LỊCH SỬ SỬ KIẾ KIẾN TRÚC PHƯƠ PHƯƠ NG NG TÂY Kiế Kiến trúc thờ thờ i kì đồ đá Kiến trúc Ai Cậ p cổ đại Kiến trúc Lưỡ ng ng Hà
Kiế Kiến trúc Cổ Cổ điển Kiến trúc Hy Lạ p cổ đại Kiến trúc La Mã cổ đại
Kiế Kiến trúc Trung cổ cổ Kiến trúc Byzantine Kiến trúc Roman Kiến trúc Gothic
Kiế Kiến trúc Phụ Phục Hư Hư ng ng Kiế Kiến trúc Baroque Kiế Kiến trúc Rococo Kiế Kiến trúc Tân Cổ Cổ điển đại Kiế Kiến trúc Hiệ Hiện đại Kiế Kiến trúc Hậ Hậu Hiệ Hiện đại đại Chủ ngh ĩ a Phê bình bản địa
-- 1 –
KIế KIếN TRÚC THờ THờ I KÌ Đồ ĐÁ
Mộ đá (dolmen) ở Ireland Ireland
Vòng tròn đá ở Anh Anh
Thờ i kì đồ đá trong lịch sử kiến trúc bắt đầu từ khoảng 10.000 n ăm tr ướ vùng C ận Đông, ướ c Công nguyên ở vùng Tây Nam Á, m ở r r ộng ra h ướ nngg đông và h ướ ng ng tây. Thờ i kì văn minh Đồ đá mớ i ở Đ ở Đông nam Anatolia, Syria và Iraq vào kho ảng 8.000 n ăm tr ướ ướ c Công nguyên. Hình thái xã h ội hái lượ m bắt đầu từ 7000 năm tr ướ Trung Âu ướ c Công nguyên ở Đ ở Đông Nam châu Âu, và ở Trung vào khoảng 5500 năm tr ướ ướ c Công nguyên. ng, ngườ i thổ dân b ản địa vẫn còn ở th thờ i kì đồ đá cho đến khi ngườ i châu Âu Ở châu Mỹ và châu Đại dươ ng, khám phá ra h ọ.
Các cư dân dân th ờ i Đồ đá ở C Cận Đông, Anatolia, Syria, phía nam bình nguyên L ưỡ ng ng Hà và Trung Á là nhữ ng ng nhà xây d ự ng ng v ĩ đạ ĩ đại. Họ đã biết sử d dụng gạch-bùn để xây nhà ở và và các ngôi làng. Ngườ i ta đã biết trang trí nhà c ử a vớ i nhữ ng ng tranh v ẽ tạo hình ngườ i và thú v ật. Trung Âu, các c ăn nhà dài bằng phên liếp đã đượ c xây dự ng. ng. Ở Trung Các khu mộ tỉ mỉ cũng đượ c cũng xây d ự ng. ng. Đặc biệt, ngày nay v ẫn còn hàng ngàn ngôi m ộ như v vậy ở Ireland. Ngườ i thờ i Đồ đá mớ i ở qu quần đảo Anh cũng xây d ựng những nấm mồ và phòng m ộ cho mình và các tr ại tườ nngg đất đắ p (causewayed camps), các vòng tròn đá (henges flint mines) và các đài đá lớ n hình tròn ( cursus monuments).
-- 2 –
KIế KIếN TRÚC THờ THờ I KÌ Đồ ĐÁ
Mộ đá (dolmen) ở Ireland Ireland
Vòng tròn đá ở Anh Anh
Thờ i kì đồ đá trong lịch sử kiến trúc bắt đầu từ khoảng 10.000 n ăm tr ướ vùng C ận Đông, ướ c Công nguyên ở vùng Tây Nam Á, m ở r r ộng ra h ướ nngg đông và h ướ ng ng tây. Thờ i kì văn minh Đồ đá mớ i ở Đ ở Đông nam Anatolia, Syria và Iraq vào kho ảng 8.000 n ăm tr ướ ướ c Công nguyên. Hình thái xã h ội hái lượ m bắt đầu từ 7000 năm tr ướ Trung Âu ướ c Công nguyên ở Đ ở Đông Nam châu Âu, và ở Trung vào khoảng 5500 năm tr ướ ướ c Công nguyên. ng, ngườ i thổ dân b ản địa vẫn còn ở th thờ i kì đồ đá cho đến khi ngườ i châu Âu Ở châu Mỹ và châu Đại dươ ng, khám phá ra h ọ.
Các cư dân dân th ờ i Đồ đá ở C Cận Đông, Anatolia, Syria, phía nam bình nguyên L ưỡ ng ng Hà và Trung Á là nhữ ng ng nhà xây d ự ng ng v ĩ đạ ĩ đại. Họ đã biết sử d dụng gạch-bùn để xây nhà ở và và các ngôi làng. Ngườ i ta đã biết trang trí nhà c ử a vớ i nhữ ng ng tranh v ẽ tạo hình ngườ i và thú v ật. Trung Âu, các c ăn nhà dài bằng phên liếp đã đượ c xây dự ng. ng. Ở Trung Các khu mộ tỉ mỉ cũng đượ c cũng xây d ự ng. ng. Đặc biệt, ngày nay v ẫn còn hàng ngàn ngôi m ộ như v vậy ở Ireland. Ngườ i thờ i Đồ đá mớ i ở qu quần đảo Anh cũng xây d ựng những nấm mồ và phòng m ộ cho mình và các tr ại tườ nngg đất đắ p (causewayed camps), các vòng tròn đá (henges flint mines) và các đài đá lớ n hình tròn ( cursus monuments).
-- 2 –
Kiến trúc Ai Cập cổ đại
Trang trí tr ần trong s ảnh chính c ủa Medinet habu Kim tự tháp Khephren Nhà nướ c Ai Cậ p cổ đại là một trong nh ững nhà n ướ c ra đờ i sớ m nhất ở l lưu vực sông Nil vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai C ậ p cổ đại là một trong nh ững nền văn minh cổ xưa nhất và r ực r ỡ nhất của ỡ nh nhân loại.
n, kích thướ c đồ sộ, nặng nề và th ần bí. Đặc điểm của k.trúc Ai C ập là công trình có quy mô l ớ n, Vật liệu đá trong xã h ội Ai Cậ p có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cươ ng, ng, đá minh ngọc... Kinh nghiệm xây dựng thủy lợ i trên hai b ờ sông sông Nil giúp cho ng ườ i dân Ai C ậ p phát minh ra máy nâng và vận chuy ển, biết cách tổ chức lao động cho hàng v ạn ngườ i một lúc. Mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt của công trình kiến trúc đượ c dùng v ớ i thướ c đo. Việc sử dụng dụng cụ như rìu, búa và th ướ c thủy chuẩn cũng r ất chuyên nghiệ p. ự tháp Kim t ự tháp Ngườ i Ai Cậ p cổ đại có tục lệ ướ p xác, tạo thành các "momi" và chôn chúng trong nh ững ngôi mộ đồ sộ là Mastaba và Kim t ự tháp. Mastaba là lăng mộ của tầng lớ p quý tộc, là một khối xây bằng đá, có mặt cắt hình thang, m ặt bằng hình ch ữ nhật. Trong Mastaba có ba phòng: s ảnh, phòng t ế lễ và phòng th ờ (n (nơ i đặt tượ ng ng ngườ i chết). Từ mặt trên của Mastaba ng ườ i ta đào một giếng hình tròn ho ặc hình vuông, sâu đến khoảng 30 m. Đáy giếng thông sang một hành lang r ồi đến phòng mai táng (n ơ i để quan tài). Sau khi chôn ng ườ i chết, giếng đượ c lấ p kín. Ở Ai Cậ p còn tìm thấy nhiều nơ i có dấu vết của các khu v ực có Mastaba nh ư khu lăng mộ vua chúa ở Memphis, xây d ựng ở v vươ ng ng triều thứ ba, khoảng thế k ỷ 18 tr ướ ướ c Công nguyên. Lo ại hình kiến trúc này là nguồn gốc ban đầu của các Kim t ự tháp. Một trong nh ững Kim t ự tháp l ớ n xuất hiện đầu tiên là Kim t ự tháp Djoser. Nó có đáy hình ch ữ nhật, hai cạnh dài 126 m và 106 m, cao 60 m, có 6 b ậc, các tầng thu nhỏ về phía trên. Công trình này do Imhotep ch ỉ ng triều thứ 3, năm 2770 tr ướ đạo xây dựng. Ông là một vị quan đầu triều của nhà vua v ươ ng ướ c Công nguyên. Ngoài Kim tự tháp này còn có Kim t ự tháp ở Meidum Meidum và ở Dashur Dashur là nh ững loại có ba b ậc cấ p. Sau này, chúng đượ c nghiên c ứu và phát tri ển thành Kim t ự tháp tr ơ n , tiêu bi ểu nhất là quần thể Kim tự tháp ở Giza. Giza. ơn, Quần thể này bao g ồm ba Kim tự tháp lớ n, n, một con nhân s ư Sphinx, 6 Kim t ự tháp nhỏ, một số đền đài và 400 Mastaba. Ba Kim t ự tháp trên là: Kim t ự tháp Kheops (hay Kim t ự tháp lớ n tại Giza), Kim t ự tháp Khephren và Kim t ự tháp Mykerinos. Các Kim t ự tháp này mang tên các nhà vua c ủa Vươ ng ng triều thứ 4; các kim tự tháp nhỏ hơ n là của các hoàng h ậu cùng th ờ i.i. Vật liệu xây dựng tháp là đá vôi đượ c khai thác t ại chỗ, bên ngoài đượ c phủ lớ p đá vôi tr ắng nhẵn bóng, l ấy từ các mỏ đá ở Tourah, Tourah, trên h ữu ngạn sông Nil, l ớ p phủ này ngày nay đã bị tróc mất.
