Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ĐỂ HIỂU LỊCH SỬ ĐẠO THIÊN CHÚA Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ 17 Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên
Mở Đầu Theo Cương Mục thì vào năm 1533 đã có “người Tây dương tên là Ynêxu lén lút đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ, ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Giatô”. Theo gia phả dòng họ Đỗ, thì vào năm 1580 đã có một người trong họ, Đỗ Hưng Viễn theo đạo Hoa Lang. Đây là một trong những người Việt Nam thứ nhất, nếu không là người thứ nhất, theo đạo Thiên Chúa. Thực ra từ cuối thế kỷ 16, đã có giáo sĩ thuộc các Dòng Đaminh, Phansinh, Autinh đến giảng đạo, nhưng hiện nay chúng ta chưa được biết các tài liệu họ để lại. Trái lại, vào đầu thế kỷ 17, phái đoàn giáo sĩ Dòng Tên đến truyền giáo, họ đã làm việc có quy mô, có tổ chức. Năm 1615, Buzomi, người Ý, tới Đàng Trong, tiếp ngay sau thì có Pina, người Bồ, và Borri, người Ý. Năm 1621 từ Macao, Gaspar Luis người Bồ, đã dựa vào các bản phúc trình gửi từ Đàng Trong về Macao mà soạn một bản Tường trình mấy trang bằng tiếng Latinh gửi về Roma. Cũng năm 1621 này, Borri viết bản Tường trình dài hơi về việc truyền giáo ở Đàng Trong, năm 1631 in thành sách bằng tiếng Ý, tiếng Pháp dài 222 trang. Năm 1626, Baldinotti, người Ý, đã từ Macao tới Kẻ Chợ, Đàng Ngoài; khi về Macao, ông đã viết bản Tường trình vắn tắt mấy trang giấy bằng tiếng Ý gửi về Roma. Thế rồi từ đó, chúng ta có những bản Tường trình khác của De Rhodes, về Đàng Ngoài, viết bằng tiếng Latinh ở Macao, năm 1636, in bằng tiếng Ý năm 1650 ở Roma, bằng tiếng Pháp ở Paris năm 1651 dày 326 trang. Trong cuốn sách nhỏ bé này, chúng tôi xin cống hiến độc giả bản dịch Tường trình của Gaspar Luis, của Baldinotti, của Cardim, Tường trình về Đàng Trong (1645) của Maracci, rất vắn tắt, về Đàng Ngoài, Đàng Trong, Campuchia và Lào (1651).
Trang 1
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Chúng tôi cũng dựa theo những tài liệu này và nghiên cứu thêm về chính sử của ta, để hiểu tình hình hai xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong, dưới thời Trịnh Tráng ở Đàng Ngoài, Nguyễn Phúc Nguyên và Nguyễn Phúc Lan ở Đàng Trong. Nếu có đủ điều kiện, chúng tôi cũng mong muốn cho ấn hành những tác phẩm của Borri, De Rhodes, Saccano, Tissanier, Marini, tất cả đều vào thế kỷ 17. Làm việc này, chúng tôi không mong muốn gì hơn là được hiểu biết về đạo Thiên Chúa gia nhập Việt Nam kể từ trên 400 năm nay và cũng để hiểu biết thêm về Đất Nước và Con Người Việt Nam thế kỷ 17. Paris, ngày 19 tháng 10 năm 1993
Trang 2
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
GASPAR LUIS - TƯỜNG TRÌNH VỀ ĐÀNG TRONG 1621 Hồng Nhuệ dịch và chú thích LỜI GIỚI THIỆU Cho tới nay, người ta biết rất ít về Gaspar Luis, giáo sĩ dòng Tên người Bồ. Người ta chỉ biết là giáo sĩ đã viết tại Macao ngày 17 tháng 12 năm 1621 một bản tường trình về truyền giáo Đàng Trong. Bản này viết bằng tiếng Ý và đã được dịch ra Pháp ngữ và in trong tập sách gọi là “Truyện những gì xảy ra ở xứ Êtiopia” phát hành tại Paris năm 1628, từ trang 122 tới trang 148. Ngài đã viết bản tường trình này qua những thư từ nhận được từ Đàng Trong do các cha De Pina và Borri đang hoạt động. Vào tháng chạp năm 1624, hoặc theo Cadière vào năm 1625, G. Luis tới Đàng Trong. Cùng đi với ngài có Đắc Lộ và mấy cha khác. Năm 1639 ông phải bỏ xứ này do lệnh chúa Nguyễn Phúc Lan trục xuất hết các giáo sĩ ngoại quốc. Theo Đỗ Quang Chính, thì Gaspar Luis còn viết một bản tường trình bằng tiếng la tinh năm 1626, bản này hiện còn là bản viết tay tàng trữ tại trụ sở dòng Tên ở Roma. Về bản tường trình năm 1621 này, cha Cadière đã nghiên cứu tường tận. Ngài cho chụp lại và in bản ấn hành bằng Pháp ngữ trong cuốn Đô Thành Hiếu Cổ – Bulletin des Amis du Vieux Hue tháng 7-12 năm 1931, tr.409-432. Những lời chú thích của cha Cadière rất có giá trị, chúng tôi đã dự theo ngài để dẫn giải trong tập tài liệu này. Nhân tiện ở đây, chúng tôi thấy cần nhắc tới điểm này: Luis đã viết bản tường thuật thường gọi là bức thư năm 1621 này nhờ những tin tức đưa từ Đàng Trong về Macao do các cha Pina và Borri lúc đó đang hoạt động ở miền Nam. Vì thế có một ít chi tiết không hoàn toàn đúng với những gì sau này cha Borri viết trong bản tường thuật dài hơi của ngài. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi đọc cuốn “Tường thuật về Đàng Trong” của Borri xuất bản năm 1631 mà chúng tôi đã dịch và cho phát hành theo bộ sử liệu chúng tôi đang tiến hành này. Hồng Nhuệ Trang 3
