Kang Thiền Kim đã thêm 2 ảnh mới. 17 Tháng 11 lúc 16:16 ·
THẦN QUYỀN LỤC PHÁP Lời giới thiệu Nhiều người được nghe kể lại một vài câu chuyện ly kỳ liên quan đến môn võ bí hiểm có tên là Thần quyền, nó có thể làm một người không biết võ công nếu được gia nhập môn phái và tuân thủ những lời thề nguyện thì cũng có thể biến thành cao thủ võ lâm không ai địch nổi, nhưng môn sinh nào vi phạm lời thề cũng bị “thần” trừng phạt rất nặng. Chuyện thực, hư thế nào thì có lẽ đây là lần đầu tiên nó mới được tác giả Trần kim Cang trình bày khá rõ ràng trong cuốn Thần quyền lục pháp. Với truyền thống viết về các chủ đề liên quan mật thiết đến lĩnh vực tâm linh, bằng các tư liệu qúi và kinh nghiệm của mình, tác giả dẫn dắt một cách hệ thống cho người đọc và người nghiên cứu có điều kiện vén lên bức màn huyền bí mà người ngày nay muốn giải thích “thần linh” bằng khoa học, còn người ngày xưa thì thấy thần linh sống xung quanh họ, ngay cả cái cây ngọn cỏ đều có thần linh hiện diện. Cho nên cầu xin thần linh trợ giúp là tục lệ có gốc rễ sâu thẳm trong đời sống tâm linh lòai người, ở đó tục cầu thần nhập xác là thần bí nhất trong văn hóa thần bí thế giới mà Thần quyền nói chung hay Thần quyền lục pháp nói riêng là hiện tượng tiêu biểu và đặc sắc với mọi hình thức võ công, văn nghệ, chữa bệnh, bói tóan .v.v… Khi thần nhập xác người ta ở trạng thái mất ý thức, tùy theo lọai thần nào nhập mà có biểu hiện tương ứng gần giống như tính cách vị thần đó, khoa học gọi đó là hiện tương đa nhân cách như một người tâm thần, hoặc gống người bị thôi miên để bộc lộ công năng phi thường như: Siêu trí lực thể hiện khả năng
không cần học mà tự biết đành côn quyền, tự biết viết, biết hát, biết chữa bệnh. Siêu thể lực thể hiện khả năng vác nặng, nhảy cao gấp nhiều lần bình thường mà không biết mệt. Siêu nghị lực thể hiện không sợ, không đau khi nhảy vào nước sôi, lửa cháy hay bị đâm thủng. Ngoài ra có người bịt mắt vẫn đọc chữ hoặc nhớ được quấn từ điển dày .v.v… Những điều này đã được các nhà ngọai cảm, nhà khí công, thôi miên và cả những thiền nhân, yoga …biễu diễn mà không pha trộn sắc màu mê tín. Khoa học đang cần đến những thiết bị vô hình và cực kỳ hiện đại đang gìn giữ ở chính mỗi con người họ để giải thích và khám phá những bí ẩn trong kho tàng văn hóa tâm linh của dân tộc. Chắc vẫn còn phải bàn luận thêm về nội dung, về tác dụng trong cộng đồng và ảnh hưởng đến mỗi cá nhân thực hành pháp, nhưng trên hết cuốn sách này đã trang bị những dữ liệu cơ bản để người xem tự lọai bỏ mọi điều nghi hoặc và hoang đường xoay quanh nó, khi đó chỉ còn lại những tinh hoa trường tồn và bất biến theo thời gian. Thành phố Hồ Chí Minh mùa hạ 2008 KS: TRẦN KỲ NGHĨA Đại học Quân sự Hà Nội Lời nói đầu Xưa nay, khi người ta nói đến bùa chú thì có rất nhiều người cho rằng những thứ đó là trò huyễn hoặc, lừa bịp… Nhưng các bạn hãy lắng nghe chân lý, giá trị đạo đức và sự lợi ích tích cực của bùa chú để tránh rơi vào hiện tượng mê tín. Cuộc sống phải lao động, lo toan, mạng sống cần được bảo vệ và bệnh đau phải chữa trị ngay. Bùa chú là bộ môn khoa học cổ xưa nhất, linh nghiệm nhất… có những năng lực trường tồn vượt không gian và thời gian. Nó chữa được thân và tâm bịnh khi chưa có thuốc men ra đời. Chúng ta có thể coi đó là một trong những liệu pháp điều trị hỗ trợ không dùng thuốc nhưng mang hiệu quả nhanh nhất và ít tốn kém... Thần quyền, Thần quyền lục pháp, Thất sơn thần quyền, Quyền thề, Võ bùa hay Phật quyền v.v… có khác nhau một chút về nội dung truyền dạy, cơ bản là giống nhau và đều được mô tả như một môn phái võ thờ Phật xuất hiện đầu tiên tại vùng Bảy núi - An giang. Thần quyền được xếp vào tục lệ cầu thần nhập xác còn gọi là tục giáng thần phụ thể, quốc gia nào cũng có phong tục này, người xưa đã hiểu nó là qúa trình xuất hồn và cầu xin một vị thần nào đó nhập vào thân xác để làm một việc phi thường khiến mọi người khâm phục và nể sợ, vì vậy nó mang tính huyèn bí và tâm linh rất sâu sắc. Rất ít tài liệu nói về thần quyền, người ta chỉ nghe kể lại thần quyền với những chuyện đã chứng kiến tận mắt về quyền cước cùng các điều cấm kỵ và dị thuật ... lạ lùng đến mức không thể tin được. Lại thêm những kẻ bịp bợm đã lợi dụng bày trò tà thuật kiếm tiền làm mọi người hoang mang không biết thật, giả ở đâu nên gây tác động xấu đến họat động của một xã hội pháp quyền. Vì thế thần quyền đã bị ngăn cấm. Theo dòng thời gian, những điều thiêng liêng và tinh hoa sẽ rũ bỏ những cái áo dị đoan để trở về bản chất nguyên thủy của nó với nét văn hóa tâm linh đã bám rễ rất sâu trong lịch sử loài người. Ví dụ như tục lên đồng giờ đây đã gạt bỏ đi mầu sắc dị đoan ngày xưa để trở thành một họat động văn góa dân gian đặc sắc. Ít ai biết được tục lên đồng là anh em ruột với tục cầu hồn nhập xác. Cho dến nay khoa học nghiên cứu về thân thể con người còn lạc hậu nhất trong các lĩnh vực khoa học, những thành quả về sơ đồ gen, những máy móc tối tân trợ giúp nghiên cứu đến từng tế bào não… cũng chỉ đưa ra kết luận hời hợt và có khi trái chiều. Đã đến lúc cần thiết những chuyên gia nghiên cứu về y học, tôn giáo, thần học, dân tôc học, tâm lý, xã hội, lịch sử học v .v… để có đươc tri thức tổng hợp soi sáng mọi góc cạnh cũa hiện tượng có thật nhưng đầy chất huyền bí này. Với mục đích đó, tập sách Thần quyền lục pháp được trình bày thành từng chương ngắn gọn rõ ràng để người xem dễ nắm bắt và nghiên cứu sáu pháp môn với những đặc điểm và ứng dụng khác nhau . Đối với các môn sinh cũng được nhấn mạnh vào các tố chất về nhân - nghĩa - lễ- trí - tín (qua các điều thề) để thấy võ công dù có siêu phàm đến đâu cũng chỉ là nấc thang cơ duyên để bước tiếp lên pháp vô vi và huyền diệu. Chẳng dễ gì đưa ra một vấn đề gai góc cứ âm thầm tồn tại trong những lời đồn đại mù mờ từ xa xưa, trong khi đó tài liệu về thần quyền còn thiếu thốn thì tập sách chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Người viết mong nhận được chỉ giáo của mọi độc giả gần xa để cùng gạn đục khơi trong một mạch nguồn văn hóa của dân tộc.