-- 3 –
Đền thờ
Mặt bằng đền Luxor Những đền thờ Hy Hy Lạ p cổ đại dùng để thờ th thần Mặt Tr ờ thần Mặt Tr ờ vua. Đền thờ ời.i . Thờ th ời cũng chính là th ờ vua. thườ ng ng có m ột cái cửa lớ n, n, đườ ng ng bệ và phù h ợ p vớ i tính ch ất của các nghi l ễ tôn giáo. Ph ần quan tr ọng thứ hai của đền là khu v ực nội bộ của đại điện. Đây là nơ i vua tiế p nhận sự sùng bái c ủa một số ngườ i nên không gian đượ c tổ chức sao cho u u ẩn, kín đáo, mang tính th ần bí. Đôi khi, đền còn đượ c bao quanh b ở i bức tườ ng ng thành, ở đ ng lát đá, r ộng ở đây có tr ổ một cửa gọi là ti ền tháp môn (propylon), sau đó là một con đườ ng 34 m, dài kho ảng 140 m, hai bên đặt những con Sphinx, ti ế p đến là các tháp bia, t ượ ng ng vua và tháp môn. (tiếng Anh: Sphinx) là tượ nngg đầu ngườ i,i, mình s ư tử nằm canh ở kim kim tự tháp (mộ của các pharaon) Nhân sư (ti thờ i Ai Cậ p cổ đại. Sang thờ i Hy Lạ p, Nhân sư đầu đàn bà thân s ư tử, cánh chim. Th ườ nngg đựoc dùng trong trang trí gỗ ở th thờ i Hi Lạ p hóa và La Mã. Tượ ng ng Sphinx (Xphanh) n ằm ở sa sa mạc Ai Cậ p cách thủ đô Cairo kho ảng 8 dặm, đượ c ngườ i xưa dùng để canh gác ba kim t ự tháp lớ n ở Gizah. Gizah. Đó là một quái vật tạc bằng đá, đầu ngườ i mình sư tử vớ i những chân có vuốt tr ải ra phía tr ướ c. ướ c. Tượ ng ng cao h ơ n 18 mét và tr ải dài tớ i 57 mét, m ặt có bề ngang 5 mét, t ại 1,57 mét, m ũi 1,7mét. Ai Cậ p cũng như ở các các nơ i khác, nhà vua đượ c coi là s ức mạnh và sự Đối vớ i các tôn giáo nguyên th ủy ở Ai khôn ngoan c ủa nhiều con thú b ằng cách khoác cái l ốt của chúng. Vì v ậy ngườ i Ai Cậ p đã chạm các vị thần và các vị hoàng đế của họ nửa ngườ i,i, nửa thú. Quan niệm về Sphinx đã từ Ai Cậ p truyền tớ i các nền văn minh khác, ch ẳng hạn như Assyria và Hy L ạ p. Ở các vùng này, Sphinx th ườ ng ng có thêm cánh. Ở Assyria Sphinx th ườ ng ng là đàn ông, nh ưng ở Hy Hy Lạ p Sphinx lại có đầu đàn bà. Nhà ở
Vào khoảng thế k ỷ 17 TCN, nhiều loại hình nhà ở đượ thành Telel Amarna. Có ba lo ại nhà chính ở đượ c thấy ở thành sau : Nhà ở ba ba gian, v ật liệu xây d ựng là lau s ậy và đất sét, mái b ằng. Nhà cho quan lại, tườ ng ng gạch cao, mở ba ba cửa quay ra ph ố. Loại lâu đài, dinh th ự có ao cá, v ườ n cây phía tr ướ c, vật liệu dùng c ột gỗ, tườ ng ng gạch, dầm gỗ, mái ướ c, bằng và trong nhà có trang trí tranh t ườ ng. ng. Các cung điện của nhà vua có quy mô l ớ n, n, nhấn mạnh tr ục dọc, bên trong các phòng có nhi ều cột, ngoài tr ục dọc còn có th ể có tr ục phụ. Gỗ làm cung điện, Ai Cậ p không có mà đượ c vận chuy ển từ Syrie tớ i.i. •
•
•
-- 4 –
Kiến trúc Lưỡ ng Hà Lưỡ ng Hà ( Mesopotamia) là một bình nguyên n ằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thu ộc Tây Á, ngày nay là mi ền nam c ủa Iraq. Những tàn tích n ổi tiếng nhất từ thờ i Lưỡ ng Hà là các tổ hợ p đền tại Uruk từ thiên niên k ỷ thứ 4 tr ướ c Công Nguyên, nh ững đền đài và cung điện từ các địa điểm thuộc Triều đại sớ m tại thung lũng Sông Diyala nh ư Khafajah và Tell Asmar, những tàn tích c ủa Triều đại Ur thứ 3 tại Nippur (điện thờ Enlil) và Ur ( điện thờ Nanna), nh ững tàn tích gi ữa Thờ i đồ đồng tại các địa điểm ở Syria và Thổ Nh ĩ K ỳ, những cung điện giai đoạn cuối thờ i đồ đồng ở Bogazkoy (Hattusha), Ugarit, Ashur và Nuzi, các cung điện thờ i k ỳ đồ sắt và các đền đài tại Assyria, Babylonian , Urartian và các d ịa điểm Neo-Hittite. Các ngôi nhà thườ ng là tàn tích còn sót l ại của Babylonia cổ tại Nippur và Ur. Trong s ố những văn bản về việc xây d ựng công trình và m ục đích của chúng, Gudea t ừ thiên niên k ỷ thứ 3 tr ướ c Công Nguyên là đáng chú ý nh ất, cũng như những văn bản ghi chép hoàng gia Assyria và Babylonia t ừ Thờ i đồ sắt. trúc c ủa ng ườ i Sumer Ki ến Các cư dân ng ườ i Sumer đầu tiên đã định cư ở Lưỡ ng Hà và xây d ựng nên n ền văn minh ở đây vào kho ảng 3500 năm tr ướ c Công nguyên cho đến thờ i đại Babylon. Ki ến trúc của vùng Lưỡ ng Hà th ườ ng đượ c xem như bắt đầu vớ i sự hình thành các thành ph ố của ngườ i Sumer và s ự sáng tạo nên ch ữ viết và khoảng 3100 năm tr ướ c Công nguyên.
Nhà cử a Những vật liệu sử dụng xây d ựng nhà cửa tại Lưỡ ng Hà tươ ng tư như vật liệu ta dùng ngày nay: g ạch bùn, vữa bùn và c ửa gỗ, tất cả chúng đều có s ẵn ở xung quanh thành ph ố, dù gỗ có hiếm hơ n. Đa số nhà đều có phòng trung tâm hình vuông và các phòng khác bao xung quanh, nh ưng nhà nói chung khác bi ệt nhau nhiều về kích thướ c và vật liệu sử dụng tùy theo gia đình. Những phòng nh ỏ không đồng ngh ĩ a vớ i việc chủ nhà nghèo khó; trên th ực tế những ngườ i nghèo nhất xây nhà b ằng các vật liệu nhanh h ỏng như lau sậy lấy từ bên ngoài thành phố, nhưng có r ất ít bằng chứng tr ực tiế p về điều này.
Cung điện
Các cung điện của tầng lớ p trên tại Lưỡ ng Hà ở thờ i k ỳ đầu là những phức hợ p công trình lớ n, và thườ ng đượ c trang hoàng r ực r ỡ. Những công trình nh ư vậy còn có th ể thấy tại các di ch ỉ châu th ổ Sông Diyala. Các cung điện có từ thiên niên k ỷ thứ 3 tr ướ c Công Nguyên đó đượ c dùng cho nh ững định chế kinh tế xã hội bậc cao, vì thế, ngoài chức năng ở và nhà riêng, chúng còn là x ưở ng chế tạo đồ thủ công, kho th ực phẩm, sân tổ chức nghi lễ, và thườ ng có cả các điện thờ . Một phức hợ p tươ ng tự là một cung điện Lưỡ ng Hà đã đượ c khai quật tại Mari ở Syria, có niên đại từ giai đoạn Babylonia C ũ. Các cung điện Assyria từ Thờ i đồ sắt, đã tr ở nên n ổi tiếng nhờ những hình ảnh và những đoạn văn miêu tả trên các bức tườ ng của chúng, tất cả đều đượ c khắc trên những phiến đá. Những hình ảnh đó hoặc thể hiện cảnh thờ cúng hoặc miêu tả về quân đội của nhà vua hay các thành t ựu dân s ự. Những cánh cổng và những lối vào quan tr ọng đượ c trang trí b ằng nhiều hình kh ắc các vị thần trong th ần thoại để tránh điều không may. Bố cục kiến trúc các cung điện thờ i đồ sắt cũng đượ c tổ chức xung quanh m ột sân nhỏ. Thườ ng phòng thi ết triều của vua có c ửa trông ra m ột sân nghi l ễ lớ n, nơ i những vị triều thần gặ p gỡ và tổ chức các lễ nghi tri ều đình.
Đền thờ
Các công trình ki ến trúc đượ c xây dựng trong th ờ i kì Protoliterate là chủ yếu là các đền đài tôn giáo . Ngườ i Sumer s ử dụng vật liệu chủ yếu xây d ựng bằng gạch-bùn, v ớ i thể loại công trình n ổi tiếng là các Đài chiêm tinh Ziggurat, còn đượ c gọi là bệ núi, ra đờ i trên cơ sở sùng bái đồi núi, sùng bái thiên th ể và tục lệ xem sao, các vì tinh tú trên tr ời . Ziggurat là lo ại hình ki ến trúc ki ểu tầng bậc, bệ cao nọ đặt trên b ệ cao kia,
-- 5 –
càng lên cao thì thu d ần lại, có đườ ng dốc tr ượ t hoặc bậc thang thẳng góc hoặc men theo kh ối xây để đi lên đỉnh, trên đỉnh có một đền thờ nhỏ. Bậc thang có khi đi lên t ừ bên phải và bên trái kh ối xây, cũng có kiểu bậc thang xoáy trôn ốc. Mỗi thành phố đều có một hoặc một số Ziggurat. Dấu vết còn lại đã chứng minh đó là nh ững công trình ki ến trúc bằng đất nện, bên ngoài có xây m ột lớ p gạch. Ziggurat còn l ại ở thành phố Ur là ch ứng tích nổi tiếng nhất của loại hình ki ến trúc này, có niên đại khoảng năm 2125 TCN, có kích th ướ c đáy 65 x 43 m, t ầng một cao 9,75 m, t ầng hai có kích th ướ c 347 x 23 m, cao 2,5 m, chi ều cao tầng trên cùng kho ảng 21 m. Ngoài Ziggurat ở Ur, ngườ i ta còn tìm th ấy dấu vết các Ziggurat khác ở Uruk, Eridou, Ninive và t ạo dựng lại cả hình ảnh Ziggurat ở Babilon. Nhìn chung, các Ziggurat có t ừ ba đến bảy bậc, mỗi tầng đượ c trang trí m ột màu khác nhau, t ượ ng tr ưng cho một ngôi sao th ờ .
Mô phỏng một Ziggurat
Ziggurat tại Ur
Ziggurats là những ngôi đền to lớ n đượ c xây d ựng để cúng tế các vị thần. Chúng đượ c xây b ằng đất sét và bùn và có ba hay bốn phần. Chúng đượ c xây r ất cao để luôn đượ c giữ khô ráo b ở i ở thờ i ấy thườ ng xuyên xảy ra những tr ận lũ lụt. Cần nhiều nhân công để xây dựng một ziggurat. Ít nh ất phải có đủ ngườ i để đào đất sét, làm gạch, và xế p những viên g ạch đó lại vớ i nhau. Những viên gạch đượ c làm bằng bùn và s ậy ép. Chỉ ziggurat t ại Ur còn t ồn tại tớ i ngày nay b ở i những ngườ i xây d ựng chúng sau này đã nhân ra r ằng việc nung đất sét sẽ khiến những viên gạch có tuổi thọ lâu hơ n. Những Ziggurat đượ c xây d ựng theo hình kim t ự tháp, vớ i những bậc thang dẫn lên mặt phẳng trên đỉnh - r ất giống những vườ n treo. Chúng đượ c xây trông giống như những ngọn núi, vì ng ườ i dân mu ốn có đượ c số cây gỗ và các khoáng ch ất phong phú nh ư ngọn núi Zargos, n ằm giữa Lưỡ ng hà và n ướ c Iran hiện nay, cũng như bở i núi là n ơ i trú ngụ của các vị thần, và việc xây dựng một hòn núi gi ả khiến con ngườ i gần gũi hơ n vớ i các vị thánh thần cũng như sẽ thườ ng xuyên đượ c thừa huệ hơ n khi luôn có các v ị thần bên c ạnh. Vườ n treo Babylon cũng đượ c gọi là vườ n treo Semiramis, là m ột công trình do vua Nebuchaduezzar xây d ựng trong đó cây đượ c tr ồng trên các t ầng nhà chồng lên nhau.
tranh khắc màu th ế k ỷ 16 của Martin Heemskerck Trong vườ n treo có m ột hệ thống đài phun nướ c gồm hai bánh xe l ớ n liên k ết vớ i nhau bằng dây xích có g ắn thùng gỗ. Khi bánh xe quay, dây xích và thùng n ướ c cũng chuy ển động đưa nướ c ở một cái bể phía dướ i lên trên cao tướ i nướ c cho cây. Để tướ i nướ c cho hoa và cây c ủa khu vườ n, các nô l ệ phải luân phiên nhau đưa nướ c từ con sông Eupharates lên khu v ườ n.