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Tường trình về những việc xảy ra ở miền Êtiôpia, Malabar, Brasil và Đông Ấn, trích từ những thư viết vào năm 1620 tới 1624, gửi cho cha Vitelleschi, Bề Trên Cả Dòng Tên, dịch từ tiếng Ý qua tiếng Pháp do một cha cùng Dòng. Paris, Sébastien Cramoisy, phố Saint Jacques aux Cigoignes, 1628, với đặc quyền của vua. Thư năm 1621 KHU TRUYỀN GIÁO ĐÀNG TRONG [1] Xin muôn đời ca tụng Thiên Chúa. Chúng tôi bắt đầu hái được kết quả chúng tôi mong ước trong việc thông thạo ngôn ngữ [2] chúng tôi đã học trong mấy năm trước. Trong khu truyền giáo này, chúng tôi có hai trụ sở, mỗi nơi có bảy người, bốn cha và ba thầy [3]. Người ta lại mới chinh phục được hơn hai trăm người, trong số đó có mấy người quyền quý nhất trong nước và có mấy người đang còn dự tính tin theo. Điều giúp cho việc trở lại là sự thông biết toán học và sau đó là đời sống tốt lành của các cha Dòng chúng ta. Sự việc xảy ra như sau: Trong những hoàng tử của xứ này có một vị tên là Ông Nghè [4] từ những năm trước đây vẫn là chốn nương thân độc nhất và nơi trú ẩn của các cha Dòng chúng ta. Một người trong chúng tôi đến thăm ông và trong cuộc đàm đạo về chiêm tinh học, ông đặt mấy câu hỏi và cha đã giải đáp rất xác đáng, cha còn tìm cách khôn khéo chêm vào vài lời về Kitô giáo, nhờ ơn Thiên Chúa, những lời đó không rơi trên đất. Bởi vì ông hoàng tốt lành này chỉ sẵn sàng nghe vào đầu năm tới, lúc ông thong dong và rảnh việc hơn. Thế nhưng Thiên Chúa đã để cho các người tìm được dịp để đàm đạo với nhau trước cuối năm. Số là người ta đang chờ nguyệt thực [5]. Ông Nghè muốn biết sẽ xảy ra thế nào và để dò xem chúng tôi hiểu sâu về khoa học này ra sao thì cho mời cha Dòng chúng tôi và hỏi xem khi nào sẽ có nguyệt thực. Cha đáp vào đúng tháng, ngày và giờ. Ông Nghè rất sửng sốt thấy cha đáp mau lẹ như vậy. Nhưng vì cha chỉ một ngày chậm hơn nên cả ông cả thân thuộc ông không ngờ. Ông liền dự định chờ cho tới giờ đó để phán đoán theo sự việc xảy ra, theo minh xác lý thuyết của chúng tôi. Hơn nữa, Thiên Chúa cho phép thế, vì có một sứ giả của nhà đệ nhất toán học của chúa đến bác bẻ rằng sẽ có nguyệt thực nhất định không Trang 4
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
sai vào ngày nào đó một giờ sau nửa đêm, trái với lời đoán của cha. Tin có nguyệt thực được đồn thổi các nơi và đến thời lúc thì mọi người đều cố thức khuya và nhìn lên trời. Từ các nơi người ta chạy tới phủ chúa, hoàng tử, tướng lãnh, quân sĩ, lính hỏa mai, phường nhạc và vô số dân chúng, người thì mang võ khí, kẻ thì đem tù và, người thì vác súng, kẻ thì khiêng trống và những dụng cụ khác để theo tục lệ làm inh ỏi hết sức khi có nguyệt thực. Lúc mọi người đã tề tựu đông đủ thì chúa ra khỏi đền mặc áo cẩm bào tới điện kính thiên địa để tế mặt trăng, chờ nguyệt thực, lúc thì quỳ gối cầu khấn, khi thì đứng, khi sấp mặt trên đất để xin được phù hộ và che chở cho mình và lãnh thổ mình. Sau khi chúa tế xong thì đến lượt tiếp thay nhau, hoàng tử, tướng lãnh, quân sĩ và dân chúng. Người ta giữ nghi lễ long trọng trong dịp này. Nhưng chúa và toàn thể thức đêm nay vô ích theo lời quả quyết của nhà chiêm tinh đã tính nhầm. Thế là ông này mất tín nhiệm, bị mọi người khinh chê và ghét bỏ, ai cũng chế nhạo ông. Khi giờ tiên đoán về nguyệt thực đã qua thì Ông Nghè, vẫn có lòng quý mến chúng tôi đến tìm chúa và xin chúa lui về an giấc vì các cha đã quyết định không sai về ngày giờ sẽ xảy ra. Chúa tin lời và lui về cho tới giờ các cha tiên đoán và lui trở lại, chúa thấy nguyệt thực đúng như đã nói. Chúa rất sửng sốt đến nỗi chúa không ngớt ca tụng sự tinh thông của các cha, làm cho nhà chiêm tinh của chúa xấu hổ và mất mặt. Có điều làm cho các cha được tín nhiệm hơn nữa chính là các nhà chiêm tinh này vừa tới học với các cha. Cũng xảy ra một việc tương tự nhân dịp có nhật thực [6]. Hai cơ hội tốt đẹp này làm cho chúng tôi được kính nể như những người rất thông thái trong hàng ngũ những bậc chính yếu trong xứ. Người ta hy vọng việc này sẽ giúp nhiều hơn người ta tưởng vào việc chinh phục nước này. Người ta đã cởi bỏ được dư luận từ lâu còn giữ trong đầu óc họ cho rằng chúng tôi đã gây ra nạn đói [7] trong những vùng đất này. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho những nơi Dòng chúng tôi có trụ sở thì được dồi dào sung túc hơn các nơi khác, có đủ sự cần dùng để nuôi sống con người. Còn ở nơi khác thì rất đắt đỏ, có nhiều người chết vì ăn phải những thứ độc. Họ ăn tất cả những gì tay họ với được. Nhiều người phải đi ăn trộm, ăn cắp đó đây. Quảng Nam và Nước Mặn là hai tỉnh khác nhau đã trở thành hoang vu. Chúng tôi đã lợi dụng sự cùng khốn này cứu được mấy trẻ con hấp hối, rửa tội cho chúng. Ngoài ra còn có cuộc chiến tranh nguy hiểm làm cho lãnh thổ tiêu điều sụp đổ nếu chúa không cứu chữa bằng một trận chiến thắng hai người em [8] Trang 5