Thanh Tuyền Dầu Tiếng Bình Dương Mùa hạ năm Mâu tý 2008 Liên Nhã TRẦN KIM CANG Thần Bảo vệ Phần I TƯỞNG NHỚ CÔNG ÂN CHA MẸ VÀ THẦY TỔ Nén tâm hương kinh dâng hương hồn Thân phụ, sư phụ Trần Quang Huy (1911-1982) Thân mẫu Nguyễn Thị Phòng (1915 – 1985) và Thầy Tổ đã dìu dắt con đi trên cõi đời này. Kính Lạy Thân Phụ, Sư Phụ: TRẦN QUAN HUY (1911 – 1982) Kính Lạy Thân Mẫu: NGUYỄN THỊ PHÒNG (1915 – 1985) CHÙA MINH ĐỨC, Xã Hòa Ân, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi gia đình chúng tôi cư ngụ từ 1947 – 1974 VẠN HOÀ CỔ TỰ, Thị trấn Cầu Kè, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi tôi xuất gia tu học năm 1952 CHÙA PHÚ THỌ, đường Lãnh Binh Thăng, quận 11, TP.HCM, nơi tôi giữ chức trụ trì từ 1965 – 1967 CHÙA HOÀ BÌNH, Thị trấn Cầu Kè, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi thân phụ, sư phụ khai sơn năm 1975 Kính lạy tạ ân 1– Cửu huyền thất tổ nội - ngoại. 2– Thân phụ: Trần Quang Huy, thân mẫu Nguyễn Thị Phòng, những người có công đức sinh thành, công ân nuôi dưỡng, công lao dạy dỗ cho con thành người. 3– Thân phụ, sư phụ: Trần Quang Huy, người đã đem hết tâm huyết truyền dạy chỉ dẫn Tâm phù bí pháp, Y học cổ truyền và các học thuật phương đông cho con. 4– Bổn sư: Hoà thượng Thích Hoàn Thông, người đã cưu mang dạy dỗ đạo pháp và ban tấm gương đức độ cao cả trong suốt cuộc đời vào tận tâm hồn con. 5– Chư vị sư phụ ân sư: Hoà thượng Thích Thiện Phước, Hoà thượng Thích Thiện Thành, Hoà thượng Thích Thanh Viên, Hoà thượng Thích Trí Minh, Hoà thượng Thích Liễu Minh, Hoà thượng Thích Trí Quang... những người đã cưu mang dạy dỗ chỉ dẫn cho con tu học giáo lý Phật pháp, những tri thức, kiến thức ở đạo và đời. 6– Xin tri ân: Quý Thầy cô giáo, Giáo sư, Bác sĩ, Dược sĩ, Võ sư, Hoạ sĩ, Nghệ sĩ... những người đã tận
tâm truyền dạy chỉ dẫn ban tặng những tri thức, kiến thức và nghề nghiệp cho con. 7– Xin tri ân: Thầy Nguyễn Hoàng Bá, Thầy Lưu Sơn Long, Thầy Dương Hải Thọ.... những người đã cưu mang tận tâm truyền dạy chỉ dẫn những Pháp thuật huyền bí và Học thuật thôi miên cho con. 8– Xin tri ân: Lục cả Lục Tà Khen, Lục cả Lục Tà Canh, Thầy Mười Út, Thầy Sáu Miền Tây, Thầy Mười Long An, Thầy Mười Hậu, Thầy Bảy Chánh, Thầy Mười Điền Cà Mau... những người đã tận tâm truyền dạy Bùa ngải cho con. 9– Xin tri ân: Võ sư Trần Thiên Phước, Võ sư Trần Thiên Đức, Võ sư Mã Nhất Tiền, Võ sư Đàm Mật Long, Võ sư Phùng Thiên Nhai.... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn Võ công, Khí công và Yoga cho con. 10– Xin tri ân: Võ sư Quan Chấn Đông, Võ sư Đàm Mật Long, Võ sư Thạch Bửu Thiền... những người đã cưu mang và tận tâm truyền dạy chỉ dẫn Thất Sơn Thần Quyền, Thần Quyền Lục Pháp cho con. 11– Xin tri ân: Đông y – Y dược sĩ Cao Thuần Hoàn, Đông y – Y dược sĩ Trần Thiên Phước, Đông y - Y dược sĩ Trần Thiên Đức... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn riêng những kinh nghiệm hiểu biết đầy sự quý báu trong Đông Y cho con. 12– Xin tri ân: Bác sĩ Nguyễn Thành Tài, Bác sĩ Trần Trung Thành, Bác sĩ Phạm Thanh Xuân... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn riêng những kinh nghiệm hiểu biết rất quý báu trong Tây Y cho con. 13– Xin tri ân: Thầy Trương Đức Lâm, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Dịch lý cho con. 14– Xin tri ân: Thầy Đào Kiến Minh, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Tử vi cho con. 15– Xin tri ân: Thầy Cao Minh Cảnh, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Phong thuỷ cho con. 16– Xin tri ân: Thầy Vương Quảng Châu, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Tướng mạng cho con. 17– Xin tri ân: Ảo thuật gia Lê Văn Quý, Ảo thuật gia Nguyễn Thành Long, Ảo thuật gia Quan Thế Châu... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn vốn quí khoa Ảo thuật cho con, để phân biệt thật – hư giữa bùa ngãi chân chính với các trò ảo thuật. 18– Xin tri ân: Lương y Nguyễn Văn Ngọc, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Y Dịch Lục Khí cho con. 19– Xin tri ân: Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phư, người đã ban những tri thức, kiến thức và chỉ dẫn cho con tìm thấy “Sự nhiệm mầu của đôi bàn tay”. 20– Xin tri ân: Thầy Tạ Duy Thành, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn phương pháp Nhân Điện cho con. 21– Xin tri ân: Thầy Công Kim Thắng, Thầy Bùi Trọng Tân, Thầy Nguyễn Khắc Hữu, Thầy Huỳnh Thiện Tuần, Bác sĩ Võ Văn Thạnh, Bác sĩ Đỗ Cao Thư... những người luôn nêu tấm gương đức độ cao cả, tận tâm khuyên dạy hướng dẫn khuyến khích mọi người và con nên làm những điều có ích cho mai sau. 22– Xin tri ân: Những người bạn cùng trường, cùng lớp, cùng hội... đã chỉ dẫn, trao đổi những kinh nghiệm hiểu biết đầy sự quý báu cho tôi. Tác giả. Chuyên tâm luyện tập… Phần II CHƯƠNG MỘT THẦN QUYỀN LỤC PHÁP “Thần Quyền Lục Pháp” là sáu phép quyền năng mầu nhiệm cao siêu, của các đấng Thần linh khi nhập vào xác người phàm, là một trong những pháp môn bí truyền. Tuy nhiên tuỳ theo bản tính và tu luyện tâm đức của mỗi môn sinh mà vị chân sư sẽ truyền dạy cho từng bước từ thấp lên cao, và thành công ngay sau khi làm lễ “chân truyền”, không phải tự nhiên luyện tập mà có được.
* Đi tìm nguồn cội Thần Quyền Lục Pháp: Thầy Bửu Thiền tên thật là Trương Vĩnh Quang, sinh năm Mậu Tý – 1888, tại Tịnh Biên, Châu đốc. Là người con duy nhất của ông Trương Vĩnh Thuận sinh năm Canh Thân – 1860 và bà Thạch Thị Tốt sinh năm Quý Hợi - 1863, pháp danh Bửu Thiền, thầy là cư sĩ không vợ con. Thầy Bửu Thiền hiểu biết nhiều về huyền pháp, đông y và công phu… Vào mùa thu năm Tân Sửu - 1961, tại Liên hoa cảnh (chùa bà tư), núi Sam, tỉnh Châu đốc. Thầy đã kể qua câu chuyện nguồn gốc của Thần Quyền Lục Pháp cho các đệ tử cùng nghe như sau: “... Cha mẹ tôi chết sớm, tôi được ông và bà nội nuôi dưỡng, dạy bảo thành người. Ông nội tôi tên là Trương Đại Hải sinh năm Đinh Dậu - 1837, và bà nội là Lục Cẩm Hoa sinh năm Kỷ Hợi – 1839, cùng quê ở Tịnh Biên, Châu Đốc.”