-- 6 –
trúc Assyri- Nghệ thu ật trang trí Ki ến Đến 3000 n ăm tr ướ c Công nguyên tr ở đi, các hình th ức trang trí công trình đã r ất phát triển. Gạch ố p lát lưu ly là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí m ặt tườ ng kiến trúc L ưỡ ng Hà cổ đại. Gạch có màu men óng ánh khác nhau, có độ bền vững tốt. Nền của những diện tích lớ n trang trí b ằng gạch lưu ly có màu lam đậm, phù điêu màu tr ắng hoặc màu vàng kim nh ũ, toàn b ộ tạo thành nh ững "tấm thảm" r ất ấn tượ ng. Lịch sử phát triển loại gạch lưu ly gắn bó v ớ i việc xây dựng lớ n của Babilon thờ i đại Tân Babilon th ế k ỷ 6 TCN. Triều đại Nabucodonosor 2 còn để lại cho nhân lo ại hai chứng tích lớ n về kiến trúc có s ử dụng gạch lưu ly từ thế k ỷ 6. Chứng tích thứ nhất là cửa thành Ishtar, có b ố cục trang trí các m ảng tườ ng lớ n, phân b ố đều các hình động vật, lặ p di lặ p lại một cách đơ n giản nhưng ấn tượ ng về nhị p điệu r ất mạnh. Chứng tích th ứ hai là bức tườ ng phía sau ng ự điện trong cung điện của nhà vua Nabucodonosor. Toàn b ộ mặt tườ ng là b ức tranh lớ n, có một loạt con sư tử ở chân tườ ng, băng giữa của tườ ng có bốn cây, mỗi cây lại đỡ những bó hoa hai tầng, băng trên cùng là d ải hoa cỏ
-- 7 –
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại Kiến trúc Hy L ạp cổ đại ra đờ i và hình thành trên m ột vùng đất đai r ộng lớ n, bao gồm miền Nam bán đảo Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum ( Αιγαίον , Aigaion), khu vực Tiểu Á, vùng ven H ắc Hải, Ý, Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai C ậ p.
Các qu ần thể ki ế n trúc thánh đị a và ki ế n trúc dân d ụ ng Hy Lạ p c ổ đại
Ở nơ i đây, ngườ i ta thườ ng tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể dục thể thao, bình lu ận văn chươ ng, diễn thuy ết, ngâm thơ và biểu diễn k ịch, ngoài ra còn có th ể trao đổi, mua bán. Do đó, về sau ngườ i ta đã xây thêm xung quanh các qu ần thể này nh ững sân bãi thi đấu, quán tr ọ, hội tr ườ ng, các hành lang c ột và các lo ại đền đài. Hai quần thể kiến trúc công cộng phổi biến trong đô thị cổ đại lúc bấy giờ là AGORA (quảng trườ ng công c ộng, mang tính dân dụng) và ACROPOL (là nh ữ ng quần thể kiến trúc vớ i nhiều đền đài, đượ c xây d ự ng trên nhữ ng khu đồi cao). Diện tích các agora kho ảng 5% diện tích đất thành phố. Những agora có d ạng hình học nhất định và đượ c bao vây bở i các hàng c ột thức hai tầng. Ở giữa agora có đặt bàn thờ và tượ ng thần. Các agora quan tr ọng có thể k ể ra là agora ở Miletos, Megalopolis. Vào thờ i k ỳ cổ điển thịnh k ỳ, các acropol đượ c xây dựng thêm các nhà hát ngoài tr ờ i có thềm dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các acropol n ổi tiếng nhất là acropol ở Athena (Acropolis), ở Bergama ( Pergamos) và ở Paestum.
-- 8 –
Quá trình phát tri ển đền đ ài Hy Lạ p c ổ đại
Đền thờ Hy Lạ p cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng phía bên ngoài. Các lo ại hình đền đài đượ c phân theo mức độ phức tạ p của cách thi ết k ế những cột đó như sau:
Mặt bằng đền thờ dạng Distyle Mặt bằng đền thờ dạng Distyle cột ở hai Loại đền cổ nhất có phía dạng hình chữ nhật, Loại đền cổ thứ hai có d ạng như trên, lối vào chính ở cạnh nhưng có thêm hai c ột ở cạnh ngắn phía ngắn và có hai c ột ở sau nữa, gọi là dạng Distyle ở hai cạnh; chính cạnh ngắn này, ví dụ đền thờ Artemis. gọi là dạng Distyle; ví dụ như ngôi đền thờ thần Themis ở Rhamnus
Mặt bằng đền thờ dạng Peripteral Loại đền hình chữ nhật có một hàng cột chạy ở vành ngoài chu vi công trình, có tên là Peripteral; ví Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng c ột dụ đền Hephaestos và chạy bao xung quanh công trình, có tên đền Parthenon ở gọi là đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion Athena , đền ở Athena, đền thờ Apollo ở Miletos Paestum...
Mặt bằng đền thờ Mặt bằng đền thờ dạng Amphi-prostyle Loại đền giống loại dạng Prostyle Loại đền giống loại đền thứ hai, nh ưng có đền thứ nhất, nhưng bốn cột ở cạnh ngắn thay vì hai c ột mà là phía tr ướ c và bốn cột bốn cột ở phía tr ướ c, ở cạnh ngắn phía sau, gọi là dạng Prostyle; gọi là loại AmphiProstyle (tiền tố ví dụ ngôi đền ở "amphi" có ngh ĩ a là Selinus "cả hai phía")
Loại đền hình chữ nhật có tườ ng chịu lực là chính, nh ưng mặt Loại đền hình tròn, ngoài tườ ng ghép vành ngoài có hàng thêm các cột, gọi là cột vòng quanh g ọi loại đền có các c ột là Tholos; ví dụ giả, hay là đền Tholos Pseudo-Peripteral; ví dụ đền thờ thần Zeus ở Olympia
Mặt bằng đền thờ Hy Lạ p cổ đại đượ c tạo thành bở i ba thành ph ần chính: (tiền sảnh), pronaos (gian thờ ) và naos (phòng để châu báu). pathenon Ngoài ra, trong một số đền còn có thêm opisthodomos (hậu sảnh). Vẻ đẹ p của đền đài Hy Lạ p cổ đại gắn liền vớ i sự ra đờ i và phát tri ển của các loại thức cột.
-- 9 –
S ự hình thành và phát tri ển c ủ a các loại thứ c c ột
Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình th ức trang trí c ột, là cách ng ườ i Hy Lạ p cổ đại tìm kiếm đến cái đẹ p lý tưở ng. Có 3 loại thức cột cơ bản trong ki ến trúc Hy L ạ p: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Những thức cột Hy Lạ p đã mang đến cho kiến trúc một hình th ức, một sức sống, chịu đựng đượ c thử thách của thờ i gian, biểu tr ưng cho vẻ đẹ p trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạ p đượ c xem như biểu tượ ng của kiến trúc c ổ điển.
•
Thứ c cột Ionic:
Thức cột Ionic mang dáng d ấ p nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí Thức cột Doric, có h ậu thân là th ức hơ n cột Doric. Nguồn gốc cột Ionic cột Toscan, là th ức cột cổ nhất và là Ionia, thu ộc địa của Hy Lạ p. Cột Ionic có 24 g ờ sống đứng, tỷ lệ đơ n giản nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này đượ c đườ ng kính cột trên chiều cao cột là hình thành t ừ một tr ụ thẳng đứng 1:9. Ngoài ra, c ột này có thêm đế phình to ở đáy. Nói chung, th ức cột cột (base) ở phía dướ i và đầu cột có này không có ph ần đế cột (base) lẫn hình đệm nhỏ, phía trên có hình không có ph ần đầu cột (capital ). cột xoắn ốc loe ra r ồi cuộn vào trong Doric có 20 g ờ . Vẻ đẹ p thức cột này (volute). Các dầm ngang của cột Ionic đượ c phân vị theo chi ều thườ ng đượ c so sánh v ớ i vẻ đẹ p ngang thành ba d ải. Các ngôi đền khỏe mạnh của ngườ i đàn ông cườ ng tráng, do nó đượ c sử dụng ở có cột này là đền Artemis ,đền thờ tầng dướ i cùng của đấu tr ườ ng Apollo Epikourios , đền Erecteyon Coliseum và đền Pathenon và có khả năng chịu lực cao nhất. Tỷ lệ đườ ng kính cột trên chi ều cao cột khoảng 1:4 Thứ c cột Doric:
•
Thứ c cột Corinth:
Thức cột Corinth ra đờ i sau hai cột trên, vào kho ảng thế k ỷ thứ 5 tr ướ c Công nguyên, có đườ ng nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một lẵng hoa k ết hợ p cùng vớ i mấy tầng là phiên th ảo diệ p (acanthe). Thức cột này do ki ến trúc sư Callimachus sáng t ạo ra. Cột này có ưu điểm hơ n hai cột trên là đối xứng nhi ều chiều và có thể cảm nhận đượ c trong không gian. Có th ể thấy công trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae
Đền thờ Apollo ở đảo Delos, bản vẽ phục chế của thế k ỉ 19 114 Winsor Ave- NY
-- 10 –
Albert F Laub mausoleum
William Butter house- Oak
Mặt hướ ng tây đền thờ Hephaestus ở Athena
Forman- Cabana house
Đền Parthenon ở Anthena
NY Public library
Các loại cột trên sau này đượ c ngườ i La Mã c ổ đại k ế thừa và phát tri ển, đồng thờ i sáng tạo thêm hai lo ại thức cột mớ i là Toscan và Composite. Thứ c cột Composite: Thứ c cột Toscan : •
•
-- 11 –
Các công trình tiêu bi ểu cho ki ế n trúc thờ i k ỳ này •
•
•
•
•
Acropolis ở Athena. Propylaia - S ơ n môn Đền Athena Nike Đền Parthenon Đền Erecteyon
Nhữ ng loại hình ki ến trúc khác trong th ế gi ớ i Hy Lạ p c ổ đại •
•
•
•
•
Hội tr ườ ng và k ịch tr ườ ng ở Megalopolis và ở Epidaurus. Điện thờ ở Bergama. Lăng mộ ở Halicarnassus. Agora ở Assos và ở Miletos . Các phố và nhà ở Olynthus.