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
hùng mạnh cầm võ khí phản nguỵ chống lại chúa, cuộc phản nguỵ hẳn sẽ làm cho nước này kiệt quệ. Trụ Sở Hội An Có bốn người trong trụ sở này, hai cha [9] và hai thầy, đều không ngớt làm việc giúp các linh hồn bản xứ và người Nhật cư trú ở đây để buôn bán. Đã rửa tội được tám mươi hai dân bản xứ và hai mươi bảy người Nhật. Có một người Nhật rất ghét đạo ta, y bất thần ngã bệnh nặng và trở về với Thiên Chúa, trong khi dạy dỗ y thì may sao y bỏ đời này về đời sau. Sách giáo lý [10] được soạn bằng tiếng Đàng Trong đã giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ con học thuộc lòng mà cả ngừơi lớn. Cho tới nay giáo dân trong khu phố chỉ dùng tràng hạt đeo cổ tỏ ra mình là giáo dân Kitô, bây giờ họ dùng để lần hạt. Cũng đã chinh phục được những người Nhật, bây giờ họ lấy vợ thật chứ không như trước đây không có phép cưới. Người ta thấy rõ những năm trước đây chỉ có hai đám cưới chính thức, còn bây giờ hầu hết đều làm phép cưới. Điều chinh phục được họ hơn cả là công việc làm ăn vật chất của những người lấy vợ công giáo năm nay thành công hơn những người sống không có phép cưới. Cha đã làm được ích lợi lớn trong phủ [11], là dạy giáo lý đạo Kitô bằng tiếng bản xứ ở nhà một bà tên là Gioanna. Họ nói là họ đã bắt đầu thành Kitô hữu đích thực và nhận biết sự thánh thiện của công giáo, còn thì vào buổi đầu, các cha phải dùng thông ngôn để chinh phục họ, nên họ chưa hiểu rõ những điều chúng tôi dạy. Thực ra họ cũng nhận đức tin nhưng chỉ là tin theo cách đại khái rằng đạo người Bồ [12] tốt hơn đạo của họ. Bà Gioanna này từ đó có thiện cảm với đạo ta, bà đã thu xếp rất hữu hiệu cho một người anh đã bảy mươi tư tuổi làm quan lớn một vùng không xa Hội An chịu đạo. Một người trong chúng tôi đến nhà dạy dỗ ông rồi sau khi đã học đủ thì rửa tội cho ông. Khi cha ở nhà ông thì còn chinh phục được mấy người đến nghe giảng và xin chịu phép thánh tẩy. Cha bằng lòng ngay, tất cả là ba mươi lăm người. Cha đã hoãn mấy người vì họ chưa đủ hiểu biết. Người ta hy vọng sớm dựng ở đây một nhà thờ nhỏ và đẹp. Ở khu phố này, người ta rất thành thật vì họ không buôn bán với người ngoại quốc. Nhưng cha không thể ở đây lâu vì người ta mời đi nơi khác. Cha hứa sẽ sớm trở lại khi có thể. Từ đó cha đến Đà Nẵng là một hải cảng rất danh tiếng về thương mãi của người Bồ. Ở đây gặp khó khăn vì người bản xứ chung đụng với người ngoại quốc nên cũng nhiễm những phong tục ngoại quốc: hình như họ Trang 6
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
chịu đức tin, nhưng chịu vì thấy lợi ích phàm tục hơn vì tôn thờ vinh quang Thiên Chúa và sự cứu rỗi linh hồn. Thế nhưng cũng có tia hy vọng là sau ít lâu họ nhận định rõ hơn việc quan trọng là công nhận và hợp đồng thông thương tốt với Thiên Chúa hơn là với loài người. Và thực ra cha đã thu được kết quả trong việc rảo mấy nơi. Ngoài mấy người trở lại đạo, cha còn cho mọi người có thịnh tình với đạo ta, đến nỗi không còn gọi là đạo người Bồ mà là đạo chung của mọi người, vì thế đáng được xứ Đàng Trong tin theo, họ nói vậy. Sau đó cha tới gặp hoàng tử Ông Nghè, ông rất quý mến cha. Theo như đã hẹn nhau từ đầu năm, ông đến tận phòng cha đem theo sáu hay bảy nhà nho học, tất cả đều thuộc hàng quý phái chính yếu trong xứ và ông bắt đầu cùng với họ nghe giáo lý một cách rất chuyên chú. Nhưng không có kết quả gì, trừ việc hoàng tử tỏ rất thịnh tình với Kitô giáo, ông khâm phục và trong mọi dịp ông hết lời ca tụng. Ông cho các sư sãi [13] nghĩa là các tăng ni kém học thức và đức hạnh, so với các linh mục của ta, linh mục mà ông rất thành kính. Nhưng ông chưa thể lo toan chịu phép rửa tội. Có hai điều chính yếu ngăn cản ông, đó là các thê thiếp [14] của ông