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng: Làm sao dược tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biền lón rình yêu Để ngàn năm còn vỗ Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 93
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đề 2: Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh : Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Đáp án:http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-doan-tho-con-song-duoi-long-sau-ca-trongmo-con-thuc Bài làm: “Sóng” là bài thơ dài, lời thơ cũng triền miên như sóng. Hình ảnh sóng biến hoá qua từng khổ, từng khổ. Phải nói rằng hình ảnh nào cũng sâu xa, thi vị Nhưng nếu phải chọn một khổ nào là hay hơn cả, hẳn không ít người sẽ chọn đoạn diễn tả sóng và nỗi nhớ. Giản dị thôi, đơn sơ thôi! Nhưng dường như đó lại là đoạn xuất thần của ngòi bút Xuân Quỳnh: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nưóc ôi con sóng nhó bờ Ngày đêm không ngủ dược Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Trong bài thơ, tác giả hiện ra như một người phụ nữ đang trầm ngâm suy cảm trước từng con sóng biển. Lần này, đối diện với đại dương, Xuân Quỳnh mới khám phá ra một điều giản dị mà cũng là một chân lý sâu xa: biển gồm cả những con sóng nổi lẫn những con sóng chìm Bởi mang hai thứ sóng ấy trong lòng mà biển chẳng bao giờ nguôi yên. Thì ra đại dương là cả một tâm trạng lớn. Đại dương đang bị những khát khao, những mong nhớ dày vò đến cồn cào. ở đoạn trên, băn khoăn tìm hiểu về nguồn gốc bí ẩn của sóng, thi sĩ thấy bất lực. Nhưng ở đoạn này, xem ra Xuân Quỳnh đã thấy một sự lý giải không ngờ: sóng bắt đầu từ nỗi nhớ: Ôi con sông nhớ bờ Ngày đêm không ngủ dược Sóng mang trong mình nỗi nhớ và sóng chính là nỗi nhớ. Tuy nhiên, điều thú vị là ở chỗ: đã là sóng thì bao gờ cũng thức. Sống không ngủ. Bởi sóng ngủ thì sóng cũng không tồn tại. Vì lý do này mà người ta đã thấy sóng là nhịp đập của biển, là trái tim của biển, là sự sống của biển. Đối với Xuân Quỳnh, chỉ vì sóng nhớ bờ da diết mà sống không ngủ được. Từ đó, thi sĩ liên tưởng đến trái tim người phụ nữ khi yêu. Và, thật bất ngờ, thi sĩ khám phá ra chính mình: Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 94
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Có lẽ thế, nếu sóng là sự sống của biển thì nhớ là sự sống của tình yêu. Nỗi nhớ đồng nghĩa với tình yêu. Một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn để khẳng định một trái tim đã ngừng yêu, một mối tình đã tắt. Sóng thức trong lòng biển đã cồn cào, sống thức trong lòng em còn muôn vạn lần cồn cào hơn. Sóng chỉ nhớ bờ trong cõi này “Ngày đêm không ngủ được”. Người phụ nữ khi yêu là hiến dâng toàn tâm, toàn ý, toàn hồn. Cho nên ngay đến “Cả trong mơ còn thức”. Câu thơ cũng tựa như một con sóng đi xuyên qua cả hai cõi Thực và Mộng. Giới hạn của sống là cõi thực. Còn người phụ nữ khi yêu thì nỗi nhớ đã xáo trộn cả Thực và Mơ. Nếu còn một cõi nào khác nữa thì người phụ nữ ấy cũng sẽ dành trọn cho tình yêu. Cả cuộc đời là nỗi trăn trở lớn! Đã không ngủ trong cõi thực lại thao thức cả trong cõi mộng. Câu thơ đã diễn tả thật hàm súc tâm lý của người phụ nữ khi yêu. Chẳng phải khi yêu, người ta muốn tận hưởng đến từng khoảnh khác của hạnh phúc? Cho nên người phụ nữ này ở đâu cũng muốn thức. Phải cố thức cả trong cõi thực lẫn trong cõi mộng để nâng niu, chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc. Ngỡ như chỉ cần chợp mắt trong giây lát thế là một khoảnh khắc đã trôi qua uổng phí, không kịp tận hưởng. Chẳng phải khi yêu, người ta cũng thường phấp phỏng, lo âu vì nỗi sợ mất nhau? Cơ hồ chỉ cần chợp mắt một chút thôi, thì e rằng, vì một lý do nào đó, người mình yêu bỗng nhiên tan biến. Cái hạnh phúc mình đang cầm nắm sẽ tuột khỏi lòng tay! ”Cả trong mơ còn thức”, lời thơ thật phi lí mà khát khao thật cảm động. Muốn vào cả trong giấc mơ, đó không chỉ là khao khát của tình yêu, với Xuân Quỳnh đó còn là khao khát của tình mẫu tử.Ở một bài khác, viết cho con, chị cũng bộc lộ ham muốn này, nếu không được thì đó là một đau khổ lớn: Con thức ban ngày mẹ chở che con Đêm còn mơ mẹ làm sao che chở Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ Chỉ mình con chống chọi với quân thù “Cả trong mơ còn thức” sự phi lí đã chứa đựng một chân lý. Chỉ có ai biết trân trọng tình yêu. biết yêu chân thành mãnh liệt mới có thể chia sẻ được điều đó. Tình yêu là một lĩnh vực xưa cũ mà luôn mới mẻ. Xưa cũ và mới mẻ như chính con người, cùng với cả loài người. Mỗi đôi lứa yêu nhau là một khám phá về tình yêu. Mỗi thi sĩ đem đến một phát hiện mới về tình yêu. Xuân Quỳnh là một tâm hồn sống trong tình yêu, sống bằng tình yêu. Suốt đời trăn trở kiếm tim một tình yêu lý tưởng. Suốt đời mệt nhoài để chắt chiu gìn giữ cái hạnh phúc đời thường. Cho nên mỗi lời thơ được viết ra dường như đều được trả giá bằng chính những khắc khoải của bản thân mình. Thơ Xuân Quỳnh đã đi vào tâm hồn người đọc và làm rung động mãi lòng ta có lẽ là vì thế. Đề 3 : Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau: Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 95
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang . ( Việt Bắc – Tố Hữu) Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam […] Đáp án :http://thutrang.edu.vn/bai-van-mau-cam-nhan-ve-hai-doan-tho-trong-baisong-xuan-quynh-va-viet-bac-to-huu Đề 4: Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Đáp án:http://thutrang.edu.vn/phan-tich-hai-kho-tho-dau-bai-tho-song-cua-nu-sixuan-quynh-2 Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng thành từ kháng chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất thành công về đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài này của nữ sĩ là bài thơ “Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ nữ thi sĩ viết: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968. Tình yêu là điều bí ẩn nên ngàn đời vẫn cuốn hút con người, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chính là những bông hoa dọc chiến hào làm dịu đi sự khốc liệt của chiến tranh. Trong bài thơ “Sóng”, nhà thơ sử dụng thể thơ năm chữ, đây là thể thơ có nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập. Thể thơ này thường dùng để diễn tả những dòng cảm xúc ào ạt, hối hả, mãnh liệt . Bài thơ sử dụng cách hiệp vần giãn cách, hiệp vần chân ở những tiếng cuối của các câu chẵn. Hơn nữa bài thơ có sự luân phiên về thanh điệu ở các tiếng cuối của các câu thơ. Như vậy những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo đã tạo nên âm hưởng nhịp nhàng, uyển chuyển cho cả bài thơ. Âm hưởng của bài thơ là âm hưởng dạt dào của những con sóng mà mỗi câu thơ là một con sóng, chúng gối lên nhau chạy đều, chạy đều đến cuối bài thơ. Những con sóng là sự trào dâng mãnh liệt của dòng cảm xúc ào ạt trong lòng nữ sĩ. Có lẽ vì thế mà ấn tượng về con sóng trong bài thơ không chỉ là của sóng biển mà còn là của sóng tình. Đây cũng chính là hai hình tượng nghệ thuật mà tác giả đã tập trung xây dựng trong bài thơ. Sóng biển và sóng tình có lúc tồn tại song song để soi chiếu, tôn vinh vẻ đẹp cho nhau, có lúc lại hòa làm một, trong sóng biển có sóng tình, trong sóng tình ta lại thấy nhịp dào dạt
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 96
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang của sóng biển. Suy cho cùng sóng biển và sóng tình là hai hình tượng nghệ thuật để biểu đạt cho cái tôi trữ tình của nhà thơ. Qua hai khổ thơ đầu nữ sĩ đã cho chúng ta cảm nhận được đặc điểm của những con sóng biển và những con sóng tình yêu, những con sóng luôn chứa đựng những trạng thái đối lập và luôn có những khát khao vươn tới những sự vĩ đại, bao la. Mở đầu, nhà thơ viết: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ” Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thông thường đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây nhà thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng, cộng thêm, nối tiếp. Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen… Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa trong hai câu thơ tiếp theo, con sóng được nhân hóa qua động từ “tìm” trong hành trình từ sông ra tới biển: “Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy được sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vươn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”. Như vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này: “Ôi con sóng ngày xưa và ngày sau vẫn thế” Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xưa” cho đến tương lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa biểu đạt một chân lí không bao giờ đổi thay. Thơ ca, nghệ thuật là những sự sáng tạo mang đến cho người đọc những cảm xúc mới, đem đến cho tâm hồn con người những sự trải nghiệm phong phú. Ta tự hỏi vì sao trong sáu câu thơ đầu tác giả chỉ cho chúng ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của con sóng? Để giải đáp cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câu thơ: “Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Đến đây ta đã cảm nhận được sự xuất hiện của một con sóng nữa đó là con sóng của tâm hồn, là con sóng của tình yêu, mà lại là tình yêu của tuổi trẻ đang bồi hồi, đang GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 97
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thổn thức trong trái tim, trong lồng ngực. Khát vọng tình yêu cháy bỏng mãnh liệt đang trào dâng trong lòng nữ sĩ. Như vậy đứng trước biển, trước những con sóng ào ạt ạt vỗ bờ dòng cảm xúc trong lòng nữ sĩ cũng trào dâng. Những con sóng biển ở sáu câu thơ đầu đã gọi những con sóng tình trong lòng nhà thơ. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ. Vì sao sóng biển lại gọi được sóng tình, lại có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt như vậy? Có lẽ giữa sóng biển và sóng tình có sự tương đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng người con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thương dịu dàng đằm thắm: “Em bảo anh đi đi Sao anh không đứng lại? Em bảo anh đừng đợi Sao anh vội về ngay?” Con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động. Nếu yêu một người con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt người đó thì chắc chắn một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thương cô gái trọn vẹn.Hành trình của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ những chật chội hẹp hòi để vươn tới những điều rộng lớn thì người con gái đang yêu cũng luôn luôn có khát khao như thế .Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để vươn tới tình yêu bao dung . Việt Nam là một nước có lịch sử ơn một nghìn năm phong kiến và chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng phụ nữ Việt. Thời kì những năm 1967 ảnh hưởng của tư tưởng hệ phong kiến chắc chắn còn, mà thậm chí còn rơi rớt đến một số thế hệ trẻ hiện nay thế nhưng ở Xuân Quỳnh ta bắt gặp một con người hiện đại, thông minh và sắc sảo,luôn khát khao hướng tới một tình yêu vĩ đại. Đề 5 : Đề bài : Anh (chị) hãy phát biểu cảm nhận của mình về hai đoạn thơ sau: “Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy (Việt Bắc – Tố Hữu) và “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức.” (Sóng – Xuân Quỳnh) Đáp án:http://thutrang.edu.vn/de-nghi-luan-so-sanh-song-xuan-quynh-va-viet-bac-tohuu GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 98
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đề 6 :Có ý kiến cho rằng: 1.Sóng đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời. 2.Tình yêu mà Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay. Bằng việc cảm nhận bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh (chị) hãy bàn luận về những ý kiến trên. Đáp án 1 : http://thutrang.edu.vn/ve-bai-tho-song-cua-xuan-quynh 1. Mở bài : Xuân Quỳnh là một nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh phản chiếu nét tâm hồn của nhà thơ khát khao tình yêu, hạnh phúc bình dị đời thường. Xuân Quỳnh được đánh giá là một trong những nhà thơ viết thơ tình hay nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Trong thi đàn Việt Nam, người đọc đã rất thú vị với một phong cách yêu chân quê mộc mạc của nhà thơ Nguyễn Bính; một phong cách nồng nàn, say đắm của thi sĩ Xuân Diệu và không thể không kể đến cách bộc lộ tình yêu đầy cá tính và nữ tính trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Từ những lời tự hát tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Sở dĩ bài thơ đi cùng năm tháng là bởi: “ Sóng đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”và “Tình yêu mà Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay”. 2 ý kiến đặt cạnh nhau, bổ sung cho nhau giúp ta cảm nhận được nét độc đáo của bài thơ cũng như vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh với sự hòa quyện của tư tưởng truyền thống và hiện đại. 2. Thân bài Giải thích 2 ý kiến và sự thống nhất của 2 ý kiến Người xưa quan niệm “Thơ là tiếng lòng” Thơ là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Nhà thơ Nguyễn đình Thi đặt câu hỏi khi giãi bày mấy ý nghĩ về thơ: Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con người chăng?… bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc. Thơ là sự thể hiện tâm hồn một cách mãnh liệt nhất. Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ có sức sống bền bỉ theo thời gian bởi bài thơ đã tìm được sự đồng điệu từ trái tim độc giả nhất là tuổi trẻ. – Ý kiến 1: Ở bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả được những cung bậc cảm xúc có tính truyền thống, có tính phổ biến, những quy luật tình cảm muôn đời của con người trong tình yêu – Ý kiến 2: Sự mới mẻ, hiện đại của cách cảm, trong quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh – 2 ý kiến bổ sung cho nhau giúp ta nhận ra sự độc đáo của bài thơ cũng như vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh Cảm nhận bài thơ và bàn luận 2 ý kiến @“Sóng” thể hiện một tình yêu “có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”: Mượn hình tượng “sóng” trong tự nhiên, nhà thơ đã diễn tả được những cung bậc cảm xúc phổ biến, những quy luật tình cảm muôn đời của con người trong tình yêu: + Đó là những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong lòng người đang yêu: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 99
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Đó là khát vọng vươn tới cái cao cả, lớn lao trong tình yêu: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” + Con sóng bất biến trong dòng chảy thời gian cũng như tình yêu luôn là điều khao khát trong trái tim tuổi trẻ. + Những bí ẩn về cội nguồn của “sóng” cũng như bí ẩn của tình yêu + Tình yêu luôn song hành cùng nỗi nhớ + Muốn tình yêu bền vững, con người cần biết vượt qua những thách thức, giới hạn và biết hoà nhập, hiến dâng, hi sinh… @ “Sóng” mang “tính chất hiện đại của tình yêu hôm nay”. – Qua hình tượng “sóng”, ta cảm nhận được tư thế và tâm thế nhân vật trữ tình. Đó là người con gái chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực của lòng mình. Không còn sự thụ động, cam chịu, yên phận của người phụ nữ truyền thống, nhân vật nữ trong bài thơ rất táo bạo chủ động trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc: Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì “sóng tìm ra tận bể”. Nghĩa là dứt khoát từ bỏ cái nhỏ bé, tầm thường để tìm đến với cái bao la khoáng đạt đủ sức bao dung và mang chứa. Cũng rất mãnh liệt và hiện đại là lới thú nhận chân thành: tình yêu đã phá vỡ mọi giới hạn không gian, thời gian, chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người con gái thậm chí lặn sâu cả vào tiềm thức. Đó còn là một tình yêu được cảm nhận toàn diện với mọi cung bậc cảm xúc có khi đối lập nhưng vẫn thống nhất. – Khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu gắn liền với khát vọng được hưởng một tình yêu đích thực, trường tồn: “Làm sao được tan ra…Để ngàn năm còn vỗ” . Bàn luận chung 2 ý kiến tưởng trái chiều nhưng góp phần bổ sung cho nhau để làm nổi bật nét độc đáo của hồn thơ Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng”. Mang trong mình vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của tình yêu khiến “Sóng” trở nên bất tử trong lòng độc giả bao thế hệ, trở thành lời “tự hát” của biết bao trái tim tha thiết yêu đương. 3.Kết bài: Bài thơ là lời tự hát tình yêu hồn nhiên, chân thành mãnh liệt của người phụ nữ đang yêu: một tình yêu hiện đại mới mẻ nhưng vẫn không tách rời truyền thống Đáp án 2 :http://thutrang.edu.vn/ban-ve-quan-niem-tinh-yeu-trong-bai-tho-song-cuaxuan-quynh Về bài thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống”. Từ cảm nhận về bài thơ “ Sóng” hãy bình luận những ý kiến trên? Bài làm Tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca hiện đại VN. Có lẽ đối với người đã hoặc đang yêu, chỉ cần khi nhắc đến hai chữ “Tình yêu” là chúng ta không khỏi bận lòng nghĩ đến mối tình nào đó, người mà luôn ẩn sâu trong trái tim của mình. Chắc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 100
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang hẳn chỉ có ai được yêu và đã từng trải qua tình yêu mới thấy hết được những cung bậc mà tình yêu đem lại: hồi hộp, lo lắng, ghen tuông, hi vọng và nỗi khắc khoải nhớ nhung… tất cả đều đan xen, trộn lẫn khó phân tách. Bài thơ “Sóng” của nhà thơ XQ được sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968 là một bài thơ đã diễn tả hết mọi cung bậc tâm trạng ấy của những con người đang yêu. Đó là tiếng lòng của người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn, khao khát mạnh mẽ trong tình yêu đôi lứa. Đã có nhận định về tác phẩm: “ Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống”. Nếu nhìn qua chúng ta tưởng là hai ý kiến trái chiều nhưng nằm sâu trong mạch ngầm cảm xúc thì hai ý kiến đều bổ sung ý nghĩa cho nhau. Ý kiến thứ nhất: “ Sóng thể hiện quan niệm rất mới mẻ về hiện đại của XQ về tình yêu”. Sự “ hiện đại” trong tình yêu chính là việc vượt qua khỏi những quy định ngặt nghèo ràng buộc của lễ giáo phong kiến để tự do khẳng định tình cảm, bộc lộ “cái tôi” khát vọng trong tình yêu một cách chủ động và luôn luôn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình yêu. Ý kiến thứ hai: “ Sóng thể hiện về quan niệm tình yêu mang tính truyền thống”. Sự “truyền thống” trong tình yêu biểu hiện trong sự thủy chung, son sắt gắn liền với nỗi nhớ nhung da diết, một lòng hướng đến người mình yêu. Hai ý kiến trên đã được XQ thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Sóng”. Đó là tình yêu của một người phụ nữ vừa truyền thống lại vừa rất hiện đại. Bài thơ được XQ xây dựng nên bỏi hai hình tượng nhân vật trữ tình đó là hình tượng “sóng” và hình tượng “em”. Hai hình tượng này thực chất là sự phân thân, hóa thân của tác giả. XQ mượn hiện tượng sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng dậy những khát khao mãnh liệt trong tình yêu. A, Trước hết, bài thơ Sóng là tiếng nói của một “cái tôi” tình yêu mới mẻ, hiện đại. ( Khổ 1 và 2 khổ cuối) + Đó là thứ tình yêu mang trong mình những trạng thái đối cực mâu thuẫn: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ” Tình yêu cũng như song biển vậy, lúc biển động phong ba sóng “dữ dội – ồn ào”, khi trời yên biển lặng sóng “dịu êm – lặng lẽ”.Tâm trạng của người con gái khi yêu cũng thế, luôn mang trong mình những trạng thái tình cảm khác thường: lúc giận dữ hờn ghen, khi dịu dàng sâu lắng. Nhưng tất cả những mâu thuẫn ấy đều là những biểu hiện khác nhau của một trái tim đang yêu chân thành, mãnh liệt. Cho nên có thể nói: “Tình yêu luôn có những quy luật mà lý trí không thể lý giải được”, chúng ta chỉ có thể lý giải nó bằng tình cảm, bằng trái tim đang yêu. + Tình yêu hiện đại của XQ được bộc bạch một cách táo bạo nhưng hết sức tự nhiên, sẵn sàng vượt qua mọi những cản trở mà “vượt rào” đi đến với những tâm hồn đồng điệu: “Sông không hiểu nổi mình GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 101
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Sóng tìm ra tận bể” Cũng như sóng biển vậy, sóng sẵn sàng vượt qua mọi chiều kích chật hẹp mà vươn tới biển rộng bao la thì người con gái khi yêu cũng dám bất chấp tất cả để hướng tới một tình yêu đồng cảm, để vươn tới một tình yêu đích thực, vững bền. Ta thấy một quan niệm hoàn toàn mới mẻ về tình yêu của XQ. Nếu như người phụ nữ trong tình yêu ngày xưa luôn thể hiện sự nhẫn nhực, cam chịu, chờ đợi: “Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” Hay sau này Thúy Kiều có dám chủ động gặp Kim Trọng bằng hành động “Săm săm băng lối vườn khuya một mình” nhưng với quan niệm phong kiến chặt chẽ, Thúy Kiều vẫn chưa dám khẳng định được như XQ “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”. Người phụ nữ trong thơ XQ dám dứt khoát từ bỏ nói tù túng, chật hẹp để đến với cái bao la, khoáng đạt, phù hợp với khát vọng và tình yêu mà mình mong muốn. + Người con gái ấy thật chủ động, thật tự tin sống cháy bỏng hết mình cho một tình yêu đẹp, dâng hiến hòa nhập tình yêu cá nhân của mình vào tình yêu cuộc đời. Ấy là khi nhà thơ chiêm nghiệm về cuộc đời tình yêu và khát vọngt tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” Đó là một niềm tin bất diệt vào tình yêu. Nữ thi sĩ đã lấy chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo đếm tình yêu hạnh phúc. Niềm nguyện ước khát vọng của em về một tình yêu bền vững muôn thưở. Ấy là em muốn được “tan ra” hóa thân thành “trăm con sóng” trên biển lớn tình yêu nhân loại để rì rào vỗ, xôn xao reo mãi mãi sống trong một tình yêu cuộc đời. B. Bên cạnh một tình yêu hiện đại, bài thơ “Sóng” còn bộc lộ một tình yêu truyền thống. + Đó là tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ( Khổ 5) “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” Cũng giống như người phụ nữ xưa, XQ bộc lộ một tình yêu gắn liền với nỗi nhớ mong da diết, khắc khoải yêu thương. Viết về nỗi nhớ, người phụ nữ xưa đã từng bộc bạch qua những câu ca dao đậm đà tình cảm: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 102
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” Hay: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than” Đúng vậy, tình yêu thì luôn gắn liền với nỗi nhớ. Làm sao yêu mà lại không nhớ, không mong. Nỗi nhớ trong tình yêu là một nỗi nhớ da diết nhất, cháy bỏng nhất và cồn cào nhất. Nhưng ca dao đã vậy, còn ý thơ viết về nỗi nhớ của XQ mới thực sự diễn tả được hết cũng bậc của nội niềm nhớ mong. Có thể nói, nếu như sóng tạo nên sự tồn tại của biển thì nỗi nhớ là sự sống bất diệt trong tình yêu. Nỗi nhớ ấy của XQ nó mãnh liệt đến mức bao trùm cả không gian chiều sâu, chiều rộng, bao trùm cả thời gian và thậm chí còn thường trực xúât hiện cả khi thức, khi ngủ. Nỗi nhớ mong được XQ gửi gắm qua hình tượng “sóng nhớ bờ” dường như vẫn chưa đủ, chưa thỏa nên tác giả đã trực tiếp diễn tả bằng suy nghĩ của mình qua nhân vật trữ tình “em”: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” + Cũng như người phụ nữ truyền thống trong tình yêu, với XQ tình yêu phải luôn gắn liền với sự thủy chung son sắt: “Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” Sự thủy chung son sắt ấy đã được XQ diễn tả bằng cách nói ngược : “xuôi về phương bắc / ngược về phương nam”. Qua đó nhà thơ muốn khẳng định, tình yêu của mình hướng đến người mình yêu không chỉ có ở hai phía “Bắc – Nam” mà còn bao trùm cả bốn phương, tám hướng, bất cứ ở đâu “em” cũng nguyện thủy chung son sắt. Chính vì thế hai tiếng “một phương” đặt ở cuối câu kết hợp dấu gạch nối như một lời thề thiêng liêng của một tâm hồn một lòng hướng về một phương duy nhất là “phương anh”. + Tình yêu truyền thống là thứ tình yêu luôn đòi hỏi một chỗ dựa vững chắc trong một mái ấm gia đình. Vì thế, cũng không nằm ngoại lệ, người phụ nữ trong thơ XQ cũng khát khao hướng đến tổ ấm gia đình bằng một niềm tin hi vọng vào tương lai tươi sáng: “Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Nếu như sóng phải trải qua bao bão tố đến đến được tới bờ thì em cũng nguyện được như sóng, sẵn sang bất chấp sự vất vả, đạp đổ mọi chông gai thử thách để đến bên anh, đến với tâm hồn đồng điệu. Bởi anh mãi mãi là điểm về, là cái đích hạnh phúc của cuộc đời em. Đó là một quan niệm mang tính nhân văn sâu sắc, tình yêu luôn luôn gắn liền với một mái ấm hạnh phúc nhỏ bé của cuộc đời mỗi con người. Như vậy, qua hình tượng sóng biển, XQ đã diễn tả hết sức độc đáo quan niệm về tình GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 103
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang yêu của phái mình. Đó là tình cảm của một tâm hồn vừa mang trong mình một quan niệm hiện đại, mới mẻ dám chủ động khẳng định tình cảm của bản thân lại vừa là thể hiện một tâm hồn của một tình yêu truyền thống: gắn bó, thủy chung và son sắt. Vì thế bài thơ “Sóng” là tiếng nói chung , nói hộ nỗi lòng của người con gái khi yêu. Hai ý kiến nhận định tuy trái ngược nhau nhưng lại bổ sung và soi chiếu cho nhau. Đề 7 :Đề bài :Cảm nhận về hai đoạn thơ sau: “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hẹn hò Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” (Đất Nước – Trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Con sóng dưới lòng sâu Con song trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh) Gợi ý:http://thutrang.edu.vn/sanh-hai-doan-tho-trong-bai-song-xuan-quynh-va-datnuoc-nguyen-khoa-diem Còn nữa, cô đang soạn tiếp, các em vào link này để cập nhật những bài viết mới nhất về Sóng nhé : http://thutrang.edu.vn/tag/song-xuan-quynh 6.ĐÀN GHI TA CỦA LORCA- THANH THẢO Bài này khó, các em chú ý hình tượng nhân vật Lorca nhé Đề bài : Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" của Thanh Thảo Bài làm: Cùng với Xuân Quỳnh, Thanh Thảo cùng thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng trang thơ Thanh Thảo lại có dấu ấn rất riêng. Ông là người đi đầu trong phong trào cách tân thơ Việt, con đường mà ông lựa chọn để cách tân thơ Việt là việc đào sâu cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua hình thức những câu thơ tự do, phá bỏ mọi ràng buộc, khuôn sáo. Thanh Thảo đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một đại biểu đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” được rút ra từ tập “Khối vuông ru bích”, bài thơ đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Lor-ca.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 104
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài người Tây Ban Nha, ông một tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị cũng như trong sống nghệ thuật của Tây Ban Nha. Trong đời sống nghệ thuật, Lor-ca là một trong những người đi đầu trong phong trào cách tân nền nghệ thuật già nua của Tây ban Nha. Trong đời sống chính trị, Lor-ca là người khởi xướng phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã quá phản động. Năm 1936, bè lũ Phrăng-cô quá hoảng sợ trước tầm ảnh hưởng của Lor-ca nên chúng đã tìm cách bắt và sát hại ông. Tuy nhiên sau cái chết của Lor-ca, tầm ảnh hưởng của ông càng trở nên sâu rộng hơn. Nó vượt ra khỏi biên giới của Tây Ban Nha, tên tuổi của Lor-ca trở thành một biểu tượng cho công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa và nền văn minh nhân loại. Sự ảnh hưởng của Lor-ca không chỉ nằm trong thời đại của ông mà nó còn tồn tại mãi cho tới bây giờ. Cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến của Lor-ca là nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào để Thanh Thảo viết nên bài thơ này. Và cũng bằng nguồn cảm hứng dồi dào ấy, Thanh Thảo đã xây dựng thành công hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” được Thanh Thảo sáng tác theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực nên khi đọc đòi hỏi người đọc phải không ngừng liên tưởng, tưởng tượng để cảm nhận được rõ ý thơ. Qua bài thơ tác giả đã tái hiện lại cuộc sống của Lor-ca, tái hiện lại sự kiện bước ngoặt đầy bi thảm, đau đớn là cái chết của Lorca. Nhưng trong tiềm thức, trong tình cảm của Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống, qua đó thể hiện cho chúng ta thấy rõ Lor-ca là một nghệ sĩ chân chính, ông là một người nghệ sĩ dám sống để đấu tranh vì nghệ thuật, dám chết vì nghệ thuật. Lor-ca là người nghệ sĩ mang vẻ đẹp bất tử. Sáu câu thơ đầu của bài thơ Thanh Thảo tái hiện sự sống của Lor-ca. Hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” biểu trưng cho sự sống cũng như sự nghiệp sáng tạo của Lor-ca, hình ảnh này gợi cho chúng ta hình dung sự sống cũng như sự sáng tạo của Lor-ca là vô cùng mong manh dễ vỡ.” Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”, câu thơ nhắc tới xứ sở Tây Ban Nha và hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” làm cho ta liên tưởng đến môn thể thao truyền thống của đất nước này: đấu bò tót, một môn thể thao đòi hỏi không chỉ sức mạnh mà người đấu sĩ còn cần phải khôn ngoan và khéo léo, vì vậy trận đấu bò tót nào cũng đầy sự căng thẳng. Hình ảnh ‘áo choàng đỏ gắt” được tác giả nhắc đến ở đây cũng có thể là biểu trưng cho môi trường chính trị của Tây Ban Nha lúc này bức bối, ngột ngạt và phản động. Hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” được đặt cạnh hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” cho thấy cuộc sống của Lor-ca lúc này đang cực kì bức bối , ông dường như đang phải cố gồng mình lên để đối mặt với một chế độ xã hội phản động già nua và có thể nói cuộc sống của ông đang đầy thách thức. Mặc dù phải sống trong môi trường xã hội ngột ngạt, người nghệ sĩ Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo vì đến câu thơ thứ ba hợp âm tiếng đàn ghi ta được ngân lên “li la li la li la”, nó biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca. Người nghệ sĩ vẫn say sưa với những sáng tạo của mình, vẫn sống lạc quan mặc cho hoàn cảnh sống đang bị bóp nghẹt. Ba câu thơ còn lại của đoạn thơ tái hiện hành trình đi tìm cái tôi nghệ sĩ, đi tìm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ Lor-ca. Hành trình của người nghệ sĩ Lor-ca là hành trình đơn độc vì trong hành trình ấy chỉ có một chú ngựa, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 105
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang vầng trăng, vầng trăng thì chếnh choáng, chú ngựa cũng mỏi mòn, rã rời. . Đối với người nghệ sĩ, vầng trăng là tri kỉ, khi vui nhất người nghệ sĩ cũng nghĩ đến trăng, mà khi buồn nhất họ cũng chỉ có trăng là bạn thế nhưng vầng trăng lại “chếnh choáng”, nửa say nửa tỉnh. Có thể nói người nghệ sĩ Lor-ca lúc này đang cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Người nghệ sĩ đang đi nhưng là đi đâu? Người nghệ sĩ đi lang thang, đi nhưng chưa biết nơi đâu là đích đến. tác giả sử dụng danh từ “miền”, danh từ giới hạn không gian, nơi chốn tạo điểm dừng, đích đến nhưng lại là “miền đơn độc”, miền của tâm trạng, cảm xúc. Người nghệ sĩ đang đi về miền của tâm trạng, miền của cảm xúc, miền cái cội nguồn của sự sáng tạo. Người nghệ sĩ Lor-ca đang say sưa trong hành trình đi tìm cảm hứng sáng tạo, tìm hướng cách tân nền nghệ thuật già nua. Một lần nữa Thanh Thảo đã chứng tỏ Lor-ca là người nghệ sĩ sống hết mình vì nghệ thuật,dám hi sinh cho nghệ thuật. Xem thêm tại : http://thutrang.edu.vn/tag/dan-ghi-ta-cua-lor-ca 7. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân Tổng hợp kiến thức cơ bản về Người lái đò sông Đà I. Giới thiệu tác giả và tác phẩm: Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. II. Khái quát về tác phẩm: “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau những chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Nội dung bài tùy bút là miêu tả con Sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt thác. III. Nội dung đoạn trích: Hình tượng con sông Đà Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai tính cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng. 1. Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo: – Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự không gian, bằng nhiều chi tiết đặc sắc. Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông “như một cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì lòng sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.” – Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. – Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát. Đó GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 106
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở và kêu như của cống cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi cho người xem. – Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy rừng. – Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ, nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”. Sông Đà hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây khó khăn, nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng vây. Vòng thứ nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh” nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên phải, bên trái đều là “luồng chết” cả, cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. – Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành “kẻ thù số một” của con người. 2. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng. – Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì. – Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm “như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 107
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” – Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn búp”, có “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có một liên tưởng độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng: – Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. – Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. 4. Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người. Hình tượng người lái đò 1. Tác giả giới thiệu chung về người lái đò: – Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người. Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà. 2. Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm: – Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà. Thác Sông Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng người lái đò dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác. – Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 108
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà. – Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé. – Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh. 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng: – Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo. 4. Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những phẩm chất cao quí. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 109
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu quí. IV. Nghệ thuật đoạn trích: Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị. Từ ngữ sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm rãi, trừ tình,… V. Ý nghĩa văn bản: Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam. Ví dụ như thi vào Người lái đò sông Đà thì có những dạng đề nào ? Dạng 1 : Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật ông lái đò, ý kiến bàn về vẻ đẹp sông Đà, hoặc ý kiến bàn về tác phẩm này. Dạng 2 : Dạng đề so sánh Ví dụ : So sánh Huấn Cao ( Chữ người tử tù ) và ông lái đò Ví dụ khác :So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương ( Ai đã đặt tên cho dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường) Dang 3 : Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi Ví dụ : Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu mình nêu cảm nhận Dạng 4 : Cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hình tượng ông lái đò. Với tác phẩm này, các em chú ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân nữa nhé ! Một số đề bài tham khảo Đề 1 : Về nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”. Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên ? Đề bài: Về nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”. Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên ? HƯỚNG DẪN LÀM: 1, Mở bài: *Vài nét về tác giả, tác phẩm: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử” – huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”. + “Người lái đò sông Đà” được coi là một trong những tác phẩm thành công xuất sắc nhất trong “Tùy bút Sông Đà”. Với khao khát truy tìm “chất vàng mười của tâm hồn vùng Tây Bắc” – “thứ vàng mười đã được thử lửa” (Đi mở đường), Nguyễn Tuân đã
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 110
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên nhiên Tây Bắc với nhiều nét độc sáng mới lạ. + Nhận xét về người lái đò sông Đà có hai ý kến như sau : ( trích dẫn hai ý kiến) 2, Giảithích ý kiến: Ý kiến “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa” và “Ông lái đò là một người lao động bình thường”. + Người nghệ sĩ tài hoa là những người có rung động tâm hồn mãnh liệt trước mọi vui buồn của đời sống và có khả năng thể hiện những rung động ấy bằng những phương tiện nghệ thuật đặc thù. Ở ý kiến trên, người nghệ sĩ tài hoa được hiểu là người đạt tới trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và có đời sống tâm hồn đậm chất nghệ sĩ. + Người lao động bình thường là người lao động thầm lặng, vô danh, không tên tuổi giống như bao người lao động khác trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Khẳng định 2 ý kiến trên bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung, tính cách người lái đò sông Đà. 3, Chứng minh – bình luận ý kiến: *Ông lái đò – một nghệ sĩ tài hoa: – Ông lái đò có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với thử thách, mạo hiểm, gian nguy. – Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá như một nghệ sĩ điêu luyện, cao cường. – Cuộc băng ghềnh, vượt thác ngoạn mục đã khẳng định vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của một “tay lái ra hoa”: + Vòng vây thứ nhất, sông Đà bày ra nhiều cạm bẫy. Ông lái đò bị sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm. Nhưng bằng tinh thần dũng cảm, ông đã tỉnh táo chỉ huy sáu mái chèo, chiến thắng trùng vi thạch trận đầy nguy hiểm. + Vòng vây thứ hai, sông Đà đã thay đổi chiến thuật. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, xác định đúng cửa sinh và chiến thắng thằng đá tướng đứng chiến ở cửa giữa. + Vòng vây thứ ba, sông Đà tiếp tục thay đổi chiến thuật, bên phải bên trái đều là cửa tử. Ông lái đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hoi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.Thế là hết thác. Ông cũng là một người lao động bình thường: – Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người lái đò khác nơi thượng nguồn sông Đà khuất nẻo. – Đời sống tâm hồn giản dị: không nói nhiều về chiến công; dù đi đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường. *Nghệ thuật thể hiện: Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, hài hoa, kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 111
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị; vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật. 4, Đánh giá: Qua cảm nhận hình tượng ông lái đò, có thể thấy, ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa trên sông nước, đồng thời, cũng là một người lao động giản dị bình thường. Vẻ đẹp của ông lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân lao động vùng Tây Bắc tổ quốc. Hai ý kiến trên không đối lập mà bổ sung cho nhau đem đến một cái nhìn đầy đủ, toàn diện về nhân vật. Đề 2 :So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) để thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945 HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU ĐỀ: Tuy đề bài yêu cầu phân tích nhân vật người lái đò, nhưng trước khi tiến hành, cần giới thiệu vài nét về hình ảnh con sông Đà – cái nền để người lái đò xuất hiện. Khi so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao, phải làm rõ vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao để tìm được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà: +Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện.. + Nhân vật người lái đò sông Đà -Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay “lêu nghêu”, chân “khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, “nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”… Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước -Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông hiểu biết tường tận về “tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn… -Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường chéo, phóng thẳng…).