-- 12 –
Kiến trúc La mã cổ đại Bán đảo Italia (Ý), n ơ i hình thành nhà n ướ c La Mã cổ đại nằm ở Nam Châu Âu nh ư một chiếc chân ngườ i chìa ra Địa Trung H ải. Bán đảo Italia có nhi ều đồng bằng, tươ ng đối thuận lợ i cho việc phát tri ển nông nghiệ p, trong lòng đất lại chứa nhiều khoáng sản, thuận lợ i cho nghề luyện kim. Địa hình ở đây lại không b ị chia cắt, tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển ở phía nam bán đảo có nhiều vịnh, cảng thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thờ i tiết xấu. Do điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo Italia có điều kiện tiế p xúc vớ i những nền văn minh phát tri ển sớ m ở phươ ng Đông. Ngườ i dân có m ặt sớ m nhất ở trên bán đảo Italia (Ý) đượ c gọi là Italiot , trong đó bộ phận sống trên đồng bằng latium là ngườ i gốc Latinh (Latin), ngoài ra còn có m ột số nhỏ ngườ i gốc Gôloa và g ốc Hy Lạ p
-- 13 –
753 TCN Theo truyền thuy ết, ngườ i dân ở đồng bằng Latium đã dựng nên một toà thành bên b ờ sôngTiber, h ọ đã lấy tên ngườ i cầm đầu là Romulus để đặt cho toà thành đó, vì vậy có tên là Roma.
753 - 510 TCN , thờ i kì Vươ ng chính, đứng đầu nhà nướ c là vua, d ướ i vua có Vi ện nguyên lão và Đại hội nhân dân. I TCN, Thờ i kì Cộng hoà La Mã. Giai đoạn này quy ền lực tối cao nằm trong tay Vi ện nguyên lão do dân bầu, đứng đầu Viện nguyên lão là hai quan ch ấ p chính có quyền lực ngang nhau. T ừ đó, việc chính quy ền tr ở thành vi ệc chung của dân. Đây cũng là giai đoạn La Mã sử dụng sức mạnh quân s ự của mình để mở r ộng lãnh thổ. VIII TCN, La Mã chỉ là một thành bang nh ỏ bé năm ở miền trung bán đảo Ý thì đến thế k ỉ I TCN, La Mã đã tr ở thành một đế quốc r ộng lớ n bao trùm toàn b ộ những vùng đất quanh bờ Địa Trung H ải. Đó là thờ i k ỳ phát triển r ực r ỡ của La Mã b ằng việc bành tr ướ ng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh th ổ hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải. Lần lượ t các vùng lãnh th ổ như, Hy Lạ p (146 TCN), cùng vớ i lãnh th ổ Tiểu Á, Syria, Phoenecie, Palestine và Ai Cậ p bị sát nhậ p vào Đế quốc La Mã. Trong th ế k ỷ thứ 1 đến thế k ỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát tri ển cực thịnh, lãnh th ổ r ộng lớ n, các đô thị của La Mã đượ c xây d ựng và để lại cho đến ngày nay, nh ư Londinium, (London ngày nay), Lucdium, (Lion ngày nay), Cologne, Strasburg, Vienna... Nhưng từ thế k ỷ thứ 2, Đế quốc La Mã có nhi ều tranh dành quy ền lực và suy y ếu. Đến thế k ỷ thứ 4, nhiều cư dân bên ngoài xâm nh ậ p và Đế quốc La Mã b ị chia hai: Tây La Mã và Đông La Mã (gọi là Đế chế Byzantine).
-- 14 –
Kiến trúc và điêu khắc Ngườ i La Mã không ch ỉ k ế thừa nền văn minh c ủa ngườ i Hy Lạ p thờ i cổ đại mà còn có nh ững đóng góp đáng k ể, tạo thành nền văn minh Hy-La, c ơ sở của văn minh Tây Âu sau này. Cuộc sống của các cư dân La Mã c ổ đại đượ c xác định quanh các thành ph ố như thành phố Roma. Thành phố có một số lượ ng khổng lồ các công trình xây d ựng như là Colosseum, di ễn đàn của hoàng đế Trajan và đền thờ các vị thần (Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi n ướ c ưống tươ i mát đượ c cung cấp thườ ng xuyên bở i nhữ ng hệ thống dẫn nướ c dài hàng tr ăm dặm, các rạp hát, khu thể thao lớ n, tổ hợ p các phòng t ắm phứ c hợ p vớ i thư viện và khu mua sắm, khu chợ lớ n, cùng vớ i các khu v ự c sản xuất hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã, các ki ến trúc về nhà ở r ất đa dạng, từ những căn nhà đơ n giản cho đến các biệt thự quý tộc. Bên trong th ủ đô Roma của La Mã c ổ đại, là nơ i ở của hoàng đế nằm ở trên ng ọn đồi thoáng mát, Palatene, có l ẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớ p cư dân từ trung xu ống thấ p, sống trong thành phố thì sống trong nh ững căn hộ nhiều ngườ i, trông giống như nhiều khu dân c ư thờ i hiện nay. La Mã có ni ềm tự hào v ề các công trình ki ến trúc c ủa họ, khi mà có s ự k ết hợ p các kiến thức truyền thống của nền văn minh Hy L ạ p kinh điển. Tuy nhiên, do s ự bành tr ướ ng của cộng hòa La Mã, mà các công trình xây dựng của Roma gần như cùng kiểu của Hy Lạ p đươ ng thờ i. Mặc dù v ậy, vẫn có sự khác nhau gi ữa hai tr ườ ng phái La Mã và Hy L ạ p về kiểu cách trong xây d ựng: - hai kiểu cột mớ i là kiến trúc hỗn hợ p Composite và ki ểu Tuscan, - và kiểu mái vòm v ớ i phong cách t ừ Etruscan.
-- 15 –
Điểm đặc biệt ở thờ i gian thế k ỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông, mà ngu ồn xi măng đã thay th ế cho đá cẩm thạch giống như các thủ phủ Roma đượ c xây d ựng bằng vật liệu này và công nh ận cho nhiều các xây dựng kiến trúc khác. Đông thờ i ở thế k ỷ 1 TCN, Vitruvius l ần đầu tiên cho ghi chép các ki ến thức kiến trúc xây d ựng vào s ử học. Về sau thế k ỷ thứ 1 CN, La Mã c ũng bắt đầu cho sản xuất thủy tinh ngay sau khi Syria phát hi ện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn quân vi ễn chinh ở Hy Lạ p quay về La Mã. Một trong nh ữ ng giá trị kiến trúc của ngườ i La Mã cổ đại thể hiện qua - các cầu vòm bằng đá. Nhờ nhữ ng chiếc cầu này mà hệ thống giao thông n ối liền các vùng của đế chế La Mã tr ở nên thuận lợ i. - đền Parthenon, - đấu trườ ng Colessium - Khải hoàn môn. - Basilica Saint Peter Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thờ i đó là Vitruvius.
Điêu khắc La Mã có cùng phong cách v ớ i điêu khắc Hy Lạ p. Những bức tượ ng còn lại ở thành Roma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hi ện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã.
-- 16 –
KIẾN TRÚC TRUNG CỔ KIEN TRUC BYZANTINE Thế k ỷ 5-11, Byzantium (Th ủ phủ Constantinople hay Istambul ngày nay).
Phong cách ki ến trúc hình thành thành b ở i hình th ức Vòm cong, mái Vòm, b ề mặt gạch xây và v ữa trát, trang trí có tính bi ểu tượ ng và sự dụng gạch mosaic trang trí. Phong cách này phát tri ển chủ yếu ở Đế chế Nga và Đông Âu, nơ i mà phong cách này có th ể thấy suốt từ 1782 Thánh đườ ng Sophia đến 1882 Thánh đườ ng Alexander Nevsky ở Sophia. Phong cách này đã r ất phổ biến ở Nga bở i Konstantin Ton ng ườ i quyết tâm pha tr ộn phong cách này v ớ i những yếu tố phong cách ph ục hưng Nga và Tân c ổ điển.
Kiến trúc Tân Byzantine là một phong cách ki ến trúc phục hưng nữa cuối TK 19 đầu TK 20, th ươ ng thấy ở những công trình công c ộng, cung điện và tôn giáo. Ki ến trúc Tân Byzantine hợ p nhất những yếu tố của phong cách Byzantine vớ i yếu tố kiến trúc Cơ đốc giáo chính th ống và Cơ đốc giáo phươ ng Đông hình thành từ TK 5 - 11, đặc biệt nhất có thể thấy ở Byzantium (Constantinople, hay Istambul ngày nay).