và chức vụ của ông trong triều, đứng đầu bộ Lễ lương dân và bảo quản tất cả các dị đoan, những thứ này rất nhiều trong xứ và trong mọi việc, nhất là trong việc tang ma vua chúa, tới nay ông chưa gạt bỏ được. Ngoài ra trong mọi việc khác ông sống và ăn ở như giáo dân Kitô hữu. Vì thế người ta đều nói với nhau rằng nếu ông chịu phép thánh tẩy thì mọi người sẽ theo ông. Còn có điều tốt lành này là ông ân cần xin chúng tôi cầu Thiên Chúa và dâng Lễ cho ông. Có một viên quan khác là ông trùm[15], ông này trước đây đã làm chúng tôi chịu cơn phong ba lớn, bây giờ lại hết sức chiều đãi chúng tôi. Ông sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi. Ông tôn kính ảnh tượng thánh, ông còn cho chúng tôi hy vọng hơn nữa: Xưa kia ông rất đam mê năm thê bảy thiếp. Có một người Nhật giàu có sang trọng và đáng kính đã giúp chúng tôi phương tiện dựng nhà thờ và trụ sở. Vì thế Thiên Chúa đã thưởng ông bằng một phép lạ. Ông bị bại liệt tứ chi, không đưa tay lên miệng được. Ông muốn vẽ ảnh Đức Mẹ (ông thường ưa làm việc này), ông cho người đem tới bút và tất cả những gì cần thiết. Lạ lùng thay! Vừa giơ tay ra để vẽ thì thấy khỏi bệnh, tay, ngón tay và các chi thể khác đều cử động. Ông và mọi người thấy ông đều rất mực sửng sốt. Ai cũng cho là phép lạ. Thế là để tỏ ra không bội bạc về ơn đã được, ông chuyên chú vẽ và trong ít lâu ông gửi cho chúng tôi không những ảnh Đức Mẹ và ảnh thánh Giuse mà cả mấy Trang 7
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ảnh khác. Khi tới Mùa Chay, để giục lòng sốt sắng giáo dân tân tòng, ông vẽ mấy ảnh đẹp tô điểm thiên đàng hay Mộ trong tuần thánh. Người Nhật [16] ở đây được làm những gì ở nước họ bị cấm vì bắt đạo. Họ ăn chay đánh tội rất nhiệt tình. Có người vác cây giá rất nặng và vác đi mấy vòng rước, người khác lấy thừng chão cột vào mình rất chặt trông rất dữ dằn, có người cào xé mình bằng nhiều cách và tất cả đều cố gắng hết sức bắt chước những cực hình và chịu đựng của Chúa Giêsu Kitô bị đóng đanh. Trong Lễ Phục Sinh, giáo dân tỏ vui mừng ra bề ngoài bằng ca hát và những dấu hoan hỉ khác. Người Đàng Trong rất bỡ ngỡ và có thịnh tình với các mầu nhiệm của ta. Nhiều lương dân thích đến nghe giáo lý: chúng tôi có nhiều hy vọng. Có mấy vị tăng đến thăm một nữ giáo dân đau yếu và khuyên bà cất bỏ một ảnh trên bàn thờ trong nhà, ông chồng thấy vậy liền đến bảo vợ nếu làm thì ông sẽ ghét bỏ và li dị. Nói rồi ông chạy tới các cha. Thế là một cha đến thăm người bệnh cho bà nhận biết sai lỗi và khuyên xưng tội. Bà vâng theo, cha liền đeo vào cổ chữ ký thư của thánh Inhaxu, tức thì bà khỏe lại, và chưa đầy ba ngày bà hoàn toàn khỏi, bà đến nhà thờ cùng chồng và các con. Trụ Sở Ở Quy Nhơn Trụ sở này có hai cha và một thầy [17]. Một cha đã rửa tội được một trăm mười tám người Đàng Trong thành niên, họ trở lại đạo nhờ gương tốt một Bà quan lớn vợ ông sứ thần Zegrô[18], một nhân vật rất có thế giá. Cả hai ông bà đều được thoát khỏi bùn lầy dị đoan trước kia đã sa chìm như tôi nói sau đây. Trước kia họ nhận một vị tăng làm tôn sư và người chỉ đạo được kể như người thông thái nhất tỉnh. Ông này làm mê hoặc tâm trí hết mọi người giao tiếp với ông. Ngay khi nhận sự giao tiếp với ông, thì ông cho uống một thứ nước làm cho không còn quyến luyến ai ngoài ông ra, đến nỗi họ như bắt buộc phải thề là không bao giờ nhận ai làm thày và xin tin hết mọi điều ông nói. Thế là ông giảng cho họ tin những điều mơ mộng và hoang đường. Ông nói thế giới bắt nguồn từ một khổng lồ to lớn không lường được tên là Bàn Cổ [19]. Vị này với mọi chi thể thì đã tạo thành tất cả vũ trụ, đầu là Đông, chân là Tây, một tay là Nam và một tay nữa là Bắc. Ông còn nhấn mạnh cho người ta tin rằng vị khổng lồ này đã sống tới mười tám ngàn năm, mỗi ngày hay đêm là mười tám nghìn ngày hay đêm của ta. Từ thân thể ngài, ngài đã sinh sản ra tất cả, như thịt ngài là đất, xương ngài là núi, răng là đá, bụng là biển, mạch máu là sông, Trang 8
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