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 112
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang -Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế. 2. So sánh với nhân vật Huấn Cao: a. Nhân vật Huấn Cao: -Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. -Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp ‘vang bóng một thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ thương kim ( Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ- Vũ Đình Liên) b. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. + Nét chung (tính thống nhất): – Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. – Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện. – Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện. + Nét riêng (tính khác biệt): – Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. – Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới. Đánh giá chung Đề 3 :Tuỳ bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 113
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Anh (chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân Hướng dẫn cách làm Có thể triển khai theo nhiều cách nhưng về cơ bản, bài viết cần được làm rõ những ý chính sau: a/ Mở bài – Giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác tùy bút sông đà của Nguyễn Tuân – Giới thiệu vấn đề nghị luận :“thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình. b/ Thân bài: @Giải thích một cách ngắn gọn ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” – từ dùng của Nguyễn Tuân – để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. @Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà: + Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên, tuổi, quê quán) Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc nghiệt, dữ dội. + Ông am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục. >>> Sự từng trải: Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 114
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
+ Ông mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao động hàng ngày: Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một : … Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn… Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc. +Nghệ sĩ tài hoa : Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 115
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba +Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới: giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí.Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. c/ Kết bài: – Khái quát lại vấn đề : Nhận xét chung về vẻ đẹp của ông lái đò, đánh giá nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống đầy cam go, thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất; phối hợp những thủ pháp tiêu biểu của các ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện… – Rút ra bài học cho bản thân Đề 4 :Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, trình bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước. I. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận. – Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà – Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông – Giới thiệu vấn đề nghị luận : vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước. II. Thân bài: 1. Nét tương đồng của 2 dòng sông: a/ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước. b/ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội. – Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang bày trùng vi thạch trận. – Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại…. c/ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình: – Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 116
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế… d/ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác: – Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ: + Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. + Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế. – Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông. 2. Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông: a/Sông Đà: – Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác -> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến… – Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá… b/ Sông Hương: – Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước. – Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay. – Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo. – Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 117
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 3. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau : Thế hệ trẻ cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu quí, bảo vệ môi trường, quảng bá thắng cảnh… III/ Kết luận: Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn – Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2 tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam. – Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình. Đề 5 : Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong đoạn trích . Từ đó, anh (chị) hãy đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân được thể hiện qua hình tượng trên. Đáp án : http://thutrang.edu.vn/de-thi-ve-nguoi-lai-do-song-da-nguyen-tuan Thu Trang, giáo viên trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình Đề 6 :Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó bằng cảm nhận của anh/chị về những đoạn văn sau: …Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng… …Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về… (Nguyễn Tuân – Người lái đò Sông Đà) và …Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 118
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang …Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả …” (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông?) Đáp án :http://thutrang.edu.vn/so-sanh-phong-cach-nghe-thuat-cua-nguyen-tuan-vahoang-phu-ngoc-tuong-qua-hai-doan-van ĐÁP ÁN * Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp. * Yêu cầu cụ thể: a) Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,5 điểm): – Điểm 0,5: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của cá nhân. – Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết luận, nhưng các phần chưa thể hiện được đầy đủ yêu cầu trên; phần Thân bài chỉ có 1 đoạn văn. – Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có 1 đoạn văn. b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm): – Điểm 0,5: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp riêng của hai đoạn văn. – Điểm 0,25: Xác định chưa rõ vấn đề cần nghị luận, chỉ nêu chung chung. – Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vấn đề khác. c) Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm (trong đó phải có thao tác phân tích, so sánh); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng (2,0 điểm): – Điểm 2,0: Đảm bảo các yêu cầu trên; có thể trình bày theo định hướng sau: + Giới thiệu về tác giả, tác phẩm; yêu cầu đề. Giải thích – Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo: Nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng là lĩnh vực của cái độc đáo, độc đáo trong việc đi tìm cái đẹp của cuộc sống để tạo nên tác phẩm, trong việc sáng tạo nên cái đẹp, cái riêng của tác giả ở tác phẩm. – Nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình: Tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 119
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang phẩm văn chương nói riêng đòi hỏi sự sáng tạo, mới lạ, độc đáo, thể hiện tài năng, dấu ấn cá nhân của tác giả. Phân tích và chứng minh: Phân tích vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của hai đoạn văn và làm rõ ý kiến: Những đoạn văn của Nguyễn Tuân – Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà như một công trình thẩm mĩ, một kì công nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người với hai đặc điểm: hung bạo, dữ dội và thơ mộng, trữ tình. – Đoạn văn miêu tả tiếng thác nước sông Đà là tài quan sát, khám phá và thể hiện hình tượng thiên nhiên của Nguyễn Tuân với ngôn ngữ giàu sức tạo hình, vốn từ ngữ phong phú, biến hóa, được tác giả tung ra đúng lúc, đúng chỗ đặc biệt là phép so sánh và nhân hóa lạ, độc đáo. – Đoạn miêu tả dáng vẻ, màu nước sông Đà là những phát hiện thú vị về vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông và phát hiện rất tinh tế về màu nước theo mùa. Đoạn văn được viết bằng sự thăng hoa của tâm hồn, nhà văn như “đề thơ vào sông nước”,thể hiện cách khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật. Những đoạn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường huy động vốn tri thức, vốn ngôn ngữ phong phú, kết hợp giữa trữ tình và chính luận, trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn hóa, khả năng liên tưởng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ. – Đoạn văn viết về sông Hương ở thượng nguồn là khám phá của tác giả về vẻ đẹp vừa “phóng khoáng và man dại” vừa“dịu dàng và say đắm”của dòng sông, là kết quả của trí tưởng tượng đầy tài hoa. Cảnh sông ở đây được khắc họa với những hình ảnh đầy ấn tượng bằng năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ. – Đoạn văn miêu tả sông Hương ở ngoại vi thành phố là lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của sông Hương qua phép nhân hóa khi miêu tả dòng chảy và cách đặc tả màu nước phản quang hai bên bờ và thay đổi trong ngày. So sánh để thấy được vẻ đẹp riêng của mỗi đoạn: Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được: Sự tương đồng – Điểm gặp nhau giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường: Đi tìm cái đẹp và thể hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dòng sông. – Qua hai đoạn văn, hai tác giả thể hiện nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mình. Website cô Thu Trang .http://thutrang.edu.vn/ Sự khác biệt – Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác: luôn nhìn sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ để khám phá, phát hiện; vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực, tổng hợp cảm nhận của các giác quan để khám phá đối tượng. Tất cả làm nên phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 120
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Ẩn trong câu chữ biến hóa là vẻ đẹp lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri thức và cả chất phong tình, tài hoa, lãng mạn từ tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tất cả làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường độc đáo, sâu sắc mà tràn đầy cảm xúc… Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. – Điểm 1,5 – 1,75: Cơ bản đáp ứng được các yêu cầu trên, song một trong các luận điểm (phân tích, so sánh) còn chưa được trình bày đầy đủ hoặc liên kết chưa thực sự chặt chẽ. – Điểm 1,0 -1,25 : Đáp ứng 1/2 đến 2/3 các yêu cầu trên. – Điểm 0,5 – 0,75: Đáp ứng được 1/3 các yêu cầu trên. – Điểm 0,25: Hầu như không đáp ứng được yêu cầu nào trong các yêu cầu trên. – Điểm 0: Không đáp ứng được bất kì yêu cầu nào trong các yêu cầu trên. d) Sáng tạo (0,5 điểm) – Điểm 0,5: Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viết câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm,…) ; văn viết giàu cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; có quan điểm và thái độ riêng sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. – Điểm 0,25: Có một số cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo; thể hiện được một số suy nghĩ riêng sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. – Điểm 0: Không có cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo; không có quan điểm và thái độ riêng hoặc quan điểm, thái độ trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. e) Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,5 điểm): – Điểm 0,5: Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. – Điểm 0,25: Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. – Điểm 0: Mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu Website cô Thu Trang .http://thutrang.edu.vn/ Đề 7 : Đề bài :Anh/chị hãy phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con sông hung dữ trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt của tác giả, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta. Hướng dẫn cách làm:http://thutrang.edu.vn/phan-tich-hinh-tuong-nguoi-lai-do-songda-de-lam-noi-bat-thu-vang-muoi-cua-dat-nuoc-ta Hướng dẫn cách làm Giới thiệu khái quát về: Tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng người lái đò (0,5đ) Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con sông Đà hung dữ (2.5đ) Thoạt nhìn đó là cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận với ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 121
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo-những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng tháctrên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Vậy mà thác dữ không chặn bắt được con thuyền. Cuối cùng vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn củadòng sông. Nguyễn Tuân cho thấy, nguyên nhân làm nên chiến thắng của con ngườkhông hề bí ẩn. Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, để từ đó khuất phục dòng thác hồng hộc hơi thở của hùm beo. Để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thủy chiến giữa ông lái đò với thác dữ sông Đà, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu cùng tất cả sự tài hoa, uyên bác trong ngòi bút của mình. Lí giải (1,0 đ) Từ việc làm rõ sức mạnh, sự ngoan cường, chí quyết tâm, kinh nghiệm đò giang của người lái đò-một người lao động bình thường trên mảnh đất Tây Bắc nước ta – qua cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chúng ta hiểu rằng, chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả Người lái đò sông Đà, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. Kết bài : đánh giá chung về hình tượng ông lái đò, về tác phẩm và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân Đề 8 : Về đoạn trích tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, có ý kiến cho rằng: Đó là một công trình khảo cứu công phu. Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: Đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ. Từ việc phân tích đoạn trích tuỳ bút, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên Đáp án và bài văn mẫu :http://thutrang.edu.vn/nguoi-lai-song-da-la-cong-trinh-khaocuu-cong-phu-la-mot-ang-van-giau-tinh-tham-mi/ Vài nét về tác giả, tác phẩm (0,5 điểm) – Nguyễn Tuân là một nhà văn tài năng với một phong cách độc đáo. – Tuỳ bút Sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc trong và sau kháng chiến chống Pháp. – Nêu 2 ý kiến cần nghị luận Giải thích ý kiến (0,5 điểm) GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 122
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Công trình khảo cứu công phu: là một tác phẩm được tạo nên từ công sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn và tầm hiểu biết của nhà văn, đồng thời cũng đem đến cho người đọc những hiểu biết phong phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập. – Áng văn giàu tính thẩm mĩ: là tác phẩm nghệ thuật đạt đến độ hoàn hảo trong việc tái hiện cái đẹp, khơi gợi những hứng thú và khả năng cảm nhận cái đẹp ở người đọc. Phân tích biểu hiện và bình luận hai ý kiến (3,0 điểm) Phân tích biểu hiện (2,0 điểm) a) Công trình khảo cứu công phu (1,0 điểm) –Tác giả huy động một vốn kiến thức tổng hợp khá đồ sộ về rất nhiều ngành nghề khoa học và nghệ thuật. + Địa lí: Sắc nước mỗi mùa, tên của các con thác dọc sông Đà, đặc điểm địa hình, địa thế của sông… + Lịch sử: Các thời kì lịch sử khác nhau gắn với Sông Đà: thời tiền sử, thời Hùng Vương, Thời vua chúa phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội… + Văn hoá: Những sinh hoạt vật chất ( đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam) và tinh thần ( bàn cá anh vũ, cá dầm xanh…) + Văn học: Hình ảnh con sông Đà trong thơ văn ( Đà giang độc bắc lưu), gợi nhớ thơ Lí Bạch, thơ Ba Lan… + Các kiến thức khác: quân sự, thể thao, âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu… – Cung cấp cho người đọc những hiểu biết về con sông Đà và về cuộc sống người lao động trên sông: + Về con sông Đà: từ chiều dài sông, đầu nguồn, lưu vực, tên sông qua các thời kì lịch sử ( Linh Giang)… + Về ông đò: Công việc lái đò rất vất vả, khi phải chống chọi lại với ghềnh thác và những hiểm hoạ bất ngờ của thiên nhiên nên đã làm bộc lộ ở người lái đò khả năng chinh phục thiên nhiên. b) Áng văn giàu tính thẩm mĩ (1,0 điểm) – Người đọc có được khoái cảm thẩm mĩ thực sự trước vẻ đẹp tuyệt vời của con sông Đà hung bạo và trữ tình; vẻ đẹp của ông đò anh hùng và nghệ sĩ. Bên cạnh đó, người đọc còn được thưởng thức vẻ đẹp của một thiên anh hùng ca và một bản tình ca say đắm về thiên nhiên và cuộc sống. – Nhà văn đã biến những thông tin khô khan, tư liệu lạnh lùng thành hình tượng sống động, có đời sống, có tâm lí, tính cách, khả năng, số phận…cụ thể – Giá trị thẩm mĩ còn thể hiện ở thể văn Tuỳ bút vừa thực tế vừa tự do phóng túng, ở tài năng lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. Bình luận hai ý kiến (1,0 điểm) – Hai ý kiến đề cập đến những phương diện khác nhau về vẻ đẹp của đoạn trích tuỳ bút. Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh đến chất trí tuệ, ở lao động nghệ thuật rất công phu của một con người thiết tha yêu những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, của dân tộc và tình yêu, sự gần gũi đối với những người lao động bình thường. Ý kiến GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 123
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thứ hai thể hiện chất tài hoa, tài tử và phong cách độc đáo vừa thống nhất vừa cách tân sáng tạo trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân . – Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất; giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp của Tuỳ bút Sông Đà và tư tưởng của nhà văn. Bài làm : Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực và là người nghệ sĩ đặc biệt giàu cảm hứng trước những vẻ đẹp kì vĩ, phi thường, dữ dội . NLĐSĐ là tác phẩm được rút từ tập truyện Tây Bắc (1960), là kết quả nhiều lần lên Tây Bắc và trong chuyến đi thực tế 1958 của Nguyễn Tuân.Về tác phẩm này ,có ý kiến cho rằng “đó là một công trình khảo cứu công phu”, ý kiến khác lại cho rằng “đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ”. Phải chăng đó là hai ý kiến trái ngược nhau? Trước tiên, NLĐSĐ là “công trình khảo cứu công phu”, tức là tác phẩm được tạo nên từ công sức tìm tòi, nghiên cứu được dựa trên những tài liệu phong phú hay từ những quan sát tỉ mỉ thể hiện tầm hiểu biết, trí tuệ của nhà văn,nhằm cung cấp cho người đọc có thêm thông tin cũng như những giá trị về đối tượng được khám phá. Còn “áng văn giàu tính thẩm mĩ “ là tác phẩm đã đạt đến sự hoàn hảo trong việc tái hiện cái đẹp , xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc nhằm đem đến cái đẹp cho cuộc sống. Hai ý kiến trên đều rất đúng đắng và sâu sắc bởi Nguyễn Tuân đã sử dụng thể loại kí để truyền đạt thông tin, sự kiện để bộc lộ tài hoa, uyên bác của mình khi khám phá vẻ đạp thiên nhiên và con người sông Đà. Đồng thời đây cũng là thể loại giàu cảm xúc trữ tình trong nghệ thuật xây dựng hình tượng để khám phá được giá trị của tác phẩm NLĐSĐ. Trước hết , có thể nói “NLĐSĐ là một công trình khảo cứu công phu”. Ở đây tác giả đã huy động toàn bộ kiến thức tổng hợp đồ sộ về nhiều nghành nghề Khoa học-Nghệ thuật để khám phá thiên nhiên và con người Tây Bắc qua nhiều vấn đề như : địa lí, cung cấp thêm thông tin về sắc nước “mùa xuân màu xanh dòng ngọc bích” , “mùa thu lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu” hay dáng vẻ sông Đà tràn đầy sức sống như áng tóc của thiếu nữ “ sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình” hay đó còn là đặc điểm về địa hình hiểm trở, hoang sơ của con sông. Cũng như trong quân sự cung cấp cho ta hiểu thêm cách bày binh bố trận của sông đà về thạch trận trên sông. Hay là về mảng âm nhạc : tiếng thác nước cứ “ réo gần mãi lại, réo to mãi lên” “nghe như oán trách , van xin”. Ngoài ra tác phẩm còn cung cấp cho người đọc hiểu biết về sông Đà cũng như con người nơi đây, có thêm kiến thức về con sông từ tên gọi cho đến dáng vẻ “ tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Về con người từ hoàn cảnh sống của những con người nhà thuyền thường xuyên đối mặt với những hiểm nguy, những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Nhưng cũng từ đó ta mới thấy được con người kiên cường, dũng cảm thế nào , tài trí, anh dũng ra sao để có thể đối phó với những chông gai , thử thách mà thiên nhiên nơi đây tạo ra: “dù bị thương nhưng ông vẫn cố nén vết thương , chân bám chặt lấy cuống lái”,”không một phút nghĩ tay, nghĩ mắt ông đã đổi luôn chiến thuật”. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 124
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang NLĐSĐ còn là “một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ”, đó, nghệ thuật đem đến vẻ đẹp tuyệt vời của hai hình tượng nghệ thuật là sông Đà và người lái đò. Nếu sông Đà là “chất vàng mười của màu sắc sông núi” thì người lái đò là” thứ vàng mười đã qua thử lửa “. Với Nguyễn Tuân con sông Đà không phải là một thực thể vô tri vô giác mà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân nó được thể hiện với những cá tính rõ nét. Đó là những tính cách độc đáo thể hiện qua sự hùng vĩ và thơ mộng. Nói về sông Đà , ta không thể quên được những hình ảnh của đá: đá bờ sông “dựng thành vách, chẹt giữa lòng sông như cái yết hầu” hay đá lòng sông “cả một chân trời đá nhổm dậy vồ lấy thuyền”,”đá chia nhau giao việc cho mỗi hòn, cùng phối hợp đói phó con người”. Hình ảnh những cái hút nước ghê rợn như những cạm bẫy khó lường là mối đe dọa lớn với người lái đò “như những cái giếng bê tông được thả xuống” hay “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Hay đó là sóng nước “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”,”cuồn cuộn luồn gió gùn ghè suốt năm” như con người mang tâm địa hiểm trở. Hay đó còn là tiếng thác nước với “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên “ hay mặt nước”hò la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy cán chèo”.. những hình ảnh đó của sông Đà hùng vĩ, bí hiểm hung bạo mà đầy những chông gai, thử thách là hiện thân của thứ kẻ thù luôn thách thức, tấn công và cực kì nguy hiểm với con người. Bên cạnh sự hung bạo, hùng vĩ thì nét trữ tình thơ mộng của con sông được Nguyễn Tuân khắc họa bằng dáng vẻ yêu kiều, mềm mại “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình” là con sông tràn đầy sức sống, hòa mình trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng Tây Bắc và cuộc sống con người miền Tây. Sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa: mùa xuân thì êm đềm, yên ả còn mùa thu thì thác lũ dữ dội “mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích”, “mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu”. Tác giả “đằm đằm, ấm ấm như được gặp lại cố nhân “ sông Đà không còn là con sông hung bạo hiểm trở , không còn là những thác nước cheo leo hay những bờ đá dựng đứng đầy hiểm trở mà con sông ở đây hiền hòa, gần gũi, trở thành người bạn thân thiết tri kỉ của con người. lúc đó, nhà văn phát hiện màu nắng trên sông Đà , một màu nắng ấm, chan hòa, rực rỡ gợi lên sức sống mãnh liệt cho con người. Cảnh ven sông tĩnh lặng, hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xa xưa, đưa nhà văn vào huyền thoại, cổ tích của thế giới xa xưa , nguyên sơ, vĩnh hằng. Bằng cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên , nhân hóa, liên tưởng tưởng tượng tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có. Nghệ thuật đối lập tương phản khiến con sông khi hung bạo, hiểm trở khi thơ mộng trữ tình. Tác giả sử dụng tối đa vốn hiểu biết phong phú cùng với những phép so sánh, nhân hóa, những liên tưởng, tưởng tượng rất mới để khắc họa chân dung của dòng sông gợi câu văn uyển chuyển mộc mạc giàu chất thơ. Qua đó , sông đà hiện lên là một dòng sông hung bạo, hùng vĩ nhưng rất thơ mộng, trữ tình đẹp như trong hyền thoại, hiện lên như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với Tây Bắc. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 125
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bên cạnh khắc họa con sông thì con người nơi đây dược Nguyễn Tuân đặt trong tình huống có thử thách , đó là hoàn cảnh khắc nghiệt phải đối đầu giành sự sống từ những con thác, đó là cuộc chiến đấu hàng ngày với kẻ thù số một. tuy nhiên đó là cuộc chiến không cân sức bởi lẽ thiên nhiên nơi đây hùng vĩ thế nào thì con người lại nhỏ bé như vậy. Nhưng dù con người có nhỏ bé đến đâu thì vẫn có thể thắng được con sông hung bạo này. Qua ba lần phá vòng vây dũng cảm: lần thứ nhất “dù bị thương nhưng ông lái đò vẫn cố nén vết thương chân bám chặt lấy cuống lái”,” vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái “. Người đọc thấy được sự tỉnh táo, gan dạ đầy bản lĩnh của người lái đò. Lần thứ hai dù bị bao vây, ngăn chặn nhưng “không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt ông đã đổi luôn chiến thuật”, nắm chắt binh pháp, thuộc những quy luật của dòng sông , ứng xử thông minh, có kinh nghiệm và biết vận dụng thành công để phá tan vòng vây của giặc. “ nhớ mặt , tránh mà rảo bơi chèo lên”. Lần ba có sự mạnh bạo hơn hai lần trước “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa”, “ thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước vừa xuyên vừa tự động lái được” kinh nghiệm kết hợp với tài trí và lòng dũng cảm đã đem lại thành công cho con người trong quá trình vượt thác. Thế mới thấy lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là người nghệ sĩ tài hoa trong quá trình vượt thác. Đó là sự kết hợp giữa trí và dũng , giữa tài hoa và nghệ sĩ, đó là “thứ vàng mười của Tây Bắc “. Bằng nghệ thuật dựng cảnh tạo nên cuộc chiến đầy cam go, kịch tính, qua đó tác giả ca ngợi vẻ đệp của con người lao động trong cuộc chiến chinh phục tự nhiên.Với thủ pháp đối lập tương phản , tác giả đã khắc họa vẻ đẹp của con người trong thử thách là “ chất vàng mười đã qua thử lửa”. Tác phẩm là một công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, một thiên anh hùng ca vượt thác , cũng là một bản tình ca say đắm về thiên nhiên và con người cũng như cuộc sống người dân nơi đây. Những thông tin mà Nguyễn Tuân cung cấp sinh động mà không khô khan nhờ nghệ thuật tùy bút tài hoa phóng khoáng, tự do, giàu sức hút, cảm xúc trữ tình của mình. Hai ý kiến trên đề cập đến hững phương diện khác nhau khi đánh giá vẻ đẹp và giá trị của tác phẩm .”đó là công trình khảo cứu công phu” thiên về chất trí tuệ trong lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ. Sự say mê, khám phá vẻ đẹp của đất nước và con người lao động. Còn “ đó là một áng văn giàu tính thẩm mĩ” nhấn mạnh tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ say mê cái đẹp, sự sáng tạo. Hai ý kiến không đối lập mà chúng bổ sung cho nhau để đánh giá toàn diện , sâu sắc giá trị tùy bút NLĐSĐ. NLĐSĐ là một kí phẩm kiệt xuất qua đó thấy được sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Ông đã khắc họa thành công ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp con người và thiên nhiên Tây Bắc nơi đây. Qua đó, tác giả gửi gắm tình yêu thiên nhiên và sự gắn bó với đất nước , con người của nhà văn. Đề 9 :Phân tích phong cách Nguyễn Tuân trong bài ”Người lái đò sông Đà” Đáp án :http://thutrang.edu.vn/bai-van-mauphan-tich-phong-cach-nguyen-tuan-trongbai-nguoi-lai-song-da GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 126
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ài làm: Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến cái gọi là “chủ nghĩa xê dịch”. Thích “xê dịch” nên hay viết về những cái gì liên quan đến “xê dịch” như đường sá, sông nước, xe cộ, tàu thuyền, những người có máu giang hồ, du lịch, những người lái xe lái đò… Ông cũng thích những cái gì gây cảm giác mãnh liệt. Thực ra, chủ nghĩa xê dịch, nói như Nguyễn Tuân, cũng là một cách để luôn luôn “thay thực đơn cho giác quan”. Vì thế ông thích tả những cái gì hoặc dữ dội, hoặc mãnh liệt, hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, tả gió, tả bão, tả thác nước dữ dội… Nguyễn Tuân cũng là người yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cây cỏ trên đất nước mình. Đề tài bài tuỳ bút Người lái đò sông Đà đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu trên của phong cách Nguyễn Tuân Bài tuỳ bút có hai nhân vật: con sông Đà và người lái đò sông Đà. Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là “hung bạo và trữ tình”: hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người… ở đây. sông Đà có “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người: hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác. Trữ tình là ở những đoạn xuồi chèo êm ả. Dòng sông như một “áng tóc trữ tình”, nước sông thay đổi màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nén thơ. những con thuyền đuôi én độc đáo… Về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân thiết của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ) Người lái đò sống Đà thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đấy là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đẩy giá trị tạo hình của mình để diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, mọi tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân: tiếng nước thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”, rổi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”… Còn hình ảnh ông lái đò thì: “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo sệch đi”, “cưỡi lên thác”, “nắm chặt lấy được cái bờm sóng”, “ghì cương”, “phóng nhanh”, “lái miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”, “đè sấn lên mà chặt đôi” con thác… Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ. thuật. và con người ở phương diện tài hoạ nghệ sĩ, Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hơá “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà thì mùa xuân là “dòng
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 127
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang xanh ngọc bích”, mùa thu thi “lừ lừ chín đỏ” có lúc lại loé lên cái “màu nắng tháng ba Đường thi Tên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu”… Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi tình huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc… Nguyễn Tuân gọi thế là ’tay lái ra hoa”. Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả một đối tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật thể hiện của thuật khác như: hội họạ. điêu khác, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh.. Bài kí Người lái đò sông Đà cũng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên. Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng kĩ thuật phim ảnh: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà, từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược (…) lên một cái một giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Ở bài tuỳ bút sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy được vận dụng trong vần chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tia, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng… Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình – một vốn văn hoá phong phú lịch lãm hiếm thấy – làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hoá cao. Bài Người lái đò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế của nd, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà về con sông ở miền Tây Tổ quốc này. Phong cách Nguyễn Tuân nối chung rất độc đáo và phong phú, nhưng ở mỗi tác phẩm lại phô bày những khía cạnh khác nhau, ở bài Người lái đò sông Đà người ta thấy phong cách nghệ thuật của ông thể hiện rõ nhất ở sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, góc cạnh đủ sức diễn tả những cảm giác kia, ở lối văn rất mực tài hoa và lịch lãm thể hiện ở cách nhìn sự vật, con người khiến cho bài kí vừa cd giá trị văn học cao, vừa cổ giá trị thông tin văn hoá phong phú. (Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh ) Các em có thể tìm đọc nhiều đề thi khác về Người lái đò sông Đà tại đây : http://thutrang.edu.vn/tag/nguoi-lai-do-song-da GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 128
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
8.AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG Hoàng Phủ Ngọc Tường KHÁI QUÁT 1. Tác giả – Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường đặc biệt về thể bút ký, tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý… 2. Tác phẩm 2.1. Xuất xứ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài tùy bút suất sắc viết tại Huế năm 1981, rút từ tập bút ký cùng tên. 2.2. Tập bút ký: gồm 8 bài ký, viết ngay sau năm 1975, trong đó thấm đẫm lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng. Những cảm hứng ấy được thể hiện rõ nét trong tình yêu, lòng tự hào sâu sắc của nhà văn đối với vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên đất nước, với truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc, với những phẩm chất cách mạng kiên cường của con người Việt Nam thời đại mới. Những nội dung ấy được truyền đạt bởi một ngòi bút tài hoa với những hiểu biết sâu rộng, lối hành văn hướng nội, đẹp sang trọng, súc tích và tinh tế. 2.3. Cảm hứng: dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Dòng sông quê hương được soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch sử, địa lý, văn hóa… Qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế. Bài tùy bút mang đậm phong cách tùy bút bởi giọng văn phóng túng và sự bộc lộ cái “tôi” suy tư, trữ tình của nhà văn. TÌM HIỂU TÁC PHẨM 1. Dòng sông Hương trong góc nhìn địa lý a) Dòng sông nơi thượng nguồn – Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. – Nói tới sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đã không ngừng lại ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” với vẻ đẹp sang trọng cổ kính của sông Hương trong thành Huế, ông đã khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dòng sông trước khi nó về tới Huế. Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lý giải trong cái nhìn sâu sắc về cội nguồn – và đó cũng là một cảm hứng quen thuộc của tình yêu.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 129