. “Đến năm tôi 16 tuổi nhằm năm Giáp Thìn – 1904, được ông nội truyền dạy môn Thần Quyền Lục Pháp cũng là năm Bà nội tôi từ trần sau cơn bạo bệnh và hai năm sau Ông nội tôi cũng qua đời. Khoảng cuối năm Đinh Mùi -1907, họ hàng nội ngoại của tôi đều chạy trốn sang Nam Vang. Từ đó tôi bị mất liên lạc với những người thân và ở lại quê nhà cam cảnh sống cúc côi. Sau đó tôi đi làm công quả ăn hạt cơm của các chùa... Môn Thần Quyền Lục Pháp tôi học từ ông nội được ghi bằng chữ Hán nôm cũng nằm im trong cái trấp bằng gỗ mà tôi thường đặt trên đầu giường ngủ... “ “Tôi có nghe ông nội kể lại: môn Thần Quyền Lục Pháp này là của ống cố của ông nội tôi học với sư tổ Ngô Minh Chánh, ngài là đệ tử chân truyền của đạo sĩ Hứa Quân, tại núi ông Cấm tỉnh Châu đốc… sư tổ Ngô Minh Chánh cho các đồ đệ biết Thần Quyền Lục Pháp là những pháp tắc thần bí của Thần đạo, theo cổ tục cầu linh thần nhập xác, mỗi khi các vị thần nhập xác đều có đánh quyền nên gọi là “Thần Quyền”, có nguồn gốc từ Trung Hoa do các đạo sĩ du nhập và được người Việt Nam phát huy sáng tạo vào khoảng thập niên 50 của thế kỷ 17, và ẩn sâu trong vùng thất sơn hùng vĩ – vùng bảy núi ở tỉnh Châu đốc. Học Thần quyền nhằm tự bảo vệ thân mạng khỏi bệnh đau trong chốn rừng thiêng nước độc, chống chọi với muôn ngàn thú dữ và chữa bệnh cứu nhân giúp đời… Tại đồi ngọc hoàng xa xưa có ngôi am nhỏ lợp bằng tranh, bên trong có ba bàn thờ: Thần Đạo, chư Vị Sơn Thần và Hứa Quân đạo sĩ, tất cả được viết chữ nho, bằng mực tàu, trên giấy hồng đơn có kim rơi, có nhiều vết lỗ chỗ và rất cũ kỹ - theo quan niệm cổ: tượng linh dầu nát cũng thờ! Bài vị Thần đạo được đặt cao trên bàn thờ rất tôn nghiêm, bài vị Chư vị sơn thần và cục đá to có đội khăn đỏ đặt phía dưới thấp, bên phải bàn thờ của bậc Tiền hiền hậu hiền, bên trái bàn thờ tổ sư Hứa Quân, tất cả đều xoay mặt về hướng đông”. “Ông nội tôi kể tiếp: Ngôi am đó do sư tổ Ngô Minh Chánh và các huynh đệ đồng song kiến tạo trên di tích khai sơn của Đạo sĩ Hứa Quân. Thời gian sau ngôi am thờ Thần đạo bị giặc Pháp đốt phá thiêu hủy tất cả di tích”. “Thời gian trôi qua khá lâu… môn Thần Quyền Lục Pháp cũng im hơi lặng tiếng. May thay, vào mùa hạ năm Canh Thìn – 1940, tôi có dịp về chùa Giác Viên ở Saigon dự đại lễ, tôi được một vị sư huynh pháp hiệu Trí Đức người miền trung cho xem cùng lúc hai bản Thất Sơn Thần Quyền, một bản chép bằng chữ Hán nôm và một bản chuyển ra chữ Việt ngữ. Ngoài bìa đều có in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi toà sen – in bằng mực tàu với bản khắc gỗ. Trang kế, chính giữa ghi hàng chữ Thất Sơn Thần Quyền, phía dưới ghi Quảng Bình sưu tầm. Nội dung bên trong là câu chuyện xuất sứ Môn Thất Sơn Thần Quyền: … đầu giờ tý, đêm mùng 06 ngày Nhâm Ngọ, tháng 06 nhuận, năm Canh Ngũ – 1930, sư Quãng Bình quê ở miền trung (trong sách không ghi họ tên,năm sinh, quê quán) nằm mộng thấy một vị thần thân thể rất cao to, mình trần, khâu (quần) màu đen ngang gối, lưng thắt đai màu đỏ, đi chân đất, trên đầu đội mũ vải màu xanh dương, phía trước có thêu hình Phật Bà Quán Thế Âm Bố Tát ngồi trên toà sen, truyền cho ông pháp môn Thất Sơn Thần Quyền. Ngoài ra có 20 điều thề và mấy điều kiêng kỵ trong ăn uống, một bài khấn tổ truyền nhập thần cho đệ tử, một bài bí truyền cầu thần nhập thể xuất quyền, một số phù đạo, các bài thần chú, cách luyện tập và ứng dụng, v.v…” “Sau đó ngài Quãng Bình đem sở đắc của mình ra giúp cho mọi người rất hiệu nghiệm và truyền Quyền thần lại cho một số đệ tử thân tín. Phái Thất Sơn Thần Quyền có 2 ngành: - Một chuyên dùng bùa chú chữa bệnh giúp đời. - Một chuyên về quyền cước. Môn phái Thất Sơn Thần Quyền tôn Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là Tổ sư và có thêm 8 vị thần đại diện sư tổ trong công tác truyền dạy các môn đồ. Tám vị thần tên là:
1. Hỏa Hỏa Chơn Chơn. 2. Bá Thiên đạo trưởng. 3.Thanh Trúc đạo trưởng. 4. Hoàng Thiên đạo trưởng. 5. Sa Thiên đạo trưởng. 6: Nga Mi lão tổ. 7: Ngư Câu Lão Ông (?). 8: Bá Hành ngũ độc. “Từ đó Đức Quan Thế Âm Bồ Tát được tôn kính trên ngôi giáo chủ của môn Thất Sơn Thần Quyền và vị thần mà ngài Quãng Bình thấy trong giấc mộng cũng được tôn danh là Đại Pháp Thân Linh Thần trong các buổi hành lễ. Bài văn cầu nguyện trong nghi lễ cúng bái trước tổ nghiệp, các câu chú dùng khi “vô phép” và chú cầu linh thần nhập xác cho các đệ tử cũng do ngài Quãng Bình ghi ra từng lời, từng câu. Sách rất mỏng, phía cuối sách cũng có ghi Quảng Bình sưu tầm. Thần đạo và Hứa Quân đạo sĩ không thấy nhắc đến.” “Bửu Thiền tôi mượn quyển chữ Việt ngữ và sao chép lại cẩn thận không bỏ sót một chữ nào. Khi so ra thấy môn Thất Sơn Thần Quyền của ngài Quãng Bình hoàn toàn trùng hợp rải rác các nơi trong tài liệu Thần Quyền Lục Pháp của ông nội tôi chỉ dạy… tức là không đầy đủ sáu pháp. Thiển nghĩ: Vị Thần truyền dạy môn Thất Sơn Thần Quyền cho ngài Quãng Bình là ai, có phải là người đồng song với sư tổ Ngô Minh Chánh hay không và lúc sinh tiền ông thần ấy chỉ được chưởng môn Hứa Quân chỉ dạy cho ông ta bấy nhiêu thôi hay sao, hay là ông thần đó chỉ truyền lại cho ngài Quãng Bình một phần mười sở học của mình, bởi vì ngài Quãng Bình chưa đủ nhân duyên lĩnh hội chăng???... Bao nhiêu nghi vấn trong đầu tôi cho đến hôm nay vẫn chưa có câu trả lời vừa ý”. * Thần quyền với thời gian: Sau này các đệ tử của phái Thất Sơn Thần Quyền phân chia ra tám hướng đi truyền dạy cho những ai yêu thích. Sở dĩ có tên thần quyền bởi vì khi các linh thần nhập xác thì hay múa quyền rất uy vũ - múa quyền mạnh mẽ như thần. Vào thập niên 50 – 70 của thế kỹ 20 môn Thất Sơn Thần Quyền nở rộ từ miền Trung vào Nam. Đệ tử của phái này được quy tụ nhiều nhất tại Sài Gòn, trong một số võ đường… Nhưng rất ít nơi dạy cho môn sinh đủ Sáu pháp thần quyền, phần lớn chỉ “truyền nhập” quyền thần để thi đấu võ công là chính, nếu môn sinh nào có tâm đức thì được sư phụ truyền cho vài linh phù để chữa các bệnh giúp đời như: đau nhức, viêm sưng, cầm máu, trật xương khớp, ăn ngủ không yên, gở thư, mở ếm, trừ tà ma, răn trộm cắp, … Sau năm 1975, theo dòng thời gian biến chuyển, môn Thất Sơn Thần Quyền lặng lẽ theo chân các đệ tử ra đi nhiều nước ngoài… * Thần quyền trong lòng mỗi đệ tử: Theo tài liệu của thầy Bửu Thiền thì Thần Quyền Lục Pháp gồm có sáu pháp, mỗi pháp có nhiều bài, mỗi bài mang giá trị linh ứng khác nhau. Tùy theo cấp học mà vị sư phụ sẽ truyền dạy cho các môn sinh những bài học từ thấp đến cao và bắt buộc phải một lòng tuân thủ từ 01 - 55 điều thề. Đối với người theo phái thần quyền thì lời thề là điều rất cao quí và thiêng liêng… bởi vì nếu môn sinh luôn giữ lời đã thề càng tốt thì công lực càng mạnh mẽ và khi thi hành công việc rất hiệu quả. Trước khi làm lễ nhập môn người cầu học phải đọc qua nhiều lần những điều thề mà sư phụ đã ban… nếu cảm thấy gìn giữ được thì trình lên sư phụ để được tiếp tục truyền giáo. Tiếp theo muốn trở thành môn sinh chính thức thì phải tuân theo nghi thức làm lễ nhập môn, tức là đứng trước Linh đàn - bàn thờ tổ, đưa hai tay lên cao khỏi đầu nói ra to tiếng các điều thề cho mọi người có mặt chung quanh cùng nghe... Sau này nếu môn sinh nào cố tình làm sai phạm các điều đã thề, đã hứa thì mọi quyền năng đã có dần dần tự biến mất!... Nếu biết ăn năng hối lỗi những việc đã làm sai và cầu xin được học trở lại thì sự thành công cũng không cao như trước, hoặc không thành công. Về sau, trong đời còn mang những bệnh đau thật khó chữa trị, nhiều tai nạn xảy ra hậu quả khó lường trước, hoặc bị các vị thần linh hành xác rất nặng, hơn cả kẻ khùng điên…Lúc này phải “cầu sư phụ giải cứu cho”. Nếu chẳng may sư phụ đã quy tiên thì… “bụng làm dạ chịu” chớ oán trách gì ai !...