máu là nước. Khi ngửng đầu thì dựng nên mây, lúc trở mình thì làm ra sương mù, chảy mồ hôi thì hóa ra mưa, thở ra gió, hít vào thành nóng, thở ra hóa lạnh, mửa ra thành sấm sét, khép mắt thành đêm, mở ra hóa ngày, ép lại thành chớp. Lông sinh cây cối, tay và đầu gối hóa thành súc vật trên đất, ngón tay sinh ra cá. Tóm lại ngài làm nên vạn vật bằng phép phát sinh Pytago. Thế nhưng vị tăng này không cho thờ Khổng lồ này, nhưng thờ quỷ thần và thờ chính bản thân ông khi quỷ thần vắng mặt. Và ông đã thi hành, để khi ông đã truyền bá tục lệ này rồi, người ta đặt ông vào số các thần phật sau khi tắt thở ông dạy phải tôn thờ ông bằng của bố thí chứ không phân phát cho người nghèo. Ông có ba vợ. Đối với những môn đồ được tín nhiệm hơn, thì ông dạy vạn sự là không và rồi trở về không; trên tiêu đề, thực ra rất đúng, phải suy niệm luôn và nhờ phương tiện này mà đạt tới thanh thản và bình an tâm hồn. Có ngày ông chủ ý cho tranh luận bất cứ ai, nếu người nào nhận đố thách trả lời đúng như lý thuyết của giáo phái thì ông cho thưởng như ông đã hứa. Các cha đã bàn và định tới gặp ông ngay khi thông thạo tiếng nói. Người ta mong cuộc đàm luận này sẽ giúp cho công việc đức tin. Viên sứ thần của chúa và bà vợ nói ở trên, tuy rất thân với chúng tôi, nhưng lại là đồ đệ của vị tiến sĩ thời danh. Người ta tìm được dịp mời cả hai đến nghe giáo lý. Bà vợ tới trước, còn ông chồng thì vẫn ở trong phủ. Sau mấy lần vui vẻ và chăm chú nghe thì bà tin theo và chịu phép thánh tẩy lấy tên là Ursula. Sự mới lạ này và thế giá của bà khích động mấy người khác cũng theo. Thế là tất cả có mười một người trong nhà được rửa tội tức thời, trong số đó có một người lương thiện rất thông thái và khôn ngoan, nay gọi là Tôma[20]. Ông vốn ghét vị tăng này. Bây giờ ông xướng ca vịnh và kinh sách khi giáo dân hội họp nhau trong nhà nguyện mà bà Ursula đã cho dựng. Zegrô đã có dịp về thăm nhà (vì ông thường ở trong phủ) trước khi đi sứ ở nước Campuchia. Khi biết bà vợ đã trở thành giáo dân Kitô lúc ông vắng mặt thì ông rất hài lòng và muốn theo gương vợ. Suốt đêm ông học hỏi về các mầu nhiệm đức tin và hôm sau chịu phép thánh tẩy lấy tên là Inhaxu, rồi làm phép cưới lại với Ursula công giáo. Có mười hai gia nhân cũng chịu phép rửa tội sau ông. Xong xuôi rồi ông sửa soạn hành trình tỏ ra làm gương nhân đức. Ông có bốn thuyền chiến để phục vụ ông: ở đuôi chiếc thuyền chính ông ở, ông cho vẽ ảnh Chúa Cứu Thế trên thập tự và trên buồm thì viết tên Chúa Giêsu. Theo Trang 9
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
tục lương dân thì không được phép khởi hành khi chưa bói quẻ. Người ta làm thế này. Họ bắt một con gà [21] và để cúng thần thì họ đem luộc. Khi đã chín thì họ xem kỹ cử động của chân và cựa, rồi từ đó họ đoán điềm tương lai. Một người bạn của Inhaxu thấy ông sắp khởi hành thì bảo ông gieo quẻ, nhưng ông trả lời là ông trông cậy vào quan phòng của Thiên Chúa hơn là vào cử động ngẫu nhiên của gà qué. Người lương dân nghe ông trả lời thì muốn tự mình lấy quẻ. Lúc ông này làm thì xem ra gà chỉ điềm dữ cho Inhaxu trong hành trình: ông báo cho Inhaxu biết. Nhưng Inhaxu coi khinh quẻ bói và điềm báo, đặt hết niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, ông can đảm xuống thuyền và tới Campuchia; chúng tôi hy vọng gương sáng của ông bà sẽ thu hút được nhiều người trở thành Kitô hữu. Thế giá của hai người này ở đây đã chinh phục được mấy người cho Chúa Kitô, trong số đó có một Bà tuy đã luống tuổi nhưng chưa bao giờ cúng tế thần phật, chỉ có một lần khi bà ngã bệnh nặng. Ơn cao cả của Thiên Chúa sắp chiếu tới Bà này, vì một nữ giáo dân khác và bà cả hai giận nhau và trong dịp này không nói chuyện với nhau; chúng tôikhuyên bảo cho biết đó là điều xấu, giục họ quỳ gối làm lành với nhau trước cây giá. Lại xảy đến cho giáo dân tân tòng này một việc đáng khen. Trong mùa chay bà ăn một quả trứng, bà nghĩ không biết có cấm hay không. Vừa nuốt thì bà thấy khắp mình đau đớn. Cứ thế trong ba ngày, cuối cùng bà cho đó là Thiên Chúa phạt và bà quay về nhà để tạ tội đã phạm, tức thì bà thấy khỏi. Con trai và con dâu bà cũng theo gương mẹ. Đứa con dâu bây giờ gọi là Martina ở với cha mẹ đẻ, vẫn còn là lương dân, sắp đến ngày sinh, người mẹ muốn chữa chạy cho con thì đem cho con mấy liều thuốc dị đoan nhưng người con dịu dàng bảo mẹ chớ làm thế, nhưng nên cầu xin Thiên Chúa là đấng dựng nên trời đất. Người mẹ vẫn không chịu bỏ dị đoan, làm người con giận dỗi và cố gắng ra khỏi giường đến đấm cho mẹ mấy cái cho tới khi bà chịu bỏ phù chú, và sau đó sanh nở an toàn, bởi có Thiên Chúa giúp đỡ. Một cô gái lương dân bị ma quỷ ám và bị nó hành hạ. Cô có một em trai là giáo dân. Người em buồn bực vì thấy chị khổ sở, liền đặt trên mình chị một cỗ tràng hạt Đức Mẹ và đã cứu được chị. Do đó cậu chinh phục được cả cha cả mẹ đưa về phụng thờ Chúa Kitô, trước kia họ rất xa cách. Thiên Chúa muốn chữa lòng nguội lạnh của hai giáo dân bằng cách chữa cho con họ khỏi bệnh. Đứa trẻ này đã tuyệt vọng, nhưng người ta rẩy nước phép và đứa bé hồi sinh và khỏi. Nhưng cha Trang 10