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính + Hình ảnh về “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn, bởi “trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. + Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”… + Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa qua những hình ảnh đối lập đã giúp nhà văn làm hiện lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp. Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do đó sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ. + Không dừng lại trong những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hóa khiến dòng sông được miêu tả như một “cô gái Digan khóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. – Sắc thái nhân hóa càng đậm nét khi nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức địa lý thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những thác ghềnh bão táp, sự trí tuệ của những con người từng trải và đầy bản lĩnh để có thể giấu kín gian truân sóng gió trong vẻ êm đềm, bình lặng, tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt và vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”– những thét gào man dại, những phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng châu thổ. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 130
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
b) Sông Hương về tới đồng bằng – Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu. – Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ nên một hành trình sống động của dòng sông. Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại”, sông Hương hiện ra như một “cô gái đẹp mơ màng”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”. Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Hành trình tìm kiếm của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí tuệ” đã cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường, giấu mình trong vẻ dịu dàng, duyên dáng. – Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và tỏng cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp phong phú của cảnh vật đôi bờ: sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa; thấm vào lòng mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Van Niên đồ sộ. Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, cái nhìn trìu mến và lãng mạn của nhà văn đã thấy dòng sông đã như bừng sáng tươi tắn khi gặp mênh mang “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ… Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kỳ diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế – thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, “người con gái dịu dàng” của mình. Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả trong cảm quan cắt nghĩa đã làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối cảnh kỳ thú giữa dòng sông và cảnh sắc phong phú, đa dạng của thiên nhiên xứ Huế.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 131
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang c) Sông Hương khi về tới Huế Hội họa: Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị. – Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế. – Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ. Đó là việc “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến”, với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế. – Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng. Âm nhạc: Qua cách cảm nhận của âm nhạc, sông Hương đẹp và êm đềm như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng. – Chất âm nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ. Đó là một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian. Chất liệu miêu tả đã làm hiện hữu sinh động đối tượng miêu tả, nhịp điệu ngôn từ đã mô phỏng tài hoa nhịp điệu êm đềm, yên ả của dòng sông.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 132
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sông Hương: “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông; có lúc nhà văn không giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh dòng chảy băng băng của sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ” của dòng sông xứ Huế, nhà văn còn cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một dòng sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. – Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế” – một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô, luôn gắn bó và làm nên một phần linh hồn của dòng sông xứ Huế. Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến dòng sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm. 2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc Nhìn từ góc độ địa lý, sông Hương khúc thượng nguồn là “bản trường ca của rừng già”; về tới Huế, sông Hương mang âm hưởng của một điệu slow chậm rãi sâu lắng, một bản tình ca tình tứ ngọt ngào; nhưng nếu đặt trong quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương lại là bản anh hùng ca hào hùng, bi tráng, là chứng nhân nhẫn nại, kiên cường của cuộc đời qua bao thăng trầm trong lịch sử. – Là một trong số những dòng sông có mặt từ thuở đầu lập nước, sông Hương đã chứng kiến và tham gia hầu hết những biến cố quan trọng vừa oanh liệt vừa đau thương trong suốt chiều dài của lịch sử của dân tộc. Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sông biên thùy của đất nước các vua Hùng, thuở còn mang tên Linh Giang – dòng sông thiêng; trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng sông “viễn châu”, dòng sông ở chốn xa xôi của Tổ quốc đã cùng con người tham gia vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền nước Đại Việt thân yêu. Dòng sông cũng đã từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của bao cuộc khởi nghĩa”. Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX, sông Hương lại đóng góp sức mạnh của mình để làm nên chiến thắng, từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến mùa xuân Mậu Thân năm 68, sông GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 133
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Hương kiên cường chịu đựng nỗi đau của những mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mỹ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại. Cũng vì thế, sông Hương đã trở thành một “nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. – Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng tới thời đánh Mỹ, nhà văn đã thể hiện không chỉ tình yêu mà còn là niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương. Tác giả coi sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang” – sông Hương đã mang trong mình nó những âm vang hào hùng, bi tránh của dòng thời gian lịch sử với cả những chiến công và những đau thương. Sông Hương còn được coi là dòng sông “của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” – nghệ thuật ẩn dụ đã làm hiện lên vai trò của một chứng nhân lịch sử, cách miêu tả tinh tế lại gợi ra những sắc thái khác nhau cùng tồn tại trong một dòng sông, vì sử thi còn được gọi là anh hùng ca, là thể loại gắn với những chiến công, gợi đến chiến tranh; nhưng “màu cỏ lá xanh biếc” lại là sắc màu mang chất trữ tình của cuộc sống, của tình yêu và sự bình yên. Sông Hương vì thế vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng. 3. Sông Hương với những vẻ đẹp nhìn từ văn hóa và thi ca – Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn đã coi sông Hương là cội nguồn sinh thành của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế. Sự thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi trầm bổng từ những mái chèo khuya thánh thót khiến nhà văn liên tưởng đến “phiến trăng sầu” của Nguyễn Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương, nhớ đến giai điệu du dương của Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế tương truyền do Tự Đức sáng tác. Theo cảm nhận chủ quan với rất nhiều thiên vị của tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng có lẽ vẻ đẹp buồn lãng mạn của sông Hương là nguyên nhân của nhiều liên tưởng về mối quan hệ kỳ diệu giữa dòng sông đêm, bản nhạc và câu thơ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” Sông Hương thực sự trở thành nguồn cảm hứng vô tận của âm nhạc và thi ca, và chính dòng sông cũng là bản nhạc êm đềm, những khúc tình ca xao xuyến lòng người. – Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao giờ lặp lại mình, mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới mẻ, độc đáo về dòng sông. Điều đó không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan của thi sỹ mà còn vì những vẻ đẹp phong phú, biến ảo của dòng sông. +Với trí tưởng tượng say đắm của nhà văn, sông Hương hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau của một cô gái, khi là “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, có lúc “tự hiến đời mình làm một chiến công”, có lúc lại trở về trong “cuộc sống bình thường, là một người con gái dịu dàng của đất nước”. Người con gái ấy chắc chắn phải là cô gái Huế tài hoa và sâu sắc, tình tứ và dịu ngọt, lẳng lơ kín đáo mà rất mực chung GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 134
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang tình, biết làm đẹp một cách ý nhị duyên dáng với chút sương khói như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên” + Người con gái – sông Hương ấy khơi gợi những cảm hứng khác nhau cho các nhà thơ, khi là “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, khi mang vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, khi lại là “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong những bài thơ Tố Hữu. Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, nhà văn đã ngưỡng mộ ngợi ca: “Dòng sông quả thực là Kiều, rất Kiều” – niềm trân trọng thân yêu đã biến một danh từ chỉ tên người được tính từ hóa, khẳng định vẻ đẹp đa đoan say lòng người của một dòng sông “trong veo” có thể cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời: “Không gian sặc sụa mùi ô uế Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi” – Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi của một nhà thơ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, câu hỏi bâng khuâng này cũng là nhan đề của bài bút ký, đã làm rõ cảm hứng cắt nghĩa, cảm hứng của tình yêu và niềm ngưỡng mộ say mê với dòng sông bởi tình yêu đích thực luôn khát khao đi đến tận cội nguồn. Dòng sông được ai đó gọi là sông Hương – cái tên gợi cảm nhận thơm tho thanh quý, vừa lãng mạn vừa quý giá, gợi đến những ẩn dụ của nhà văn về người con gái sông Hương có chút “lẳng lơ kín đáo” mà vẫn thật “dịu dàng”, “mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đoạn trích bài bút ký mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phong túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng. – Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc. Thu Trang biên soạn. Bài viết có sử dụng một số tư liệu từ Internet. Bài bút kí này, các em ôn tập theo định hướng câu hỏi như sau : Dạng 1 : Cảm nhận hình tượng sông Hương- Ai đã đặt tên cho dòng sông- Hoàng Phủ Ngọc Tường Dạng 2 : Cảm nhận về đoạn trích trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông- Hoàng Phủ Ngọc Tường Các em chú ý mấy đoạn sau : -.Cảm nhận đoạn “Trong các dòng sông đẹp ở các nước…bát ngát tiếng gà”. -.Cảm nhận đoạn: “Từ đây như tìm thấy đường về…mãi chung tình với quê hương xứ sở” Dạng 3 : Chứng minh nhận định về tác phẩm, nhận định về sông Hương. Ví dụ : chứng minh sống Hương mang vẻ đẹp nữ tính và rất mực đa tình GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 135
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Dạng 4 : Dạng đề So sánh văn học Ví dụ so sánh Hình tượng sông Hương -“Ai đã đặt tên cho dòng sông”- Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Đà – “Người lái đò sông Đà” -Nguyễn Tuân. Ví dụ so sânh đoạn văn miêu tả sông Đà và đoạn văn miêu tả sông Hương So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai đoạn trích, … Một số đề tham khảo : Đề 1 : Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó bằng cảm nhận của anh/chị về những đoạn văn sau: …Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng… …Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về… (Nguyễn Tuân – Người lái đò Sông Đà) và …Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng… …Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả …” (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông?) Đáp án ở link này : http://thutrang.edu.vn/so-sanh-phong-cach-nghe-thuat-cua-nguyen-tuan-va-hoangphu-ngoc-tuong-qua-hai-doan-van GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 136
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đề 2 : Vẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đáp án : http://thutrang.edu.vn/so-sanh-ve-dep-xu-hue-trong-day-thon-vi-da-va-ai-da-dat-tencho-dong-song Hướng dẫn cách làm bài : Mở bài : Giới thiệu bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Giới thiệu bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường Giới thiệu vấn đề nghị luận : Vẻ đẹp xứ Huế qua hai tác phẩm Thân bài : Luận điểm 1 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử +Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động. Con người xứ Huế hiền lành, phúc hậu. +Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền chở đầy ánh trăng nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. +Khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Tóm lại : Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Luận điểm 2 : Phân tích vẻ đẹp xứ Huế trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thực chất là phân tích vẻ đẹp của dòng sông Hương Có thể tham khảo những ý chính sau: – Vẻ đẹp được phát hiện ở cảnh sắc thiên nhiên: Sông Hương có vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của rừng già” khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn; có vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ khi trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa đất cố đô, có vẻ đẹp phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, có vẻ đẹp “trầm mặc” khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn; có vẻ đẹp mang màu sắc “triết lí, cổ thi” khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long; có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó dời xa dần thành phố để đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ…. – Vẻ đẹp sông Hương nhìn từ góc độ văn hóa. Tác giả cho rằng đã có một dòng thi ca về con sông Hương, một dòng thơ không lặp lại mình, ấy là “dòng sông trắng- lá cây xanh”, trong thơ Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 137
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Cao Bá Quát, là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu. – Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử: sông Hương từng là dòng sông bảo vệ biên thùy tổ quốc thời Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, từng chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi đến cách mạng tháng tám, chiến dịch mậu thân năm 1968…. – Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của tác giả: Ông đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, từng có lúc là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều đục. “Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…”. Luận điểm 3 : Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt *Nét tương đồng: – Cả hai nhà thơ đều lấy những địa danh nổi tiếng của xứ Huế (Vĩ Dạ và sông Hương) làm điểm nhấn và khởi hứng cảm xúc. – Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiênnhiên, cảnh sắc con người xứ Huế rất riêng, rất thơ mộng. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác giả. – Cả hai đều là những cây bút tài hoa,tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú. *Nét khác biệt: –Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử nên điểm nhìn cảm xúc trong một khônggian hẹp, cái nhìn từ kí ức. Cảnh vật của xứ Huế hiện lên với những nét đặctrưng rất bình dị, quen thuộc, gần gũi nhưng cũng thật lãng mạn: cảnh khu vườn mướt như ngọc, sông trăng huyền ảo, con người với vẻ đẹp đằm thắm, dịudàng…cảnh vật in đậm cảm xúc về tình đời, tình người. – Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn. Vẻ đẹp của xứ Huế hiện lên ở rất nhiều góc độ từ quá khứ cho đến hiện tại, từ lịch sử, thơ văn đến địa lí, văn hóa….Vì thế vùng đất cố đô hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế,là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa. Luận điểm 4 : Lí giải sự khác biệt +Xuất phát từ đặc điểm của thể loại thơ và bút kí là khác nhau. Thơ nghiêng về cảm xúc, tâm trạng. Bút kí không chỉ đòi hỏi có cảm xúc mà ít nhiều có tính xác thực và khách quan. + Đối với Hàn Mặc Tử, Huế là nơi tác giả từng gắn bó, giờ đã trở thành kỉ niệm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con của xứ Huế nên chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn máu thịt của ông. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 138
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Kết bài : Đánh giá chung về sự sáng tạo của mỗi tác giả Đề 3 :Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó, trình bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước. Đáp án : http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-hai-hinh-tuong-song-da-va-song-huong-ngu-van12 Đề 4 : Phân tích vẻ đẹp sông Hương trong bài bút kí Đáp án: http://thutrang.edu.vn/hinh-tuong-song-huong-trong-bai-ai-da-dat-ten-cho-dongsong-hoang-phu-ngoc-tuong Mở bài : Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường ( ngắn gọn thôi nhé) Giới thiệu tác phẩm và hình tượng sông Hương @@@ Mở bài tham khảo : “Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này. Thân bài : Vẻ đẹp sông Hương có thể phân tích trên những nét sau: 1. Sông hương vùng thượng lưu được miêu tả và so sánh như cô gái Di Gan phóng khoáng và man dại: – Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm. – Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông được thể hiện qua những so sánh : “Như một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc nó lại hiền lành trữ tình “dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. – Dòng sông được nhân hoá : như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Đó là sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, nó “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá sứ sở”. 2. Sông Hương ở đồng bằng: – Với vốn hiểu biết về địa lí đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ về sông Hương với hình ảnh: “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 139
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén ; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồiThiên Mụ, xuôi dần về Huế”. – Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” – Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, có hình khối: “Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” – Người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố: “sớm xanh , trưa vàng, chiều tím”. – Sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long, có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ. 3. Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng: – Đấy là hình ảnh chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” – Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói của tình yêu”, “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. – Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinh…khúc quanh này thật bất ngờ…Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. – Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”.Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang vọng khắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. 5. Vẻ đẹp sông Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa: – Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. – Tác giả tưởng tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này. – Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ tới Nguyễn Du: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu.Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 140
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 6. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử: – Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Nó được ghi là Linh giang” – Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. – Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. – Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”. – Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. – Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, lịch sử dân tộc. 7. Nét đặc sắc của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường: – Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người. – Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân – Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như : So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,… – Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Lưu ý : Các em có thể chia luận điểm theo cách khác nhé! trên đây chỉ là dàn ý tham khảo Kết bài : Nhận xét chung về vẻ đẹp dòng sông và tài năng nghệ thuật của tác giả @@@ Kết bài tham khảo : Có lẽ đối với Hoàng Phủ Ngọc tường nói riêng, với nhân dân Huế nói chung thì sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ của xứ Huế suốt mấy nghìn năm lịch sử.Bằng ngòi bút tinh tế, cảm xúc chân thành và tấm lòng yêu thương sâu sắc , Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về sông Hương-một vẻ đẹp rất riêng, rất dịu dàng, rất Huế khiến người đọc muốn một lần đến đó tận hưởng. Còn nhiều đề thi nữa, các em vào link này để đọc nhé : http://thutrang.edu.vn/tag/ai-da-dat-ten-cho-dong-song Thường xuyên truy cập website để cập nhật những bài viết mới nhất. 9. VỢ CHỒNG A PHỦ- TÔ HOÀI Phần 1 : Kiến thức cơ bản I. Vài nét chung 1. Tiểu dẫn a. Tác giả: Tên khai sinh: Nguyễn Sen – Sinh năm: 1920. – Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. – Viết văn từ trước Cách mạng – sáng tác với nhiều thể loại Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 141
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – 1996: Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. – Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953)… b. Tác phẩm: In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. II. Đọc – hiểu văn bản 1. Tìm hiểu văn bản a. Nhân vật Mị * Cuộc đời làm dâu gạt nợ: – Thời gian: “Đã mấy năm”, nhưng “từ năm nào cô không nhớ …” => không còn ý thức về thời gian, không còn ý thức về cuộc đời làm dâu gạt nợ. – Không gian: tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…khe suối… + Căn buồng kín mít. => Không gian hẹp, cố định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn… – Hành động, dáng vẻ bên ngoài: + Cúi mặt, buồn rười rượi, đêm nào cũng khóc … + Trốn về nhà, định tự tử … + Cúi mặt, không nghĩ ngợi … vùi vào làm việc cả ngày và đêm. – Suy nghĩ: Tưởng mình là con trâu, con ngựa nghĩ rằng “mình sẽ ngồi trong cá lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi…”. + Ngày Tết: chẳng buồn đi chơi… => Nghệ thuật miêu tả sinh động, cách giới thiệu khéo léo, hấp dẫn, nghệ thuật tả thực, tương phản (giữa nhà thống lý giàu có với cô con dâu luôn cúi mặtkhông gian căn guồng chật hẹp với không gian thoáng rộng bên ngoài). => Cuộc đời làm dâu gạt nợ là cuộc đời tôi tớ. Mị sông tăm tối, nhẫn nhục trong nỗi khổ vật chất thể xác, tinh thần…không hy vọng có sự đổi thay. * Sức sống tiềm tàng: – Thời con gái: Vốn là một cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều người say mê – có tình yêu đẹp. – Khi xuân về: + Nghe – nhẩm thầm-hát. + Lén uống rượu-lòng sống về ngày trước. + Thấy phơi phới – đột nhiên vui sướng. + Muốn đi chơi (nhắc 3 lần). => Khát vọng sống trỗi dậy – Bị A Sử trói đứng: + Như không biết mình bị trói. + Vẫn nghe tiếng sáo … + Vùng đi – sợ chết. => Khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi cởi trói cho A Phủ: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 142
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Lúc đầu: vô cảm ” A Phủ có chết đó cũng thế thôi “. + Thấy nước mắt của A Phủ: thương mình, thương người. => Mị cởi trói cho A Phủ – giải phóng cho A Phủ là giải phóng cho chính mình. => Hành động có ý nghĩa quyết định cuộc đời Mị-là kết quả tất yếu của sức sống vốn tiềm tàng trong tâm hồn người phụ nữ tưởng suốt đời cam chịu làm nô lệ. => Cuộc đời Mị là cuộc đời nô lệ điển hình của người phụ nữ dưới chế độ cũ. b. Nhân vật A Phủ * Cuộc đời: – Lúc nhỏ: Mồ côi, sống lang thang => Bị bắt bán – bỏ trốn. – Lớn lên: Biết làm nhiều việc. Khoẻ mạnh, không thể lấy nổi vợ vì nghèo. + Dám đánh con quan => Bị phạt vạ => làm tôi tớ cho nhà thống lý. + Bị hổ ăn mất bò => Bị cởi trói, bị bỏ đói… * Sức sống mãnh liệt: Bị trói: Nhay đứt 2 vòng dây mây quật sức vùng chạy => Khát khao sống mãnh liệt. => Cuộc đời A Phủ cũng là một cuộc đời nô lệ điển hình. 2. Cảnh xử kiện – Diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra từ các lỗ cửa sổ như khói bếp … – Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể chửi lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm – A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá… – Cảnh cho vay tiền: Kỳ quặc…Biểu hiện đậm nét sự tàn ác dã man của bọn thống trị miền núi. => Hủ tục và pháp luật nằm trọn trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lý Pá Tra. => Cha con thống lý Pá Tra điển hình cho giai cấp thống trị phong kiến miền núi ở Tây Bắc nước ta trước Cách mạng. 3.. Vài nét nghệ thuật + Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét (Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn). + Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…). + Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ. + Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. + Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Tổng kết Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 143
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích. Phần 2 : Một số dạng đề thi về Vợ chồng A Phủ Dạng 1 : Cảm nhận, phân tích nhân vật : có hai nhân vật : Mị và A Phủ Dạng 2 : Cảm nhận về đoạn trích trong bài :Vợ chồng A phủ Tô Hoài Các em lưu ý những đoạn sau : – Cảm nhận đoạn trích: “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi [….]Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. – Cảm nhận đoạn trích: “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ[…] không biết sáng tự bao giờ”. – Cảm nhận đoạn trích: “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn[…]Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi”. – Cảm nhận đoạn trích: “Lần lần mấy năm qua, mấy năm sau[…]Đến bao giờ chết thì thôi”. Dạng 3 : Dạng đề so sánh : Ví dụ :so sánh Mị với các nhân vật : Người đàn bà làng chài, Bà cụ Tứ, Người vợ nhặt, … so sánh đoạn văn miêu tả tiếng sáo ngoài đầu núi với đoạn văn miêu tả tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,… trong bài Chí Phèo Dạng 4 : Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, tác phẩm,… Dạng 5: Liên hệ thực tế : (ví dụ đề bài cho phân tích nhân vật Mị, sau đó yêu cầu liên hệ tới hình ảnh , số phận người phụ nữ chẳng hạn ) Một số đề bài tham khảo : Đề 1 : Đề bài :Phân tích và so sánh sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ( “Vợ chồng A phủ- Tô Hoài) Xem đáp án tại đây : http://thutrang.edu.vn/on-tap-vo-chong-a-phu-to-hoai Bước 1: Khái quát nhân vật: – Mị là một cô gái trẻ đẹp. đảm đang, duyên dáng, thổi sáo giỏi, được nhiều chàng trai yêu mến ngày đêm thổi sáo đi theo. -Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nghèo ở miền núi ngày trước: có những phẩm chất tốt đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa trong cuộc sống nô lệ.Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra (Phần này chỉ nêu ngắn gọn, không phân tích ) – Bị vùi dập đến cùng nhưng ở người con gái ấy vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân Bước 2 :Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân Yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm trạng và hành động của Mị:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 144
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng vàng ửng…” Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị -Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”.Ngày tết Mị cũng uống rượu. Mị ngồi bên bếp lửa “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mị, đánh thức quá khứ, đưa Mị trở về với mùa xuân cũ. Vị ngọt ngào của quá khứ bất giác nhắc nhớ vị cay đắng trong hiện tại. Mị thấm thía đau khổ, lại nghĩ đến cái chết. – Hiện tại và quá khứ, thân phận và khát vọng giao tranh gay gắt trong Mị. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. “Mị muốn đi chơi”. Mị thay váy áo chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mị không khác nào một sự nổi loạn. – Sức sống trào dâng mãnh liệt đến mức ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột nhà, Mị vẫn không biết mình bị trói, vẫn vùng bước đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu như người mộng du. Những vết trói đau thít, tiếng chân ngựa đạp vách, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. -Tô Hoài đã khám phá và phát hiện đằng sau một tâm hồn câm lặng vẫn còn một tâm hồn khát khao sống, khát khao yêu, đằng sau một con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa còn có một con người. Bước 3 :Phân tích sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong Đêm đông cứu A Phủ – Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Tâm hồn Mị đã trở lại với sự câm lặng, vô cảm từ sau đêm tình mùa xuân ấy. – Cho đến khi nhìn thây một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị mới xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của mình. – Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị chấp nhận chịu sự trừng phạt của nhà thống lý và quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. – Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối và sau đó vụt chạy theo A Phủ bởi “Ở đây thì chết mất”. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, là hành động bất ngờ nhưng tất yếu. Mị cắt đay trói cứu A Phủ đồng thời cũng tự giải thoát cho chính mình. Hành động ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách của Mị – một người con gái giàu sức sống. Bước 4: chỉ ra điểm giống và khác nhau trong tâm trạng, hành động của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ. a. Giống nhau: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 145
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Sự trỗi dậy sức sống ở cả hai lần đều có cơ sở là bản tính mạnh mẽ, không dễ chấp nhận số phận của Mị. Cả hai lần đều là khi Mị thoát khỏi trạng thái vô cảm ngày thường. – Hai tình huống đã khẳng định tài năng phân tích tâm lí nhân vật và chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. b. Khác nhau: – Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ định giải thoát trong chốc lát -Lần thứ hai không có sự hỗ trợ của ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của cả cường quyền lẫn thần quyền. Với hành động này, Mị đã chiến thắng số phận. c.Lí giải sự khác nhau đó :Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong lòng Mị luôn tiềm ẩn sức sống tiềm tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc, càng bị vùi dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, Mị cắt dây trói cứu A phủ và cũng cắt sợi dây vô hình ( thần quyền và cường quyền) để tự giải phóng mình. Kết luận :Đánh giá chung Đề 2 : Câu hỏi đọc hiểu về Vợ chồng A phủ Tô Hoài Đám than đã vạc hẳn lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy sợ…Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ biết có người bước lại… Mỵ rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh.Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mỵ đứng lặng trong bóng tối. Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc. (Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) (Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào? Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ? Các từ láy trong văn bản trên đạt hiệu quả nghệ thuật như thế nào ? Xác định ý nghĩa nghệ thuật của hình ảnh cái cọc và dây mây trong văn bản ? Tại sao câu văn Mỵ đứng lặng trong bóng tối. được tách thành một dòng riêng? GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 146
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nêu ý nghĩa của đoạn văn trên Từ văn bản, viết một đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về tình yêu thương con người của tuổi trẻ hôm nay. Trả lời : Câu 1 : Phương thức tự sự Câu 2 : Đoạn văn thể hiện tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa. Câu 3 : Các từ láy rón rén , hốt hoảng, thì thào diễn tả tâm trạng và hành động của Mị khi cởi trói cho A Phủ. Nó chứng tỏ tâm trạng lo sợ và hành động nhẹ nhàng từ bước đi đến lời nói của Mị. Điều đó phù hợp với quá trình phát triển tính cách và tâm lí nhân vật Mị Câu 4 : Hình ảnh cái cọc và dây mây trong văn bản : -Ý nghĩa tả thực : nơi để trói và dụng cụ để trói A Phủ của thống lí Pá Tra để đổi mạng nửa con bò bị hổ ăn thịt. -Ý nghĩa tượng trưng : Biểu tượng cho tội ác, áp bức bóc lột của bọn chúa đất miền núi 5/ Câu văn được tách thành một dòng riêng. Nó như cái bản lề khép lại quãng đời tủi nhục của Mị, đồng thời mở ra một tương lai hạnh phúc. Nó chứng tỏ tâm trạng vẫn còn lo sợ của Mị. Hành động của Mị vừa có tính tự giác (xuất phát từ động cơ muốn cứu người), vừa có tính tự phát (không có kế hoạch, tính toán cụ thể), nói cách khác là vì lòng thương người , thương mình, căm thù bọn chúa đất . Nhưng lòng khao khát sống, khao khát tự do đã trỗi dậy, đã chiến thắng sự sợ hãi, để Mị tiếp tục băng đi, chạy theo A Phủ. Đây là một câu văn ngắn, thể hiện dụng công nghệ thuật đầy bản lĩnh và tài năng của Tô Hoài. Ý nghĩa : +Niềm khát khao sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. +Thể hiện sức sống tiềm tàng của nhân vật: Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. +Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. 7.Đoạn văn đảm bảo các ý: – Dẫn dắt, giới thiệu đoạn trích, ý nghĩa của đoạn trích – Khái niệm tình yêu thương? biểu hiện của tình yêu thương? – Tình yêu thương con người của giới trẻ ngày nay như thế nào? – Phê phán thái độ thờ ơ, vô cảm, ích kỉ của một bộ phận thanh niên trong xã hội và hậu quả thái độ đó? – Bài học nhận thức và hành động? Đề 3 :Có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 147