-- 17 –
-- 18 –
Kiến trúc Roman là phong cách ki ến trúc của các vùng Trung và Tây Âu vào kho ảng thế k ỷ 11-12 Một thờ i gian sau khi ch ế độ Đế quốc tan rã, các nhà n ướ c Đông và Tây Âu lâm vào m ột thờ i kì đen tối, các nhà nướ c phong ki ến đượ c thành lậ p trong đó có s ự ra đờ i của triều đại Carolingian. Năm 800 sau CN, khi Charlemagne đăng quang hoàng đế, đế quốc này tồn tại đượ c một thờ i gian ng ắn cho đến khi b ị ngườ i Normandes xâm lượ c (từ năm 843 đến năm 911). Nền kiến trúc Trung và Tây Âu th ế k ỷ 11 và th ế k ỷ 12 có tên g ọi là ki ến trúc Roman hay phong cách Roman. Kiến trúc Roman tr ải dài trên m ột bình di ện r ộng, phát triển chủ yếu ở các nướ c Tây Âu và Trung Âu, gồm Pháp, Anh, Ý, B ỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha... khi các thành ph ố đã bắt đầu gượ ng dậy nhưng bộ mặt kiến trúc nhiều công trình còn thô s ơ . Nến văn hóa đô thị lúc bấy giờ không khác xa v ớ i văn hóa lãnh địa nông thôn tr ướ c đó ít lâu, vì các t ầng lớ p dân đô thị cũng vừa mớ i ở nông thôn ra, h ọ đã là các th ế hệ thị dân đầu tiên. Tuy v ậy, từ thế k ỷ 10, nông nghiệ p và thủ công nghi ệ p đã phục hồi và phát tri ển, ngườ i dân đã xây nhà không ch ỉ bằng gỗ, mà còn b ằng gạch, đá, để “xây nhà nh ư ngườ i La Mã cổ đại”. Hơ n mườ i quốc gia dân t ộc ở Trung Âu và Tây Âu đã chính thức tiến vào xã h ội phong ki ến, vớ i nền kinh t ế tự nhiên và tr ật tự xã hội tươ ng đối ổn định. Đặc đ iể m và loại hình ki ế n trúc Vào giai đoạn Roman tiền k ỳ, mái nhà đượ c làm bằng gỗ và r ất dễ cháy nên th ờ i k ỳ này không còn để lại nhiều vết tích cho đờ i sau. Thờ i gian tiế p theo, kiến trúc Roman d ần dần tiến thêm một số bướ c mớ i, để nhận biết đượ c kiến trúc Roman ta có th ể căn cứ những đặc điểm sau: Chịu ảnh hưở ng của kiến trúc La Mã c ổ đại và kiến trúc Byzantyne, do m ột số khu vự c của kiến trúc Roman nằm trong biên gi ớ i đế chế La Mã tr ướ c đây. Kiến trúc có s ố lượ ng không nhi ều, nằm r ải rác ở các địa phươ ng. Loại hình kiến trúc không đa dạng, phần lớ n là kiến trúc tôn giáo nh ư nhà thờ , tu viện và các nhà ở và công trình ki ến trúc có tính phòng thủ của giai cấp phong kiến. Kiến trúc không có quy mô l ớ n và cầu k ỳ như kiến trúc La Mã c ổ đại. Phần nhiều công trình có mặt ngoài thô ráp, ít y ếu tố trang trí, ki ến trúc nặng nề, sử dụng cử a đi và cử a sổ kích thướ c nhỏ. Về k ết cấu, sử dụng nhiều cuốn cử a trụ, vòm nôi và vòm bán c ầu, các loại mái vòm đượ c làm bằng đá và k ĩ thuật còn hạn chế nên mặt bằng kiến trúc các b ộ phận thườ ng chỉ là vuông, tròn hoặc hình chữ thập La tinh. Phía Tây nhà th ờ Roman thườ ng nổi bật lên hai hay nhi ều tháp cao, nh ữ ng tháp này có hình trụ tròn hoặc có dáng hình học, trong khi đó ở phía Đông thân nhà th ờ đượ c cắt bằng một cánh ngang. Bàn thờ đượ c đặt ở phía Đông của nhà th ờ để hướ ng về phía Jerusalem và t ầng hầm mộ đặt dướ i thành phần này của kiến trúc. •
•
•
•
•
•
•
-- 19 –
StSerninToulouse, 1080 – 1120 elevation of the east end
K ỹ thu ật xây d ựn g
Cái tên kiến trúc Roman nói nên phong cách ki ến trúc c ủa ngườ i đươ ng thờ i hơ i giống và mu ốn tìm đến chút ít cách thức của kiến trúc La Mã c ổ đại. Tuy vậy về quy mô c ũng như hình thức, kiến trúc Roman còn xa m ớ i đạt trình độ của ngườ i La Mã c ổ đại, thiết k ế thi công còn thô s ơ , vật liệu có lúc l ấy từ những công trình đã hoang phế của kiến trúc La Mã. Về mặt dùng k ết cấu cuốn cử a trụ, kiến trúc Roman học tập cách làm c ủa ngườ i La Mã. Tuy vậy kiến trúc Roman không ph ải là không có nh ững bướ c tiến nhất định về mặt loại hình và k ết cấu, góp phần đáng k ể vào việc hình thành ki ến trúc Gôtích sau này. K ỹ thuật xây tườ ng, xây cuốn có sống và xây c ột tr ụ dần dần làm cho ki ến trúc tr ở nên tốt hơ n. Tườ ng đá dày, các lớ p vữa còn dày, c ửa sổ mở nhỏ và ít ánh sáng, m ột mặt thể hiện trình độ xây dựng chưa chín muồi nhưng mặt khác lại phù hợ p vớ i tư tưở ng cấm dục của tôn giáo. S ự phát triển của k ỹ thuật k ết cấu của kiến trúc Romanlà dựa trên tay ngh ề của những ngườ i thợ dân gian. Do k ỹ thuật xây d ựng còn hạn chế nên đặc điểm của các nhà th ờ Roman là khá th ấ p, chiều cao tối đa thườ ng không quá 20m.
Việc sử dụng đại trà tườ ng và vách ng ăn đã đưa đến một k ết quả là phải tìm tòi một sứ c biểu hiện mớ i cho những bức tườ ng và vách ng ăn đó, do vậy, đã dẫn đến việc trang trí g ắn vớ i công việc nề. Những bức tờ ng đấu tiên xây d ựng bằng đá mảnh và đá cuội tr ộn lẫn vớ i vữa, sau đó dùng tườ ng gạch, giai đoạn sau cùng dùng đá tấm vớ i vẻ đẹ p mộc mạc đượ c bộc lộ trung thực ra phía ngoài. H ậu quả là tườ ng r ất
-- 20 –
dày, nhằm mục đích chịu lực hơ n là mục đích bảo vệ. Tườ ng dày nh ư vậy dùng để chống đỡ các cuốn. Mỗi một tầng có cuốn tươ ng ứng, tầng dướ i cuốn to tầng trên hẹ p dần, làm thành nh ững cửa sổ ghép đôi hoặc ghép ba, có ngh ĩ a là lỗ mở của cuốn đượ c chia làm hai hay ba ph ần, đỡ bở i những cột hình tròn ho ặc hình nhiều cạnh. Cùng vớ i việc dùng nhiều các loại hình k ết cấu thườ ng, cuốn có sống và cột, kiến trúc Roman lại không nhất quán trong vi ệc dùng thứ c cột. Chân cột, thân cột của kiến trúc Roman r ất khác nhau, các đầu cột thườ ng có hình cái đấu ngượ c, đượ c trang trí bằng hoa lá ho ặc bằng những trang trí hình h ọc cuộn vào nhau, c ũng có lúc đầu cột trang trí b ằng cảnh ngườ i hay thú.
-- 21 –
Mặt cắt điển hình của một nhà th ờ Roman gồm một nhị p giữa cao hơ n và hai nh ị p biên thấ p hơ n, nhị p biên có hai tầng để tầng sàn góp ph ần gia cườ ng k ết cấu. Do ánh sáng ph ải xuyên qua c ửa sổ của hai tầng ở hai nhị p biên mớ i vào nhị p giữa nên nội thất nhà thờ không đượ c sáng s ủa.
Nhà thờ ở Knechtsteden (1038-1165) cho th ấy quy cách điển hình của hệ thống k ết cấu vòm Roman, vì dùng vòm cuốn cửa tr ụ, nên các là chi ếu của mặt bằng đều có dạng hình vuông. Cho đến giữa thế k ỷ XII, tuy có nh ững tiến bộ nhất định, kiến trúc Roman trông v ẫn thiếu vẻ nhẹ nhàng và k ết cấu chưa thuần thục, ví dụ bài toán xây vòm có hình chi ếu mặt bằng hình ch ữ nhật, phải kiến trúc Gôtích mớ i giải quyết đượ c.
-- 22 –
Nhà thờ và tu vi ện trong ki ến trúc Roman
Basilica kiểu chữ thập La Tinh Basilica là sản phẩm của thờ i kì Cơ đốc giáo ra công khai, sau này vào giai đoạn tiền Roman, Giáo h ội vẫn lấy kiểu hình dáng Basilica làm nhà th ờ , về sau có thêm hai cánh ngang, hình thành m ặt bằng kiểu chữ thậ p, nên có tên g ọi chung là m ặt bằng kiểu chữ thậ p La Tinh.
Đàn thánh phía Đông hình bán nguy ệt, lợ p bằng mái n ửa bán cầu The Basilica di Santa Maria Maggiore is the largest church in Rome cửa vào nhà thờ ở phía Tây
Các thành phần của Basilica cũng có ý ngh ĩ a tượ ng tr ưng r ất lớ n, nội thất của Basilica là biểu hiện của những yếu tố trong thế giớ i thườ ng nhật (civitas mundi) mà con ng ườ i thấy trong thành ph ố của mình. Sảnh chính tươ ng ứng vớ i đại lộ, sảnh phụ tươ ng ứng vớ i các hàng cột thức, khán đài tươ ng ứng vớ i nơ i ở của các thầy tu, ban thờ tươ ng ứng vớ i những nơ i chốn thiêng liêng, h ầm mộ tươ ng ứng vớ i ngh ĩ a địa…
-- 23 –
Basilica vốn có mặt bằng hình ch ữ nhật, mảnh vải dài, chạy dọc theo chi ều dọc có mấy hàng cột, chia chi ều ngang ra làm nh ị p giữa và nhị p biên; nhị p giữa thườ ng r ộng và cao h ơ n. Nhà thờ của các tu vi ện Bên cạnh các tuyến đườ ng hành h ươ ng, Giáo hội xây dựng các tu vi ện để khách hành h ươ ng có thê tru ng ụ, ăn uống và làm l ễ. Nhà thờ đượ c xây dựng bên trong tu vi ện, cùng v ớ i tu viện tr ở thành quần thể kiến trúc lớ n, nhiều khi vượ t quá phạm vi cần thiết của một địa phươ ng. Nướ c Pháp là cái nôi c ủa các kiến trúc nhà th ờ xây dựng kèm vớ i các tu vi ện. Loại nhà thờ này th ườ ng đượ c xây dựng cùng vớ i nhà ở của các thầy tu, tu vi ện, nhà ngh ỉ… đôi khi gây ấn tượ ng như một thành phố. Các nhà thờ bên trong tu vi ện tiêu biểu ở Pháp lúc đó gồm có: Nhà thờ ở Cluny. Nhà thờ Saint-Sernin ở Toulouse. Nhà thờ Sainte Gétrusde ở Nivelles. Nhà thờ Saint Foy ở Conques. Nhà thờ Saint Étienne ở Caen. • • • • •
Nhà thờ Saint Sernin ở Toulouse (1060 – 1150), có chiều dài 112m
mặt tr ướ c và mặt bên nhà th ờ có tườ ng bổ tr ụ, đều là nh ững hình th ức k ết cấu sơ khở i của kiến trúc Gôtích sau này. Vào thờ i k ỳ Roman, thườ ng hay có các cu ộc hành hươ ng, đa số là các khách hành h ươ ng đi đến Jerusallem, nhiều ngườ i khác đi đến Roma hoặc Santiago de Compestela ở Tây Ban Nha. Có năm ở nướ c Pháp có t ớ i 50 vạn ngườ i đi hành hươ ng. Áp lực đó đã đè nặng lên các n ơ i thờ cúng ở r ất nhiều thành ph ố, do đó xuất hiện các nhà th ờ dành cho khách hành h ươ ng. Đặc điểm của các nhà th ờ này là đầu phía Đông ở hậu cung có một lối đi vòng tròn bao quanh ban th ờ .
-- 24 –
Nhà thờ của thành phố Một trong nh ững tính chất nổi bật của hình thức nhà th ờ thành phố của kiến trúc Roman là s ự dính k ết chặt chẽ giữa các khối và tạo đượ c cho tổng thể kiến trúc một vẻ uy nghiêm. Cũng thuộc loại hình này, ở Italia, có qu ần thể tôn giáo Pisa, đượ c coi là s ự tổng hợ p nhuần nhuyễn của ánh sáng và đá cẩm thạch. Quần thể tôn giáo Pisa (th ế k ỷ XI- thế k ỷ XIII) là tác ph ẩm xuất sắc của kiến trúc Roman Italia th ể hiện sự k ết nối truyền thống kiến trúc La Mã. Qu ần thể này bao g ồm ba đơ n thể thành phần xây dựng trong 3 th ờ i gian khác nhau t ổ hợ p thành: Nhà thờ Pisa (1063-1118, 1261-1272). Nhà r ửa tội The Baptistery (1153-1265). Tháp chuông The Campanile (1174-1271). •
•
•
Tháp chuông – ngày nay g ọi là tháp nghiêng Pisa đặt phía Đông Nam của nhà th ờ .