Theo người viết bài này, câu chuyện lịch sử của môn thần quyền - nói chung là Thần Quyền Lục Pháp và Thất Sơn Thần Quyền còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Rất mong các đấng cao minh bổ sung chỗ thật - hư, kém khuyết đến hoàn hảo thì có rất nhiều tấm lòng của kẻ hậu học chân thành tri ân mãi mãi… CHƯƠNG HAI I - TÌM HIỂU SƠ LƯỢC HAI CHỮ BÙA CHÚ 1/ Chữ Bùa của người Việt Nam hay goi nguyên Hán văn là chữ PHÙ 符 . Phù thủy là vẽ bùa vào nước cũng như bùa giấy, bùa bóng... Và phù ở đây cũng không có nghĩa là "thổi phù phù" ! PHÙ là chân lý của đạo! Đạo dùng phù chú để cứu dân giúp đời, cải tà quy chánh. Người xưa thể hiện phù bằng một “thanh tre” chính giữa có đường cắt ngang chia ra làm hai mảnh thành một đôi Âm Dương hoàn hảo. Nó như một định luật tất yếu gắn kết trong cuộc sống và không có cái gì khác để thay thế được. Bùa thể hiện uy vũ thiêng liêng, đầy quyền năng bí ẩn cao cả, bao la và vĩnh cữu. Tinh thần và quyền lực của Bùa được thể hiện qua các hình thức như: Phù điêu, đồ trang sức, cột móc ranh giới, cái ổ khóa, binh khí, bảng hiệu, bảng chỉ dẫn, bảng cấm, cái đánh dấu riêng vào vật có chủ, nhà giam, v.v... Bùa có hai loại: 1- Có hình dáng: Chữ bùa. 2- Không nhìn thấy hình dáng: Bùa bóng. Những nét bùa thể hiện sự biến chuyển tư tưởng trong tính Âm Dương, Bát quái, Ngũ hành..., vì vậy nó như một loại vũ khí hay lệnh bài… có mang năng lượng và quyền lực bí ẩn đến khắp nơi và tồn tại trong vũ trụ rất lâu dài. 2/ Chữ Chú là từ Hán văn: 咒 Theo phân tích, chữ CHÚ có hai chữ khẩu phía trên, ý nghĩa chính là thể hiện quyền lực bằng lời nói, có hai cách: - Nội dung chú ác: Mệnh lệnh, quyết định, nguyền rủa, bản án… - Nội dung chú thiện: Chúc nguyện, cầu xin, hướng dẫn, lời hứa, khuyên bảo, lệnh truyền, lời nguyền của đấng cao cả, v.v... Chú có hai dạng: 1- Thần chú: Những bài chú có sẵn từ trước... do các đấng cao cả truyền lệnh, thần chú là những thông tin huyền bí và có năng lực mầu nhiệm, ta đọc thần chú của ai thì vị đó hộ trì… 2- Ý chú: Bài chú do chính mình đang sáng tạo ra.... Chú thể hiện qua hai cách: 1- Có âm thanh: Đọc lời chú. 2- Không âm thanh: Trong đầu ngầm phát lệnh. 3/ Giá trị và sự diệu dụng của bùa chú: - Hình ảnh và nội dung của bùa chú là kết tinh của trí tuệ siêu việt trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa. - Bùa chú bao hàm đạo học tâm linh, luật pháp siêu hình, y thuật đa năng… góp phần giúp ích sự an sinh xã hội, sức khỏe, bình an và hạnh phúc... - Bùa chú có công năng chữa lành thân bệnh và tâm bệnh, bảo vệ thân mạng, tài sản, giúp đỡ người hiền lương, răn dạy và trừng phạt kẻ tà tâm gian ác, ma quỉ lộng hành, v.v...
- Bùa chú thông qua các vật thể để được sự linh ứng như: dầu, nước, lửa, giấy, chỉ, cát, đất, đá, sành sứ, gỗ, lá cây, gốc lúa, củ ngải, kim loại, xác động vật và vị thế ao hồ, núi, sông, v.v... - Năng lực của bùa chú rất phi thường mang đến những hiệu quả rất cao và nhanh chóng. 4/ Phương cách sử dụng Bùa chú: Có khi chỉ dùng chữ bùa mà không có câu chú; Có lúc chỉ sử dụng câu chú mà không có chữ bùa kèm theo; Có nhiều trường hợp phải dùng cả chữ bùa và câu chú... mới có hiệu quả. Có những điều huyền diệu như thế, đều do vị chân sư quyết định khi tạo ra năng lực cho chữ bùa – câu chú... 5/ Nhận định từ bùa chú: Xưa nay, chữ phù chú hay bùa chú đều có trong Hán Việt từ điển và Từ điển Việt Nam. Nếu dùng từ hoa mỹ hơn để thay thế từ “phù” – bùa, “chú” sẽ làm mất đi giá trị ý nghĩa đặc thù của nó. Đạo sĩ Kim Kang ta nói: “Bùa chú không có tính tôn giáo, bùa chú thể hiện sức sáng tạo của con người trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa, nó là loại khí công thượng thừa dùng để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, bùa chú có tính khoa học tâm linh rất sâu sắc nên bản thân bùa chú không phải là những điều mê tín, mà chỉ có những người không muốn hiểu biết về nó đã khoác lên bùa chú chiếc áo đầy sắc màu mê tín”. II - GIỚI THIỆU SÁU PHÁP THẦN QUYỀN * Pháp thứ I : VÕ CÔNG - giúp người sức yếu thế cô gặp nạn... Có 5 Bài Chính: 1. Thần lực quyền 2. Ngũ hổ quyền 3. Xà tinh quyền 4. Ưng tinh quyền 5. Hầu tinh quyền Và còn những bài khác... * Pháp thứ II : KHÍ CÔNG - chữa trị bệnh đau. Có 6 Bài Chính: 1. Thần khí công 2. Thọ tinh công 3. Thuỷ tinh công 4. Hoả tinh công 5. Thiên ma công 6. Kim thân công Và còn những bài khác... * Pháp thứ III: HỘ THÂN - giúp người hạnh phúc. Có 5 Bài Chính: 1. Phép chữa thân và tâm bệnh 2. Phép giúp gia đình hạnh phúc 3. Phép bảo vệ cơ sở bình an 4. Phép giúp đông khách 5. Phép đòi nợ Và còn những bài khác... * Pháp thứ IV: TRẤN KẺ TRỘM CẮP - răn đe trộm cắp. Có 5 Bài Chính: 1. Phép yểm bảo vệ tài vật
2. Phép khiến kẻ trộm nghe có tiếng động liền bỏ chạy 3. Phép khiến chân của kẻ trộm bị sưng đau nhức gần chết 4. Phép khiến kẻ trộm đem trả lại đồ vật 5. Phép khiến kẻ trộm không ra khỏi nơi lấy đồ Và còn những bài khác... * Pháp thứ V: TRỪ KẺ GIAN ÁC - giáo hoá kẻ gian ác. Có 8 Bài Chính: 1. Phép làm cho kẻ gian ác đau đầu như búa bổ suốt ngày đêm 2. Phép làm cho kẻ gian ác vật vã, nôn mửa gần chết 3. Phép làm cho kẻ gian ác chóng mặt, tối mắt 4. Phép làm cho kẻ gian ác toàn thân sưng to; tay chân co quắp không đi được 5. Phép làm cho kẻ gian ác bụng trướng như cái trống 6. Phép làm cho kẻ gian ác không ăn uống được 7. Phép làm cho kẻ gian ác không ngủ được 8. Phép làm cho kẻ gian ác khóc la, điên khùng Và còn những bài khác... * Pháp thứ VI: DỊ THUẬT – các trò lạ mắt… Các pháp dị thuật – trò lạ mắt, có pháp phải có thần chú và có môn thì hoàn toàn không thần chú. Các bí pháp lạ mắt trong Mao sơn thuật (cũng có trong pháp dị thuật của Lỗ Ban tiên sư) đều có câu thần chú. Còn những trò ảo thuật thì không câu chú nào cả.... Dị thuật, pháp công và ảo thuật đều là những trò lạ mắt nhằm giúp vui cho người xem trong những dịp lễ hội hoặc các nhóm Sơn đông mại võ thường làm trò để quyến rũ nhiều người đến xem để bán thuốc... Nó hoàn toàn không làm ảnh hưởng điều tốt - xấu đến ai... có rất nhiều bài như: Hoa quả có ngay - phép câu trăng - tiếng kêu của quỷ ma - ma gõ cửa - đồng bạc chì nổi trên mặt nước đồ vật biến mất - vải đốt không cháy - đứng trên tờ giấy mỏng không thủng không rách - cột trâu bò bằng sợi chỉ may - nuốt kim chỉ lấy ra xuyên qua bụng – lăn hột gà trên bụng lấy