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
mẹ lại trở nên nguội lạnh như trước và đứa con lại ngã bệnh lại, nặng đến nỗi tưởng đã chết. Các cha nghe tin đứa bé chết thì đến nhà cùng mấy giáo dân; các người quỳ và đọc mấy kinh và kinh cầu Đức Trinh Nữ, thế là đứa bé thở đều làm cho mọi người vui mừng. Đứa bé lúc đó ngủ và khi tỉnh thì khỏi bệnh và khoẻ lại. Bây giờ cha mẹ đứa bé sống sốt sắng hơn trước. Một người ở cạnh chúng tôi đã trở lại đạo vì thấy gương những kẻ ở xa tìm đến chúng tôi xin chịu phép rửa tội. Ông đã tự ý đập một tượng thần ông có từ xưa và đặt thay vào đó một ảnh của Chúa. Vợ ông không chịu theo ông, thì một lần khi ông vắng nhà, bà nghe lúc bà ngủ không biết ai gọi bà ba lần. Bà tưởng là tiếng thần phụ bà mới mất ít lâu nay. Bà chỗi dậy ra khỏi giường, vì là ban đêm, bà ra ngoài mà không sợ để xem có sự gì, thế là bà thấy hai người tầm vóc cao lớn quá mức, mặc đồ đen, xấu xí và khủng khiếp hết sức. Bà liền vội lui vào nhà, nhưng quá hãi sợ và kinh khiếp tưởng như mất trí. Các cha nghe biết việc này thì sợ rằng người giáo dân tân tòng chồng bà cho tai họa này là hình phạt vì đã thay đổi tôn giáo. Nhưng Thiên Chúa cho ông coi việc này một cách khác: ông nói là ma quỷ gây nên thế vì nó bực mình thấy ông trở thành Kitô hữu nên đã hành hạ vợ ông; người vợ còn quý mến ma quỷ nên chưa chịu phép rửa tội. Người ta đã làm phép trừ tà và làm phép nhà và từ đó ma quỷ không còn quấy rối bà nữa. Thế là ông chồng càng vững tin hơn và cải hoán được vợ: bà đang chờ sớm chịu phép rửa tội. Ma quỷ còn hành hạ một giáo dân tân tòng khác, nó thường nhiều lần hiện về với ông. Nhưng khi vợ ông đi vắng thì ông đã xin chịu phép thánh tẩy. Lúc bà vợ về thì ông đã khỏi. Thấy vậy bà rủ mười bà khác đến nghe giáo lý; chỉ có một điều làm cho bà còn do dự, đó là không được phép làm ma chay và giỗ chạp cho cha mẹ qua đời theo tục lệ lương dân. Bà nói cho dầu các việc cúng tế và thờ kính không giúp gì cho người chết, nhưng đó là tính tự nhiên dạy phải có lòng hiếu thảo đối với các bậc sinh thành. Có một cuộc tranh luận sôi nổi và lâu dài với bà, nhưng sau cùng bà đầu hàng và xin chịu phép rửa tội, lấy tên là Victoria. Một giáo dân tân tòng có thói quen thỉnh thoảng trong nhà đốt hương trước tượng Chúa Cứu Thế. Một số lương dân lân cận cũng cạnh tranh làm trong chùa đền của họ. Thiên Chúa muốn dùng dịp này để sinh ích cho họ, thì cho phép một người trong họ ngã bệnh, vì quá sợ hãi không biết vì cuộc hiện kiến nào. Giáo dân Trang 11
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
tân tòng biết thì đến tìm gặp ông và khuyên ông trở lại đạo. Khi ông chịu rồi thì một cha chúng tôi được mời đến dạy giáo lý. Cha đến và bắt đầu giảng thì đêm sau, sau bài thứ nhất, ông có một hiện kiến khác hẳn, làm ông rất được yên ủi. Ông thấy một người rất giống ảnh Chúa Cứu Thế, mặt hiền từ và dịu dàng làm cho ông cực kỳ vui sướng, đó là nguyên nhân làm cho ông tin tức thì những điều cha dạy. Ông bắt đầu thấy mình khoẻ lại và sau đó hoàn toàn bình phục và cùng vợ đón nhận đức tin và chịu phép rửa tội. Ma quỷ thường hành hạ đàn bà trong xứ này[22]. Đó cũng là nguyên nhân cứu nhiều người và cũng nhận thấy rằng những người đến nghe giáo lý thì được cứu thoát và dĩ nhiên nhiều người đến cũng vì lý do này. Nhà thờ chúng tôi có ở đây, bây giờ trở nên quá chật hẹp đối với số người đủ thứ hội nhau ở đây. Nhưng chúng tôi trông vào ơn Thiên Chúa để có phương tiện mở mang thêm. Mùa Chay và Phục Sinh đã qua, có rất nhiều giáo dân tân tòng tuôn đến. Và đây là cơ hội cho lương dân tỏ thiện tình với đạo thánh ta, rồi từ đó nhiều người, cả những hàng quyền quý và bậc vị vọng trong nước quỳ xuống thờ lạy ảnh Chúa Cứu Thế. Trong những người này, người ta để ý tới bà em của hoàng thái hậu [23], bà này suy ngắm đời sống Chúa Kitô do cha Jerónimo Nadal chạm trổ, thì rất xúc động. Bà chưa theo đạo nhưng rất sẵn sàng cũng như chồng bà cùng mấy viên quan khác dùng quyền thế của mình mà ưu đãi chúng tôi. Có một viên quan rất được lòng chúa đã vu cáo các cha trước mặt chúa, cho các cha đã gây nên