-- 25 –
Nhà r ửa tội đặt phía tr ướ c, có hình th ức là một khối tr ụ, trùng vớ i tr ục dọc của nhà th ờ khiểu Basillica có hình ch ữ thậ p La Tinh, có đườ ng kính 39,3m, nhà th ờ ở phần giao nhau gi ữa Basilica vớ i cánh ngang đượ c lợ p một mái vòm bán cầu tháp chuông cao h ơ n 50m. dườ ng kính thân tr ụ 16m, hiện này độ nghiêng tính theo hình chi ếu từ đỉnh tháp xu ống là 4m. Hình khối của cả quần thể cân bằng và hài hòa, nhà thờ ở giữa, nhà r ửa tội và tháp chuông đều có hình dáng hài hòa, đều là hình kh ối tr ụ (một dạnh khối platong) nhưng một bên to h ơ n và cao vừa phải, một bên nhỏ hơ n và có chi ều cao lớ n. Cả ba công trình phía bên ngoài đều đượ c làm bằng đá vân thạch tr ắng và hồng xen k ẽ nhau, trang trí mặt tiền bằng các cuốn nửa tròn tươ ng tự giữa các t ầng vớ i nhau, tạo nên vẻ thống nhất tinh tế.
-- 26 –
Ki ến trúc thành quách và dinh th ự
Cấu trúc các tòa thành th ờ i trung cổ có nh ững đặc điểm sau đây: Bề ngoài có các t ườ ng thành kiên c ố, cao và dày th ườ ng đượ c xây d ựng bằng các vật liệu sẵn có của địa phươ ng như gạch, đá , gỗ… Mặt trên t ườ ng thành th ườ ng làm ki ểu r ăng cưa để nấ p bắn, các ph ần tườ ng r ăng cưa cũng có thể nhô ra ngoài theo ki ểu côngxôn t ạo ra lỗ hở trên mặt thành để thả đá hay đổ vạc dầu xuống quân địch. Tùy vào quy mô c ủa tòa thành mà có th ể có một hay hai l ớ p tườ ng thành. Phía ngoài thành th ườ ng có hào sâu để bảo vệ, cửa vào thành thườ ng là cầu dây xích có th ể nâng lên hạ xuống. Trên tòa thành có các v ọng lâu cao để quan sát, trên v ọng lâu bố trí các l ỗ châu mai. Phía trong thành có tháp trung tâm (tháp này c ũng thườ ng là lâu đài của giai cấ p phong kiến). Tháp này dùng để cố thủ khi quân địch đã vào trong thành, ho ặc để đối phó trong tr ườ ng hợ p nông dân, binh lính trong thành nổi dậy. Thành thườ ng bố trí ở những vị trí hiểm yếu như các khu v ực có độ cao có th ể khống chế toàn bộ khu vực, ở cửa sông, cửa biển. •
•
•
•
•
-- 27 –
Trong số các công trình phòng thủ thờ i trung cổ, nổi tiếng nhất là thành phố pháo đài Carcassonne ở Pháp đượ c xây dựng từ thế k ỷ XIII. Thành phố này có cấu trúc gồm hai lớ p tườ ng thành bên ngoài. Mặt ngoài cao 10m, mặt trong cao 14m. Trên t ườ ng thành bố trí nhiều tháp có hình dạng khác nhau: tròn, vuông, đa giác, trên các tháp canh có b ố trí các lỗ châu mai. Các tháp canh phần lớ n đều đượ c lợ p ngói màu xanh, đỏ vớ i độ cao khác nhau nên nhìn trên t ổng thể r ất sinh động
-- 28 –
Kiến trúc Gothic Kiến trúc Gothic là 1 phong cách ki ến trúc, đặc biệt thườ ng gắn vớ i Thành đườ ng và Nhà th ờ , phong cách này này đã r ất hưng thịnh ở Châu Âu trong th ờ i hậu Trung C ổ. Bắt đầu vào TK 12, phong cách này đượ c biết đến như là ‘phong cách Pháp’trong su ốt thờ i k ỳ này. Từ Gothic lần đầu xuất hiện trong phong trào c ải cách vớ i ý ngh ĩ a là một sự phê phán ngh ệ thuật/phong cách. Phong cách này đượ c tiế pnối bở i phong cách ki ến trúc Phục Hưngkhở i đầu ở Florence vào TK 15. Một lọat các công trình ph ục hồi phong cách Gothic b ắt đầu vào gi ữa TK 18 ở Anh, lan r ộng trong su ốt TK 19 ở Châu Âu và ti ế p tục trong TK 20 ph ần lớ n ở các công trình tôn giáo và Tr ườ ng ĐH. Ngu ồn g ốc Phongcách này b ắt nguồn từ Tu viện Nhà th ờ Thánh Denis, g ần Paris, là một ví dụ về quan điểm của Abbot Suger. Suger mốn tạo 1 đại diện vất chất của Thiên đàng Jerusalem, 1 công trình s ử dụng nhiều phươ ng thẳng/phân v ị tràn ngậ p as và màu sắc. Mặt đứng đượ c Suger thiết k ế vớ i gian giữa của Thành đườ ng mà hàng tr ăm năm sau đượ c áp dụng. Ông thi ết k ế mặt đứng của Nhà thờ Thánh Denis ph ản chiếu Vòm cung Constantine theo phong cách Roman v ớ i khu đầu hồi gồm 3 ph ần. Khu đầu hồi này thườ ng thấy ở phong cách Roman. Cửa sổ hình hoa h ồng ở phía Đông vốn đượ c ca ng ợ i nhiều là 1 hình ảnh mô t ả hình tượ ng của ‘vòng tròn Thánh’. Công trình Gothic đầu tiên đượ c xây dựng là nhà/chỗ ngồi giàn đồng ca của Nhà thờ này vào 1144. V ớ i cột nhỏ, cử sổ kính màu, và v ớ i cảm giác nh ẹ nhàng của phươ ng vị đứng, những yếu tố này đượ c trao chuốt trong suốt thờ i k ỳ Gothic. Phongcách này đượ c thừa nhận đầu tiên ở Bắc nướ c Phápvà sau đó là Anh , và lan r ộng tòan nướ c Pháp, các n ướ c Nam Âu và m ốt số vùng của Đức, TBN và B ắc Ý.
Notre-Dame Cathedral seen from the River Seine. "Gothic"
Kiến trúc Gothic không liên quan gì đến giống ngườ i Goths xưa. Từ Gothic là t ừ có ý ngh ĩ a chê bai/mi ệt thị đượ c sử dụng đầu thậ p k ỷ 1530 để ám chỉ 1 lọai văn hóa đượ c xem là thô l ỗ và man r ợ. Các đặc đ iể m Một k ỹ thuật mớ i trong kiến trúc Gothic đó là vòm cung gãy hay vòm cung nh ọn. Những đặc điểm khác đượ c phát tri ển từ hệ quả việc áp dụng vòm cung gãy. Phong cách Gothic nh ấn mạnh phân v ị thẳng đứng và cấu trúc b ằng đá dạng xươ ng vớ i các khỏang mở r ộng lớ n bằng các mái vòm gãy, các c ột dạng bó cột và đượ c lắ p kính, ngòai ra còn có các chóp nh ọn, các giàn chống cho công trình và các chi ti ết điêu khắc đầy sáng tạo như là miệng máng xối hình đầu thú /đầu ngườ i. Bên trong nội thất thườ ng nhấn mạnh vào nh ững cửa sổ kính màu ghép l ớ n cho phép nhi ều as vào công trình hơ n so vớ i kiến trúc Roman tr ướ c đó. Để đạt đượ c độ chiếu sáng như vầy, các giàn ch ống công trình đượ c sử dụng giữa các cửa sổ để chống đỡ cho các tr ần cao hơ n và các c ột thon h ơ n. Nhiều trong s ố các đặc điểm này đã bắt đầu xuất hiện vào 1093, nh ư tại Thánh đườ ng Durham. Đượ c xem là đặc điểm của KT Gothic, vòm cung nh ọn đượ c áp dụng vì mục tiêu thị giác/thẩm mỹ và k ết cấu. Về mặt thị giác, phân v ị đứng thể hiện sự khát vọng hướ ng đến Thiên đàng. Về mặt k ết cấu, sử dụng nó tạo cho sự thích ứng nhi ều hơ n vớ i hình thức kiến trúc.Mái vòn Gothic, v ốn không gi ống mái bán vòm c ủa kiến trúc Roman, có th ể đượ c sử dụng ở mái vuông và các m ặt bằng bất thườ ng khác như hình thang. Ư u điểm khác nữa là vòm cung nh ọn chuyển tải vào cột chịu lực theo một góc đứng hơ n.
-- 29 –
Kiến trúc Phục hư ng Về nguyên t ắc có thể phân biệt hai xu h ướ ng khác nhau trong ki ến trúc Phục Hưng. Một xu hướ ng hồi sinh các đườ ng nét th ờ i k ỳ Cổ đại một cách nghiêm kh ắc. Khoảng năm 1500. Các công trình xây dựng Phục Hưng ở Ý đượ c phác thảo trong sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng các ki ến trúc sư hướ ng về các hình dáng đơ n giản lý tưở ng trong hình h ọc như hình vuông hay hình tròn. Các chi ti ết kiến trúc như cột, tr ụ bổ tườ ng, đầu cột, đầu hồi tam giác,... đều tr ực tiế p dựa vào ki ểu mẫu thờ i Cổ đại. Bên cạnh đó là các phát tri ển mớ i dẫn xuất từ khuôn m ẫu của thờ i k ỳ Cổ đại. Tất cả các phần xây d ựng riêng l ẻ đều phải đượ c hòa hợ p vớ i nhau và v ớ i toàn bộ tòa nhà. Các lu ận thuyết kiến trúc c ủa nhà xây d ựng nổi tiếng ngườ i La Mã Vitruvius đượ c tham khảo để tìm ra nh ững tỷ lệ tươ ng quan lý t ưở ng. Xu hướ ng thứ hai tuy c ũng dựa vào thờ i k ỳ Cổ đại nhưng biến đổi hình dáng các y ếu tố xây dựng tươ ng tự như nghệ thuật xây dựng thờ i Trung cổ, không v ươ n đến một nghệ thuật xây d ựng theo các định luật một cách nghiêm ng ặt. -- 30 –
Nói chung khi nền văn hóa càng bám r ễ sâu trong th ờ i Trung cổ mang dấu ấn của miền Bắc châu Âu thì phong cách kiến trúc tươ ng tự của Phục Hưng càng mạnh, tức là tr ướ c tiên là ở vùng Trung Âu và B ắc Âu. Hai xu hướ ng này t ồn tại bên cạnh nhau cho đến thờ i k ỳ Baroque. Tại Đức và Ba Lan hai xu h ướ ng này đượ c tr ộn lẫn một phần (thí dụ như lâu đài Heidelberg ( Đức) hay lâu đài tại Wawel, Kraków (Ba Lan), th ế nhưng xu hướ ng tươ ng tự vẫn chiếm ưu thế cho đến thờ i gian cuối.
"The Ghent Altarpiece: The Adoration of the Lamb" (interior view) painted 1432.