vật lạ trong người ra - lặn dưới sông hàng giờ - ăn lửa đang cháy - nuốt lửa than - rắn vào nhà - lá khô chạy qua sông - thần linh nổi lên mặt nước, v.v.... Hiện nay có những kẻ vô lương tâm hay dùng các trò Dị thuật để mở thư, mở ếm, chữa bệnh… lừa gạt nhiều người kém tìm hiểu về bùa chú để lấy tiền của… Các bạn cần cảnh giác cao và báo ngay với cơ quan chính quyền gần nhất để kịp thời xử lý. CHƯƠNG BA NHỮNG NGHI THỨC I - LỜI THỀ KHI THỌ GIÁO Người theo ngành nghề y học, bùa chú, ngải linh… là những học thuật đều có những lời thề do thầy tổ của mỗi trường phái đặt ra… nội dung đều là những sự cam kết không làm việc sai phạm đạo đức, chuyên môn, làm tổn hại đến tiền của và thân mạng người khác, v.v… Lời thề rất linh thiêng luôn được người có lương tri, tâm đức tôn trọng, nhưng đối với kẻ tà tâm, gian ác thì hay khinh thường. Người hành nghề bùa chú mà không nêu cao tâm đức thì luật pháp quốc gia sẽ khó dung, ảnh hưởng đến con cháu ngàn đời sau phải sống kiếp sống ê chề đen tối… Trong Thần Quyền Lục Pháp có 55 câu thề, tùy theo mỗi bài học, vị sư phụ sẽ chọn ra từ 01 đến 55 điều thề truyền dạy người học trò. Mỗi câu thề là giềng mối của đạo đức giúp năng lực tâm linh rất cao, tác động cho sự linh ứng rất mạnh, vì vậy người giữ đứng lời đã thề khi thực hiện các phép thần bí đều có hiệu quả rất lớn. Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: “Nếu không dạy “đạo” mà chỉ dạy “thuật”, thì khiến cái tâm của người học trò không trong sáng, sẽ gây ra nhiều điều chẳng lành trong thiên hạ, ảnh hướng xấu đến tổ
tiên, giảm uy danh môn phái, thầy tổ và cha mẹ rất đau lòng…, về sau, bản thân và gia đình của người học trò ấy sẽ gặp nhiều cảnh khốn khổ. Vì thế hãy học đạo trước rồi sẽ học thuật sau. Bởi vì vậy, khi truyền phù chú, pháp thuật… phải lập Linh Đàn Thề Nguyện, đó là việc chính đáng cần phải có”. Lễ vật đặt trên linh đàn gồm có: hai ngọn nến, ba cây nhang, một ly nước trong và một cành hoa duy nhất (không kể loài), với một tấm lòng thành kính, đó là đã đầy đủ đại lễ. Hãy ghi nhớ câu: “Thánh tổ thì không đặt điều, riêng thầy hay bày lễ vật.” II - Những Điều thề trong Thần Quyền Lục Pháp Trước khi vị sư phụ truyền dạy mỗi bài trong Thần Quyền Lục Pháp cho các học trò đều phải chọn ra các điều thề sau đây điền vào chỗ trống trong Bài nguyền trước linh đàn. Nếu được truyền nhiều bài thì điều thề càng tăng lên nhiều hơn… 1- Phải hiếu kính ông bà, cha mẹ, thầy tổ. 2- Phải thờ cúng tổ tiên, tổ nghiệp. 3- Không phản thầy. 4- Thi hành nghiêm chỉnh những lời thầy dạy. 5- Không phản môn phái. 6- Không hại bạn. 7- Coi bạn đồng môn như anh em ruột thịt. 8- Kính trọng họ hàng, người lớn tuổi, bạn bè. 9- Hãy nhường nhịn kẻ làm mất lòng ta. 10- Anh em hòa thuận, láng giềng thân giao. 11- Chăm sóc, gánh vác công việc gia đình. 12- Sẵn lòng bảo vệ kẻ yếu. 13- Giúp người gặp tai nạn. 14- Giúp người nghèo khó, tàn tật. 15- Không nói dối, nói xấu người khác. 16- Luôn vui vẻ với mọi người và biết học hỏi cái hay của người khác. 17- Không khinh chê các môn học khác. 18- Không hủy hoại kinh sách, bút mực, hình tượng. 19- Không gây mâu thuẩn với các môn phái khác. 20- Không nản chí khi luyện tập. 21- Không thoái lui lúc gặp nguy hiểm. 22- Không tự cao tự đắc, khinh người. 23- Không cưỡng bức kẻ yếu. 24- Không làm điều gian ác. 25- Không tham lam, gian dối, xảo trá. 26- Không trộm cắp, cướp giựt, móc túi. 27- Không chiếm đoạt tài sản người khác. 28- Không cờ bạc, uống rượu, hút thuốc, tà dâm. 29- Không dùng hay liên quan với ma túy. 30- Không bảo kê, mua bán, môi giới mại dâm. 31- Không tắm dưới sông, biển. 32- Không tắm ngoài trời mưa. 33- Không thề nguyền linh tinh… 34- Không la hét lúc mưa giông và giữa buổi trưa 35- Không nói tục tĩu, chửi thề. 36- Không chửi rủa người khác 37- Không đánh chửi vợ con. 38- Không phá tán tài sản gia đình và của người khác 39- Không cưỡng bách đàn bà và con gái 40- Không giao hợp với gái có chồng.
41- Không khinh chê tôn giáo, các phầm âm… 41- Không đập phá am miếu, đình chùa… 42- Không đội khăn, nón và mang giày, dép vào đền chùa. 43- Không đi qua dưới đầu võng. 44- Không đi qua dưới dây – sào phơi đồ. 45- Không ăn đồ cúng vong quỉ, cô hồn các đảng - quỉ ma hay phá hại con người… (cửu quyến thất tổ, thân thuộc không phải là hàng vong quỉ)… 46- Không ăn thịt chó, trâu, mèo, khỉ, rắn, rùa, cá chép, cá không vảy… 47- Không ăn quả khế, bầu, bí đao. 48- Không ăn hành, hẹ, tỏi, xả, riềng, rau diếp cá. 49- Không ăn thịt sống (nem chua, gỏi cá, bê thui…) 50- Không ăn uống tiết động vật. 51- Không ăn phần đuôi cá và phao câu gà, vịt… 52- Không ăn nhau thai và bào thai động vật. 53- Không ăn con vật khi chết đang mang thai. 54- Không phá hang, tổ động vật… 55- Không có lý do mà đánh đập hoặc giết động vật III- Bài nguyền trước Linh đàn: Ngưỡng vọng Hoàng thiên Hậu thổ, Tam giáo đạo sư, Tiên sư, Tổ sư, Hứa quân đạo sư, Chư vị linh thần, Ngũ đạo sơn thần, Thần kỳ thổ địa cảm ứng chứng chiếu: Hôm nay ngày……… tháng……… năm …………. Nhằm ngày…… …….tháng…… …năm………….. Đệ tử tên họ ………………………………………6.. Bí danh…………………………………………….. Sinh ngày………. tháng………. năm …………….. Nhằm ngày……....tháng………. năm …………….. Tên họ cha…………………………………………. Tên họ mẹ…………………………………………. Quê quán…………………………………………… Hiện cư ngụ………………………………………… Đệ tử xin sư phụ……………………………………. Truyền cho pháp .………………………………………. Nguyện vọng: (Tùy bài học mà chọn ra nguyện vọng) Bảo vệ bản thân; chữa bệnh đau, mở ếm, gở thư, trừ tà, giúp mọi người hạnh phúc, v.v..... Đứng trước Linh đàn hiển hách đệ tử (tên họ… đưa hai tay lên cao khỏi đầu) xin thề suốt đời một lòng gìn giữ những gì đã học được hôm nay và nếu cố tâm làm sai phạm những điều thề sau đây sẽ bị trời tru đất diệt: 1…………………………………………………….. 2……………………………………………………. 3……………………………………………………. 4……………………………………………………. IV - Làm phép xả Ý nghĩa của “Làm phép xả” là xưng tội và sám hối… Sau khi người học trò đọc xong bài nguyền trước Linh đàn, tiếp theo quỳ xuống, hai tay cung kính đặt trước ngực và khai ra tất cả những thói hư, tật xấu, ý nghĩ và hành động đã, đang và sẽ làm cho người khác phải đau buồn, mất mát… và xin thề ăn năng, sám hối từ nay về sau tu tâm dưỡng tính thành người có nhân đức, biết hòa đồng với mọi người và thương yêu muôn loài, không còn những ý nghĩ tà tâm, gian ác, lừa gạt, hại người, v.v…