cuộc bắt đạo công giáo lớn lao ở Nhật [24]. Ông không ngừng rêu rao như vậy trong mọi dịp, đến nỗi các cha phải thanh minh cho chúa hiểu việc này, cho tới khi chúa khép miệng ông lại bằng lời tương tự như sau: chúa không am tường sự việc xảy ra ở Nhật thế nào, nhưng chúa có thể quả quyết rằng các cha ở trong nước này có đời sống rất lành thánh. Trong dịp yết kiến này, cha làm quen với một viên quan trọng yếu ở nhà bà chị của hoàng thái hậu chúng tôi nói ở trên. Ở đây cha gặp một trẻ nữ đang hấp hối, cha xin phép cha mẹ rửa tội cho cô, rửa tội xong tức thì cô tắt thở. Theo những việc chúng tôi nói ở trên thì thấy mỗi ngày mỗi tăng uy tín cho đạo ta trong xứ Đàng Trong: đó là điều làm cho chúng tôi hy vọng tiến triển lớn trong tương lai, nhờ vào lời cầu nguyện của Cha và thánh Lễ của tất cả Dòng ta. Trang 12
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Từ cửa biển Macao, ngày 17 tháng 12 năm 1621. Kính thưa cha. Người con bất xứng và tôi tớ trong Thiên Chúa Gaspar Luis [25] --------------------------------------------------------------------------Chú thích [1] Nguyên bản tiếng Pháp là Cochinchine, dịch từ Cocincina của người Bồ. Thời đó đã có một thành phố ở An Độ tên là Cocin. Do đó người ta đã coi miền nam Việt Nam lúc đó là “Cocin gần nước Tàu”, làm thành chữ Cocincina. Cũng có thuyết cho Cocin do chữ Giao Chỉ (De Rhodes). [2] Việc học tiếng là cần thiết cho việc truyền giáo. Trong bài này còn nhắc tới vấn đề quan trọng là việc soạn sách giáo lý bằng tiếng Đàng Trong. Người đầu tiên học và thông thạo tiếng Việt là giáo sĩ Francisco de Pina tới Đàng Trong năm 1617. Sau đó có Cristoforo Borri tới năm 1618. [3] Theo Cadière thì có sự lầm trong bản văn. Tất cả có bốn cha và ba thầy, chứ không phải mỗi nơi. Sau này, trong bản văn, có ghi rõ: “Có 4 người trong trụ sở Hội An, hai cha và hai thày”, còn ở Quy Nhơn thì có “2 cha và một thầy”. Trước năm 1621 cũng có mấy người tới Đàng Trong, nhưng chỉ đi theo tàu người Bồ làm tuyên uý rồi lại trở về Macao, chứ không chủ ý đến truyền giáo, như cha André Fernandes, người Bồ, tới năm 1616 và Francisco Barreto, người Bồ, tới năm 1617. [4] Ông Nghè là hoàng tử Kỳ trấn thủ Quảng Nam đóng ở dinh Chiêm hay kẻ Chàm (Cacciam). Cũng có thể lúc đó Sãi vương có mặt ở đây, vào dịp nguyệt thực ngày mồng 9 tháng 12 năm 1620. Thường thì chúa Sãi đóng ở Ai tử thuộc Quảng Trị và mấy năm sau, năm 1626, mới dời đô về Phước Yên, cách Huế chừng 10 cây số về phía Bắc. Sau đây, còn nhắc tới Ông Nghè mấy lần nữa: đàm đạo với cha Trang 13
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
De Pina, chức vụ của ông và những khó khăn ông gặp làm cho ông chưa trở lại đạo, tuy ông rất mến phục đạo. [5] Nguyệt thực xảy ra vào ngày 9-12-1620. Borri có nhắc tới trong cuốn tường trình của ông. Sự khác nhau là do một đàng, G.Luis viết theo thư của De Pina và Marquez từ Hội An viết về Macao, còn Borri là chứng nhân tại chỗ, tức Nước Mặn. [6] Nhật thực xảy ra vào này 22, đúng hơn vào ngày 21 thang 5 năm 1621. Borri nói rõ sự việc xảy ra ở Nước Mặn, còn Luis chỉ nói sơ qua dựa vào bức thư của De Pina và Marquez lúc đó ở Hội An. Sứ của ta ghi có nhật thực vào mồng một tháng ba năm 1615 mùa xuân và sao chổi xuất hiện “hình như tấm lụa đỏ” (Việt Sử thông giám cương mục, KHXH, tr.1938 và 1939). Theo Cadière thì Thực Lục tiền biên, q.2 tr.3 và 4 có ghi nhật thực năm 1615 và sao chổi vào tháng 11 năm 1618. [7] Nạn đói xảy ra vào một hay hai năm sau khi cha Buzomi tới Đàng Trong, nghĩa là vào năm 1616 hay 1617. Coi thêm: Borri ch.2 phần 2. [8] Hai hoàng tử Hạp và Trạch em của Sãi vương (coi thêm: Borri). Dựa vào sử ta, Cadière nói là trận thứ hai xảy ra ở Ai tử. Như vậy hai ông này cai quản miền Ai tử. Coi thêm: Cadière bài dẫn chú 11. [9] Hội An, tài liệu ghi là Faifo, Hải Phố. [10] Sách giáo lý bằng tiếng Đàng Trong hẳn được ghi bằng chữ nôm do người Việt viết ra, rồi sao thành nhiều bản cho truyền báo các nơi, nhưng cũng có thể đã được ghi bằng một thứ chữ quốc ngữ sơ khai trước năm 1621, để tiện việc sử dụng cho các giáo sĩ và các thầy giảng. De Pina đã rất thông thạo tiếng, sau đó có Borri, De Rhodes tới Đàng Trong năm 1624 và học tiếng với De Pina. [11] Phủ, tức dinh Chiêm, Kẻ Chàm, gần Quảng Nam, do hoàng tử Kỳ làm tổng trấn. Theo Cadière, thì cũng có thể lúc đó Sãi Vương đang ở đây. Coi bài dẫn. De Pina dạy giáo lý bằng tiếng bản xứ.