The Cortile del Belvedere in Rome by Donato Bramante
-- 31 –
-- 32 –
Ki ế n trúc Baroque Các công trình c ủa KTS Michelangelo th ờ i hậu Roman, đặc biệt có thể thấy ở Thánh đườ ng Thánh Peter, có thể đượ c xem là ti ền đề của kiến trúc baroque, vì thi ết k ế này của thờ i hậu k ỳ Roman đã đạt đến một tổng thể thống nhất r ất lớ n vốn chưa từng đượ c biết tr ướ c đó. Học trò của ông Giacomo della Porta ở Rome đã tiế p tục công việc này, đặc biệt trong mặt đứng của nhà th ờ Jesuit Il Gesu dă ảnh hưở ng tr ực tiế p đến việc xây dựng các mặt đứng nhà thờ thờ i k ỳ tiền baroque, nh ư Santa Susanna b ở i Carlo Maderno. Vào TK 17, phong cách baroque lan r ộng khắ p Châu Âu và Mỹ Latin, nơ i mà nó đượ c đặc biệt cổ xúy bở i các thầy tu. Các đặc điểm quan tr ọng của kiến trúc baroque g ồm:: Gian giữa của giáo đườ ng dài và h ẹ p đượ c thay thế bở i gian r ộng rãi hơ n, thỉnh thỏang có dạng tròn. •
•
Sự sử dụng ánh sáng r ất ấn tượ ng, ánh sáng mạnh và bóng đổ, sử dụng nghệ thuật tươ ng phản, các cửa sổ đồng dạng để lấy sáng. Chi tiết trang trí phong phú nh ư phù điêu, tượ ng bằng gỗ (nhũ vàng), g ốm, đá marbe ho ặc BT vữa.
•
Tranh vẽ trên trần lớ n
•
-- 33 –
•
•
•
•
Mặt tiền ngòai thườ ng có đặc điểm nhô ra ở giữa r ất ấn tượ ng. Nội thất thườ ng như một không gian đầy tranh vẽ và tượ ng /điêu khắc. (đặc biệt là hậu baroque) Những hiệu ứng trình di ễn như tranh v ẽ như thật và sự pha tr ộn giữa hội họa và kiến trúc. Mái vòm hình qu ả lê r ất phổ biến trong phong cách baroque ở Bavarian, Czech, BaLan, và Ukrain
Basilica di Superga near Turin: Filippo Juvarra,.
Convent of Mafra, Portugal: Ludovice,.
-- 34 –
Château de Maisons near Paris: François Mansart, 1642.
Vaux-le-Vicomte near Paris: Louis Le Vau and André Le Nôtre, 1661.
Les Invalides, Paris: Jules Hardouin-Mansart, 1676.
The Library in Pjazza Regina, Valletta, as seen in the film "Munich"
-- 35 –
Amsterdam City Hall: Jacob van Campen, 1646.
Greenwich Hospital: Sir Christopher Wren, 1694.
Seaton Delaval Hall: Sir John Vanbrugh, 1718.
French châteaux of the 17th century provided models for numerous country houses across Northern Europe.
-- 36 –
Amalienborg, a Baroque quarter in the center of Copenhagen.
Augustusburg, a typical baroque palace from Westphalia.
The Church of St. Nicolas in Prague. Radical Bohemian Baroque
Wilanów palace in Warsaw represents a modest type of baroque residence.
-- 37 –
View of the Winter Palace from the Palace Square
Palácio do Raio in Braga,.
São Francisco de Assis in São João del Rei: Aleijadinho, 1777.
-- 38 –
The most impressive display of Churrigueresque spatial decoration may be found in the west facade of the Cathedral of Santiago de Compostela).
Church of St. Michel in Louvain, Belgium: Willem Hesius, 1650.
San Francisco de Asís Church, Lima, 1673.
The facade of the church of Ss. Sebastian y Santa Prisca in Taxco) bristles with Mexican
-- 39 –
Rococo
North side of the Catherine Palace in Tsarskoye Selo - carriage courtyard: all the stucco details sparkled with gold until 1773, when Catherine II had gilding replaced with olive drab paint.
The ballroom of the Catherine Palace in Tsarskoye Selo
The Rococo Basilica at Ottobeuren (Bavaria): architectural spaces flow together and swarm with life
Phong cách ngh ệ thuật Rococo xuất hiện ở Pháp vào đầu TK 18 nh ư là 1 s ự nối tiế p của phong cách Baroque . Ngượ c lại vớ i phong cách n ặng nề và màu s ắc tối hơ n của phong cách Baroque, phong cách Rococo có đặc điểm sáng, vui tươ i, tao nhã, phong phú sang tr ọng. Mô típ Rococo t ậ p trung vào đờ i sống quý tộc nhàn nhã và s ự lãng mạn hờ i hợ t hơ n là tậ p trung vào hình tượ ng anh hùng và tôn giáo; c ũng như xem xét lại việc tổ chức ngọai thất và không gian t ự nhiện xung quanh. Vào n ửa sau TK 18, Rococo đượ c thay thế bở i phong cách Tân c ổ điển. Rococo là từ ghép của từ rocaille của tiếng Pháp có ngh ĩ a là vỏ ốc và từ barocco của tiếng Ý. Vì vi ệc sử dụng đườ ng cong d ạng vỏ sò cùng vớ i sự tậ p trung vào nghệ thuật trang trí, m ột số nhà phê bình s ử dụng từ này để ám chỉ r ằng phong cách này là phong cách k ết hợ p.
-- 40 –
Le Dejeuner by Francois Boucher, demonstrates elements of Rococo. (1739,
Louvre)
-- 41 –
Kiến trúc Tân cổ điển Phong trào Tân c ổ điển đã giớ i thiệu kiến trúc Tân c ổ điển vào giữa TK 18, c ả phong trào và phong cách kiến trúc này đượ c xem là ph ản ứng lại phong cách Rococo vốn chống lại xu hướ ng trang trí t ự nhiên, và một số đặc tính hậu Baroque theo h ướ ng cổ điển hóa phát tri ển quá nhanh trong th ờ i k ỳ này. Siegfried Giedion, mà cuốn sách đầu của ông vào 1922 đượ c đề tựa là H ậu Baroque và Chủ nghĩ a cổ đ iể n lãng mạng , đã khẳng định sau đó ‘phong cách Louis XVI đã hình thành nên hình th ức và cấu trúc k ết thúc xu h ướ ng hậu baroque, đượ c chủ ngh ĩ a cổ điển hậu thuẫn’. Về cảm nhận của Tân cổ điển trong ki ến trúc là có tính liên tưở ng và hình tượ ng, là sự tái tạo lại một thế giớ i đã mất đượ c hình thành t ừ sự nhạy cảm lãng mạng.
Prado Museum in Madrid, by Juan de Villanueva
Karl Friedrich Schinkel's Elisabethkirche in Berlin (1832-1834)
Finnish towns were built of wood, often in the Neoclassical style. (Studio of W Runeberg on Porvoo )
At the Royal Scottish Academy, Edinburgh (1822-26), William Henry Playfair employs a Greek Doric octastyle portico
-- 42 –
The Alexander Column in Palace Square, St Petersburg, Russia, viewed from an open window of the Hermitage Museum in the Winter Palace.
-- 43 –
Kiến trúc Hiện đại Trào lưu kiến trúc Hiện đại ( Modernism) là một khái niệm r ất r ộng đượ c sử dụng để miêu tả các công trình khác nhau có các đặc điểm tươ ng đồng về : Sự đơ n giản trong b ố cục hình khối không gian, o Tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng, o Mặt đứng loại bỏ việc sử dụng các họa tiết trang trí c ủa tr ườ ng phái cổ điển cũng như o Việc sử dụng vật liệu mớ i như kính, thép, bê tông. o Kiến trúc hi ện đại là một sự đoạn tuyệt mạnh mẽ vớ i kiến trúc c ổ điển, thể hiện một lối tư duy mớ i của sự phát triển bùng n ổ của các xã h ội châu Âu cu ối thế k ỉ 19, đầu thế k ỉ 20. Tr ườ ng phái kiến trúc này, xu ất phát ở châu Âu t ừ cuối thế k ỉ 19, đầu thế k ỉ 20 và đã nhanh chóng ph ổ biến, tr ở thành m ột tr ườ ng phái chủ đạo ra trên toàn th ế giớ i đến thậ p niên 1970. Hiện nay mặc dù một định ngh ĩ a chuẩn xác về khái niệm kiến trúc hi ện đại vẫn còn đang đượ c tranh luận, nhưng ngườ i ta thống nhất r ằng trào lưu kiến trúc Hiện đại của thế k ỉ 20 đã đượ c thay thế bằng trào lưu kiến trúc Hậu Hiện đại ( Postmodernism). L ị ch sử ki ến trúc Hi ện đại thế k ỷ 20
Khở i nguồn
Cung Thủy tinh của Joseph Paxton
Crown Hall - Đại học Illinois - Ludwig Mies van der Rohe
Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier Kiến trúc Hiện đại, bắt nguồn từ châu Âu, là m ột sự phản ứng lại ảnh hưở ng của quá khứ kiến trúc từ cuối thế k ỉ 19. Các ki ến trúc s ư cảm thấy trào lưu kiến trúc Cổ điển không còn đủ sức sống, vay m ượ n và lệ thuộc
-- 44 –
quá nhiều vào những gì có trong quá kh ứ, không ph ản ảnh trung th ực lại bối cảnh của thờ i đại công nghi ệ p. Không những vậy, kiến trúc cổ điển còn tr ở thành vật cản, trói buộc con ng ườ i vớ i quá khứ hoặc đánh lừa thị hiếu kiến trúc b ằng những yếu tố tranh trí diêm dúa và vô ngh ĩ a. Vào nửa cuối của thế k ỉ 19, đầu thế k ỉ 20, trong trào l ưu phát triển của phươ ng Tây, chủ ngh ĩ a Hiện đại nói chung có ngu ồn gốc từ thờ i kì Khai sáng ( Enlightenment ) đã ảnh hưở ng xuống suy ngh ĩ của các kiến trúc sư, họ tin r ằng cần phải tạo ra một trào lưu kiến trúc mớ i, phản ảnh đượ c tinh thần của thờ i đại mớ i và ph ải vượ t qua, r ũ bỏ đượ c cái bóng c ủa quá khứ. Đa số nhà nghiên c ứu về lịch sử kiến trúc Hiện đại của thế k ỉ 20 đều lấy mốc của khở i đầu từ sự ra đờ i của công trình Cung Th ủy tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park, (London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thi ết k ế. Công trình đáng dấu một bướ c ngoặt về tư duy không gian ki ến trúc, về phươ ng pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi công c ũng như báo hiệu một vẻ đẹ p mớ i của thờ i k ỳ công nghi ệ p hóa. Bên cạnh đó là các ki ến trúc s ư của "Phong trào Ngh ệ thuật Thủ công" ( Arts and Crafts movement ) ở Anh do William Morris kh ở i xướ ng đã thúc đẩy sự đa dạng của kiến trúc. Đó là vi ệc sử dụng vật liệu đa dạng, tính