V - Phép nhập thần “Phép nhập thần” là điều cơ bản mà các môn sinh trong phái Thần quyền nói chung, đều phải trải qua. Trong giờ phút thiêng liêng nhất vị sư phụ truyền phép nhập thần cho đệ tử…Đó chính là nghi thức mang tính tâm linh sâu sắc và huyền bí không thể thiếu khi vị sự phụ đã chấp thuận cho những người học trò hòa nhập vào thế giới thần linh. Trước khi truyền thụ cho người mới nhập môn những bí pháp thì vị sư phụ dùng nén nhang đang cháy và thổi vào cơ thể của đệ tử để khai mở các huyệt đạo nơi đỉnh đầu, trán, hai lổ tai, ngực, bụng, lưng và tay chân. Tiếp tục, sư phụ lấy ra hai lá bùa đã vẽ sẵn đem đốt trước bàn tổ và lấy tro hòa vào ly nước lạnh cho đệ tử uống hết một lần… - Phép hô nhập thần: “Bô Ta Sa” hoặc “Búp Tha”. Tiếp theo là những “bí pháp tâm truyền”… Nếu viết ra đây thành văn chỉ dẫn cách truyền dạy là việc làm sai phạm “lệnh cấm”… Khi các bạn thọ giáo sẽ được các vị chân sư chỉ dẫn thì rõ hơn. Sau khi thần nhập vào thì “môn sinh của phái Thất Sơn Thần Quyền” có những khả năng rất độc đáo ngoài sự tưởng tượng của người khác như: đi trên lửa than, nằm hay ngồi trên lưỡi dao sắc nhọn, bị đánh không đau, chém không đứt, đâm không lũng, nhảy lên nóc nhà; cành cây cao 4 - 5m rất dễ dàng, lại có sức mạnh phi thường, ra đòn nhanh lẹ và dũng mãnh, không sợ đao kiếm, tay không đở dao, gậy, và có thể đánh Long quyền, Hổ quyền, Ưng quyền, Hầu quyền, Xà quyền, hay phóng ra rất nhanh liên hườn cước. v.v… Tuy nhiên không phải ai cũng được truyền dạy thần quyền, nếu không có sự nhạy cảm cao về năng lực tâm linh, không cảm nhận ám thị. Điều này chứng tỏ người ta có thể chủ động tiếp nhận ám thị. Chính là vì người ta vốn có tính ám thị lại có tâm hướng chủ động tiếp nhận ám thị. Trên cơ sở đó lời chú cầu thần nhập xác hoặc vô phép mới có tác dụng hiệu ứng… mỗi câu ám thị mang một ý nghĩa riêng và có giá trị đặc biệt linh ứng không thể ngờ, không thể suy nghĩ hết. Nếu tâm của người học trò không thành thật trong lúc làm phép xả, chưa đủ đức tin, tinh thần không tập trung thì không có vị thần nào ứng nhập vào xác, tức là lễ “vô bùa” không thành công. Các bạn nên nghỉ ở nhà 49 ngày, cần suy nghĩ thật kỹ và học thuộc lòng các điều thề. Nếu quyết tâm tìm cầu đạo mầu hãy “làm phép xả” đúng hơn thế nữa… VI - Phép ngưng nhập thần Nếu khi muốn ngưng nhập thần thì hãy nói: - “Nê On Gây” hoặc “Xin Thôi”… nhiều lần. Hãy rửa mặt và uống vào một ly nước trong, mát lạnh… CHƯƠNG BỐN THỜ CÚNG TỔ NGHIỆP Trong huyền pháp có câu “thầy hay nhờ tổ”, có người sau khi thọ pháp và hành nghề mưu sinh nhưng xem thường tổ nghiệp, cho nên có câu: “nhất niên tổ tại tiền, nhị niên tổ thăng thiên, tam niên khiêng tổ” nghĩa là năm thứ nhất thì người hành nghề rất hiệu quả, có thu nhập khá nên xem chư tổ thường xuyên có mặt nơi thờ cúng, vì vậy bày lễ lộc linh đình, nhang đèn không thiếu. Sang năm thứ hai thì danh tiếng của thầy được đồn xa nên “cái ta” của thầy nổi dậy, ăn nói khoác lác, phô trương, sỉn say, dục lạc… bỏ bàn tổ nhang tàn khói lạnh, tổ nghiệp buồn tênh chán nản bay về trời. Đến năm thứ ba tài năng của thầy hết linh nghiệm, mọi người đều chê bai, huy tín của thầy không còn nữa thôi thì giải tán nghề nghiệp, dẹp bỏ bàn thờ tổ… Đạo sĩ Kim Kang Ta khuyên rằng: Người học bùa chú không thượng trang thờ tổ hay bày việc cúng kiếng mà tâm thường làm việc phúc thiện giúp đời đều thành công là do luôn có chư vị tổ sư bên cạnh và sẵn sàng phò trợ. Nếu đã đặt bàn thờ tổ to lớn mà sau lại bỏ bê, không nhang đèn là đều thất đức rất lớn cũng như đem cha mẹ già về nhà mà không phụng dưỡng vậy. Đó là tội bất hiếu, bất kính, không lễ nghĩa.
Trong kinh Ngọc Hoàng có câu: “Những người bất nghĩa vô nghì, sống thời khốn khổ làm gì chẳng nên ”… CHƯƠNG NĂM BÙA CHÚ TRONG THẦN QUYỀN LỤC PHÁP Chữ Bùa trong môn thần quyền nói chung, không có kiểu mẫu hay đường nét nhất định, bởi vì khi thần nhập vào xác hay giáng điển… tùy theo cảm ứng mà các ngài phóng bút - Còn những bài Chú thì không dài và cũng không dễ dàng hiểu được ý nghĩa như các bài chú của Thái Thượng lão Quân hay Lỗ Ban tiên sư… bởi vì, đó là những “tiếng âm” có sự liên thông với quyền lực vũ trụ, không phải là tiếng nói riêng của các dân tộc hay quốc gia nào trên thế giới, cho nên không có từ điển tra cứu!... Nhưng tất cả đều linh ứng và công hiệu như thần. * Lý do kỹ thuật, phần các chữ bùa của môn Thần Quyền Lục Pháp cũng như Thất Sơn Thần Quyền, chưa thực hiện được. Xin kính cáo. Những câu thần chú trong Thần Quyến Lục Pháp xin được ghi ra như sau: I - VÕ CÔNG 1. Thần lực quyền Thầnchú: Bố ca na tha 2. Ngũ hổ quyền Thần chú: Mạnh phạ hồng phất 3. Xà tinh quyền Thần chú: Tào lê mang tá 4. Ưng tinh quyền Thần chú: Lục lực sanh phi 5. Hầu tinh quyền Thần chú: Trí tô năng đàng II - KHÍ CÔNG 1. Thần khí công Thần chú: Quàng chí diếu phạ 2. Thọ tinh công Thần chú: Trứ cao thạ ti 3. Thuỷ tinh công Thần chú: Quảng măng chi phắt 4. Hoả tinh công Thần chú: Sa lâm di tàng 5. Thiên ma công Thần chú: Thục kế tài lình 6. Kim thân công Thần chú: Bàm mê oai tĩnh III – HỘ THÂN 1. Phép chữa thân và tâm bệnh Thần chú: Thù mãn sanh sanh 2. Phép giúp gia đình hạnh phúc Thân chú: Huê phong phun nạ 3. Phép bảo vệ cơ sở bình an Thần chú: Bá đó lình khí 4. Phép giúp đông khách
Thần chú: Hề chi ma tập 5. Phép đòi nợ Thần chú: Tào đề lật nao IV - TRẤN KẺ TRỘM ĐẠO 1. Phép yểm bảo vệ tài vật Thần chú: Tao cà nàng páo dực 2. Phép khiến kẻ trộm nghe có tiếng động liền bỏ chạy Thần chú: Bê tát nại sai ta sút 3. Phép khiến chân của kẻ trộm bị sưng đau nhức gần chết Thần chú: Bu nãi mô ra khô tà nàm 4. Phép khiến kẻ trộm đem trả lại đồ vật Thần chú: Hà lợi khe lằng xít rạm 5. Phép khiến kẻ trộm không ra khỏi nơi lấy đồ Thần chú: Nế nế ú ú xá tai mi V - TRỪ KẺ GIAN ÁC 1. Phép làm cho kẻ gian ác đau đầu như búa bổ suốt ngày đêm Thần chú: Hô má tĩ ríu lu rô 2. Phép làm cho kẻ gian ác vật vã, nôn mửa gần chết Thần chú: Thúc lí cum mạ su 3. Phép làm cho kẻ gian ác chóng mặt, tối mắt Thần chú: Khu sum sum 4. Phép làm cho kẻ gian ác tay chân sưng to; co quắp không đi được Thần chú: Lám nà mông 5. Phép làm cho kẻ gian ác bụng trướng như cái trống Thần chú: Hực mà nầy tô som 6. Phép làm cho kẻ gian ác không ăn uống được Thần chú: Nớ xì lầy mành 7. Phép làm cho kẻ gian ác ngồi nằm không yên và không ngủ được Thần chú: Thiều liều mon tạp 8. Phép làm cho kẻ gian ác khóc la, điên khùng Thần chú: Dạ căm gam ế nu. VI - DỊ THUẬT Hoa quả có ngay - phép câu trăng - tiếng kêu của quỷ ma - ma gõ cửa - đồng bạc chì nổi trên mặt nước đồ vật biến mất - vải đốt không cháy - đứng trên tờ giấy mỏng không thủng không rách - cột trâu bò bằng sợi chỉ may - nuốt kim chỉ lấy ra xuyên qua bụng – lăn hột gà trên bụng lấy vật lạ trong người ra - lặn dưới sông hàng giờ - ăn lửa đang cháy - nuốt lửa than - rắn vào nhà - lá khô chạy qua sông - thần linh nổi lên mặt nước, v.v.... Những câu Thần chú trong Thần quyền lục pháp toàn là những “tiếng âm” có sự liên thông với quyền lực vũ trụ, không phải là tiếng nói riêng của các dân tộc hay quốc gia nào trên thế giới, cho nên không có từ điển tra cứu!... Nhưng tất cả đều linh ứng và công hiệu như thần. CHƯƠNG SÁU PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP