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đáp án ở đây:http://thutrang.edu.vn/de-thi-hay-va-kho-so-sanh-hai-nhan-vat-a-phuva-tnu-ngu-van-12 Hướng dẫn cách làm: Mở bài. Giới thiệu khái quát hai tác phẩm, tác giả và vấn đề nghị luận Mở bài tham khảo: Nguyễn Trung Thành và Tô Hoài là hai nhà văn gắn bó mật thiết với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta. Điểm chung của hai nhà văn là đều có những tác phẩm ngợi ca truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng của nhân dân ta. Tuy cả hai tác giả đều nói về người dân trong cuộc kháng chiến nhưng mỗi nhà văn lại xây dựng nhân vật với những đặc điểm riêng. Tnú trong “Rừng xà nu” và A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” là hai nhân vật tiêu biểu. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Thân bài Giải thích: – Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng – mục đích cao nhất của cuộc sống. – Nhân vật A Phủ của Tô Hoài được coi là nhân vật đang trên đường đi tìm lý tưởng và nhận thức lý tưởng. Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngày khi anh còn nhỏ. → Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Có nghĩa Tnú là hệ nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm chất mới mẻ hơn so với nhân vật đàn anh A Phủ. Điểm gặp gỡ và khác biệt của hai nhân vật 2.1. Điểm gặp gỡ * Đều sinh ra từ những vùng cao xa xôi, hẻo lánh: – A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc. – Tnú sinh tại vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió. * Đều mồ côi: – Cha mẹ A Phủ mất trong dịch đậu mùa khi đó cậu chừng 10 tuổi. Lần lần đi làm thuê cho nhà người. – Tnú cũng mồ côi từ nhỏ được dân làng STrá nuôi dưỡng. * Lớn lên đều là những chàng trai khỏe mạnh, cường tráng: + A Phủ được ví như con trâu tốt trong làng. + Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom. * Cả hai đều có phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi theo cách mạng: – A Phủ + Chống lại A Sử – con quan khi hắn phá cuộc chơi → không sợ cường quyền. + Sau khi được Mị cắt dây cởi trói, chạy đến vùng Phiềng Sa, được người cán bộ A Châu giác ngộ, anh đã là du kích hoạt động rất tích cực. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 148
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Tnú: + Gan góc quả cảm ngay từ nhỏ (Chi tiết: Nuôi giấu cán bộ, nuốt thư khi bị bắt) + Chỉ huy dân làng mài vũ khí, chuẩn bị lực lượng chiến đấu. + Mặc dù chịu nhiều đau thương: vợ con mất, bàn tay bị đốt nhưng anh vẫn đi lực lượng cầm vũ khí chiến đấu. .2.Sự khác biệt a. A Phủ * Cảnh ngộ của A Phủ rất đáng thương. – A Phủ mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ – Nạn nhân của những tập tục phong kiến lạc hậu – Kiếp sống nô lệ ngựa trâu cho nhà thống lí. * Tính cách của A Phủ rất đặc biệt: – Gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì (chi tiết: đánh A Sử; để hổ bắt mất một con bò, anh không van xin, không cầu cứu, đêm cúi xuống nhay đứt hai vòng dây trói; khi được Mị cứu, anh quật sức chạy thoát) – Tuy nhiên do bị đọa đày triền miên khiến trong anh còn rơi vào tình trạng chấp nhận, cam chịu(chi tiết: tập tễnh đi giết lợn phục dịch những kẻ vừa hành hạ mình; một mình rong ruổi ngoài rừng mà không chạy trốn; nghe lời thống lí tự đi lấy cọc, đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình) → thói quen cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống như trong đêm tối không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Đến khi cái chết cận kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống. → Tô Hoài rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra cho người đọc thấy đó làbước tìm đường, nhận đường của A Phủ để sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu (cán bộ Đảng), anh được giác ngộ và sẵn sàng cầm súng trở thành du kích quay về giải phóng quê hương. b. Tnú: – Khác với A Phủ, câu chuyện về cuộc đời của Tnú được mở ra từ chính câu chuyện về A Phủ được khép lại. + Tnú mồ côi nhưng được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của dân làng Xô Man. + Được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết, được dạy chữ để sau này tiếp nối làm cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng ở quê hương. → Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước trước đó chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân. Vì thế, ở Tnú không còn là nhân vật tìm đường nữa, anh đã có những điều kiện thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa với A Phủ – Tnú có một bi kịch đau đớn nhưng vượt lên hoàn cảnh đau thương, anh lên đường vào lực lượng vũ trang tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Đánh giá chung
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 149
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Tnú – người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của mình như anh hùng Núp và A Phủ: + Không phải sống kiếp tội đòi cam phận, cam chịu. + Được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. + Được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ tuổi nhỏ. – Nhưng “Lớp cha trước, lớp con sau / Đã thành đồng chí chung câu quân hành” tất cả các anh đều là những người con ưu tú của núi rừng Tây Bắc, Tây Nguyên trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối. Kết bài: – Đánh giá lại vấn đề – Bài học nhận thức và hành động cho thế hệ trẻ trong cuộc sống, xã hội mới. Đề 4 :Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong “Vợ nhặt” Kim Lân. Đáp án :http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-hanh-dong-mi-chay-theo-a-phu-vahanh-dong-thi-theo-khong-trang-ve-lam-vo Định hướng cách làm bài Mở bài : +Giới thiệu Tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài +Giới thiệu Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân +Giới thiệu vấn đề nghị luận : hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo không Tràng về làm vợ Tham khảo : Có thể nói, khi con người lâm vào bước đường cùng, khi sự sống và cái chết gần kề gang tấc, người ta thường có những hành động bất ngờ, dữ dội, quyết liệt. Sức mạnh ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài và Kim Lân không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương các nhân vật mà hơn thế nữa, các nhà văn còn khắc họa sức sống tiềm tàng, sức trỗi dậy mạnh mẽ của con người trước sự vùi dập của hoàn cảnh. Trường hợp hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ “và hành động thị theo không Tràng về làm vợ( Vợ nhặt” ) là những ví dụ tiêu biểu . Thân bài : 1. Phân tích hành động Mỵ chạy theo A phủ +Vài nét về nhân vật Mỵ : -Là cô gái xinh đẹp, con dâu gạt nợ, bị bóc lột, đày đọa về thể xác và tâm hồn -Cô sống vật vờ y một cái bóng “lùi lũi như 1 con rùa nuôi xó cửa”… + Lí giải hành động Mỵ chạy theo A phủ -Nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ . Ngay sau khi bị rơi vào GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 150
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cảnh làm con dâu gạt nợ cô định tự tử vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy . Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì không muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cô đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát -Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan .Vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết, những yếu tố ngoại cảnh đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ , một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc , tâm trạng và cuối cùng là hành động . -Trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo réo rắt đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”.Nhưng khi bị trói Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và trong lòng lại trào lên một nỗi đau xót, tủi nhục. Mị lại thổn thức , miên mang nghĩ về thân phận không bằng con trâu , con ngựa của mình rồi dần thiếp đi . – Khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói ,ban đầu Mị thật thản nhiên. Mị dường như đã trở nên vô cảm trước tất cả. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…”thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây…Ý nghĩ A Phủ rất có thể sẽ bị chết trong đêm nay đã hoàn toàn đánh thức tình thương và lòng căm hận trong long Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn bạo và vô lí, bất công .Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài ->>. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới. 2. Phân tích hành động thị theo Tràng về làm vợ + Vài nét về nhân vật thị – Cảnh ngộ : Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh – Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ +Phân tích, lí giải hành động theo Tràng về làm vợ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 151
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Bề ngoài Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa ,cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được… ăn! -Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. 3. Nêu sự tương đồng và khác biệt a, tương đồng : -Họ là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn người phụ nữ. -Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ, họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc – Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ-luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp . b. Sự khác biệt : – Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả nội tâm rất tinh tế…trong Vợ chồng A phủ- Tô Hoài ( Phân tích ngắn gọn ) – Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nội tâm, xây dựng tình huống éo le, cảm động trong Vợ Nhặt -Kim Lân ( phân tích ngắn gọn) – Sáng tạo về nội dung : Mỗi nhà văn đều tìm cho mình một hướng đi riêng, khắc họa phẩm chất , số phận của những người phụ nữ trong từng cảnh ngộ khác nhau : Kim Lân tập trung miêu tả số phận người phụ nữ trong nạn đói 1945, Tô Hoài tập trung khắc họa số phận , vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi dưới ách áp bức thống trị của chúa đất phong kiến… 4. Lí giải sự khác nhau +Do thể loại +Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn +Do hoàn cảnh Kết bài : Đánh giá chung Đề 5 : Trong bài cảm nghĩ về chuyện ” Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 152
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ” Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt” ( Tác phẩm văn học 1930- 1975, Tập hai, NXB Khoa học Xã hội, 1990, trang 71) Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn ” Vợ chồng A Phủ” ( đoạn trích được học) của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận xét trên. thutrang.edu.vn/nghi-luan-y-kien-ban-ve-nhan-vat-mi-trong-vo-chong-a-phu-to-hoai Gợi ý: Mở bài: +Giới thiệu tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nhà văn Tô Hoài +Trích dẫn ý kiến trong đề bài: ” Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt” Thân bài Ý1.Giải thích ý kiến: – Nêu rõ cuộc sống cực nhục của người dân nghèo miền núi – Đề cao bản chất tốt đẹp và khẳng định sức sống bất diệt của con người. Ý2. Phân tích a. Con người tốt đẹp bị đày đọa : – Mị có phẩm chất tốt đẹp: + Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời. Cô không những chăm chỉ làm ăn mà còn yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình. + Phẩm chất tốt đẹp nhất của Mị là giàu lòng vị tha, đức hi sinh: Mị thà chết còn hơn sống khổ nhục, nhưng rồi Mị chấp nhận sống khổ nhục còn hơn là bất hiếu, còn hơn thấy cha mình già yếu vẫn phải chịu bao nhục nhã khổ đau. – Bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần: + Mang danh là con dâu thống lí, vợ của con quan nhưng Mị lại bị đối xử như một nô lệ. Mị ở nhà chồng mà như ở địa ngục với công việc triền miên. Mị sống khổ nhục hơn cả súc vật, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm. + Trong cuộc sống tù hãm, Mị vô cùng buồn tủi, uất ức. Muốn sống cũng chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong. “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” dường như Mị bắt đầu chấp nhận thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như “con rùa nuôi trong xó cửa“.Mị sống mà như chết. b. Sức sống tiềm tàng mạnh mẽ: – Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình xuân ở Hồng Ngài: + Bên trong hình ảnh ” con rùa nuôi trong xó cửa“ vẫn đang còn một con người khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người, tất cả đánh thức tâm hồn Mị . Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ . Mị nhớ lại thời con gái, Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ . Trong khi đó, tiếng sáo( biểu tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi sâu vào tâm tư Mị. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 153
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại . Tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi. – Tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra : + Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng đêm ấy, Mị thấy dòng nước mắt trên má A Phủ. Nhớ lại cảnh ngộ của mình trong đêm mùa xuân năm trước, Mị đồng cảm, thương xót A Phủ. Phân tích nét tâm lí: Mị thấy cái chết sắp tới với A Phủ là uất ức, phi lí. Mị không sợ hình phạt của Pá Tra , ý thức căm thù và lòng nhân ái giúp Mị thắng nỗi sợ hãi, biến Mị thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ. + Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng. Nhưng rồi khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, đến với tự do. Ý3 : Đánh giá – Với bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị. – Cuộc đời đau khổ, tủi nhục của Mị có ý nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến và thực dân . – Nhưng có áp bức có đấu tranh, nhân vật Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối, hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do. Kết bài :có nhiều cách kết bài, nhưng các em có thể tham khảo những ý chính sau : +Khẳng định tính đúng đắn của nhận định trên +Đánh giá chung về tác phẩm, về nhân vật Mị + Mở rộng vấn đề Đề 6 :Đề bài : So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt( Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ( Tô Hoài) Hướng dẫn cách làm :http://thutrang.edu.vn/so-sanh-gia-tri-nhan-dao-trong-vo-nhatva-vo-chong-a-phu Mở bài : + Giới thiệu Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt +Giới thiệu Tô Hoài và Vợ chồng A Phủ + Giới thiệu vấn đề cần nghị luận : Những điểm giống và khác nhau trong tư tưởng nhân đạo của Kim Lân và Tô Hoài được thể hiện qua hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”. Kim Lân và Tô Hoài là những cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ là hai truyện ngắn có giá trị nhân đạo sâu sắc nhưng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn trong từng tác phẩm vẫn có những nét riêng. Thân bài: 1. Định nghĩa khái niệm giá trị nhân đạo ( luận điểm phụ ) Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống thể hiện ở nhiều phương diện, khía GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 154
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cạnh. Song nhìn chung, đó là thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người , lên án tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động,… Một tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có tính nhân văn sâu sắc. 2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt a. Số phận bi thảm của con người Các em phân tích cảnh ngộ, số phận của các nhân vật : Tràng, người vợ nhặt, Bà Cụ Tứ thì sẽ rõ nhé! b. Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai Vợ nhặt không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm giá đáng quý của con người mà còn giúp chúng ta hiểu được khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ. Cuộc hôn nhân lạ lùng của của Tràng với người vợ nhặt ngoài đường là một minh chứng. Không phải trước đó Tràng không khát khao có một gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ anh lúc già yếu. Không phải Tràng không mơ về một ngày nhà cửa quang quẻ, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng mẹ con vui vầy. Cái cảnh chết chóc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói đã khiến con người ta có lúc tưởng như không đủ sức với tới hạnh phúc nhỏ bé ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân hoan của cả Tràng và bà cụ Tứ trước ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao giờ phút đó đã cháy bỏng da diết như thế nào trong lòng họ. Hai hào dầu phung phí đổi lấy một chút “ sáng sủa” đón mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ như khỏe lên trẻ lại. Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy vọng. Chủ nghĩa nhân đạo mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm vào nhân vật, tác phẩm của mình vừa trực tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của thời gian trong truyện đi từ chiều tàn, đêm tối tới ánh sáng từ “ tuyệt vọng “ tới “ hy vọng”, từ “ một ngọn đèn” hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “ lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Tất cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng mà một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và phải chăng qua “ lá cờ đỏ trên con đê” Kim Lân muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của “ ngọn đèn” vĩnh cửu là cách mạng? 3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ a. Số phận bi thảm của con người Cũng giống như Kim Lân, Tô Hoài dành cho nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ( 1953) một tình cảm yêu thương, trân trọng vô cùng. Sự trân trọng đó bộc lộ ở những chi tiết tài tình khi miêu tả tâm lý, tình cảm và nỗi cơ cực của nhân vật. Tô Hoài đã rất chắt lọc chi tiết và nhịp văn để nhấn mạnh thêm cuộc sống lao khổ, buồn bã Mị phải chịu đựng. “ Ngày ngày cô ngồi bên một tảng đá, cạnh tàu ngựa, cúi mặt GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 155
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang buồn rười rượi”. Người ta đã quên Mị với tư cách nàng dâu của nhà thống lí. Thực chất Mị sống đời nô lệ, chôn vùi tuổi xuân, sắc đẹp ở đó. Mị là nạn nhân của đồng tiền và các thế lực phong kiến cường quyền tàn ác. Mị sống âm thầm, làm lụng quần quật đến nỗi quên mất cả khái niệm thời gian. “ Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Khổ quá, Mị muốn có lá ngón để tự tử, thoát khỏi nhà mồ – nhà thống lý Pá Tra – nhà bố chồng của Mị. Nỗi đau của Mị không chỉ dừng lại ở việc bị đày đoạ thể xác, mà còn bị áp bức về tinh thần. Dàn trải nỗi khổ đau, nhục nhã mà Mị chịu đựng trên trang giấy cũng là nỗi khổ đau của Tô Hoài. Ông viết lên sự thật, mặc dầu rơi lệ, xót xa cho nhân vật. Ông đã không dè dặt tố cáo các thế lực đã đẩy con người vào vực thẳm cuộc đời. Trước ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống yên ổn của người dân miền núi còn là một cái gì đó rất xa xôi. b. Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt Chỉ qua đây, chúng ta mới hiểu được rằng người dân vùng cao phải trải qua đau khổ, phải đấu tranh để tồn tại như thế nào. Và Mị là một điển hình của sự phản kháng tất yếu kia, sở dĩ không để cho Mị phải chết là vì ông hiểu một cách thấm thía rằng chính giây phút định tìm đến cái chết là giây phút người ta them được sống hơn bao giờ hết. Mị không thể chết. Mị còn khao khát sống lắm. Mị che dấu lòng khao khát hạnh phúc bằng dáng vẻ lặng lẽ âm thầm nhưng chính nổi nhớ về thuở thanh xuân khi chợt nghe tiếng sáo đã “ chống “ lại cô. Sáu lần tác giả nhắc tới tiếng sáo thì chỉ có ba lần là tiếng sáo thật. Còn ba lần sau là tiếng sáo thức tỉnh trong lòng Mị, tự cất tiếng hát trong lòng Mị. Có thể nói Tô Hoài đã đồng cảm sâu sắc với khát vọng của Mị, Tô Hoài khám phá ra quy luật của cuộc sống ở nhân thân bé nhỏ của Mị. Ông hiểu điều gì ắt phải đến. Ách của cuộc đời khốc liệt tới đâu cũng không thể chon vùi khao khát cuộc sống tự do, hạnh phúc của Mị. Và Mị phản kháng là điều tất yếu. Sức sống, sức trẻ, tình thương vốn tiềm tang trong cô đã giúp cô đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ. “ Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi” Mị đi theo A Phủ, chạy trốn từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Mị đã chứng tỏ được sức sống của con người để giúp thoát khỏi chính số phận cay nghiệt của cuộc đời mình. Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi của tác phẩm văn học. Nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỷ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Mỗi khám phá mới mẻ của một nhà văn đều nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời. 4. So sánh điểm giống và khác nhau * Giống nhau: đều thể hiện sự cảm thông sâu sắc trước số phận của người nông dân trong xã hội cũ, đều tố cáo, lên án các thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người và sự trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của người lao động. * Khác nhau: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 156
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Ở truyện ngắn “ Vợ nhặt”: + Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt , tác giả bày tỏ sự cảm thương trước số phận bi thảm của người nông dân bị nạn đói dồn đẩy đến bước đường cùng , giá trị con người trở nên rẻ mạt (HS phân tích quang cảnh xóm ngụ cư ngày đói, hình ảnh người đàn bà vợ nhặt…) + Tố cáo tội ác của bọn thực dân , phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp. + Phát hiện và ngợi ca khát vọng sống , khát vọng hạnh phúc , tình cảm cưu mang đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về tương lai của họ ( hành động táo tợn, liều lĩnh của thị; hành động và tâm trạng của Tràng khi gặp thị, mời thị ăn và đưa thị về , suy nghĩ của bà cụ Tứ, của dân xóm ngụ cư trước hạnh phúc của Tràng…) – Ở truyện “Vợ chồng A Phủ”: + Nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động vùng cao Tây Bắc , đặc biệt là thân phận người phụ nữ dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến.( thân phận và cảnh ngộ của Mị khi về làm dâu nhà thống lý Pa Tra, số phận của A Phủ…) + Tố cáo , lên án tội ác của giai cấp phong kiến thống trị ( điển hình là cha con thống lý Pá Tra: bắt trả lãi cắt cổ, bắt người gạt nợ, trói người dã man, xử kiện không cho thanh minh). + Trân trọng khát vọng tự do , tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp bức (tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân , khi cắt dây trói cứu A Phủ…) 5. Lí giải vì sao giống, vì sao khác? + Do hoàn cảnh sáng tác +Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn Kết bài: Đánh giá vấn đề: +Tóm lại, qua ba tác phẩm văn xuôi cách mạng trên, ta thấy nổi bật lên rằng giá trị nhân đạo nhân đạo của thời kỳ này không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự chống lại nguyên nhân gây nên nỗi khổ ấy. Đặc biệt, các nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp đưa con người ra khỏi bế tắc, tối tăm. + Đóng góp riêng của mỗi nhà văn đã góp phần làm phong phú , mới mẻ cho truyền thống nhân đạo của văn học dân tộc ( đặc biệt là ở cái nhìn đầy lạc quan tin tưởng vào tương lai), tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975 . Đề 7 : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài: “Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước….. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.” Đáp án:http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-doan-trich-trong-vo-chong-a-phu-to-hoai GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 157
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang BÀI LÀM Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị, một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ. Đoạn văn chủ yếu nhằm diễn tả tâm trạng của Mị trong một đêm sau bữa cơm Tết cúng ma ở nhà thống lý Pá Tra. Một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Và chủ yếu là thể hiện nội tâm nhân vật, ta thấy ít lời thoại. Mị không nói câu nào. Chỉ một câu hỏi duy nhất của A Sử: “Mày muốn đi chơi à?f MỊ không nổi. A Sử cũng không hỏi thêm nữa”. Tất cả chìm đi trong im lặng, lầm lũi. Mị như chiếc bóng câm lặng, vật vờ trong bóng đêm nhà A Sử .Đọc đoạn văn, người đọc thấy thời khắc trôi đi với Mi thực chậm chạp và nặng nổ làm sao. Trong bóng tối nặng nề, mòn mỏi ấy, hành động của MỊ cũng rất ít. Tô Hoài chỉ để vài dòng miêu tả vài ba hành động “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát… MỊ đứng dậy… từ từ bước vào buồng. ..Mị quấn lại tóc… Với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách…”, Chỉ có thế, phần lớn đoạn văn còn lại là những dòng nội tâm đang trỗi dậy, tuôn trào lòng MỊ. Cũng vì để thể hiện nội tâm nhân vật rất đặc biệt này, không có cách nào hơn là trần thuật theo con mắt của chính người trong cuộc, con mắt và tấm lòng của Mi Một người con gái tràn đầy sức sống nhưng bị đè nén đầy đoạ trong đau khổ và tủi nhục. Một số phận bi thảm. Và chính vì giàu sức sống nên bị kịch càng trở nên sâu đậm. Giá như tâm hồn Mi đã khô cạn, đã chết hẳn; giá như Mị quên hết được những kỉ niệm ngày trước… thì chắc MỊ sẽ bớt đi được nhiều đau khổ’, dằn vặt. Tô Hoài đã rất thành công trong việc diễn tả bi kịch tinh thần này. Rõ ràng là ban đầu Mị chỉ hành động theo thói quen một cách vô thức “Ngày Tết Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say’. “Cũng uống” tức là chỉ làm theo người xung quanh. Ngày tết người ta uống, Mị cũng uống. Tuy nhiên “uống ực từng bát”, là hành vi bước đầu thể hiện một cái gì khác thường trong tâm lý người con gái rồi đây. Bi kịch bắt đầu nổi lên khi ý thức Mị bắt đầu hoạt động thật sự. Mở đầu là nỗi nhớ “Lòng Mi thỉ dang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi MỊ nhớ lại những ngày xuân trước, Mị thổi sáo giỏi ‘Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm dã thổi sáo đi theo Mị”… Chính vì sống quá sâu sắc với quá khứ mà Mị quên tất cả hiện tại ”Rượu đã tan lúc nào. Người về, kẻ đi chơi đã văn cả. Mị không biết”. Cũng chính vì sống lại với quá khứ, quên hiện tại mà “Đá từ này, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước’ và cô thấy mình còn trẻ “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Giá như đừng nhớ lại, không nhớ lại được những ngày ấy thì Mị không rơi vào tâm trạng ”Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nưóc mát ứa ra”. Đấy chính là tâm trạng khi Mị bừng tỉnh lại sống trong hiện tại. Quá khứ và hiện tại dằng xé trong tâm hốn Mị. Hiện tại tăm tối, ngột ngạt “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vản lơ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 158
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang lửng bay ngoài dường” thức dậy quá khứ đẹp đẽ đang náo nức trong lòng Mị. Để làm nổi bật sức sống nội tâm vẫn mãnh liệt, nồng nàn trong tâm hổn Mị, như trên đã nói (đoạn văn ít hành động và chỉ duy nhất có một câu hỏi của A Sử mà Mị không trả lời), Tô Hoài đã tạo ra một cô Mị bên trong đang rạo rực, náo nức và quằn quại niềm ham sống và một cô Mị bên ngoài như cái bóng lầm lũi, như đã chết. Bên ngoài một cô Mị không nói, không hề phản ứng gì trước những việc A Sử làm, A Sử nổi. Ngay cả việc A Sử “‘Còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì”. A Sử hỏi, MỊ không trả lời. A Sử bắt đẩu trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột ”làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Không có một dòng hay một chữ nào mô tả lại hành động phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị khác, một cô Mị đang náo nức, say sưa với những kỷ niệm tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị trở về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Kết thúc đoạn trích ta lại thấy con người bên trong của Mị xuất hiện. “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Đấy chính là lúc Mị quên đi thực tại, nhớ về thời điểm trai làng “đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi.” Cố thể thấy rõ thực tại và kỷ niệm cứ đan xen nhau, giằng xé tâm hồn MỊ. Càng nhớ tới kỷ niệm Mị càng xót xa, đau khổ với thực tại phũ phàng. Đoạn văn cho ta thấy trong con người lầm lũi, khốn khổ đó, vẫn tiềm tàng một sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt. Người đọc không mấy khó khăn khi muốn phân tích giá trị phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc ở đoạn văn. Chỉ cần dẫn ra chi tiết tác giả mô tả thái độ của A Sử khi trói Mị một cách lạnh lùng, tàn nhẫn cũng đủ thấy bộ mặt thật ghê tởm của lũ chúa đất và số phận khốn khổ, tủi nhục của người dân miền núi, đặc biệt là người phụ nữ dưới ách thực dân phong kiến. Bên cạnh giá trị hiện thực ấy, đoạn văn tuy được trần thuật bằng một chất giọng có vẻ rất khách quan, người đọc vẫn nhận ra thái độ đồng cảm, xót thương của Tô Hoài đối với nhân vật Mị. Không thấu hiểu và thông cảm với những người bị chà đạp như Mị, nhà văn không thể hoá thân và diễn tả được thành công đời sống nội tâm phức tạp và phong phú của Mị trong cái đêm mùa xuân ấy. Cũng qua đoạn văn này, người ta còn thấy được thái độ căm phẫn của tác giả đối với loại người như A Sử. Không một lời bình phẩm, bình luận, chỉ qua vài nét phác họạ hành động của A Sử hoặc tác giả chỉ cần hạ vài chữ như “trói vợ xong” cũng đủ thấy thái độ căm phẫn của tác giả… Đó chính là ý nghĩa nhân đạo của đoạn văn. Đoạn văn trên là một trong những đoạn văn hay nhất của truyện Vợ chồng A Phủ. Tuy rất ngắn ngủi so với toàn bộ thiên truyện nó đã thể hiện được rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động trên tinh thần hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đề 8 : Phân tích giá trị nhân đạo của truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài BÀI LÀM GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 159
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đáp án:http://thutrang.edu.vn/phan-tich-gia-tri-nhan-dao-cua-truyen-vo-chong-aphu-cua-to-hoai BÀI LÀM Có ai đó đã từng nhận xét: suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự cóđ giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm như thế. Thế nào là một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo? Trả lời câu hỏi này, người ta thường cản cứ trên một số phương diện cơ bản của tác phẩm. Trước hết một tác phẩm cổ giá trị nhân đạo phải là một tác phẩm tập trung tố cáo vạch trần tội ác của những thế lực đang chà đạp lên quyền sống của con người. Tác phẩm đó cũng phải là một tác phẩm nhằm tập trung biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Cuối cùng nhà văn trong tác phẩm phải thông cảm và thấu hiểu được tâm tư tình cảm cũng như những nguyện vọng và mơ ước của con người, giúp họ nói lên những ước nguyện và đấu tranh để giành được ước nguyện ấy. Tất cả điều đó có nghĩa là tác phẩm chỉ có giá trị nhân đạo khi giúp con người sống cho ra con người “giữ cho con người không sa xuống thànhcon…” vật mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo “(Nguyên Ngọc – Văn nghệ 31.10.1987). Vợ chồng A Phủ, như tên gọi của thiên truyện, viết về cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mèo ở vùng núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với cách mạng. Thiên truyện nhằm làm nổi bật lên số phận khốn khổ, tủi nhục của những người dân miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân, đồng thời ca ngợi cuộc đổi đời của họ nhờ cách mạng. Như thế bản thân đề tài và chủ đề của tác phẩm đã mang nội dung nhân đạo sâu sắc. Thực hiện chủ đề ấy, tác phẩm kết cấu theo hai phần. Phẩn I. Cuộc sống nô lệ của A Phủ và Mỵ ở Hồng Ngài; phần 2: Cuộc sống mới của vợ chồng A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Sức nặng tố cáo và cảm hứng nhân đạo chủ yếu được thể hiện ở phần I, qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Đọc phần này, chúng ta xót xa cho một Mị, cô gái Mèo xinh đẹp, chỉ vì bố mẹ nghèo mà phải biến thành “con dâu gạt nợ” cho nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống địa ngục ở nhà tên chúa đất này đã biến một cô gái hồn nhiên, tràn đầy sự sống và giàu mơ ước thành một nô lệ lầm lũi, cam chịu; thành một con vật trong nhà thống lý “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thậm chí nhiều khi Mị cảm thấy mình không bằng con vật. Trong cái đêm tình mùa xuân, bị trói đứng vào cột. Mị “chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa ván đứng gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Cuộc sống nô lệ tăm tối, như trong ngục tù của Mị được Tô Hoài đặc tả bằng căn buồng của cô: “đầu buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 160
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Bố con A Sử đã chà đạp lên con người MỊ không chỉ bằng sự bóc lột sức lao động, làm phu phen tạp dịch, suốt ngày hầu hạ chúng như những kẻ tôi đòi, khốn khổ mà chúng còn huỷ hoại cuộc sống tinh thần, ngăn cấm và dập tắt mọi suy nghĩ cũng như nguyện vọng dù là rất nhỏ của cô gái trẻ. Có thể nói số phận bi thảm của MỊ là số phận điển hình, tiêu biểu cho ngàn vạn người con gái miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Xung quanh Mị, nhà văn Tô Hoài còn khéo léo hé mở cho bạn đọc thấy thân phận của bao người con gái khác, trước hết là những ngựời vợ, những người bị bát về làm dâu trong nhà bọn chúa đất. “Đời người đàn bà láy chồng nhà giàu ỏ Hồng Ngài thì một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”. Số phận nô lệ, tủi nhục của người dân miền núi còn được bổ sung và hoàn chỉnh bằng cuộc đời rách nát đầy khốn khổ của A Phủ. Cũng như MỊ, A Phủ vốn là một thanh niên tràn đầy nhựa sống, khoẻ mạnh, cường tráng “A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”… thế mà chỉ một lần va chạm với A Sử mà bỗng biến thành kẻ tôi đòi cho nhà thống lý, mãn kiếp không’ thể cất đầu lên để được làm người, nếu không gặp cách mạng. Giá trị nhân đạo còn thể hiện trong chỗ nhà vân vạch trần những hành vi và việc làm bạo ngược, đầy bất công ngang trái của bố con thống lý. Chỉ cần xem cách A Sử trói vợ, không cho đi chơi Tết và cuộc tra tấn hành hạ A Phủ sau cuộc xung đột với A Sử cũng đủ thấm thìa điểu đó. Đây là cảnh A Sử trói Mị: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị- Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, di ra, khép cửa buồng lại”. Còn đây là cảnh thống lý xử kiện A Phủ trước: “Cứ mỗi đợt hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mật A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh người thì quỳ lạy, kể kể chửi bới. Xong một trận đánh, kể, chửi, lại hút… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Thật khó có sự bất công, tàn bạo nào hơn thế nữa. Ở một phương diện khác, giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn được thể hiện trong việc nhà văn thông cảm và thấu hiểu những tâm tư tình cảm và tâm trạng của những con người khốn khổ. Bên trong con người lầm lũi khổ đau của MỊ, Tô Hoài đã nhìn thấy một sức sống nội tâm hết sức mạnh mẽ và phong phú. Trong cái đêm mùa xuân bị trói ấy, tuy thể xác bị hành hạ, cầm tù, nhưng tâm hồn Mị hoàn toàn tự do “Hơi rượu còn nồng, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những dám chơi”. Mị văn bay bổng theo “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Anh ném quả pao, em không bắt Em không yêu quả pao rơi rồi.. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 161