địa phươ ng của kiến trúc, quay v ề vớ i các khối hình học cơ bản. Tiêu bi ểu cho th ờ i kì này có Philip Webb vớ i công trình Bi ệt thự Gạch đỏ (The Red House) hay Charles Rennie Mackintosh ở Scotland vớ i Tr ườ ng Ngh ệ Thuật Glasgow. Ấn tượ ng tr ướ c Phong trào Ngh ệ thuật Thủ công, tùy viên v ăn hóa Đức tại Anh lúc đó Herman Muthesius đã viết tác phẩm "Văn hóa trang trí" ( Dekorative Kunst ) ca ngợ i những ngôi nhà của Morris, Webb và các c ộng sự. Ở Áo có Otto Wagner và Adolf Loos. V ề phần mình, Wagner tìm tòi v ẻ đẹ p tạo hình kh ối kiến trúc qua các yếu tố k ỹ thuật và k ết cấu. Tiêu biểu cho cách công trình c ủa ông có Qu ỹ tiết kiệm bưu điện Vien và một loạt các ga tàu điện ở Wien. Các công trình và t ư tưở ng của Wagner đã có ảnh hưở ng mạnh lên kiến trúc sư Antonio Sant'Elia. Sau này, trong s ố các học trò của Wagner có Joseph Maria Olbrich, m ột trong số những ngườ i sáng lậ p ra tr ườ ng phái Ly khai Wien ( Wiener Secession). Năm 1899, Olbrich tham d ự Công xã Darmstadt ( Darmstädter Künstlerkolonie) ở Đức cùng vớ i Peter Behrens, Herman Muthesius. Công xã Darmstadt chính là ti ền thân của Hiệ p hội Công trình Đức ( Deutscher Werkbund ) sau này. Sự thống trị của kiến trúc Hiện đại Vào thậ p k ỉ 20 của thế k ỉ 20, những gươ ng mặt chính của kiến trúc Hiện đại đã xác định đượ c danh ti ếng cũng như vị trí của họ. Ở châu Âu, ba khuôn m ặt nổi tiếng nhất là Le Corbusier ở Pháp, Ludwig Mies van der Rohe và Walter Gropius ở Đức. Gropius là ng ườ i sáng lậ p ra tr ườ ng Bauhaus, và Mies là hi ệu tr ưở ng cuối cùng c ủa tr ườ ng Bauhaus tr ướ c khi bị giải thể. Đặc đ iể m
Tr ườ ng Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thi ết k ế
Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thi ết k ế
-- 45 –
Ư u điểm Dây chuy ền công năng đượ c đề cao, hợ p lý. Tiết kiệm đượ c không gian giao thông, ti ết kiệm vật liệu. Không trang trí phù phi ếm. Áp dụng các thành t ựu của khoa học và k ỹ thuật. Khuyết điểm Tính chất khô khan, nghèo nàn v ề hình thức, do những giáo lý c ực đoan như "trang trí là tr ọng tội" (Adolf Loos), "Nhà là cái máy để ở " (Le Corbusier) v.v. Mang tính ch ất quốc tế, không có tính dân t ộc và địa phươ ng. Coi nhẹ sự giao tiế p vớ i thiên nhiên, s ự giao ti ế p giữa kiến trúc vớ i xã hội, sự giao lưu giữa con ngườ i vớ i nhau. trúc sư tiêu bi ểu Các ki ến Le Corbusier Ludwig Mies van der Rohe Walter Gropius Tange Kenzo Richard Meier Maki Fumihiko Adolf Loos •
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
-- 46 –
Kiến trúc Hậu Hiện đại
Tr ụ sở của nhóm ING, Amsterdam, Hà Lan, thi ết k ế bở i KTS. R. Meyer và Van Slooten, theo nguyên lý ẩn dụ
Triển lãm Hiện đại, Hamburg, Đức, thiết k ế theo xu h ướ ng tân bản xứ Trào lưu Hậu hiện đại ( Postmodernism) trong ki ến trúc, hay kiến trúc Hậu hiện đại, đượ c xem như sự tiế p tục của kiến trúc Hiện đại, bắt đầu xuất phát từ cuối thậ p niên 1950, kéo dài đến thờ i điểm hiện tại. Mở đầu cuốn sách "Ngôn ngữ của kiến trúc Hậu hiện đại", tác giả Charles Jencks đã thông báo " Kiế n trúc Hiện đại đ ã chế t ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 n ăm 1972 vào h ồi 15h32". Kèm theo đó là bức ảnh chụ p một ngôi nhà nhi ều tầng đang bị nổ tung. Đó là một trong những block của quần thể lớ n nhà ở do kiến trúc sư Mỹ gốc Nhật Minoru Yamasaki thi ết k ế. Cuốn sách này đã gây tiếng vang lớ n trong gi ớ i kiến trúc và đượ c tái bản nhiều lần, đượ c dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó báo hi ệu một trào lưu kiến trúc mớ i ra đờ i: Kiến trúc Hậu hiện đại. Tr ườ ng phái kiến trúc này, trái ng ượ c vớ i tr ườ ng phái của kiến trúc Hiện đại, là sự xuất hiện của các chi ti ết trang trí, tính đa ngh ĩ a của biểu tượ ng trong kiến trúc. Các nguyên lý c ủa ki ế n trúc H ậu hi ện đại Theo Robert Stern, m ột kiến trúc sư ngườ i Mỹ, kiến trúc H ậu hiện đại đượ c chia thành ba d ạng nguyên lý sau: Bối cảnh Các công trình ki ến trúc H ậu hiện đại phải gắn vớ i môi tr ườ ng xung quanh, là m ột bộ phận của môi tr ườ ng. Ở đây, vấn đề đã khác so v ớ i kiến trúc Hi ện đại là không xem xét đến bối cảnh mà có th ể đặt công trình ở bất k ỳ môi tr ườ ng nào, bất k ỳ nướ c nào. Ẩn dụ Hình thức của công trình ph ải nói lên nhi ều ý ngh ĩ a, có nhiều chi tiết kiến trúc mang tính t ượ ng tr ưng. Trang trí Tính chất trang trí c ủa các chi ti ết kiến trúc đượ c khôi phục lại, trái ngượ c lại vớ i những gì mà ki ến trúc Hiện đại cho là "tr ọng tội". Xu hướ ng ki ế n trúc H ậu hi ện đại Xu hướ ng "Lịch sử " Xu hướ ng quay v ề vớ i cổ điển đượ c ưa chuộng ở kiến trúc Hậu hiện đại. Thiết k ế công trình lo ại này sao cho tạo đượ c cảm tưở ng đây là một công trình c ổ điển đượ c thiết k ế theo quan điểm thẩm mỹ của phong -- 47 –
cách quốc tế. Hai khái ni ệm chủ đạo của kiến trúc Hậu hiện đại nhằm chế ngự đượ c công chúng là xác định đượ c tinh thần tưở ng nhớ đến lịch sử (quá khứ) và xác định hình ảnh hiện tại của thành ph ố. Xu hướ ng "Hồi sinh nghiêm ngặt" Ở xu hướ ng này có hai cách sau: Sao chép nguyên xi các chi ti ết kiến trúc cổ. Kết hợp lại các chi tiết kiến trúc của một số công trình cổ. Ví dụ cho xu h ướ ng này là đền thờ ở Trung Đông do Quynlan Terry thi ết k ế vào n ăm 1975 v ớ i ngữ pháp cổ La Mã nhưng lại có các chòi tháp ki ểu thực dân Anh ở Ấn Độ. Năm 1974, ki ến trúc sư ngườ i Nhật Bản Mozuna Monta thi ết k ế ngôi nhà Okawa House v ớ i mặt ngoài là phong cách lâu đài Farnèse, ở bên trong thì phong cách nhà thờ Pazzi. Monta đã dùng phong cách nh ại lại cổ điển để sáng tạo những tác ph ẩm nghiêm túc. Xu hướ ng "Tân b ản xứ " Xu hướ ng này phát tri ển trong th ậ p niên 1970, nó là một sự lai tạo của kiến trúc Hiện đại và công trình b ằng gạch ở thế k ỷ 19. Nó bao g ồm các yếu tố: Mái dốc, Có chi tiết nào đó dạng vuông vức, Các khối phân chia r ất ngoạn mục và bằng gạch. Công trình tiêu bi ểu cho xu h ướ ng này là Trung tâm Hillingdon Civic, xây trong kho ảng 1974-1977. Xu hướ ng "thích hợ p" Xu hướ ng thích h ợ p dựa trên s ơ đồ nhị nguyên về tính dễ hiểu và d ễ đọc của đô thị. Một công trình điển hình cho xu h ướ ng này là qu ần thể công trình nhà ở Byker Wall do ki ến trúc sư Pháp Ralf Erskine làm n ăm 1974. Xu hướ ng "ẩn dụ và trừ u tượ ng" Kiến trúc La Mã có xu h ướ ng thể hiện lòng tin vào b ộ máy của Hoàng đế, kiến trúc Phục Hưng thì bi ểu thị tính siêu hình nghiêm ng ặt. Còn ở kiến trúc Hậu hiện đại, tính ẩn dụ xuất phát từ truyền thống hữu cơ có liên quan đến hình ảnh con ng ườ i, động vật và thực vật. Sự đối xứng hình mặt ngườ i, cảm giác vận động từ trong ra ngoài, t ừ trên xuống dướ i v.v... Ngôi nhà Daisy House xây d ựng trong th ờ i gian 1976-1977 ở bang Indiana, do ki ến trúc sư ngườ i Mỹ Stanley Tigerman thi ết k ế, có mặt bằng và mặt đứng tươ ng tự như hình ảnh một số bộ phận thân thể phụ nữ và nam gi ớ i. Kiến trúc s ư ngườ i Nhật Bản Yamashita Kazumasa c ũng đã thiết k ế một ngôi nhà ki ểu mặt ngườ i, công trình đượ c làm năm 1974 ở Kyoto. Xu hướ ng "Không gian H ậu hiện đại" Xu hướ ng thiết k ế này tạo ra một không gian vô h ạn, không rõ ràng, nh ậ p nhằng vớ i nhau... C ửa hiệu đồ trang sức Schullin ở thủ đô Wien của Áo thu ộc xu h ướ ng này. Công trình này do ki ến trúc sư Hans Hollein làm năm 1975. Xu hướ ng "chiết trung tri ệt để" Chủ ngh ĩ a triết chung ở thế k ỷ 19 là sự tr ốn tránh cái khó khi ph ải lựa chọn, đó là tính c ơ hội và vị k ỷ, đi tìm những thứ dễ dàng. Còn ở kiến trúc Hậu hiện đại, chủ ngh ĩ a triết chung mạnh mẽ và đa dạng một cách triệt để hơ n. Nhữ ng thủ pháp c ủ a ki ến trúc H ậu hi ện đại Sử dụng hệ thống kiến trúc cổ điển Hy Lạp-La Mã Các kiến trúc sư Hậu hiện đại có các tác ph ẩm r ất đa dạng, phong phú, nh ưng Chủ ngh ĩ a Hậu hiện đại đã làm họ gần nhau hơ n, các tác ph ẩm của họ luôn thể hiện sự trung thành v ớ i truyền thống. Robert Venturi đã bắt chướ c theo ngôi đền Dori ở trong thiết k ế ngôi nhà Electic House, nh ại lại thức cột Ionic trong B ảo tàng Nghệ thuật Pop Art ở bang Ohio. L ối vào quảng tr ườ ng Italia, ở bang Missisipi, xây d ựng khoảng 19781979, giống Khải hoàn môn La Mã nh ưng hiện đại hơ n. Trong công trình này c ũng có các cột Ionic mà cu ốn đầu cột là thép m ạ vàng, thân c ột bằng các ống đèn huỳnh quang. Thủ pháp bài tr ừ sự thiếu tính đồng nhất cho công trình Trong kiến trúc này, ng ườ i ta khai thác tính ch ất đối xứng, tính "chính, ph ụ" và có "tâm" c ủa công trình. •
•
•
•
•
-- 48 –