Sau khi được sư phụ chân truyền cho mỗi pháp, người học trò nên kiên trì luyện tập cho thuần thục, nếu không khi gặp việc cần ứng dụng sẽ không kết quả. Chọn nơi thoáng mát, yên lặng, không có bóng người và tiếng động để luyện tập. Nếu luyện tập vào lúc nửa đêm (giờ tý – 23 – 01 giờ) càng tốt. Mỗi ngày luyện tập qua một lần hay có thể hai – ba lần, liện tục đến 100 ngày hay lâu hơn thì thần lực càng mạnh. Cách luyện tập: 1/ Đặt nhang, đèn và một ly nước mát trên bàn hay trên bệ cao khỏi mặt đất, về hướng Đông, tức là ta cũng quay mặt ngay hướng đông. 2/ Ngồi xếp bằng ngay ngắn, yên lặng và mở mắt. 3/ Đưa hai bàn tay lên cao khỏi đầu và thầm đọc lại các câu mà mình đã thề nguyền trước Linh đàn – các câu đã thề trước Linh đàn phải thuộc nằm lòng, không thể quên. 4/ Hai bàn tay đan các ngón vào nhau và nắm lại thật cứng, cung kính đặt trước ngực. Thành tâm cầu thần nhập vào bản thân và thầm đọc: “Bô Ta Sa” hoặc Búp Tha”… Khi thần cảm ứng thì nắm tay rung lên rất mạnh. Khi thần nhập xác thì ta không làm chủ được bản thân nhưng tai vẫn nghe và mắt nhìn thấy rất rõ hơn lúc bình thường. Tiếp theo, hãy thành ý khấn ngưng ngay và đọc: “Hê On Gây” hoặc “Xin Thôi”, nhiều lần. 5/ Đọc nhiều lần câu Thần chú… của vị sự phụ đã truyền dạy, cho đến khi cây nhang cháy gần hết. 6/ Khấn tiên sư, tổ sự hộ trì cho đệ tử (tên họ)… và quỳ lạy, 21 lạy. 7/ Xin ly nước uống 03 hớp và rửa đầu mặt. 8/ Kết thúc bài tập. Lưu ý: Sau khi luyện tập thì không nên tiếp xúc với mọi người, để cho tâm hồn và cơ thể hòa nhập với thần linh, bởi vì vào lúc này trong con người của ta luôn có thần linh ngự trị. Nếu có điều gì khác lạ xảy ra hãy báo cáo ngay với sư phụ để được chỉ dẫn… CHƯƠNG BẢY PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG Học tập đã khó nhưng thực hành ứng dụng lại càng khó hơn đó là điều thực tế của các môn học về huyền pháp. Khi có người đến cầu sự giúp đỡ… thì ta phải cân nhắc thật kỹ lưỡng, tức là phải có ý nghi vấn ngay: Họ đã nói đúng sự thật đã xảy ra hay chưa, hay là họ phao du cho người khác rồi lại đến nhờ mình “ếm” người ta !... Ta có nên làm điều mà họ đang yêu cầu không?!... v.v… Kinh lời vàng có câu: “Muốn làm điều gì trước tiên phải nghĩ đến hậu quả của nó”… Nếu lương tâm xét thấy cần nên giúp mọi người thì tinh thần phải vui vẻ và thực hiện đúng theo pháp được chân truyền... Hãy nhớ Đức Lỗ Ban tiên sư đã dạy: “Bùa chúa ác không thể hại được người chân chánh”. Các pháp rất linh ứng, xin nêu ra như sau: I - VÕ CÔNG – Có 5 bài chính. Bài 1. Thần lực quyền Thầnchú: Bố ca na tha Đọc bài chú trên thì ta xuất Thần lực quyền. Bài 2. Ngũ hổ quyền Thần chú: Mạnh phạ hồng phất Đọc bài chú trên thì ta xuất Ngũ hổ quyền. Bài 3. Xà tinh quyền Thần chú: Tào lê mang tá Đọc bài chú trên thì ta xuất Xà tinh quyền.
Bài 4. Ưng tinh quyền Thần chú: Lục lực sanh phi Đọc bài chú trên thì ta xuất Ưng tinh quyền. Bài 5. Hầu tinh quyền Thần chú: Trí tô năng đàng Đọc bài chú trên thì ta xuất Hầu tinh quyền. Và còn nhiều bài khác nữa… II - KHÍ CÔNG – Có 6 bài chính. Bài 1. Thần khí công Thần chú: Quàng chí diếu phạ Đọc bài chú trên thì thân thể ta có khả năng hút dinh các đồ vật… Bài 2. Thọ tinh công Thần chú: Trứ cao thạ ti Đọc bài chú trên… thì thân thể sẽ cứng như gỗ… Bài 3. Thuỷ tinh công Thần chú: Quảng măng chi phắt Đọc bài chú trên thì thân thể sẽ lạnh như nước… Bài 4. Hoả tinh công Thần chú: Sa lâm di tàng Đọc bài chú trên thì thân thể sẽ nóng như lửa… Bài 5. Thiên ma công Thần chú: Thục kế tài lình Đọc bài chú trên thì thân thể không ngại chông gai, hiểm mguy và nhanh lẹ phi thường… Bài 6. Kim thân công Thần chú: Bàm mê oai tĩnh Đọc bài chú trên thì thân thể phát ánh sáng, có năng lực huyền bí chữa lành bệnh đau cho người khác… Và còn nhiều bài khác nữa… III – HỘ THÂN – Có 5 bài chính. Bài 1. Phép chữa thân và tâm bệnh Thần chú: Thù mãn sanh sanh Đọc bài chú trên để chữa bệnh cho mọi người và khiến ma tà phải lánh xa… Bài 2. Phép giúp gia đình hạnh phúc Thân chú: Huê phong phun nạ Đọc bài chú trên vào 49 hạt gạo, đặt trong cái túi vải đỏ, đem treo trước cửa nhà. Mọi đều phúc lành sẽ đến. Bài 3. Phép bảo vệ cơ sở bình an Thần chú: Bá đó lình khí Đọc bài chú trên vào năm loại gai, đem trấn bốn góc nhà… Bài 4. Phép giúp đông khách Thần chú: Hề chi ma tập
Đọc bài chú trên vào năm thứ đậu, đem ra ngoài đường lộ rải bốn hướng, khách sẽ đến rất đông… - đây không phải là pháp “sái đậu thành binh” trong Lỗ Ban Sát. Bài 5. Phép đòi nợ Thần chú: Tào đề lật nao Đọc bài chú trên vào năm loại gai, đem chôn giữa ngã ba đường, kêu tên họ người thiếu nợ trả gắp… Và còn nhiều bài khác nữa… IV – TRẤN KẺ TRỘM ĐẠO - Có 5 bài chính. Bài 1. Phép yểm bảo vệ tài vật Thần chú: Tao cà nàng páo dực Đọc bài chú trên vào các tài vật, đem chôn cất… Bài 2. Phép khiến kẻ trộm nghe có tiếng động liền bỏ chạy. Thần chú: Bê tát nại sai ta sút Đọc bài chú trên vào cái gương nhỏ có bốn cạnh, đem treo bên ngoài nhà, phía hướng Bắc… Bài 3. Phép khiến chân của kẻ trộm bị sưng đau nhức gần chết Thần chú: Bu nãi mô ra khô tà nàm Đọc bài chú trên vào năm thứ gai và đóng vào dấu chân kẻ trộm… Bài 4. Phép khiến kẻ trộm đem trả lại đồ vật Thần chú: Hà lợi khe lằng xít rạm Đọc bài chú trên khắp bốn hướng: Đông, Bắc, Tây, Nam. Bài 5. Phép khiến kẻ trộm không ra khỏi nơi lấy đồ Thần chú: Nế nế ú ú xá tai mi nhiếp nhiếp Đọc bài chú trên vào các cây cọc và sợi chỉ trắng… - Cách thực hiện: Ông thầy tìm 4 