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Cùng với việc phát hiện và miêu tả cuộc sống nội tâm phong phú của Mị, Tô Hoài cũng cho người đọc thấy những tính cách và phẩm chất rất tốt đẹp của A Phủ, những phẩm chất và tính cách mà bọn thống trị không bao giờ có: trung thực, thật thà, ngay thẳng, cần cù, chất phác… chính những phẩm chất tâmhồn và tính cách khoẻ khoắn mạnh mẽ ấy đã giúp MỊ và A Phủ có đủ sức sống và nghị lực để trỗi dậy, phá bỏ gông cùm, chạy trốn khỏi địa ngục Hồng Ngài, đi tìm tự do, cho dù chỉ là tự phát, chỉ là bất đầu từ lòng khát khao được sống. Cuối cùng, việc vợ chồng A Phủ chạy đến Phiềng Sa, được cán bộ cách mạng A Châu giác ngộ, đi theo du kích đánh Pháp, làm lại cuộc đời, cuộc đời của những con người tự do, vừa phản ánh hiện thực vừa thể hiện ước mơ của đồng bào miền núi Tây Bắc, khi ánh sáng của cách mạng bắt đầu soi thấu vào cuộc đời tăm tối của họ. Đó cũng là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: nhà văn không chỉ giải thích hiện thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực, chỉ ra con đường giải phóng chonhân loại cẩn lao. Văn học Việt Nam vốn là một nền văn học giàu truyền thống nhân đạo. Nền văn học ấy như tấm gương phản chiếu lịch sử tâm hồn con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Một dân tộc nặng nghĩa, nặng tình, giàu lòng nhân ái, vị tha. Góp phấn làm giàu thêm truyền thống nhân đạo ấy là nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi nhà văn chân chính. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một đóng góp rất đáng trân trọng vào truyền thống ấy. Đề 9 :Có ý kiến cho rằng: Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của nhân vật Mị vào đêm tình mùa xuân là một đoạn đặc sắc kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn Tô Hoài trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ. ( sách Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr 6-7-8 ) Anh/chị có đồng ý với ý kiến trên không? Căn cứ vào những hiểu biết về tác phẩm, hãy làm rõ chủ kiến của mình. ĐÁP ÁN:http://thutrang.edu.vn/chung-minh-y-kien-doan-van-mieu-ta-su-hoi-sinhcua-nhan-vat-mi-vao-dem-tinh-mua-xuan-la-mot-doan-dac-sac Mở bài : Giới thiệu tác giả tác phẩm. có thể chọn lọc giới thiệu một vài nét theo gợi ý dưới đây : Tác giả: Tên khai sinh: Nguyễn Sen – Sinh năm: 1920. – Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. – Viết văn từ trước Cách mạng – sáng tác với nhiều thể loại Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. – 1996: Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. – Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953)…
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 162
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Tác phẩm: In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 19541955. Giới thiệu đoạn văn Giới thiệu ý kiến Thân bài : Giải thích ý kiến Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của nhân vật Mị vào đêm tình mùa xuân là một đoạn đặc sắc kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. -Tài năng nghệ thuật: là tài năng sáng tạo riêng, độc đáo của người nghệ sĩ: từ cách chọn đề tài, xây dựng nhân vật, tình huống truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, dùng từ đặt câu…. -Tư tưởng nhân đạo: chính là tấm lòng yêu thương con người, “nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”, đồng cảm với những kiếp đời đau khổ bất hạnh, lên án những thế lực phi nhân bản chà đạp lên quyền sống của con người, phát hiện , ngợi ca những vẻ đẹp nhân văn. . . Phân tích, chứng minh: –Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời – truyền kiếp là hai mươi đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra hồi cưới nhau. +Quãng đời của Mị ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một người đàn bà ở giữa chốn đia ngục trần gian. +Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật như “con trâu, con ngựa”. Sống vô cảm vô hồn, không có ý thức về thời gian , tuổi trẻ, tình yêu, cam chịu, nhẫn nhục.. –Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên thành lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao mãnh liệt được sống – chứ không chấp nhận tồn tại với thân phận nô lệ như vậy. -Mị- sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc + Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị: ++ “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác”. ++”Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà” cũng có những tác động nhất định đến tâm lí của Mị. ++ Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo. ++ Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 163
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốn lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lấp ló”, “lửng lơ” đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng tiếng sáo trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. + Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân: ++Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. ++ Phản ứng đầu tiên của Mị là: “nếu có nắm lá ngón rong tay Mị sẽ ăn cho chết”. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. ++Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. ++ Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. ++Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. ++Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệthiện thực phũ phàng khiến cho sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Qua những chi tiết này, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp. bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ gặp dịp là bùng lên. -Thành công của nhà văn chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng tâm trạng. +Chỉ bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất trời, mùa xuân nơi bản làng, người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào đến tâm hồn nguội lạnh của người đàn bà kia. + Cả trong đêm ấy, hành động của Mị được tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những nó đã thật sự gây hứng thú cho người đọc khi dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng việc làm của Mị trong đêm mùa xuân ấy. +Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong truyện ngắn này là miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mị. Những đoạn tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng cuộc sống ở Mị trong một đêm xuân (đã phân tích ở trên), cảnh Mị suy nghĩ tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những thành công nổi rõ của tác giả trong cách miêu tả “từ bên trong” nhân vật. Tác giả diễn tả được những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật của mình, tránh được cái nhìn giản đơn cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi. +Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao. Những chi tiết ấy lại thường đặt trong một hệ thống tương quan đối lập nên càng nổi rõ (Cô Mị cúi mặt, lặng lẽ như một cái bóng giữa cảnh giàu có tấp nập của nhà Pá Tra; căn phòng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 164
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang âm u của Mị và khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống và ánh sáng ở bên ngòai; tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách v.v…). +Có thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có thể gây cho người đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy. +Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra rằng cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào đó là một cô gái luôn âm ỉ trong mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải tồn tại như một cái xác không hồn như trước kia. Kết bài : Bình luận, đánh giá chung Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của Mị đúng là kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Đây là một đoạn mang đậm chất thơ “Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên với một sức rung động thơ”. Chất thơ ấy toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động miền núi và con đường giải phóng của họ. Nó cũng toát lên từ sức sống mãnh liệt, từ vẻ đẹp bên trong tâm hồn nhân vật. Chất thơ ấy cũng thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và đường nét uyển chuyển và hùng vĩ của Tây Bắc, làm nền cho những cảnh sinh hoạt giàu chất trữ tình của con người … (Còn nữa ) Các em có thể tham khảo nhiều đề thi về Vợ chồng A Phủ ở đây nhé :http://thutrang.edu.vn/tag/vo-chong-a-phu 10.VỢ NHẶT ( Kim Lân) 1. Xuất xứ Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962). 2.Tóm tắt Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình. 3. Ý nghĩa nhan đề – Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa. – “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 165
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. 4.Tình huống truyện – Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh. – Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó. – Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 5. Nhân vật 5.1 Tràng *Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát: – Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu. – Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ. – Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”: + Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế. + Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ” * Niềm hạnh phúc khi có vợ : – Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 166
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi ngườiTràng đã có vợ. – Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái. Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây. – Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau : + Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. + Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị. + Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. + Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa. + Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây. + Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp. – Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta. 5.2 Thị (người “vợ nhặt”) – Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 167
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. – Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị: + Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy” + Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)… Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống. – Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt. – Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động: + Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận + Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. + Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương – Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người. – Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân + Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được + Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 168
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt. 5.3 Bà cụ Tứ : – Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau. – Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế. – Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót. – Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 169
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. – Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước: + Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá. + Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ connhững nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại. + Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trungmười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. – Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. 6. Giá trị hiện thực, nhân đạo 6.1. Giá trị hiện thực: – Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 : + Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi. + Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma. + Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. + Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết. + Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối. + Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát. + Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt. + Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. – Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 170
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng. 6.2. Giá trị nhân đạo + Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ. + Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. + Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo. + Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng. 7. Nghệ thuật – Xây dựng tình huống truyện độc đáo. – Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. – Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng. – Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế. – Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ. 8. Chủ đề Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn Với truyện ngắn Vợ nhặt, các em ôn theo dạng câu hỏi như sau : Dạng 1 : Cảm nhận hình tượng nhân vật Truyện ngắn này cả 3 nhân vật đều có khả năng thì vào : Bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt. Trong đó Bà cụ Tứ thì xác xuất nhiều hơn. Dạng 2 : Cảm nhận về đoạn trích trong bài Vợ nhặt Các em chú ý mấy đoạn sau : – Cảm nhận đoạn trích: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào[…]Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. – Cảm nhận đoạn trích: “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà […] ấy thế mà thành vợ thành chồng”. – Cảm nhận tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho[…]nước mắt chảy xuống ròng ròng”. – Cảm nhận đoạn trích: “Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào […] tu sửa lại căn nhà”. – Cảm nhận đoạn trích: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại […] lá cờ đỏ bay phấp phới”.– Cảm nhận đoạn trích: Bà lão cúi đầu nín lặng…. chúng mày về sau- Ý nghĩa đoạn kết truyện Vợ Nhặt Dạng 3 : Chứng minh nhận định về tác phẩm, nhận định về nhân vật. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 171
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Dạng 4 : Dạng đề So sánh văn học: Truyện Vợ nhặt có thể so sánh với những truyện cùng chủ đề, ví dụ so sánh bà cụ Tứ với Người đàn bà làng chài, Mị và người vợ nhặt, Tràng và A Phủ chẳng hạn,… đây là ví dụ thôi nhé! Dạng 5. Liên hệ thực tế. Ví dụ : phân tích nhân vật Bà cụ Tứ, sau đó liên hệ tới tình mẫu tử trong cuộc sống ngày nay, hoặc liên hệ tới vẻ đẹp của người phụ nữ xưa và nay,… Với tác phẩm này các em chú ý tình huống truyện nữa nhé Một số đề tham khảo : Đề 1 :“Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” và “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng” Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người “vợ nhặt” (“Vợ nhặt” – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2) qua hai chi tiết trên? Qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng nhân vật? Đáp án ở đây : http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-hai-chi-tiet-trong-bai-vo-nhat-kim-lan Gợi ý : a.Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Hai chi tiết cũng chính là hai hành động của người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân: hành động ăn bốn bát bánh đúc mà Tràng mời ở chợ và hành động ăn bát cháo cám của bà cụ Tứ khi đã trở thành vợ của Tràng. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. – Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, nhân vật , trích dẫn chi tiết Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Thị , một người phụ nữ nghèo khổ nhưng luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp . Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai tươi sáng Trích dẫn hai chi tiết trong đề bài – Cảm nhận về hình tượng người vợ nhặt qua hai chi tiết:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 172
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang +Chi tiết thứ nhất: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” .Chi tiết này xuất hiện trong hoàn cảnh gặp gỡ của nhân vật với Tràng ngoài chợ tỉnh, khi anh cu Tràng đang ngồi nghỉ và thị bỗng nhiên xuất hiện với một ngoại hình của một con ma đói, quần áo rách như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xaám xịt, thị gầy sọp hẳn đi , chỉ còn thấy hai con mắt . Sự biến đổi về ngoại hình ấy khiến Tràng không nhận ra người đàn bà đã đẩy xe cho mình lần trước. Thị trông nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói đã khiến người đàn bà không chỉ thay đổi về ngoại hình mà còn biến đổi cả nhân cách. Thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa”, “đanh đá”. Thị “cong cớn, sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Thị gợi ý để được ăn. Và khi được cho ăn, Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” . Thị phải đánh đổi cả danh dự, cái duyên của người con gái , lòng tự trọng để kiếm miếng ăn và nuôi niềm hi vọng sống…Thị đã đặt sự tồn tại của mình, miếng ăn lên trên cả nhân cách. Nhưng qua đó ta thấy nhân vật có một lòng ham sống mãnh liệt . Thị đang cố gắng bám lấy sự sống. Thị tỏ ra “đanh đá chua ngoa cũng là để bảo vệ sự sống. Sống rồi mới tính tiếp được. Và một hành động tưởng như nông nổi, dễ dãi tiếp theo là sau câu nói đùa của Tràng, thị đã đồng ý theo người đàn ông xa lạ về làm vợ. Hành động này cũng là xuất phát từ niềm ham sống mãnh liệt, thị như người sắp chết đuối cố gắng bám lấy cái phao của sự sống, với một niềm hi vọng được sống, được hạnh phúc.Cận kề bên cái chết, người đàn bà ấy không hề buông xuôi sự sống mà trái lại, thị vẫn vượt lên cái thảm đạm để hướng đến hạnh phúc, tương lai. Niềm lạc quan yêu sống của thị thật đáng quý, đáng trân trọng. +Chi tiết thứ 2 : “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng” . Chi tiết này xuất hiện vào bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình nhà Tràng. Đọc chi tiết này ta thấy thị đã thay đổi , không còn như trước. .Sáng hôm sau thị đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ, sạch sẽ.Thị cùng mẹ chồng dọn cơm. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách chỉ có đĩa rau chuối thái rối và niêu cháo lõng bõng mà mỗi người chỉ được hai lưng bát là hết nhẵn. Bà cụ Tứ vui vẻ đon đả bưng ra một nồi cháo cám mà bà gọi vui là chè khoán để đãi nàng dâu. Tràng “chun mặt lại , miếng cám đắng chát nghẹn bứ trong cuống họng” không thể nuốt nổi. Nhưng thị đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại, Thị điềm nhiên và vào miệng..Cách ăn đó cho ta thấy thái độ chấp nhận sự nghèo khổ, khó khăn ở một gia đình mới,Thị không kêu ca, phàn nàn trước cái đói nghèo, cũng không thấy khó chịu . Vậy đằng sau nỗi vất vưởng là sự ý tứ biết điều , Thị cảm thông với những khó khăn của nhà chồng…cho nên dù phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ bằng lòng. => Thị đã đem đến sinh khí mới cho gia đình Tràng, trong bữa cơm mẹ con nói chuyện vui vẻ, thị còn là người truyền tin cách mạng, đem đến cho gia đình này niềm
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 173
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang hi vọng, niềm tin khi chia sẻ: “Trên mạn Thái Nguyên…” Sự hiểu biết của thị đã đem đến cho Tràng sự giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. + Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo , phân tích diễn biến tâm lí sâu sắc, lựa chọn chi tiết điển hình , ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. – Bình luận về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng nhân vật: + Cảm thông, chia sẻ với thân phận rẻ rúng của con người + Gián tiếp tố cáo tội ác thực dân, phong kiến, phát xít đối với nhân dân ta + Niềm tin vào nhân cách tốt đẹp của con người cùng niềm khao khát sống, hi vọng vào một tương lai tốt đẹp ở tương lai phía trước trong bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945 . => Đánh giá về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân qua cách xây dựng nhân vật : Thông qua nhân vật, và đặt biệt là hai chi tiết ta thấy nhà văn Kim Lân có tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Ông luôn quan tâm đến những biến đổi tinh tế trong tâm hồn người dân nghèo để phát hiện những vẻ đẹp về nhân cách , để trân trọng nâng niu, ngợi ca họ. Qua nhân vật này , nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn khổ như thế nào thì họ cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống. Đề 2 :Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua… (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155) Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới… (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32) Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên. Đáp án : http://thutrang.edu.vn/so-sanh-doan-ket-hai-tac-pham-chi-pheo-nam-cao-va-vo-nhatkim-lan Hướng dẫn cách làm : Mở bài : Giới thiệu Nam Cao , truyện Chí Phèo và đoạn kết truyện Giới thiệu Kim Lân, Vợ nhặt và đoạn kết truyện Mở bài tham khảo nhé : Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thường khai thác một khía cạnh phổ biến đó là tình cảnh bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám .Trong số những trang văn cảm động về người nông dân phải kể đến hai truyện ngắn nổi bật : Chí Phèo của nhà văn Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân .Mỗi truyện đều có một cách kết thúc riêng ,song mỗi cách kết thúc đều mang những giá trị riêng. Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc bằng hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 174
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang người lại qua…Truyện ngắn Vợ nhặt kết thúc bằng hình ảnh: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới Thân bài : Vài nét về tác giả, tác phẩm – Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực xuất sắc, một bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn; sáng tác mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Chí Phèo là đỉnh cao trong sự nghiệp của Nam Cao; truyện có kết thúc độc đáo, tô đậm được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. – Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh. Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân; kết thúc truyện đặc sắc, khắc sâu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. 2. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Chí Phèo Khái quát nội dung tác phẩm Chí Phèo ( ngắn gọn ) Tóm tắt cuộc đời đầy bi kịch của người nông dân Chí Phèo ( ngắn gọn ) Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh Cái lò gạch bỏ hoang + “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân. + Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ. + Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn. + Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận. 3. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt Khái quát nội dung tác phẩm “Vợ nhặt”( ngắn gọn ) Tóm tắt về cuộc đời nhân vật Tràng.( ngắn gọn ) Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh lá cờ bay phấp phới: + Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ. + Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. + Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 175
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán. 4. So sánh sự tương đồng và khác biệt của hai kết thúc truyện – Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi. – Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại. 5. Lí giải : Có sự khác nhau như trên là vì: – Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Nam Cao viết “Chí Phèo” năm 1942 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Kim Lân viết “Vợ nhặt” sau hòa bình lặp lại 1954 khi dân tộc ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng CM giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử. – Do khuynh hướng văn học và phương pháp sáng tác. “Chí Phèo”: khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao phản ánh hiện thực đen tối nhằm phê phán xã hội. Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. “Vợ nhặt”: khuynh hướng hiện thực cách mạng nên Kim Lân có thể nhìn thấy bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước cách mạng – Do tài năng và tính cách sáng tạo của từng nhà văn. Cùng yêu thương tin tưởng con người nhưng Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Kim Lân lạị cho rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người nông dân vẫn có thể vượt lên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng. Kết bài : Đánh giá chung về hai tác phẩm và tài năng nghệ thuật của các nhà văn Cô Thu Trang biên soạn Đề 3 :Đề bài : cảm nhận của anh / chị về cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa mẹ Tràng với nàng con dâu qua đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ nhặtt của Kim Lân: “Tràng nhắc mẹ: Kia nhà tôi nó chào u…. … Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau!” Đáp án :http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-doan-trich-trong-bai-vo-nhat-kim-lan Bài làm : Đã rất nhiều lầ n đọc truyện Vợ nhặt của Kim Lân nhưng lần nào cũng thế, cứ đọc đến đoạn miêu tả cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa bà cụ Tứ (mẹ Tràng) với người “con dâu GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 176
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang mới” mà con trai bà vừa “nhặt” được về là tôi lại thấy lòng mình rưng rưng cảm động. Với những lời văn trần thuật giản dị và mộc mạc, tác giả đã dựng được lại rất sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi và phức tạp đang diễn ra trong tâm trạng của một bà mẹ nghèo, trước một tình huống éo le không hiểu nên mừng hay lo, là hạnh phúc hay tai họa. Mở đầu đoạn trích là lời Tràng nhắc mẹ “Kìa, nhà tôi nó chào u”. Người con trai cứ tưởng mẹ mình chưa nghe lời chào của Vợ; cứ tưởng bà chưa biết có sự hiện diện của đứa con dâu. Nhưng đâu phải như thế. Đọc truyện, trước đoạn trích này, chúng ta đều hiểu bà cụ Tứ đã thấy và sau đó đã nghe, đã biết nhưng chưa hiểu. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đàn bà thể hiện một sự băn khoăn, kinh ngạc. *Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người dàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u? … Ai thế nhỉ? … 0 hay, thế là thế nào nhỉ? Kim Lân dùng một giọng văn trần thuật rất mộc mạc. Ông gọi Tràng là “hắn”, vợ Tràng là “thị. Tràng xưng với mẹ bằng tôi, ‘chúng tôi” và gọi bà bằng “u”: “Nhà tôi nó mới về làrn bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Cách xưng hô và gọi tên nhân vật dân dã, quê mùa như thế giúp bạn đọc hìỉnh dung rõ hơn về những con người nghèo khổ ở một vùng quê quanh năm đối túng, lạc hậu. Riêng đối với người mẹ, Kim Lân muốn biểu thị một thái độ tôn trọng và cảm thông. Ông gọi người mẹ ấy là “bà lão”, “Bà cụ Tứ, “người mẹ nghèo khổ”. Cũng chính với thái độ này, tác giả như nhập thân vào bà cụ Tứ, nhìn sự việc, kể lại theo con mắt và tâm trạng của bà. Một người mẹ nghèo khổ thấy dằn vặt, đau xót và lo lắng vì không lo nổi cho con: một con người đã trải qua nhiều cay đắng gian truân. Nay đứng trước tình cảnh của con, người mẹ ấy “hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số phận của đứa con mình’. Trong lúc đó, dường như Tràng quá mừng vì bỗng nhiên “nhặt” được vợ nên không tỏ ra lo nghĩ gì lắm. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ đoạn trích trên chủ yếu tập trung khắc họạ tâm trạng của bà cụ Tứ. Một tâm trạng vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo. Vui mừng vì dẫu sao con bà cũng đã có vợ, dù là vợ “nhặt” được ở ngoài đường. Việc Tràng có vợ là ngoài sức tưởng tượng của bà. Chính vì thế, ban đầu bà không hiểu nổi. Có lẽ viì niềm vui và sự cảm thông mà từ thái độ ngạc nhiên, lo lắng và tủi nhục, bà đã “nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới” một cách thật chân tình, xúc động: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u củũng mừng lòng…”. Chắc chắn là trước đó người con trai nghĩ thế nào mẹ cũng rầy la nặng nhẹ. Vì thế, sau khi bà nói”Tràng thở đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”. Tuy nhiên, mừng là mừng vậy ,chứ thực ra tâm trạng người mẹ nặng trĩu một niềm lo. Lòng bà ngổn ngang như mối tơ vò. Kim Lân chỉ lặng lẽ miêu tả bằng hàng loạt cử chi, chi tiết nhằm thể hiện tâm trạng đó của bà: “Bà lão cúi đầu nín lặng”, “Bà lão hiểu rồi”, “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Suốt từ lúc về gặp con đến lúc bà cất tiếng,”nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới” là cả một khoảng thời gian dài im lặng, một không khí nặng nề, ủ ê, một cơn bão GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 177
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang lòng có nén. Cố nén nhưng nó vẫn bật ra từ hai chữ “Chao ôi” như một tiếng than oà vỡ, đến câu hỏi ngập ngừng, ngắt quãng: “Còn mình thì… biết rằng, chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”Sau ý nghĩ đầy lo âu ấy là những lời tự an ủi, tự động viên và tự trách mình: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy dến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng gì được cho con…’. Nghe những lời tâm sự thầm kín của bà mà cảm thấy không còn nỗi tủi nhục nào hơn thế nữa. Sao số kiếp của những con người ấy khốn cùng đến vậy?. Những lời từ tốn của bà dặn dò’ đôi vợ chồng ở cuối đoạn trích là những lời nói rất chân tình, vừa mơ hồ hy vọng, vừa tự động viên, an ủi, vừa thừa nhận một sự thật đắng cay trong một tình thế chẳng có gì chắc chắn cả: “Rồi ra may mà ông giời cho khá… biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Tuy chi là một đoạn trích rất ngắn so với toàn bộ thiên , truyện Vợ nhặt nhưng cũng đủ cho ta thấm thìa nỗi đắng cay tủi nhục của những kiếp người khốn khổ trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời hiểu được tình mẫu tử và lòng nhân ái hết sức cảm động của một bà mẹ nghèo. Đoạn trích cũng cho ta thấy được tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa tính cách và miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Đề 4 : Phân tích tình huống truyện Vợ Nhặt- Kim Lân Đáp án : http://thutrang.edu.vn/phan-tich-tinh-huong-truyen-vo-nhat-kim-lan BÀI LÀM Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất: tình huống truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng , tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp dẫn.Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế. Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện Một anh nông dân “nhặt” được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về. Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, mẹ Tràng, và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã “nhặt” được vợ. “… người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc’. Người lại lo dùm cho anh ta Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Bà cụ Tứ hiểu tỉnh cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường còn mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: ”Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con? Bản thân Tràng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 178
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?” Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lý do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho qua được cơn đói khát này không?” Lòng bà cụ thật là ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình cũng cd vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng. Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, Mà con mình mới có vợ được…” Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu. sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lý diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chọn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lấy vậy làm thích ý làm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”. Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ờ trong giấc ma di ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người” Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời minh cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về, Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ… Tác giả “Vợ nhạt” quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng tháng Tám, 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. ..v.v.) Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một cách riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người ta đọc phải suy nghĩ nhức nhối, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 179
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của con người đã cd lúc rẻ mạt đến thế. Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tý của Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đấy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc thấm thía biết bao! Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ cổ thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói, khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ… Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hy vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời… Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan có căn cứ gì rõ rệt – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“. – Vẫn tồn tại dai dẳng ở những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc đang sắp sửa. Đề 5 : Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát cháo hành trong truyện Chí Phèo( Nam Cao) và bát cháo cám trong truyện Vợ nhặt ( Kim Lân). Đáp án :http://thutrang.edu.vn/so-sanh-hinh-anh-bat-chao-hanh-trong-chi-pheo-vachao-cam-trong-vo-nhat Mở bài : Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám Mở bài tham khảo: Nam cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn. Thần bài : lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau 1. Hình ảnh bát cháo hành: * Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. * Ý nghĩa: GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 180
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Về nội dung: + Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo + Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng + Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. – Về nghệ thuật: + Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật. + Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người. 2. Hình ảnh nồi cháo cám: * Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ. * Ý nghĩa: – Về nội dung: + Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. + Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ: Bà cụ Tứ gọi cháo cám là ” chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn. Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. – Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn. 3. So sánh: – Giống nhau: + Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp. + Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt. + Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 181
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Khác nhau: + Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao. + Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. 4. Lí giải sự giống và khác nhau đó: + Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945 + Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng Thu Trang sưu tầm và biên soạn Đề 6 :Đề bài : So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt( Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ( Tô Hoài) Đáp án :http://thutrang.edu.vn/so-sanh-gia-tri-nhan-dao-trong-vo-nhat-va-vo-chonga-phu Đề 7 : Đề bài : Về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là một người phụ nữ liều lĩnh, thiếu lòng tự trọng. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là một người phụ nữ tự trọng, có ý thức về phẩm giá của mình. Từ cảm nhận của mình về hình tượng nhân vật người vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên. Hướng dẫn cách làm:http://thutrang.edu.vn/nghi-luan-ve-hai-y-kien-ban-ve-nhanvat-thi-vo-nhat-kim-lan Hướng dẫn cách làm: Mở bài : Vài nét về tác giả, tác phẩm – Kim Lân là một trong những nhà truyện ngắn có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Văn phong của ông giản dị mà thấm thía. – Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, viết sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở, sau đó bị lạc mất bản thở. Sau hòa bình lập lại 1954, Kim Lân dựa một phần cốt truyện cũ để viết truyện Vợ nhặt. Giới thiệu các ý kiến trong đề bài Thân bài : Giải thích các ý kiến – Ý kiến thứ nhất: cho rằng nhân vật người vợ nhặt là một người phụ nữ liều lĩnh, thiếu lòng tự trọng.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 182
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Ý kiến trên có lẽ đã căn cứ vào một thực tế của truyện là người phụ nữ trong truyện đã theo không nhân vật Tràng chỉ sau hai lần gặp, nghe ba câu nói đùa, ăn bốn bát bánh đúc… – Ý kiến thứ hai: khẳng định nhân vật người vợ nhặt là một người phụ nữ tự trọng, có ý thức về phẩm giá. Có lẽ người bảo vệ ý kiến này đã nghiêng về góc độ nhìn nhân vật như là một nạn nhân của nạn đói, cảm thông tình thế đặc biệt của nhân vật và có cái nhìn yêu thương, trân trọng đối với những biểu hiện đáng quý của người vợ nhặt như: không chịu chấp nhận lời nói đùa ăn trầu, nghiêng nón che mặt và tỏ vẻ ngượng nghịu khó chịu khi bị nhìn soi mói trên đường về nhà Tràng, chỉ ngồi mớm ở mép giường khi vào nhà,… Bình luận về các ý kiến Thí sinh có thể có những cảm nhận khác nhau nhưng vẫn cần nhận ra những đặc điểm cơ bản gắn với cảnh ngộ và phẩm chất của nhân vật – được Kim Lân khắc họa đầy chân thực và cảm động: – Bị nạn đói dồn vào cảnh ngộ bi thảm nên trở nên liều lĩnh, trơ trẽn, chấp nhận theo không người đàn ông. – Trong bi thảm, người vợ nhặt vẫn có biểu hiện ý tứ, mực thước, có ý thức giữ gìn phẩm giá. – Trong bi thảm, nhân vật người vợ nhặt vẫn âm thầm nuôi dưỡng niềm khát khao cuộc sống gia đình, niềm mỏi mong chính đáng về cuộc sống ngày mai. Đánh giá : – Cả hai ý kiến đều có cơ sở dù cách đánh giá về nhân vật có sự trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất thiên về hiện tượng, về biểu hiện của nhân vật. Ý kiến thứ hai vẫn có cơ sở từ biểu hiện và hành động nhân vật nhưng đã có sự lưu ý về bản chất nhân vật. Tuy nhiên, cần đặt nhân vật trong hoàn cảnh sống( nạn đói khủng khiếp) và trong suốt chiều dài tác phẩm : ý kiến thứ 2 chân thực và xác đáng hơn Kết bài : đánh giá chung về hai ý kiến, về nhân vật Thị và tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân Lưu ý : các em cần lấy dẫn chứng từ tác phẩm để chứng minh ý kiến Đề 8 : Cảm nhận vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân Đáp án :http://thutrang.edu.vn/ve-cac-nhan-vat-trang-thi-ba-cu-tu-trong-vo-nhat-kimlan Đề 9 : Giá trị nhân văn trong “Vợ nhặt ” Kim Lân Đáp án :http://thutrang.edu.vn/gia-tri-nhan-van-trong-vo-nhat-kim-lan Đề 10 : Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) Đáp án :http://thutrang.edu.vn/de-nghi-luan-so-sanh-nguoi-vo-nhat-va-nguoi-dan-bahang-chai Đề 11 : Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong ” Vợ chồng A phủ và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong “Vợ nhặt” Kim Lân. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 183
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đáp án :http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-hanh-dong-mi-chay-theo-a-phu-vahanh-dong-thi-theo-khong-trang-ve-lam-vo Đề 12: Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) Đáp án :http://thutrang.edu.vn/ve-truyen-ngan-vo-nhat-kim-lan Còn nhiều đề tham khảo nữa, cô đang soạn, các em bấm vào link này để đọc nhé : http://thutrang.edu.vn/tag/vo-nhat 11. RỪNG XÀ NU– Nguyễn Trung Thành KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Hoàn cảnh sáng tác – Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam . Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ. – Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. 2.Tóm tắt Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời. 3. Nhan đề -Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này. – Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do. – Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 184
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 4. Hình tượng cây xà nu * Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện. * Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên. * Nghĩa biểu tượng : – Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên: + Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman. + Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman. + Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này. – Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. + Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu. + Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến. + Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. + Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù. – Nghệ thuật miêu tả: + Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây + Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng + Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống. + Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 185
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang 5. Hình tượng nhân vật Tnú – Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí: + Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. + Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. + Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến. + Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. – Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng + Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm. + Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”. – Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận + Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman. + Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng – Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời + Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ … + Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng. – Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. + Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân. + Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 186
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. + Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. 6. Cụ Mết, Dít, bé Heng – Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc. Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ. – Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ. – Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”. 7. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn + Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam. + Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng… + Không gian nghệ thuật: rộng lớn. + Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm + Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 187
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện. + Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng. 8. Đặc sắc nghệ thuật + Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật) + Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…) + Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện. + Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên. 9. Chủ đề Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng HỆ THỐNG CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP VỀ “RỪNG XÀ NU” NGUYỄN TRUNG THÀNH Dạng đề thi liên quan đến bài Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành Dạng 1 : Cảm nhận, phân tích nhân vật : bài này các em chú ý nhân vật T Nú nhé ! Dạng 2 : Dạng đề so sánh. ví dụ :So sánh T Nú và Việt (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi), T Nú và A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài), so sánh đoạn văn trong bài Rừng xà nu với đoạn văn trong bài khác. Dạng 3 : Cảm nhận về đoạn trích trong tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm này , các em chú ý đoạn văn sau : – Cảm nhận đoạn trích: “Làng ở trong tầm đại bác […] đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. – Cảm nhận đoạn trích: “Tnú không cứu sống được Mai […] chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. – Cảm nhận đoạn trích: “Một ngón tay Tnú bốc cháy […] mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về”. – Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. – Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này”. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 188
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Dạng 4 : Liên hệ thực tế : Dạng 5 : nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành Ví dụ đề bài cho phân tích nhân vật T nú, phân tích đoạn văn , sau đó yêu cầu mình liên hệ tới hình ảnh người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ quê hương, hoặc liên hệ tới lòng yêu nước, trách nhiệm của thanh niên trong tình hình biển đảo hiện nay ( đây là ví dụ thôi nhé ! ) Dạng 6 : Cảm nhận chi tiết : chú ý chi tiết bàn tay Tnú, câu nói của cụ Mết, ngọn lửa xà nu Một số đề cụ thể : 1.Phân tích nhân vật Mai (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) và chị Chiến (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) để thấy vẻ đẹp tâm hồn và tinh thần cách mạng của người con gái Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. các em xem đáp án ở đây nhé:http://thutrang.edu.vn/ve-dep-nguoi-con-gai-viet-namqua-nhan-vat-chien-va-mai Giới thiệu chung về hai tác phẩm, nhân vật: (0,5 điểm) – Rừng xà nu: Nguyễn Trung Thành viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Nhân vật Mai trong tác phẩm không được khắc họa nhiều nhưng đã hiện vẻ đẹp của một người con gái Tây Nguyên trong kháng chiến: tình yêu cách mạng, tình yêu gia đình và một bản lĩnh kiên cường, bất khuất. – Những đứa con trong gia đình: Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn – chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Có thể nói Nguyễn Thi là một trong những nhà văn thành công nhất khi viết về hình tượng người phụ nữ Nam Bộ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Trong chiến đấu họ anh dũng, kiên cường, trong gia đình họ đảm đang, nhân hậu. Nhân vật Chiến cũng vậy, ba má đều chết trong chiến tranh, Chiến đã thay má nuôi nấng và dạy dỗ các em. Không những vậy, Chiến còn tham gia du kích từ khi còn nhỏ, hăng hái tòng quân giết giặc. * Phân tích hai nhân vật: (3,0 điểm) – Nhân vật Mai: + Sớm giác ngộ cách mạng, tình yêu đối với cách mạng: cùng với Tnu che giấu cán bộ, giúp đỡ cán bộ… + Từ nhỏ đã là một cô bé thông minh, khéo léo: cùng với Tnu học chữ, lên rừng bảo vệ các chiến sĩ cách mạng. + Lớn lên là một người mẹ yêu thương con, sẵn sàng hi sinh thân mình để che chở đứa con thơ. + Một người phụ nữ kiên cường, bản lĩnh, giàu tinh thần cách mạng: Sẵn sàng chịu đòn roi kẻ thù nhưng không kêu lên một tiếng, không khai ra chỗ ở của Tnu. Đặc biệt ánh mắt khi nhìn kẻ thù:bình tĩnh mà đầy sức mạnh… GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 189
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Nhân vật chị Chiến: + Chiến sinh ra và lớn lên trong mối thù nhà, nợ nước: ông nội, ba má đều chết trong chiến tranh. Do vậy dù đang còn ít tuổi nhưng chị Chiến vừa thay mẹ chăm sóc cho gia đình, vừa tham gia cách mạng, mang quyết tâm trả nợ nước thù nhà. + Chị Chiến là người con gái lớn đảm đang, yêu thương em, biết vun vén lo toan cho gia đình. + Mang tình yêu đối với cách mạng, quyết tâm đi tòng quân để trả nợ nước, thù nhà. + Bản lĩnh kiên cường, dũng cảm, không lùi bước trước kẻ thù. * Nhận xét, đánh giá về hai nhân vật: (0,5 điểm) – Điểm giống nhau: + Cả hai nhân vật đều là những người con gái trẻ tuổi nhưng đã sớm giác ngộ cách mạng, mang một tình yêu lớn đối với cách mạng, có ý chí , quyết tâm mãnh liệt đấu tranh chống lại kẻ thù. + Họ không chỉ là những chiến sĩ trẻ đầy bản lĩnh mà còn là người con gái của gia đình: biết yêu thương, vun vén. + Hai nhân vật đều mang vẻ đẹp của người con gái ViệtNamnói chung: giỏi việc nước, đảm việc nhà. – Điểm khác nhau: + Mai là người con gái Tây Nguyên bản lĩnh rắn rỏi, nhưng do Mai chưa nhận thức được chân lí cách mạng mà sau này cụ Mết nói (Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo) nên bất lực ôm đứa con thơ chết dưới đòn roi của kẻ thù. + Chiến là người con gái Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, lớn lên trong giai đoạn chiến tranh ác liệt , nên nhận thức rõ mình cần phải làm gì để bảo vệ gia đình, dân tộc. Do vậy Chiến đã quyết tâm đi bộ đội như một nhận thức tất yếu “nếu giặc còn thì tao mất”. Đánh giá chung về hai nhân vật 2.Cảm nhận của anh/chị về những nét tương đồng và khác biệt của hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn sau: “Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổ lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ… Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắc đang bắt đầu xung phong… ” (Trích « Những đứa con trong gia đình » – Nguyễn Thi, NXBGDVN, 2014) “Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 190
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!” (Trích “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành, SGK Ngữ Văn 12, tập hai, trang 47, NXBGDVN, Đáp án ở đây nhé :http://thutrang.edu.vn/de-so-sanh-ve-dep-nguoi-linh-trong-hainhan-vat-viet-va-tnu Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm): Vẻ đẹp của hình tượng người chiến sĩ cách mạng Việt Nam thời kháng chiến. Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp; các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm (trong đó phải có thao tác phân tích, so sánh); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng (2,0 điểm): Có thể trình bày theo định hướng sau: + Giới thiệu về tác giả, tác phẩm; + Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong hai văn bản ++ Nhân vật Việt: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được tinh thần, ý chí, quyết tâm chiến đấu của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của nhân vật : bị thương, bị lạc đồng đội, một mình nằm lại giữa chiến trường, Việt vẫn hướng về phía có tiếng súng của đồng đội, phân biệt rõ ta – địch, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu…. ++ Nhân vật Tnú: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được tinh thần, ý chí, quyết tâm chiến đấu của nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của nhân vật : bị đốt cháy mười đầu ngón tay vẫn cắn răng chịu đựng, nhớ lời anh Quyết dạy, quyết không kêu van…. + Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai nhân vật : ++ Sự tương đồng: Hai nhân vật đều phải chịu đựng những đau đớn về thân xác, đơn độc khi chiến đấu ; là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, tuyệt đối trung thành với cách mạng, đất nước ; là biểu tượng đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ ++ Sự khác biệt: +++ Nhân vật Việt : Chiến đấu với tinh thần quả cảm, lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, tin tưởng vào cách mạng, đồng đội. Ở Việt, chủ yếu chỉ có nỗi đau về thể xác do bị thương. +++ Nhân vật Tnú : Chiến đấu bằng ý chí quyết tâm và lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua những biến cố, mất mát trong đời sống cá nhân (vợ và con bị giặc giết chết ngay trước mắt). Ở Tnú, đó là nơi cộng hưởng cả nỗi đau thể xác và tinh thần.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 191
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. 3. Có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú Đáp án ở đây nhé :http://thutrang.edu.vn/de-thi-hay-va-kho-so-sanh-hai-nhan-vat-aphu-va-tnu-ngu-van-12 4.Trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, trước mặt kẻ thù hung bạo, nhân vật Mai – người mẹ đã lấy thân mình che chở cho con trong hiểm nguy khốc liệt. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật người đàn bà hàng chài chịu đựng nhiều đau khổ, nhọc nhằn vì đàn con. Anh/ chị hãy phân tích vẻ đẹp của tình mẫu tử ở hai nhân vật này. Các em xem đáp án ở đây nhé :http://thutrang.edu.vn/phan-tich-ve-dep-cua-tinhmau-tu-o-hai-nhan-vat-mai-va-nguoi-dan-ba-hang-chai-ngu-van12 Có thể trình bày theo định hướng sau: + Giới thiệu về hai tác giả và hai tác phẩm; + Phân tích vẻ đẹp của tình mẫu tử ở hai nhân vật: Nhân vật Mai: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn của Mai, người con gái Tây Nguyên có trái tim yêu thương nồng nàn và phẩm chất anh dũng, bất khuất. Giây phút đối mặt với kẻ thù hung bạo, Mai đã đem thân mình, chịu đòn thù để mong bảo vệ con trai. Dù vô cùng đau đớn, nhưng Mai vẫn không chịu đầu hàng kẻ địch. Tình mẫu tử cao đẹp thể hiện trong bối cảnh chiến tranh đã làm cảm động trái tim người đọc. Nhân vật người đàn bà hàng chài: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn của chị thể hiện trong lẽ sống vì con, chịu đựng đắng cay tủi nhục vì con, mong “đàn con tôi chúng được ăn no”. Chị cố bảo vệ cho tâm hồn con trẻ khỏi bị tổn thương, khi việc ấy là không thể được, mỗi đau của chị trào tuôn thành những giọt nước mắt trên khuôn mặt rỗ. Chị cố gắng giữ mái gia đình cũng là vì đàn con. + Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của vẻ đẹp tình mẫu tử trong hai nhân vật: Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được: Sự tương đồng: Hai nhân vật đều mang một tình mẫu tử sâu sắc và cao cả, họ là những người mẹ sẵn sàng chết vì con, giàu đức hi sinh cao cả. Sự khác biệt: + Nhân vật Mai là hình tượng người mẹ Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mỹ ở Tây Nguyên. Nỗi đau của Mai là nỗi đau của cả dân tộc trong một thời kì đánh giặc ngoại xâm để bảo vệ quê hương, tổ quốc. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 192
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang + Nhân vật người đàn bà hàng chài là hình tượng người mẹ nghèo của đời thường vốn còn nhiều nhọc nhằn, vất vả. Từ cuộc đời và phẩm chất cao đẹp của chị, ta thấy được nỗi đau của bi kịch đói nghèo và bạo lực gia đình. + Nghệ thuật khắc họa nhân vật thể hiện nét độc đáo trong bút pháp của từng nhà văn. Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Đề 5 : Đề bài: “Văn xuôi những năm kháng chiến chống Mỹ xứng đáng là bản anh hùng ca ca ngợi những con người miền Nam anh hùng, kiên cường, bất khuất, căm thù giặc cháy bỏng, yêu thương quê hương đất nước tha thiết, thủy chung, nghĩa tình son sắt với cách mạng, với kháng chiến”. Qua việc phân tích các tác phẩm tiêu biểu đã học trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên ? Đáp án:http://thutrang.edu.vn/chu-nghia-anh-hung-qua-tac-pham-van-hoc-khangchien-chong-mi Đề 6 :Tổng hợp đề đọc hiểu về bài Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành Link bài viết :http://thutrang.edu.vn/tong-hop-de-doc-hieu-ve-bai-rung-xa-nunguyen-trung-thanh Đề 7 :Hãy viết một bài văn nghị luận làm sáng tỏ ý kiến:Cuộc đời bi tráng của Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Đáp án:http://thutrang.edu.vn/3621-2 HƯỚNG DẪN – Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cuộc đời bi tráng của Tnú góp phần làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. -Phân tích: Cuộc đời bi tráng của Tnú được miêu tả trong tác phẩm. Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được: Cuộc đời bi tráng của Tnú : Những đau thương, mất mát: -Tnú mồ côi từ nhỏ -Khi đi liên lạc, bị giặc bắt và tra tấn -Phải chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra khảo -Bản thân bị giặc đốt 10 đầu ngón tay ® Tnú tiêu biểu cho số phận đau thương của cộng đồng làng Xô Man – Tây Nguyên -Tnú vượt lên những đau thương mất mát để trung thành với lí tưởng, để chống giặc đến cùng -Bị giặc bắt khi đi liên lạc, không khai báo -Vượt lên nỗi đau khi vợ con bị giặc giết GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 193
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang -Cắn răng chịu đựng nỗi đau khi bị đốt 10 đầu ngón tay để mãi mãi là một cây xà nu lao thẳng ® Tnú chiến đấu sống chết vì lí tưởng CM: Can trường khi đối mặt với kẻ thù Làm sáng tỏ chân lí của thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng. Tnú một mình tay không giữa bọn giặc nên đã bất lực trước kẻ thù (không cứu được vợ con, bi giặc đốt 10 đầu ngón tay) Khi cụ Mết cùng với du kích, có vũ khí đã giết hết bọn giặc, cứu được Tnú Lời cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” Như một cây xà nu bị thương nhưng vẫn cho đời những lộc mới, Tnú tiếp tục gia nhập lực lượng – chiến đấu giải phóng quê hương. Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Đề 8 : Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hai đoạn trích sau: “… Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập, không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự. Tnú bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu anh lại. Tiếng cụ Mết nặng trịch: – Không được. Tnú! Để tau! Tnú gạt tay ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại: – Tnú! Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn ra Tnú nữa. Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Ông cụ buông vai Tnú ra. Một tiếng thét dữ dội. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. – Đồ ăn thịt người, tau đây. Tnú đây… Tnú không cứu sống được Mai… … Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người: – Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi phải không? Được, đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây. Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở tút-se, lấy ra một chùm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà-nu. Nó quấn lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây nứa. Nhưng thằng Dục bảo: – Để nó cho tau! GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 194
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nó giật lấy cây nứa. Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó dí cây lửa lại sát mặt anh: – Coi kỹ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không phải số kiếp giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không? Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng. Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!…” ( Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015) “…Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ lại được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… … Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nở rộ… Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang nổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…” ( Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi, Ngữ văn 12,Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015) Hướng dẫn :http://thutrang.edu.vn/ve-dep-nguoi-thanh-nien-viet-nam-qua-hai-doantrich-trong-rung-xa-nu-va-nhung-dua-con-trong-gia-dinh Mở bài : + Giới thiệu khái quát về 2 tác giả, 2 tác phẩm và vấn đề cần nghị luận +Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua các đoạn trích trong hai tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành|) và Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) Thân bài : + Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Tnú qua đoạn trích trong tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành|), Việt qua đoạn trích trong tác phẩm Những đứa con trong
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 195
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang gia đình (Nguyễn Thi) để làm rõ vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước: ++ Vẻ đẹp của nhân vật Tnú: – Tnú là người có trái tim yêu thương (chứng kiến vợ con bị tra tấn, anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, tay không xông ra giữa bọn lính để cứu vợ con…) – Tnú là người gan dạ, dũng cảm, kiên cường , tuyệt đối trung thành với cách mạng (bị tra tấn- đốt 10 ngón tay nhưng anh cắn răn chịu đựng, không kêu van ) ++ Vẻ đẹp của nhân vật Việt: Yêu thương gia đình sâu đậm (hình ảnh người thân, đặc biệt là má luôn hiện hữu trong Việt, từ đó thôi thúc ý chí đấu tranh) Tinh thần chiến đấu kiên cường, căm thù giặc sâu sắc ( khi bị thương lạc đồng đội, Việt vẫn kiên cường chịu đựng, dù lúc mê lúc tỉnh nhưng vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu…) + Đánh giá khái quát: ++ Tnú được khắc họa trong sự gắn bó với buôn làng. Nhân vật mang đậm dấu ấn người anh hùng trong sử thi của đồng bào dân tộc miền núi. Việt được khắc họa trong mối quan hệ gia đình. Nhân vật gần gũi với cuộc sống đời thường, mang đặc điểm, phẩm chất của một chàng trai mới lớn. Cả hai nhân vật vừa mang nét cá tính riêng , vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu. Vẻ đẹp của Tnú và Việt tiêu biểu cho vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước: yêu gia đình, quê hương, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường, bất khuất, trung thành với cách mạng. ++ Nghệ thuật: – Nhân vật Việt: Với nghệ thuật trần thuật tác giả để cho nhân vật tự kể về cuộc đời của mình và các nhân vật khác theo dòng hồi tưởng; giọng điệu tự sự kết hợp trữ tình; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ; xây dựng nhân vật sinh động qua miêu tả hành động và nội tâm tinh tế . – Nhân vật Tnú: Hiện lên qua lời kể của tác giả, lời kể của cụ Mết, giọng kể mang đậm tính sử thi; ngôn ngữ , hành động mang đặc trưng của người Tây Nguyên; phân tích thế giới nội tâm nhân vật sắc sảo. Kết bài : Khái quát về vẻ đẹp của các nhân vật và sự sáng tạo của mỗi nhà văn, khẳng định đóng góp của hai nhà văn,… Đề 9 : Hình ảnh đôi bàn tay Tnú ("Rừng xà nu" Nguyễn Trung Thành) Trước hết các em cần đọc kĩ tác phẩm xem bàn tay Tnú xuất hiện trong hoàn cảnh nào, đặc điểm ra sao, từ đó rút ra ý của hình ảnh bàn tay Tnú. Vì chi tiết ấn tượng nhất, thể hiện rõ nhất con người Tnú nằm ở đôi bàn tay. Đôi bàn tay Tnú có nhiều ý nghĩa: 1. Đó là đôi bàn tay của người trung thành, thủy chung với cách mạng: ( phân tích Tnú hồi bé) Thoạt đầu, đấy là hai bàn tay lúc còn lành lặn. Đôi bàn tay chú bé mồ côi nắm lấy tay cô bé Mai chăm chỉ chặt củi, xách nước, lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu gạo đi nuôi cán bộ Quyết. Đôi bàn tay Tnú cầm viên phấn bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 196
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Linh về tập viết chữ, mở dần cánh cửa cuộc đời để đến với cách mạng. Và cũng chính đôi bàn tay bé nhỏ ấy đã dũng cảm mang công văn đi làm liên lạc vì căm thù thằng giặc vô ngần. Bọn giặc bắt được Tnú, tra tấn dã man, hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này”. Bàn tay Tnú chỉ rõ và khẳng định lý tưởng cách mạng không ở đâu xa mà ở ngay trong tâm hồn mình. Đây chính là nét đẹp thứ nhất của bàn tay Tnú: bàn tay của sự tín nghĩa, thủy chung. 2. Đôi bàn tay của nghĩa tình : Xé tấm vải che cho mẹ con Mai, che chở mẹ con Mai và vốc nước suối, cảm nhận cái tình quê hương.Tnú yêu Mai – cô bạn thuở thiếu thời. Bàn tay ấy cũng đã được Mai nắm chặt mà khóc những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương, đồng cảm khi Tnú vượt ngục trở về. Không bắt được Tnú, chúng bắt Dít rồi tới mẹ con Mai tra tấn dã man bằng gậy sắt hòng để anh ra mặt. “Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt”. Lửa hận dâng lên ngút ngàn, đốt cháy tâm can Tnú, truyền từ đôi tay lên đôi mắt “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương, nỗi lo và sự căm hờn. “Hai cánh tay như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Mười ngón tay nóng bỏng lửa căm thù, thương xót đã truyền sức mạnh vào hai cánh tay. Nhưng mà “Tnú chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. 3. Đôi bàn tay là hiện thân của mất mát đau thương, ghi lại chứng tích tội ác mà kẻ thù đã gây ra. Mười đầu ngón tay Tnú đều cụt một đốt. Mẹ con Mai chết còn Tnú thì bị giặc bắt tra tấn. Bọn thằng Dục tàn nhẫn tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn giẻ lên mười đầu ngón tay anh, đốt cháy rừng rực. 4. Cuối cùng đó là bàn tay cầm vũ khí chiến thắng kẻ thù, đôi bàn tay của ý chí quật cường, tinh thần dũng cảm, bất khuất của người cộng sản : Ngọn lửa của âm mưu thâm độc, của tội ác dã man đã không đốt cháy được chất vàng mười trung thành, bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi Tây Nguyên.Lửa hận dâng lên ngút ngàn, đốt cháy tâm can Tnú, truyền từ đôi tay lên đôi mắt “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương, và sự căm hờn.“Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Nhưng “Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Đôi bàn tay với ngón tay chỉ còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường chiến đấu. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”, chân lý này giúp người ta ý thức được tầm quan trọng của vũ khí, không thể không cầm vũ khí, nhưng cũng không nên ỷ lại vào vũ khí, cái quyết định cuối cùng vẫn là đôi bàn tay con người. Chính vì thế, Nguyễn Trung Thành đã cẩn thận kể thêm chi tiết Tnú dùng hai bàn tay không, cụt đốt, đôi bàn tay quả báo để xiết cổ tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú. ->>Có thể nói, bàn tay Tnú biểu tượng cho sức mạnh của khối đoàn kết cộng đồng, sự gắn bó mạch sống của mảnh đất, rừng cây và sức sống con người. Đó là đôi bàn tay huyền thoại, vô địch trước sức mạnh của mọi kẻ thù.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 197
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Bài văn mẫu Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện kể về cuộc đời của nhân vật Tnú, tiêu biểu cho số phận và con đường đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam. Tính cách nổi bật của Tnú đã được bộc lộ ngay từ lúc còn nhỏ : gan góc và táo bạo dũng cảm và chất phác ; đặc biệt là sự gắn bó và trung thành tuyệt đối với Ií tưởng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay thể hiện cuộc đời giản dị và tính cách anh hùng của nhân vật Tnú – người con và niềm tự hào của dân làng Xô Man kiên cường, bất khuất. Mở đầu là hình ảnh hai bàn tay lúc Tnú còn nhỏ. Ngày ngày, Tnú cùng cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, mang gạo nuôi cán bộ Quyết hoạt động bí mặt trong rừng sâu. Công việc hết sức nguy hiểm nhưng Tnú không hề sợ hãi. Khi anh Quyết hỏi: Các em không sợ giặc bắt à ? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đó; Tnú đã trả lời ngay: Cụ Mết nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn. Sự hiểu biết về Đảng, về cách mạng của Tnú tuy hồn nhiên, mộc mạc nhưng không kém phần đúng đắn và sâu sắc. Bàn tay Tnú vụng về, ngượng nghịu cầm viên phấn làm bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc Linh về để tập viết chữ lên tấm bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu. Tnú đã cầm đá đập vào đầu chảy máu vì giận mình học bài mãi không thuộc, hay quên cái chữ. Hành động ấy thể hiện quyết tâm của Tnú, bởi Tnú nghĩ: Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi. Bàn tay Tnú khéo léo giấu cái thư bí mật của anh Quyết mang về huyện theo đường giao liên để nộp cho cấp trên. Khi bị giặc bắt, Tnú đã kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giải Tnú về làng, bắt Tnú khai ra người nào là cộng sản? Cộng sản ở đâu? Tnú đã dũng cảm đặt tay lên bụng mình rồi nói: Ở đây này! Bị giặc bỏ tù, ba năm sau, Thú vượt ngục trở về làng, đôi tay anh cần mẫn lấy đá trên đỉnh núi Ngọc Linh về để dân làng mài giáo mác giết giặc. Lớn lên, đôi bàn tay Tnú thể hiện tình yêu thủy chung với vợ con và quyết tâm chiến đấu chống quân thù. Trong cái đêm lũ giặc hèn hạ dùng mẹ con Mai để nhử bắt Tnú nhằm triệt phá phong trào cách mạng của dân làng Xô Man, hai bàn tay của anh bất lực bíu chặt lấy gốc cây, bứt đứt hàng chục trái và khi từ chỗ nấp cắn răng nhìn cảnh vợ con bị giặc tra tấn : Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật thằng bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự. Mặc dù cụ Mết ra sức ngăn cản nhưng trước cảnh vợ con bị giặc đánh đập tàn bạo, Tnú không thể chịu nổi: …hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Tình yêu thương vợ con tha thiết và căm thù giặc sồi sục khiến Tnú thà chết xông ra để cứu vợ con : Một tiếng hét dữ dội. Tnú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính. Anh không biết đã làm gì. Chì thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục thảo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Hình ảnh hai mẹ con Mai chui vào ngực anh, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai và hai mẹ con chết trong vòng tay ấy như đẩy nỗi đau đớn lên đến tột cùng. Tnú có sức mạnh, có lòng gan dạ và quả cảm, nhưng anh không cứu được vợ con. Cuối cùng, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 198