cây cọc cột trâu ngoài đồng. Khi có người cần, đem về đóng xuống 4 nơi có tài sản… tiếp theo lấy chỉ trắng giăng bao quanh lại. Nhớ quấn chỉ vào mỗi đầu cọc ba vòng… Lưu ý: Phép này, phải chính người chủ nhà (chủ tài sản, hay Giám đốc cơ sở) đến xin thì mới linh nghiệm. - Khi kẻ trộm chạm vào sợi chỉ tức thì bị dính lại ở đấy, không ra khỏi được. Chỉ có người chủ nhà (người đi cầu xin và thực hiện phép này) mới có quyền xin thả kẻ trộm ra. Vì vậy cách 02 giờ đồng hồ - quốc gia, người chủ nhà phải đi vòng theo sợi chỉ xem chừng… để bắt hoặc xin thả kẻ trộm đó ra về, nếu không nó bị muỗi mồng cắn hút lấy máu hoặc vì gió mưa bị cảm lạnh mà chết thì người chủ nhà mang tội bị “trời đánh”, không sai. Bởi vì khi người chủ nhà đến xin phép này phải thề trước thầy tổ rằng: “Nếu con (tên họ, năm sinh, quên quán, nơi cư ngụ) cố tâm để kẻ trộm chết ngoài trời thì thọ tội trời đánh”, thì vị thầy mới giúp cho. Nếu đã bắt được trộm thì người chủ nhà lập tức phải đem phép này trả lại cho vị thầy để thiêu hủy ngay. Nếu giữ phép này qua ngày đêm – 24 giờ, thì vợ và con của chủ nhà đau lộn ruột mà chết, hoặc người chủ nhà bị rắn độc cắn hết phương cứu chữa… Và còn nhiều bài khác nữa… V - TRỪ KẺ GIAN ÁC – Có 8 bài chính. Bài 1. Phép làm cho kẻ gian ác đau đầu như búa bổ suốt ngày đêm Thần chú: Hô má tĩ ríu lu rô Đọc bài chú vào đầu trên tấm ảnh của kẻ gian…
Bài 2. Phép làm cho kẻ gian ác vật vã, nôn mửa gần chết… Thần chú: Thúc lí cum mạ su Đọc bài chú trên vào cổ họng trên tấm ảnh của kẻ gian… Bài 3. Phép làm cho kẻ gian ác chóng mặt, mắt không nhìn thấy hoặc mắt sưng rất to … Thần chú: Khu sum sum Đọc bài chú trên vào mắt trên tấm ảnh của kẻ gian… Bài 4. Phép làm cho kẻ gian ác tay chân sưng to; tay chân co quắp không đi được Thần chú: Lám nà mông Đọc bài chú trên vào tay hoặc chân trên tấm ảnh của kẻ gian… Bài 5. Phép làm cho kẻ gian ác bụng trướng như cái trống Thần chú: Hực mà nầy tô som Đọc bài chú trên vào bụng trên tấm ảnh của kẻ gian… Bài 6. Phép làm cho kẻ gian ác không ăn uống được Thần chú: Nớ xì lầy mành Đọc bài chú trên vào miệng trên tấm ảnh của kẻ gian… Bài 7. Phép làm cho kẻ gian ác ngồi, nằm không yên và không ngủ được Thần chú: Thiều liều mon tạp Đọc bài chú trên vào cái nồi… và liền gõ vào đít nồi một cái. Bài 8. Phép làm cho kẻ gian ác khóc la, điên khùng Thần chú: Dạ căm gam ế nu. Đọc bài chú trên vào giữa ngực trên tấm ảnh của kẻ gian… Và còn nhiều bài khác nữa… VI - DỊ THUẬT – Có rất nhiều bài. Đây là các trò giải trí rất độc đáo, không ảnh hưởng điều tốt – xấu đến ai. Xin đơn cử ra như sau: 1- Lá khô chạy qua sông… Các bạn muốn cho chiếc lá khô chạy qua sông thì hãy lấy chút xà phòng cục gắn vào cuống chiếc lá, xong đem đặt xuống nước là nó chạy te te, … Và còn nhiều bài khác nữa, v.v… CHƯƠNG TÁM PHƯƠNG PHÁP GIẢI ẾM VÀ GIẢI LỜI THỀ TRƯỚC LINH ĐÀN… Người sai phạm quỳ trước bàn tổ, khai nhận những tội lỗi đã làm – nếu khai gian dối thì không giải được, và thề nguyền từ nay đến suốt đời không tái phạm, không làm điều tà tâm gian ác, xin chư thần tha mạng. Sau mỗi câu khấn liền lạy một lạy, đến 49 lần như vậy. Vị thầy lấy ly rượu hoặc nước lạnh đặt trên bàn tổ, đọc bài chú vào 49 lần: “Hô hê ma lá cum… Đề mi nam ta năm Bê thích ti nu ha Rê thiều tem lô ôm
Hô hê ma lá cum…”. Bài chú này có ý nghĩa như sau: Cầu xin chư thần tha thứ cho (tên họ)… chúng nó đã khai nhận tội lỗi và hứa suốt đời không dám tái phạm, không làm điều tà tâm gian ác nữa, cầu xin chư thần tha thứ cho (tên họ)… Xong chia ly nước ra ba phần: một đổ xuống đất, một đổ vào thân thể người bệnh và một cho bệnh nhân uống. LỜI KẾT Bùa chú là khoa học của thời xa xưa đã được nhiều người tin dùng và lưu truyền trong chốn dân gian qua các quốc gia cho tới ngày hôm nay. Những kẻ ác tâm thì thích học bùa ếm, còn người thiện tâm hay cầu học bùa giải. Nếu biết dùng bùa chú ác để trấn ếm kẻ tà tâm, giác ác, bất hiếu, vô lương… sau đó hóa giải cho, để bắt họ phải hồi tâm tỉnh trí phục thiện, làm việc nhân đức. Đó là người có đủ tài đức thay trời hành đạo. Ngày nay những người không được chân truyền, lợi dụng danh nghĩa bùa chú làm những điều sai trái đạo đức khiến cho dân lành gặp nhiều khốn khổ, dư luận lên án, xả hội chê trách, vì vậy hai tiếng “bùa chú” có người khi nghe qua bị “dị ứng” ngay… Người có học bùa chú nên ghi nhớ những điều đó. Riêng Thần Quyền Lục Pháp ít được phổ biến, bởi vì, chưa tìm thấy người có tâm linh ngời sáng để truyền trao! Các đấng chân sư có lời than rằng: “Những môn học về thần bí sau này chỉ lưu lại rất ít trong sách vở hay được các học trò cất giữ trong lòng… thật đáng tiếc và buồn thay cái vốn quý của ông cha ta dần dần bị mai một và lảng quên!... “Mọi người nên tìm hiểu đạo lý chân chánh của bùa chú để kẻ tà tâm không còn cơ hội lừa bịp.” Bình Dương mùa Vu lan năm Mậu tý – 2008 Liên Nhã TRẦN KIM CANG lược ghi. THƯ GIÃN NỬA ĐÊM Ta nhìn thấy đầu ta mỗi ngày tóc càng bạc... Ta vẫn đang hì hục Lao động bằng trí óc Lao động bằng chân tay Mãi mê lo việc danh lợi Không làm một việc thiện dù rất nhỏ Chỉ biết nghĩ suy những điều gian ác Không hề nghĩ đến quả báo của ngày mai. Ôi!... Nếu một mai, ta đi vào giấc ngủ thiên thu sẽ xót xa hay tan nát cõi lòng vì không có chút tiếng thơm để lại nơi nào trên dương thế!... Con cháu ta sau bao thế hệ phải mang trong đời cái âm đức xấu tệ của ta... Bao gia đình đàng hoàng tử tế đều kinh hãi Không ai dám ngó, nghĩ đến việc kết thông gia Có chăng toàn những là ta... cái chung phường chung loại!... Oi!... Ta sống không ra lẽ sống của con người con cháu ta phải vây quanh kiếp sống ê chề đen tối!... Chắc rằng ngày lễ giỗ của ta chỉ có cây nhang mọt nát một bát cơm hẩm với vài hạt muối Hay... Ta sẽ bơ vơ... như Thập Loại Cô Hồn!... Saigon mùa thu 1965. Băng Nga SÁCH CÙNG TÁC GIẢ ĐÃ XUẤT BẢN
- Khí công Kim Cang Thiền 2007 - Hướng dẫn khí công Kim Cang Thiền 2010 SÁCH CÙNG TÁC GIẢ SẮP XUẤT BẢN - Kim cang dịch quái linh phù (khí công thượng thừa). - Bí tắc kim cang công phu (khí công thượng thừa). - Thần quyền lục pháp (khí công thượng thừa). - Tìm hiểu phù chú Việt Nam. - 9 nẻo khám phá thế giới tâm linh. - Giáo dục tình dục trong kinh dịch. - Thầy thuốc đứng trước bệnh nhân. - Những bài thuốc kinh nghiệm gia truyền năm đời. - Chuyện tình Liên và Nhã. - Thơ Băng Nga - Truyện cười bao la.