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang anh bị giặc bắt vì chỉ cố đôi bàn tay không giữa lũ giặc hung tàn lăm lăm súng đạn. Câu chuyện bi thương của Tnú đã thành một bài học xương máu mà cụ Mết mong Tnú và con cháu sau này luôn luôn ghi nhớ: Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! Đó là chân lí giản dị mà vô cùng đúng đắn của thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc. Chân lí ấy mang đến cho tác phẩm một ý nghĩa khái quát rất cao. Ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là hình ảnh đôi bàn tay Tnú bị giặc quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt cháy trong cái đêm anh bị bắt. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác dã man của kẻ thù, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu tính tạo hình, được nhà văn Nguyễn Trung Thành chủ ý tô đậm và nhấn mạnh. Bọn giặc đốt mười ngón tay Tnú nhằm khủng bố và tiêu diệt ý chí phản kháng của dân làng Xô Man. Thằng ác ôn Dục đã giơ cao ngọn đuốc, cười sằng sặc và dọa : Đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây ! Kẻ thù tìm mọi cách để tiêu diệt lòng yêu nước của dân làng Xô Man. Chúng tra tấn Tnú ngay trước sân nhà rông, trong không khí căm thù sôi sục của dân làng. Tác giả miêu tả rất kĩ hình ảnh mười ngón tay Tnú bị giặc đốt cháy bằng những câu văn gây xúc động mạnh mẽ: Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng. Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi ! Cháy, cháy cả ruột đây rồi Ị Anh Quyết ơi ! Cháy ! Không, Tnú sẽ không kêu ! Không ! Hình ảnh đôi bàn tay cháy rừng rực của Tnú thể hiện phẩm chất dũng cảm phi thường của người anh hùng thời đại. Tuy da thịt bị thiêu đốt đau đớn tột cùng nhũng anh không hề khóc lóc, kêu van. Thái độ căm thù giặc mãnh liệt hiện rõ trong đôi mắt mở trừng trừng, trên đôi môi bị chính anh cắn nát, trong vị máu mặn chát ở đầu lưỡi. Nỗi đau nén lại trong lồng ngực để rồi òa vỡ ra thành một tiếng thét dữ dội. Tnú đã thét lên tiếng thét căm hờn, khinh bỉ vào mặt lũ tay sai tàn ác. Tiếng thét ấy làm cho dân làng Xô Man bừng tỉnh, thôi thúc dân làng vùng dậy cầm giáo cầm mác giết chết cả tiểu đội lính ngụy : Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “Giết!”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ : “Chém! Chém hết Ị”. Cụ Mết đúng rồi, cụ Mết đã đúng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Ttú mang từ đỉnh Ngọc Linh về…
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 199
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Nỗi đau đớn tột cùng và lòng căm thù sôi sục của Tnú đã truyền sang dân làng Xô Man. Trong khoảnh khắc, cụ Mết đã lãnh đạo dân làng dùng giáo mác giết sạch bọn thằng Dục có trang bị vũ khí đầy đủ. Mười ngọn đuốc cháy rừng rực trên hai bàn tay Tnú không làm cho lòng người Xô Man nao núng, khiếp sợ như kẻ thù mong muốn ; ngược lại, hình ảnh đó càng nung nấu căm thù và tiếp thêm sức mạnh cho mọi người dũng cảm vùng lên giết giặc. Sự man rợ của kè thù là một trong những nguyên nhân thúc đẩy hành động quật khởi của dân làng Xô Man trong cái đêm đáng nhớ ấy. Sau đêm đó, Tnú rời làng tham gia lực lượng vũ trang. Đôi bàn tay với các ngón bị cụt như một chứng tích tội ác của quân thù. Thời gian dần dần làm lành vết thương trên mười ngón tay Tnú nhưng nỗi đau mất vợ mất con vẫn còn nguyên đó, anh không thể nguôi quên. Đôi bàn tay cụt mỗi ngón chỉ còn hai đốt của Tnú tiếp tục cầm súng chiến đấu với kẻ thù. Trong một trận đánh.Tnú đã dùng đôi bàn tay không còn nguyên vẹn của mình bóp chết tên chỉ huy giặc Khi nó cố thủ trong hầm. Đôi bàn tay Tnú là dấu ấn khắc ghi quá khứ đau thương, mất mát cũng như sự trưởng thành của anh. Giống cánh rừng xà nu với sức sống bất diệt, đôi bàn tay bị giặc đốt cháy của Tnú vẫn giúp anh đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ, diệt ngụy và anh đã trở thành niềm tự hào to lớn của dân làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đằng bút pháp sử thi, với những hình ảnh đặc tả giàu khả năng gợi cảm, tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nhân vật Tnu thành hình tượng tiêu biểu cho con người Tây Nguyên dũng cảm, kiên cường trong thời đại chống Mĩ cứu nước. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú được nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm như một biểu tượng đầy ý nghĩa về cuộc đời đau thương, mất mát, hờn căm; là chứng tích tội ác của kẻ thù, thể hiện tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giải phóng và vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú tượng trưng cho sức sống mãnh liệt không bạo lực nào có thể tiêu diệt được của con người Tây Nguyên. Hai bàn tay Tnú đã trở thành một chi tiết nghệ thuật đặc biệt có giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa khái quát lớn lao, sâu sắc. Còn nhiều đề thi liên quan đến bài này, các em thường xuyên vào website để đọc những bài viết cô mới soạn nhé. bấm vào link này :http://thutrang.edu.vn/tag/rungxa-nu 12. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH– Nguyễn Thi Đề 1 : Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hai đoạn trích sau: “… Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra trước ngực. … T nú sẽ không kêu ! không” “…Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. ….Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang nổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…” Đáp án:ở bài Rừng xà nu GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 200
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang http://thutrang.edu.vn/ve-dep-nguoi-thanh-nien-viet-nam-qua-hai-doan-trich-trongrung-xa-nu-va-nhung-dua-con-trong-gia-dinh Đề 2 : Đề bài: “Văn xuôi những năm kháng chiến chống Mỹ xứng đáng là bản anh hùng ca ca ngợi những con người miền Nam anh hùng, kiên cường, bất khuất, căm thù giặc cháy bỏng, yêu thương quê hương đất nước tha thiết, thủy chung, nghĩa tình son sắt với cách mạng, với kháng chiến”. Qua việc phân tích các tác phẩm tiêu biểu đã học trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên ? Đáp án : http://thutrang.edu.vn/chu-nghia-anh-hung-qua-tac-pham-van-hoc-khangchien-chong-mi Đề 3 : Hình tượng người lính và Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” Nguyễn Thi Bài làm : “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi được sáng tác trong không khí của những ngày kháng chiến chống Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình có truyền thống cách mạng. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm có một nét tính cách riêng, nhưng đều mang vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược: Hai chị em Chiến và Việt cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương do kẻ thù gây ra. Ngay từ nhỏ , hai chị em đã chứng kiến cái chết của cha rồi sau này là cái chết của người mẹ thật tàn khốc. Tất cả điều đó đã tạc vào tâm khảm chị em Việt mối thù sâu nặng không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, lòng căm thù đã thôi thúc hai chị em có cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc. Việt là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Việt xuất thân trong một gia đình cách mạng. Những con người trong gia đình ấy đã gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có tính cách riêng, nhưng tất cả đều có lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, có niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, với cách mạng và Tổ quốc. Hơn nữa, Việt xuất thân trong một gia đình mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt thì bị trái ca nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc bắn chết khi đi rọc lá chuối… những người thân trong gia đình của Việt lần lượt bị giặc sát hại. Những đau thương mất mát này đã sớm khơi dậy lòng căm thù giặc của Việt, đồng thời cũng sớm khơi dậy ý thức đấu tranh để trả thù nhà và góp phần vào việc đấu tranh giải phóng miền Nam của Việt. Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. . Lúc nhỏ Việt đã rất gan lì. Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 201
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang la “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm” mà Việt “cứ nhè cái thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh giặc trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị”.Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý chí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. Thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội . Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến… tỉnh ra Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ mà trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống gia đình. Tuy chiến đấu rất dũng cảm nhưng trong cuộc sống thường ngày Việt vẫn còn là cậu bé ngây thơ, hồn nhiên và trẻ con: rất thương chị nhưng không biết lo toan cùng chị, chỉ biết đi chiến đấu. Đi chiến đấu mà Việt vẫn giắt sau lưng một chiếc ná thun. Khi bị thương Việt có thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng Việt cũng chưa hiểu cái chết là như thế nào: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghỉ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra sao”. Và Việt không hề biết sợ chết, chỉ sợ là không còn được ở chung với đồng đội và cũng không được đi bộ đội nữa . Những điều suy nghĩ của Việt về cái chết thật ngây thơ . Trước sau, trong hoàn cảnh nào Việt cũng nghĩ đến chiến đấu. Đó chính là bản chất vốn có của Việt và cũng chính là bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật Việt – một nhân vật tiêu biểu cho tuổi trẻ miền Nam, tuổi trẻ của cả đất nước anh hùng. Sức mạnh của tuổi trẻ không gì ngăn nổi, hứa hẹn sẽ mở ra những khúc sông hào hùng hơn, vẻ vang hơn để đổ về biển lớn của cách mạng. Trong tác phẩm, nhân vật Chiến hiện lên là một cô gái trẻ nhưng biết lo liệu, toan tính việc nhà chu đáo trước khi tòng quân. Chị đã trưởng thành trong khó khăn gian khổ, đảm việc nước giỏi việc nhà, dù trong bom đạn ác liệt vẫn luôn hướng ra chiến trường. Chiến đã có thể thay thế được người mẹ đã mất để lo liệu công việc gia đình, và Chiến còn có thể cầm súng để đánh lại kẻ thù nữa.Chiến đã nói với em trong đêm GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 202
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thu xếp việc nhà trước lúc ra trận: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Câu nói mộc mạc, giản dị ấy vang lên như một lời thề chắc nịch thể hiện ý chí , lòng quyết tâm của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Chú Năm tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc . Cuộc đời chú Năm chứng kiến bao tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai.Chú hay kể sự tích cho con cháu,động viên con cháu tham gia đánh giặc trả thù cho ba má, bảo vệ quê hương. Chú có cuốn sổ ghi chép chuyện gia đình. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước. Má của Chiến và Việt hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Má đã phải trải qua thời khắc dữ dội nhất , nỗi đau lớn nhất của người vợ đó là khi chứng kiến kẻ thù chặt đầu chồng. Nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ lội hết đồng này sáng bưng khác, đối mặt với họng súng quân thù để đòi đầu chồng thật cảm động. Má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng. Tác phẩm thành công khi khắc hoạ hình tượng những người nông dân Nam Bộ trong kháng chiến, những con người bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường. Các nhân vật đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Vẻ đẹp của họ kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo./ Đề 4 : Cảm nhận về hai đoạn trích trong "Rừng xà Nu" và "những đứa con trong gia đình" Xem đề bài và đáp án ở bài Rừng xà nu Đề 5 : So sánh Việt và T nú ( xem đề và đáp án ở bài Rừng xà nu) Đề 6 : So sánh Chiến và Mai ( xem đề và đáp án ở bài Rừng Xà nu) Đề 7 : Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đám dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 203
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm…chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra…Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên…Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ… (Trích Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) Đoạn văn trên được viết theo phương thức biểu đạt nào? Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ? Nêu tác dụng của biện pháp so sánh trong đoạn văn ? Từ láy văng vẳng có ý nghĩa như thế nào trong việc miêu tả cảnh chiến trường? Tại sao Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ đối với nhân vật Việt ? Hãy xác định những câu văn là lời của nhân vật Việt, tìm hiểu tâm trạng của việt bộc lộ trong những câu văn đó Qua đoạn văn, anh/ chị hiểu gì về nhân vật Việt? Trả lời : Câu 1 : Đoạn văn được viết theo phương thức tự sự . Câu 2 : Đoạn văn kể chuyện nhân vật Việt bị thương nặng trên chiến trường. Một lần tỉnh lại, Việt nghe tiếng súng của ta, nhớ về đồng đội và quyết tâm tìm về đơn vị. Câu 3 : Phép tu từ so sánh trong văn bản được thể hiện qua câu văn : Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đám dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Hiệu quả nghệ thuật: đem tiếng súng lớn, súng nhỏ của ta so sánh với tiếng mõ, tiếng trống, nhà văn gợi lại âm thanh quen thuộc đã từng gắn bó với nhân vật Việt khi anh đang cô độc và bị thương nặng giữa chiến trường, đồng thời là sống dây tinh thần quật khởi của đồng bào miền Nam trong những ngày đánh Mỹ. Qua đó, ta thấy được tình yêu quê hương, ý chí, nghị lực phi thường của nhân vật Việt. Câu 4 : Từ láy văng vẳng miêu tả tiếng súng từ xa vọng lại, dồn dập , liên tiếp. Cảnh chiến trường khốc liệt, dữ dội… Câu 5: Đối với nhân vật Việt, tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ . Bởi vì, đó là tiếng súng của đồng đội. Nó gọi Việt tới phía của sự sống. Tiếng súng đồng đội gọi chiến đấu đã tiếp thêm sức mạnh mới để gọi Việt đến. Câu 6: Lời nhân vật: -Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. – Đúng súng của ta rồi! – Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. -Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! -Đó, lại tiếng hụp hùm…chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. -Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. -Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… -Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… -Các anh chờ Việt một chút. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 204
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ->>Tâm trạng phấp phỏng, hồi hộp mong chờ , niềm vui sướng hân hoan khi phát hiện ra tiếng súng quen thuộc của đồng đội. Câu 7. Việt là một người chiến sĩ, người anh hùng hội tụ đủ các phẩm chất của một người lính với tính cách gan dạ, dũng cảm ,kiên cường, bản lĩnh không sợ hãi, khuất phục trước khó khăn: khi anh bị lạc đơn vị, bị thương nhưng anh vẫn bình tĩnh, lạc quan và luôn ở tư thế chiến đấu.Hình ảnh người lính bị thương vẫn giữ tư thế sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng đã thể hiện được tính cách anh hùng của nhân vật.Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ. Đề 8: So sánh Việt và Chiến Xem thêm tại : http://thutrang.edu.vn/tag/nhung-dua-con-trong-gia-dinh 13.CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – Nguyễn Minh Châu KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ BÀI CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA 1.. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989): Là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) , tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) ,Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học và nghệ thuật. 2. Văn bản đoạn trích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 – 1983), rút từ tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1-987). Thể loại – phương thức biểu đạt: Truyện ngắn; tự sự – (miêu tả – biểu cảm); ngồi kể thứ nhất, đặt vào nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng – người chứng kiến và tham gia vào cậụ chuyện. Bố cục đoạn trích: +Phùng chớp được cảnh đẹp trời cho: chiếc thuyền lưới vó đang từ ngoài biển chèo thẳng vào bờ trong buổi sớm mai sương mù. +Ngay, sau đó Phùng lại chứng kiến cảnh bạo hành dã man của gia đình thuyền chài. +Câu chuyện với người đàn bà thuyền chài ở toà án huỵện. +Đoạn kết: suy nghĩ của Phùng về bức ảnh lịch và ngưòi đàn bà vùng biển. I ->>Cũng có thể chia gọn 2 đoạn như SGV: 1. Hai phát hiện của nghệ sĩl Phùng. 2. Câu chuyện của người đàn bà vùng biển. Nhưng cách chia này không thật rành mạch về ý. Vì câu chuyện của nguòil đàn bà đã bắt đầu từ phát hiện thứ hai (đoạn 1). DÀN Ý PHÂN TÍCH TÁC PHẨM 1.. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 205
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang a. Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ. Đoạn văn : Lúc bấy giờ… mang lại. Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để thưởng cho người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm trước đã hơn hai tuần phục cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô). Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng tượng của nghệ sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên mà người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi. Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm thấy niềm vui của sự khám phá chân lí toàn thiện, khọảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tất nhiên là anh vội, không tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm hoi ấy, phải kiển trì, phải vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người đơn giản và hoàn mĩ. b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà mặt rỗ. Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ, Phùng lại phát hiện được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy. Đoạn từ: Ngay lúc ấy… thuyền lưới vó đã biến mất. Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ hai ngay sau đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau, căm giận. Phát hiện bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai người đàn ông và đàn bà quái lạ. Và tiếp theo là cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ – người lính chiến năm xưa. Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái, hắn trút sự căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 206
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang chiếc thắt lưng to bận như đánh kẻ thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ, đau đớn Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ sĩ Phùng, khi “anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân của sự bạo hành man rợ”. Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn ông nọ trở nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì một cái gì đó mà chính gã cũng không hiểu. Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu hơn, khi mụ nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái thắt lưng trong tay bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo. Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết? Người me quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả đều mới chỉ là ức đoán, chưa có căn cứ làm sáng tò nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc một chú bé vùng biển gan góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ. Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng mới là một phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp chứng kiến và tham gia vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất của sự thật đau buồn mà dữ dội ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được. Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật. 2. Câu chuyện ở toà án huyện. + Cuộc gặp gỡ giữa vị chánh án và người đàn bà làng chài Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao nhiêu người phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính quá cá biệt. Người đàn bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn đánh của chồng như một lẽ đương nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí do thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại gia đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ mong chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 207
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang cay đắng và tự nguyện để lão chồng ba ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không rời bỏ gia đình. Đó là sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh cao cả. Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự những điều tưởng chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ – một đại diện cho công lí, một đại diện cho lương tâm nghệ sĩ mới nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn nhận, đánh giá mọị sư việc, hiện tượng cuộc sống. \ Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp luật, một cựu binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân, giúp chị tìm con đường giải thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội. Quan điểm đó là đúng, nhưng trong trường hơp cụ thể này lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người bị hại tán thành chứ đừng nói gì đến tâm phục khẩu phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của người đàn bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng, nhiều, Đẩu thấy hiện tại chỉ có cách theo cách của nạn nhân, vẫn đề họ sống với nhau, và gọi lão chồng lên huyện răn đe nghiêm khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải trí ấy, mấy lời thuyết giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá khoai? Đó là cái khó của vị quan toà chân chính thời nay. LÃO ĐÀN ÔNG: Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành gã đằn ông vũ phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút nỗi bực dọc, đau khổ, buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như nhiều người đàn ông khác! Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, bản thân lão vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con mình, gia đình mình. Đối xử vói loại người này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình, cương nhu, tác động từ nhiều phía mới hi vọng cải tạo y từ gốc để trở lại là người chồng, người cha tốt như xưa. NHÂN VẬT THẰNG PHÁC Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai? Thương mẹ nhưng không thể ngăn được bố, càng không thể chống lại bố… Với tính cách giống cha như lột, phản ứng của thằng Phác là dữ dội, quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết mình. Nó hết sức xông thẳng .vào người cha hung bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã, nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần sau còn thủ sẵn một con dao găm để đâm bố, cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai quyết lòng bảo vệ mẹ. Trong mắt thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc ác, lúc nào cũng chỉ muốn hành hạ mẹ nó. Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn nhiều. Nó vật nhau với em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó chăm sóc mẹ khi lên toà án huyện… Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các nhân vật trẻ con, nhưng hai đứa bé này vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương cảm mà còn mến yêu và xúc động. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 208
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang NGHỆ SĨ PHÙNG Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham gia vào câu chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác giả. Đó là một nghệ sĩ có tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu người lính chiến sôi nổi, chân thành. Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của vị trưởng phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mĩ mãn về chuyên môn, nhưng sâu sắc hơn anh hiểu biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường. Hơn nữa anh còn thức nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là người biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh bằng hành động chống lại cái ác, cái xấu để có cuộc sống xứng đáng với con người. Và cuộc sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí giải với tất cả nhận thức và tình cảm, cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo muôn màu và bản chất thực của nó. 3. Người đàn bà làng chài + Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt ( truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân ), người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên. Nhân vật được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,…Đây là nhân vật tiêu biểu cho những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số phận đau thương. +Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt sũng … -Hoàn cảnh gia đình, số phận +Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái thuyền chật hẹp. + Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt +Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả +Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đólà một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con. – Phẩm chất, tính cách: + Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn, không hề khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì : “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ nó” Chị cam chịu đến tội nghiệp. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 209
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm thông. Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông. +Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời. + Yêu thương con tha thiết(” phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”) Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đấtđược”. Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố, ….Chị không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là nhìn những đứa con chúng được ăn no,… => Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa . + Người đàn bà vị tha, lạc quan : Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong cuộc đời bình dị ( “…nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận”) .Chị tự động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường xuyên bị chồng đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng +Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí giải vì sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 210
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang chị đã khiến Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. 4.Nghệ thuật (Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ và hấp dẫn: bất ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —> bất ngờ hiểu cái lí buồn của nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ, ngôn ngữ và hành động phù hợp tính cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người đàn bà, thằng Phác)…) Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh tính triết lí của truyện. PHẦN 2 : CÁC DẠNG ĐỀ THI VỀ BÀI CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ( còn nữa. đang soạn nhé ) Bài này các em ôn tập theo định hướng sau : + Dạng 1 : Cảm nhận hình tượng nhân vật Nhân vật trung tâm : Người đàn bà làng chài Ngoài ra : đề thi có thể yêu cầu phân tích, cảm nhận về nhân vật Phùng. + Dạng 2 :Cảm nhận, phân tích đoạn trích văn xuôi. Tác phẩm này chú ý những đoạn quan trọng như : “Có lẽ suốt một đời cầm máy… ngoại cảnh vừa mang lại” “Người đàn bà bỗng chép miệng… chúng được ăn no” ( Đề thi THPT QG 2015) “Những tấm ảnh tôi mang về đã được chọn lấy một tấm…hoà lẫn trong đám đông” + Dạng 3 : Cảm nhận về chi tiết : Các em chú ý chi tiết bức ảnh nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng trong bộ lịch năm ấy + Dạng 4 : Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, ý kiến bàn về tác phẩm,… + Dạng 5 :Dạng đề so sánh văn học: tác phẩm này có thể so sánh với Vợ nhặt,và những tác phẩm cùng chủ đề + Dạng 6:Liên hệ thực tế ( dạng đề tích hợp nghị luận xã hội). Ví dụ : từ câu chuyện của người đàn bà làng chài, liên hệ tới cảnh bạo hành gia đình, hoặc liên hệ tới cách nhìn nhận cuộc sống và con người,... CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THAM KHẢO : Câu 1 : Cảm nhận về nhân vật người đàn bà làng chài Câu 2 :Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) Đáp án:http://thutrang.edu.vn/de-nghi-luan-so-sanh-nguoi-vo-nhat-va-nguoi-dan-bahang-chai Đề 3 :Khép lại tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu viết: “Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 211
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông …” (Sách Ngữ văn 12- tập 2, trang 78, NXB Giáo dục, năm 2011) Hãy phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng ở đoạn văn trên để thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật. Đáp án :http://thutrang.edu.vn/y-nghia-doan-ket-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyenminh-chau Nguyễn Minh Châu(1930-1989) là người không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát vọng chân chính và ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học, ông đã trở thành “người mở đường tinh anh và tài năng” cho công công cuộc đổi mới văn học nước nhà từ sau năm 1975.“Chiếc thuyền ngoài xa”được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê” (1985) sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.Truyện ngắn này là một thể hiện tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Đoạn kết tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. GIÁ TRỊ CỦA TẤM ẢNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG : -Tấm ảnh Phùng đã chụp đã chụp được là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh thật huyền ảo, tinh khôi, tinh khiết như “một bức tranh mực tàu của một danh họa đời cổ”.Tất cả khung cảnh ấy được nhìn qua một cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt một cánh dơi. Tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy và góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh :“trưởng phòng rất bằng lòng”.Tấm ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” có giá trị nghệ thuật cao, được mọi người yêu thích ,“được treo rất nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau” Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng đựơc treo trong những phòng khách sang trọng của những người sành điệu. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới chộp đựơc nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất. Và ai đã sưu tầm được nó, chắc hẳn đã tự hào rất nhiều. Nghệ thuật là vô giá! Tác phẩm nghệ thuật chỉ có giá trị khi nó phản ánh hiện thực đời sống. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 212
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang ẤN TƯỢNG CỦA PHÙNG VỀ TẤM ẢNH MÌNH CHỤP : Nhưng đối với Phùng ( hay nói cách khác, đối với Nguyễn Minh Châu ) chưa hẳn là như vậy. Tuy chụp được tấm ảnh toàn mĩ nhưng dường như tâm trạng của Phùng vẫn còn nhiều băn khoăn, ray rứt. Bởi vì Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh , những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có thể nhiều người chỉ nhìn bề ngoài thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu . . . rồi quên lãng! Còn Phùng “mỗi lần ngắm kĩ”, nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại “nhìn lâu hơn” . Điều đó nói lên, đằng sau tấm ảnh, vẫn còn có điều gì khiến anh trăn trở. *Vẻ đẹp nghệ thuật gợi lên từ tấm ảnh: Một điểm nữa, Nguyễn Minh Châu cũng làm cho người đọc không thể bỏ qua trong cách nhìn lại tấm ảnh của Phùng “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” ..Đó là ấn tượng đặc biệt về hiệu ứng màu sắc của Phùng lúc chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.Cũng là màu sắc thể hiện niềm tin vào tương lai của gia đình hàng chài nghèo khổ, đầy nghịch lí sống trên chiếc thuyền ấy. Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng . Nhưng nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng kia bị che lấp bởi vô vàn cái bùng nhùng, rối rám của cuộc đời – cũng như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ hàng chài kia tưởng như không có gì đáng nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện ở chị những phẩm chất đáng quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quanh niệm về con người và cuộc sống. *Vẻ đẹp cuộc sống đời thường sau tấm ảnh: Hình ảnh người đàn bà hàng chài “cao lớn với những đường nét thô kệch,tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau khi ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh. Điều đó cho thấy Phùng luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống của gia đình hàng chài, đặc biệt là số phận đáng thương của những người phu nữ ở vùng biển này .Đó là người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Người phụ nữ hàng chài nghèo khổ vừa phải lo cái ăn, cái mặc cho một lũ con, vừa bị chồng đánh liên miên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cái khổ, cái nghèo của chị hiện ra trong hình dáng “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ mệt mỏi, đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Hình ảnh nhẫn nhục, cam chịu của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Ngoài ra, còn thằng Phác, chị nó, và cả lão đàn ông cục mịch, vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng vẫn là hình ảnh người phụ nữ GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 213
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang hàng chài.Chị là đại biểu cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều. Hạnh phúc trong cuộc đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng không phải bao giờ cũng có được . Hạnh phúc của chị là những lúc được ngắm nhìn “đàn con chúng nó được ăn no”, vợ chồng con cái “hòa thuận vui vẻ”, dẫu đó là những niềm vui hiếm hoi trong cuộc đời nhiều cay đắng, nghiệt ngã của chị. *Nghịch lí của đời sống Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, vô danh không ai biết đến nhưng họ là số đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất nầy “bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Họ chính là đám đông đã bám gốc rễ trên trên hành tinh nầy từ thuở có loài người. Nhưng khổ nỗi, đám đông ấy dường như xa lạ với những bức ảnh tuyệt mĩ thể hiện cuộc sống của họ, nói cách khác, tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những cuộc sống rách rưới, đói nghèo. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật! Và đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Bởi lẽ thật cảm phục làm sao khi một người ít học, quanh năm bị chồng đày đọa mà vẫn nhìn nhận hành động độc ác của chồng với tấm lòng bao dung, độ lượng, vẫn suy xét mọi vấn đề có lí, có tình. *Niềm tin vào con người : Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh “bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông …”. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống. *Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống : Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Điều nầy không mới. Cách ta hơn sáu mươi năm, Nam Cao chẳng đã từng nói “Nghệ thuật không cần phải là . . .không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than. . .” ( Trăng sáng – 1943 ). Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bị ám ảnh mỗi khi nhìn lại tấm ảnh, vì có thể anh nghĩ rằng tấm ảnh đó sang trọng quá, xa cách quá với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc của những mảnh đời bất hạnh mà những người không trực tiếp chứng kiến như anh thì sẽ không bao giờ cảm nhận được một cách đầy đủ đằng sau tấm ảnh kia chứa đựng những gì. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn cón một khoảng cách. Anh muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thế mà anh “ngắm kĩ” rồi lại “nhìn lâu hơn”, Phùng muốn đào bới những gì trong một tấm ảnh rất quen thuộc của chính mình? Âu đó cũng là cái tâm của người say mê nghệ thuật.Có lẽ vì vậy mà Phùng dường như còn muốn làm điều gì xa hơn, cụ thể hơn chăng để cho nghệ thuật gắn liền với cuộc đời. Bằng không thì tấm ảnh đẹp như một giấc mơ đó mãi mãi vẫn là Chiếc thuyền ngoài xa ! *Quan niệm về nghệ thuật của nhà văn :
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 214
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Những ấn tượng của Phùng đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả : nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận ; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ. ĐÁNH GIÁ VỀ NGHỆ THUẬT : Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn : mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ KẾT BÀI : Đoạn kết không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Đoạn kết đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin vào cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào nhoáng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Đề 4 :Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng, nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Anh/chị có suy nghĩ gì về những ý kiến trên? Định hướng cách làm :http://thutrang.edu.vn/nghi-luan-hai-y-kien-ban-ve-nhan-vatphung-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau Mở bài : +Khái quát về tác giả, tác phẩm: truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu +Trích dẫn hai ý kiến : -Nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. -Vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Các em có thể tham khảo mở bài sau : “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng , một nghệ sĩ khao khát khám phá , sáng tạo ra cái đẹp , người luôn lo lắng , trăn trở , suy tư về nhân cách và đời sống con người . Nhận định về nhân vật này có ý kiến cho rằng, nét nổi GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 215
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Thân bài Bước 1 :Giải thích ý kiến –Nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp: khả năng khám phá, phát hiện tinh tế và sự rung động mãnh liệt trước cái đẹp. – Vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người: mối quan tâm đến số phận con người, nhất là những mảnh đời bất hạnh, thái độ bất bình trước những ngang trái cuộc đời. Bước 2: Chứng minh ý kiến qua nhân vật Phùng – Một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp: nhạy bén với vẻ đẹp trời cho của “chiếc thuyền ngoài xa” trong bối cảnh trời biển; sung sướng đến ngây ngất khi bắt gặp cái đẹp, nhanh chóng nắm bắt và thu vào ống kính khoảnh khắc tuyệt mỹ đó. – Một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người: +Thái độ khi chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài: sửng sốt, bức xúc, căm phẫn, xông vào can thiệp để bảo vệ người đàn bà hàng chài… +Lắng nghe, day dứt với chuyện đời người đàn bà hàng chài; lo lắng, ám ảnh về thân phận và tương lai của họ; thay đổi quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời. Nhân vật Phùng là đại diện tiêu biểu cho người nghệ sĩ chân chính với niềm đam mê nghệ thuật và trái tim nhạy cảm, nhân hậu. c.Bình luận –Hai ý kiến trên bàn về những vẻ đẹp khác nhau trong tâm hồn người nghệ sĩ Phùng: ý kiến thứ nhất đề cao phẩm chất hàng đầu của một người nghệ sĩ: sự nhạy cảm và niềm say mê cái đẹp; ý kiến thứ hai nhấn mạnh phẩm chất đáng quý của người nghệ sĩ là tấm lòng hướng đến cuộc sống và con người. –Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành cái nhìn cái nhìn thống nhất và toàn diện về vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật nghệ sĩ Phùng. Kết bài : Đánh giá chung về nhân vật Phùng Đề 5 : +“Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân) +“Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) Trình bày cảm nhận của anh/chị về chi tiết “dòng nước mắt” trong những câu văn trên. Đáp án:http://thutrang.edu.vn/cam-nhan-ve-chi-tiet-dong-nuoc-mat-trong-vo-nhatva-chiec-thuyen-ngoai-xa GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 216
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang Đề 6 :Trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, trước mặt kẻ thù hung bạo, nhân vật Mai – người mẹ đã lấy thân mình che chở cho con trong hiểm nguy khốc liệt. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật người đàn bà hàng chài chịu đựng nhiều đau khổ, nhọc nhằn vì đàn con. Anh/ chị hãy phân tích vẻ đẹp của tình mẫu tử ở hai nhân vật này. Đáp án:http://thutrang.edu.vn/phan-tich-ve-dep-cua-tinh-mau-tu-o-hai-nhan-vat-maiva-nguoi-dan-ba-hang-chai-ngu-van12 Đề 7 : Trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu viết: “Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Anh (chị) hãy cho biết câu văn trên diễn tả hành động của nhân vật nào trong tác phẩm? Tình huống dẫn đến hành động đó là gì? Nêu ý nghĩa của hành động ấy? Đáp án:http://thutrang.edu.vn/cau-hoi-ve-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau – Nhân vật: nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. – Tình huống: phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền. Khi chiếc thuyền tiến lại gần, Phùng tận mắt chứng kiến cảnh người đàn ông dùng chiếc thắt lưng đánh vợ. Người vợ cam chịu, nhẫn nhục. Trước cảnh tượng đó, anh vô cùng ngạc nhiên, không kìm được lòng mình, anh đã vứt chiếc máy ảnh chạy nhào tới. – Ý nghĩa: + Góp phần khắc hoạ vẻ đẹp trong phẩm chất của nhân vật; đó là bản chất của người lính: anh không thể làm ngơ trước bạo hành và sự độc ác. Anh là người biết yêu lẽ phải, ghét sự bất công, trái tim nhạy cảm, dễ rung động trước những cuộc đời bất hạnh. Như vậy, Phùng không chỉ là một người nghệ sĩ có niềm đam mê nghệ thuật mà anh còn là một người có lòng nhân ái, giàu tình yêu thương. + Đó là kết quả của quá trình “giác ngộ” của nhân vật: . Phùng nhận ra đằng sau con thuyền đẹp như trong mơ kia là một sự thật trần trụi, phũ phàng, là sự phong phú, phức tạp của cuộc sống con người. . Nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống không hề đơn giản. . Anh không vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời; bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời, vì cuộc đời. Phùng là một nghệ sĩ chân chính. + Khơi dậy những cảm xúc và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Kết luận: Chi tiết này không chỉ khắc hoạ phẩm chất của nhân vật mà còn góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Đề 8:Truyện ngắn“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đề cập đến một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã hội hiện nay: Nạn bạo hành gia đình. Em có hiểu biết gì về tệ nạn trên? Theo em, ta cần làm gì để góp phần chấm dứt tệ nạn đó? Đáp án:http://thutrang.edu.vn/de-nlxh-ve-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau Mở bài: – Giới thiệu về xuất xứ của vấn đề. – Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: nạn bạo hành gia đình. Thân bài:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 217
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang – Nạn bạo hành gia đình trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. + Tại gia đình hàng chài: đông con, cuộc sống khó khăn cơ cực + Biểu hiện: người chồng thường xuyên đánh vợ; người vợ câm lặng cam chịu còn xin chồng “lên bờ mà đánh”. – Hiểu biết của bản thân về tệ nạn trên: + Đó là một tệ nạn vẫn còn tồn tại trong xã hội ngày nay. + Nguyên nhân: > Do cuộc sống lao động quá cơ cực, thiếu thốn >Do trình độ văn hóa thấp, sự cam chịu câm lặng của nạn nhân >Do dấu ấn của quan niệm phong kiến còn nặng nề. > Do coi thường pháp luật của nhà nước; bản chất độc ác, dã man. + Hậu quả: >Gây ra bao cuộc đời đau khổ, bất hạnh >Làm tổn thương tâm hồn con cái. >Làm cho nền văn minh xã hội trở nên chậm tiến – Suy nghĩ và hành động của mỗi người: + Suy nghĩ: Cần có nhận thức sâu sắc và đầy đủ về vấn đề này + Hành động: >Cần góp sức với cộng đồng để ngăn chặn tệ nạn trên. >Cần nỗ lực học tập để nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết pháp luật đẩy lùi đói nghèo, góp phần giảm thiểu tệ nạn đó. >Tu dưỡng đạo đức nhân cách, luyện cách sống nhân ái yêu thương con người Kết bài: – Đánh giá ý nghĩa của việc bàn bạc vấn đề này. – Bài học cho bản thân. Bài làm: Ngày nay, tuy xã hội đã văn minh hơn, nhưng nạn bạo hành trong gia đình vẫn còn tồn tại và trở thành một vấn nạn nhức nhối trong xã hội. Điều đó không phải là một đề tài xa lạ trong văn học từ xưa đến nay.Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề khiến nhiều độc giả phải suy nghĩ: nạn bạo hành gia đình trong xã hội xưa và nay. Nghị luận xã hội về Chiếc thuyền Ngoài xa (bài văn mẫu) Xuyên suốt toàn bộ truyện ngắn,tác giả không hề nhắc đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp , Nguyễn minh Châu đã gọi một cách phiếm định: người đàn bà hàng chài, mụ, chị ta, người đàn bà…. .Chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này:một người nghèo khổ, lam lũ, cơ cực .Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu.Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 218
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang những đứa con. Chị chỉ có một ao ước đến tội nghiệp: chồng mang chị lên bờ để đánh, chỉ vì chị ta hiểu rằng không nên để con thấy những cảnh như thế! Sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài đã khiến nhiều độc giả phải suy nghĩ: tại sao chị không chống trả, không báo chính quyền, không làm đơn li dị? Rõ ràng hoàn cảnh và điều kiện sống cũng là một nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, đó là còn chưa kể tới những hệ lụy của nó. Cái gì quá khó khăn, quá vất vả thường khiến con người ta ích kỉ và tàn nhẫn hơn, khó mà giữ được mình trong sạch, giữ mình là mình nữa. Nạn bạo hành trong gia đình xuất phát từ nhiều nguyên nhân, và không thể giải quyết đơn giản như suy nghĩ của Phùng và Đẩu. Trong thực tế cuộc sống hiện nay, nhiều người vẫn chấp nhận cam chịu việc bị hành hạ đánh đập. Đó là khi người vợ phải phụ thuộc kinh tế, tài chính và thậm chí cả tình cảm vào đối phương. Họ thường chịu áp lực về điều này, họ có thể bị coi thường, thậm chính bị đối xử bất công trong gia đình. Có những người vợ, người mẹ bị bạo hành nghiêm trọng, họ chịu tổn thương ghê gớm cả về thể chất và tinh thần, nhưng vì thương những đứa con côi cút, họ hi sinh cho con và chịu những trận đòn roi, xỉ vả; trong khi chính họ hoàn toàn có lí do chính đáng để bỏ người chồng vũ phu. Bạo hành trong gia đình thường liên quan trực tiếp tới nhân quyền.Nó để lại hậu quả nặng nề, xâm phạm nghiêm trọng tới nhân quyền. Mỗi hình thức bạo hành trong gia đình để lại những hậu quả khác nhau. Nhiều nơi vùng sâu vùng xa ở nước ta, do trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, nên bạo hành xảy ra chủ yếu dưới hình thức là bạo hành thể xác và bạo hành tình dục. Còn ở nhiều nơi với mức sống và trình độ văn minh hơn, bạo hành tuy tỉ lệ ít hơn, nhưng dưới hình thức cũng đa dạng hơn, gồm cả bạo hành về tinh thần- kiểu bào hành dã man nhất: đày đọa về tinh thần, tâm lí, tình cảm của người bạn đời.Nhiều kẻ chỉ vì nóng giận, , để rồi tự biến mình thành thủ phạm của bạo lực gia đình, bạo hành ngay chính người thân yêu của mình, gây ra những hậu quả khôn lường Bạo hành gia đình thường gây đau đớn về tinh thần cho nạn nhân, gây ra nhiều hậu quả thương tâm.Một khi tâm hồn non nớt của trẻ em bị chai sạn vì tổn thương, chúng sẽ không thể là những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên như bản chất của chúng nữa. Trong chúng ta liệu có ai mong muốn gia đình mình tan vỡ, có ai mong mình sẽ bơ vơ như những chú chim non lạc mẹ, để rồi phải một mình chống chọi với muôn ngàn cạm bẫy và bóng tối của cuộc đời? Nghị luận xã hội về Chiếc thuyền Ngoài xa (bài văn mẫu) Tình cảm gia đình là tình cảm thật thiêng liêng, nó kết nối mọi thành viên trong gia đình với nhau, kết nối mọi người trở thành một thể thống nhất. Gia đình có hòa thuận, hạnh phúc ấm no thì xã hội mới ổn định, văn minh. Mọi người đối xử với nhau tốt đẹp thì cả cộng đồng sẽ thật an ấm, tươi vui. Bởi vậy khi nhận thức đúng đắn về hậu quả của bạo lực gia đình, chúng ta cần có những biện pháp cụ thể, quyết liệt để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em:xã hội cần quan tâm đến việc xóa đói giảm nghèo, giáo dục tuyên truyền về bình đẳng giới, GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 219
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang có những qui định, chế tài về việc gây bạo hành…nâng cao nhận thức của xã hội đối với nạn bạo hành. chúng ta có những hành động việc làm kịp thời để ngăn chặn nạn bạo hành và giúp đỡ những nạn nhân đúng lúc. kết luận:..Vai trò trách nhiệm và suy nghĩ của bản thân đối với vấn nạn trên. ( còn nữa...) Xem thêm tại :http://thutrang.edu.vn/tag/chiec-thuyen-ngoai-xa 14. HỒN TRƯƠNG BA , DA HÀNG THỊT Lưu Quang Vũ 1. Cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng. Năm 1965 – 1970, ông nhập ngũ, phục vụ quân chủng Phòng không – Không quân. Đây là thời kỳ tài thơ Lưu Quang Vũ nở rộ. Năm 1970 – 1978, ông xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để sinh sống. Từ tháng 8/1979, Lưu Quang Vũ làm phóng viên tạp chí Sân khấu. Năm 1988, giữa lúc tài năng đang vào độ chín, tên tuổi vang dội trên văn đàn, Lưu Quang Vũ đã qua đời trong một tai nạn giao cùng người bạn đời Xuân Quỳnh và con Lưu Quỳnh Thơ. Lưu Quang Vũ là một cây bút tài hoa đã để lại dấu ấn trong nhiều thể loại : thơ, văn xuôi, đặc biệt là kịch. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của LQV sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê Bắc Bộ đã in dấu nhiều trong sáng tác của ông sau này. Ở thể loại nào người đọc cũng bắt gặp một LQV với tâm hồn nổi gió, sức sống mãnh liệt và khả năng sáng tạo miệt mài. Năm 2000, Lưu Quang Vũ được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân khấu. Các tác phẩm chính : Thơ : Hương cây, Mây trắng, Bầy ong trong đêm sâu Kịch : Sống mãi tuổi 17, Mùa hạ cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Nàng Si-ta,… 2. Tóm tắt tác phẩm Trương Ba là một người là vườn và giỏi đánh cờ đã bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốnsửa sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại và nhập vào xác hàng thịt mới chết. Trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ,… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên và giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết. 3. Nhan đề Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai yếu tố quan trọng trong một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái bình có thể chứa linh hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong xác người kia. Hồn và xác lại không tương hợp ; tính cách, hành động, lối sống của Trương Ba và anh hàng thịt trái ngược nhau. Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn, xung đột bên trong của một con người. 4. Xuất xứ của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt – Lưu Quang Vũ viết vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt năm 1981, đến năm 1984 GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 220
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thì ra mắt công chúng. Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi cơ bản. – Điểm khác biệt : + Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi được nhập hồn vào thân xác anh hàng thịt. Ngắn gọn và đơn giản, truyện dân gian mang một tư tưởng triết học có phần cơ bản đúng, nhưng chỉ đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn. + Vở kịch của Lưu Quang Vũ tại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó đưa đến những tư tưởng mới : sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về cách sống. .5 Thông điệp – Được sống làm người thật là quý giá ; nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. – Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa tâm hồn và thể xác. 6.. Chi tiết cuối cùng của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) – Những hành động của cái Gái : + Bẻ quả na cho cu Tị một nửa. + Đôi trẻ ăn ngon lành. + Cái gái lấy những hạt na vùi xuống đất. – Qua đó, tác giả muốn thể hiện : + Cuộc sống tiếp nối, sinh sôi tuần hoàn theo quy luật. + Sự bất tử của linh hồn trong sự sống và trong lòng mọi người. 7.. Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích + Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng : – Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… – Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! + Những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. – Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. – Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 221
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO Đề bài :Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn: Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được! Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu! Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu! Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 149) Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: con người cần được sống là chính mình. Mở bài : Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ và vở Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” Giới thiệu đoạn trích trong đề bài Giới thiệu vấn đề nghị luận: con người cần được sống là chính mình. Thân bài Luận điểm 1 :Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba – Khát vọng được thoát ra khỏi nghịch cảnh phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt: + Ý thức được tình cảnh trớ trêu là phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. + Thấm thía nỗi đau khổ và không chấp nhận tình trạng vênh lệch giữa hồn và xác. Các từ ngữ không thể tiếp tục, không thể được, không thể trong lời thoại của Trương Ba cho thấy thái độ kiên quyết, dứt khoát của nhân vật. – Khát vọng được sống là chính mình: + Muốn là mình một cách toàn vẹn; thể xác và linh hồn hòa hợp; bên trong và bên ngoài, suy nghĩ và hành động thống nhất. + Mong muốn một cuộc sống có ý nghĩa, không chấp nhận sự dung tục, tầm thường:Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết! * Đánh giá – Khát vọng của Hồn Trương Ba đã cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 222
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang lại sự dung tục, giả tạo; bảo vệ quyền được sống là chính mình; hướng đến sự hoàn thiện nhân cách. – Khát vọng của Hồn Trương Ba được thể hiện sâu sắc nhờ ngôn ngữ kịch hấp dẫn, giàu sức khái quát và tính triết lí. Luận điểm 2 : Bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề: con người cần được sống là chính mình Thế nào là được sống là chính mình? nghĩa là khi con người sống đúng với những giá trị bản thân, với những cảm xúc, khát vọng của chính mình, với đam mê và nhiệt huyết của bản thân. Vì sao con người cần được sống là chính mình? -Bởi lẽ, cuộc đời con người là cả một hành trình dài. Và trên hành trình ấy, ta phải gặp biết bao hạng người, đối mặt với nhiều khó khăn, có lúc ta hạnh phúc, có lúc ta quỵ ngã. Nếu sống đúng, sống chân thật thì bản thân thì mọi người sẽ ở bên ta lúc mệt mỏi, chia sẻ với ta những niềm vui,nỗi buồn. Hơn nữa, cuộc đời thực khác với những thứ ảo ảnh, phù phiếm. không ai có thể diễn kịch cho bản thân trong vai diễn cuộc đời. Mỗi người có một tích cách khác nhau, nhu cầu khác nhau. Không thể áp đặt lối sống, phong cách của người này đối với người khác. Sống đích thực với bản thân khiến con người ta thoải mái hơn, tự nhiên và tự tin hơn. -Trái ngược với sống đích thực, sống đúng với bản thân là cách sống giả tạo, sống hình thức. nghĩa là mỗi người tự tạo cho mình một lớp vỏ bọc giả dối để đánh lừa người khác, nhằm thõa mãn thú vui nhất thời của bản thân và hậu quả cuối cùng là người đó tự đào thải chính mình ra khỏi xã hội. Làm thế nào để con người được sống là chính mình: đối với mỗi sinh viên, mỗi bạn trẻ trong hành trang vào đời của mình phải trang bị những tri thức, kĩ năng để luôn chủ động, linh hoạt trước những biến thiên của cuộc sống, luôn giữ vững cá tính và phong cách của bản thân. Sống hoà nhập nhưng không hoà tan, sống theo cá tính , phong cách riêng nhưng không lập dị, khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc thực sự. Kết bài : Đánh giá chung về giá trị tác phẩm Khẳng định quan niệm sống đúng đắn Đề 2 :: Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. 1. Mở bài – Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể loại : thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. – Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ. – Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch 2. Thân bài GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 223
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang a. Giới thiệu chung – Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ – Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân gian. b. Phân tích – Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba + Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết. + Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba ngày càng thay đổi. à Bi kịch của sự oan trái – Cuộc đối thoại giữa hồn và xác + Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,… + Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi” à Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ : con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần. – Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình + Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người. + Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt. + Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại. + Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba. à Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống. – Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. + Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. à Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác – Trương Ba trước cái chết của cu Tị + Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát. + Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người. à Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba. c. Đánh giá – Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác. – Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 224
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang thể xác và tâm hồn trong một con người. – Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo. 3. Kết luận – Đánh giá chung về nhân vật. – Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm. Đề 3 : Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao trước khi đâm chết Bá Kiến và tự kêt thúc cuộc đời mình đã nói: ”Ai cho tao lương thiện? ” Nhân vật Trương Ba trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, khi gặp Đế Thích đòi trả lại thân xác người hàng thịt đã nói: “Không thể bên trong một, đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Viêt bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh/chị về những câu nói đó? Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng, văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp. Yêu cầu cụ thể: Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,25 điểm) Điểm 0,25: Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết luận. Phần Mở bài biết diễn đạt họp lí và nêu được vấn đề, phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm của cá nhân. Điểm 0: Thiếu Mờ bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có một đoạn văn hoặc cả bài viết chỉ có một đoạn văn. Xác định vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm): Vấn đề nghị luận: Bỉnh luận về ý nghĩa của hai câu nói Điểm 0,25: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận. Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vân đê khác. Chia vấn đề cần nghị luận thành các luận điểm phù hợp (3,0 điểm): Các luận điểm được triển khai theo trình tự họp lí; có sự liên kết chặt chẽ, sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm (trong đó có các thao tác phân tích, so sánh chứng minh); biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dân chứng. Có thề trình bày theo định hướng sau: * Khải quát về nội dung 2 tác phẩm; vị irỉy ỷ nghĩa câu nói của 2 nhân vật: Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao + Nội dung: Tác phẩm kể về cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã tái hiện quá trình tha hóa của Chí Phèo. Từ một người nông dân lương thiện bị giai cấp thống trị chà đạp, đầy đọa trở thành lưu manh hóa. Từ đó Chí sống kiêp đời quỷ dữ …Gặp được thị Nở, tình yêu mộc mạc, chân thành của thị đã đánh thức phần lương thiện tốt đẹp trong con người Chí khiến Chí có khao khát được hoàn lương. Nhưng những định kiến nghiệt ngã của dân làng Vũ Đại về Chí đã khiến Chí bị Thị Nở cự tuyệt. Chí Phèo đau đớn nhận ra mình đã bị tước đoạt quyền làm người lương thiện. Chí GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 225
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang uống rượu, xách dao đến nhà Bá Kiên, đòi lương thiện, tuyên án, trừng trị kẻ thù rồi tự sát. + Câu nói của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện ?” là một câu hỏi đau đớn, nhức nhôi. Câu nói chứa đựng bi kịch của nhân vật và tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ + Nội dung: Tác phẩm dựng lại bi kịch của nhân vật Trương Ba, một ông già làm vườn, có nhân cách, rất giỏi đánh cờ. Vì sự tắc trách của Nam Tào — Bắc Đẩu, Trương Ba bị chết nhâm. Để sửa sai, tiên cờ Đế Thích đã giúp cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác người hàng thịt mới chết. Sống trong những xung đột mâu thuẫn về sự vênh lệch giữa cái bên ngoài và bên trong, giữa tâm hồn và thể xác, giữa ham muốn tầm thường, và nhân cách trong sạch, cao khiết…khiến nhân vật Trương Ba rơi vào bi kịch…Để chấm dứt bi kịch Trương Ba quyết định gặp Đế Thích trả lại thân xác hàng thịt, chấp nhận chết hẳn, không còn tồn tại nhưng được là mình toàn vẹn. + Câu nói của nhân vật Trương Ba: Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muôn được là tôi toàn vẹn thê hiện khát vọng được sống là mình, sự lựa chọn giải thoát của nhân vật Trương Ba để chiến thắng nghịch cảnh thể hiện rõ chủ đề tư tường của tác phẩm. Suy nghĩ về 2 câu nói của 2 nhân vât: Nét tương đồng: + Cùng xuât phát từ nỗi đau bị chối bỏ; cùng là những lời hết sức tỉnh táo. sáng suốt, có tính chất như lời trăng trối của nhân vật trước khi từ giã cuộc đời. không còn tồn tại. + Thể hiện khát vọng sống, sự ý thức sâu sắc của con người cá nhân; —> Thông qua lời của mỗi nhân vật, cả 2 nhà vàn đều thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc. Sự sống của con người lúc nào cũng là đáng quý, đáng trân trọng nhưng nó chỉ thực sự đáng quý khi con người được sống trọn vẹn là mình với phần lương thiện, tốt đẹp chân chính, được mọi người tôn trọng, thương yêu. Nét khác biệt + Câu nói của nhân vật Chí Phèo: Tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, vô nhân tính đã cướp đi quyền sống của con người. Ở xã hội đó, con người muốn tôn tại thì phải bán linh hồn cho quỷ dữ; muốn giữ phần lương thiện trong sạch thì phải đánh đổi mạng sống; Câu nói tạo nên một kết thúc bế tắc, đau đớn, để lại ám ảnh, day dứt trong người đọc về số phận con người trước năm 1945. + Câu nói của nhân vật Trương Ba: Thể hiện một quyết định dứt khoát thanh thản; khẳng định lòng dũng cảm, nghị lực vượt qua nghịch cảnh, chiến thắng chính mình của nhân vật. (Trương Ba là một nhân vật kịch, câu nói của Trương Ba thể hiện sự đấu tranh giữa 2 tiếng nói, 2 phần trong một con người. Đó là lí trí và bản năng; tâm hồn và thể xác, nhu cầu tinh thần và nhu cầu vật chất…Hồn Trương Ba không chấp nhận bị tha hóa, bị lấn át bởi sự phàm tục
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 226
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang nên đã lựa chọn giải thoát không tồn tại trong cuộc đời thực nhưng được là mình, được sống trong tâm trí người thân.). Câu nói tao nên một kết thúc đẩy chất thơ, thể hiện tính nhân văn của tác phẩm. Lý giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt Do hoàn cảnh sáng tác và những chi phối của đời sống xã hội, văn hóa… + Nam Cao là nhà văn hiện thực của văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ XX, đây là thời kỳ văn học được hiện đại hóa, sự thức tinh về ý thức về cái Tôi cá nhân đã khiến cho Nam Cao nhìn thấy bi kịch lớn nhất, sâu sắc nhất của nhân sinh là không được sống đúng với bản ngã của mình. Sáng tác của Nam Cao tập trung khai thác con người ở bên trong con người, con người ý thức, con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, sản phẩm của hoàn cảnh. + Trong văn học kháng chiến, vấn đề con người cá nhân không được đê cập, nhường chỗ cho con người tập thể. Lưu Quang Vũ viết kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt vào những năm đầu hòa bình, thống nhất đất nước (sau 1975). Kịch của Lưu Quang Vũ mang tính thời sự ở chỗ đặt ra vấn đề con người cá nhân cần được quan tâm, chăm lo cả về vật chất và tinh thần; con người cần được sống là mình, không giả tạo, chắp vá, vay mượn. Sự tha hóa của con người thời bình bắt đầu xuất hiện, Lưu Quang Vũ muôn gửi gắm thông điệp dự báo và cảnh báo nhắc nhở con người phải biết đấu tranh với hoàn cảnh, đấu tranh với chính bản thân để hoàn thiện. Do đặc trưng thể loại của mỗi tác phẩm + Chí Phèo là truyện ngắn thuộc khuynh hướng hiện thực. Nhân vật Chí Phèo là nhân vật trong tác phẩm tự sự, nhà văn xây dựng nhân vật thông qua nhiều cách: ngoại hình diện mạo, hành động, ngôn ngữ (đối thoại, độc thoại, nửa trực tiếp) và thông qua mối quan hệ với các nhân vật khác. Câu nói “Ai cho tao lương thiện ? “chính là một cái đinh trong tác phẩm để nhà văn ghim vào trí nhớ người đọc, tạo ấn tuợng sâu sắc về tư tưởng chủ đề của tác phẩm. + Hồn Trương Ba da hàng thịt thuộc thể chính kịch, nhân vật Tnrơng Ba là nhân vật kịch, được khắc họa tâm lý, tính cách thông qua hành động, ngôn ngữ. Câu nói của Trương Ba : Không thể bên trong một, đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn thể hiện hành động lựa chọn dứt khoát sau những đấu tranh, dằn vặt, trăn trở của nội tâm và khát vọng được sống là mình với những giá trị tốt đẹp. Do quy luật của sáng tạo nghệ thuật Mỗi tác phẩm là sự độc đáo không lặp lại. Những tư tưởng lớn có thể gặp nhau, Lưu Quang Vũ có thể có sự kế thừa, ảnh hưởng từ Nam Cao nhưng cách thể hiện của mỗi tác giả là riêng biệt; chính phong cách riêng của mỗi nghệ sỹ làm nên sự phong phú của diện mạo văn học dân tộc. Lưu ý: Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phảỉ hợp lí, có sức thuyêt phục. Để tiệm cận với yêu cầu phân loại của đề thi môn Ngữ Văn trong kỳ thi THPTQG – 2016, nên đáp án phần luận giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt trong 2 GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 227
Đề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang câu nói được yêu cầu rất cao. Giám khảo nghiên cứu kĩ biểu điểm trong phần này để cho điểm hợp lí Điểm 3,0: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Điểm 2,0: Đáp ứng được các ý sau: + Bài làm khái quát về nội dung 2 tác phẩm; + Nêu được vị trí, ý nghĩa câu nói của 2 nhân vật; + Trình bày suy nghĩ về 2 câu nói của 2 nhân vật. (ít nhất bài làm phải chỉ ra được điểm tương đồng) Điểm 1,0 : Bài làm chỉ khái quát nội dung 2 tác phẩm và giới thiệu được câu nói của hai nhân vật; Điểm 0,5: Bài làm chiếu lệ (văn viết quá sơ sài). Điểm 0: Không làm bài. Sáng tạo (0,25điểm) Điểm 0,25: Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (viêt câu sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm…), văn viết giàu cảm xúc, thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt, có quan điểm và thái độ riêng sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Điểm 0: Không có cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo; không có quan điểm và thái độ riêng hoặc quan điểm, thái độ trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.Chỉnh tả, dùng từ, đặt câu (0,25điểm) Điểm 0,25: Mắc 1-2 lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. Điểm 0: Mắc nhiều lỗi chính tả và diễn đạt. Lưu ý: Giáo viên cần kết hợp linh hoạt các tiêu chí về nội dung và hình thức để đánh giá chính xác bài làm của học sinh, linh hoạt vận dụng đáp án, biểu điểm./. Xem thêm tại : http://thutrang.edu.vn/tag/hon-truong-ba-da-hang-thit Đề cương được biên soạn bởi cô Thu Trang, giáo viên trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 228