Trang 14
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[12] Đạo người Bồ thường gọi là đạo Pha Lang. Thực ra rất khó diễn tả đạo lý ở buổi đầu, vì giáo sĩ ngoại quốc chưa hiểu tiếng, mà người Việt chưa biết tiếng Bồ. Coi đoạn Borri nói về tấn tuồng “con nhỏ có muốn vào lòng Hòa Lang chăng?” Có thể bàn giải thêm từ buổi sơ khai cho tới lúc định gọi đạo là Đạo Đức Chúa trời đất với De Rhodes. [13] Bản văn viết Focisays: Phật, sư, sãi. Cadière cho là phật sư, nghĩa là thầy dạy đạo Phật, còn sãi là người giữ chùa, giữ đền, nhưng cũng có thể do chữ thầy, người địa phương đọc là sầy, Borri ghi ông say đi lay, ông sãi đi lại. [14] Thê thiếp: theo các bài tường thuật thì vấn đề đa thê là một trong những cản trở lớn cho việc truyền giáo. [15] Ông trùm cũng như ông câu đương là một chức đã có từ thời này. Ở đây ông trùm có thể không phải là một viên quan nhưng là một bậc vị vọng trong dân, trong xóm. [16] Từ ngày Nhật Bản đóng cửa các hải cảng và cấm đạo, các giáo sĩ mới nghĩ tới các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Giáo dân Nhật liều mình hằng năm vượt biển tới Hội An để chịu các phép bí tích và một số định cư tại đây. Trong buổi đầu truyền giáo đã có giáo sĩ lai Nhật Bồ như Marquez, có các thầy trợ sĩ người Nhật. Người Nhật còn được trọng dụng trong các triều vua Cao mên và cả ở Việt Nam. [17] Đó là cha Buzomi người Ý tới năm 1615, cha Borri năm 1618 và thầy Antonio Diaz người Bồ năm 1615 [18] Không tìm ra nghĩa chư Orateur Zegro. Coi thêm: Borri, Cadière đưa ra giả thuyết: vì miền Nước Mặn này mới đây thuộc người Chàm, nên sứ thần này có thể là người Chàm? [19] Bàn Cổ, nhân vật thần thoại sinh ra vũ trụ và loài người. [20] Tôma, người lương thiện rất thông thái, người giáo dân tinh thông hán học, trong buổi đầu giáo hội giúp ích rất nhiều cho giáo đoàn, trong việc sao chép các bản kinh, sách, xướng kinh, dạy giáo lý. Trang 15
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[21] Bói chân gà. Tự Vị Việt Bồ La 1651 ghi: Giò, xem giò: bói chân gà, xem điểm lành dữ để làm việc. [22] Coi thêm Borri về “yêu tinh” hiện hình. [23] Như đã ghi ở trên, lúc này cũng có thể là chúa Sãi ở miền Quảng Nam, như vậy hoàng hậu ở đây là vợ chúa Sãi. Theo sử nhà Nguyễn và các văn kiện ta, người ta biết bà là con gái Mạc Kính Điển và sinh năm 1578; khi nhà Mạc thất thế thì về nương thân nơi một người cậu là Mạc Cảnh Huống theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Trước khi lấy Sãi vương thì chắc bà ở làng Cổ Trai, miền Cửa Tùng (Quảng Trị). Ở đây có đền thờ bà và còn giữ gia phả có ghi tên người em gái là Nguyễn Thị Ngọc Lâu, pháp danh Bà Vãi Đô. Đó là em út của hoàng hậu. Cả gia đình đều sùng đạo Phật. Do đó công chúa Ngọc Lâu tỏ ra ý muốn theo đạo Kitô; còn chồng bà thì chưa biết là ai. Cũng không nên quên rằng có thể không phải là Sãi vương, nhưng là hoàng tử Kỳ trấn thủ Quảng Nam, và trong giả thuyết này, hoàng hậu là bà Maria mà Đắc Lộ thường nhắc tới. Dẫu sao giả thuyết thứ nhất có thể đúng hơn và hoàng hậu là vợ Sãi vương, còn hoàng tử Kỳ là trưởng tử của công chúa đó. Cũng có thể lúc đó hoàng tử Kỳ chứa trọ cả mẹ cả người em gái của mẹ. Coi Cadière bài dẫn tr.431 chú 32. Về nhà thờ thì ở Đà Nẵng có một ngôi từ năm 1615 với Buzomi, Borri; cũng có trụ sở. Ở Nước Mặn có trụ sở và nhà thờ vào năm 1618 khi Borri tới. Còn ở Hội An thì không thấy nói có nhà thờ, có lẽ hội họp nhau nơi nhà tư người Nhật. [24] Coi thêm Hành Trình và Truyền giáo của A.De Rhodes. Các vua miền Viễn Đông vẫn coi các giáo sĩ là tay sai cho quân xâm lược. Còn về phía các thương gia người Hòa Lan, thuộc Tin Lành, họ vẫn cho các giáo sĩ Dòng Tên đã gây nên cuộc bắt đạo ở Nhật. [25] Về giáo sĩ này, người ta được biết ông là người Bồ, tới Đàng Trong năm 1625 và rời xứ này năm 1639.
Trang 16
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ĐÀNG TRONG DƯỚI THỜI NGUYỄN PHÚC NGUYÊN 1613-1635 Giáo sĩ Gaspar Luis viết bản tường trình về việc truyền giáo ở Đàng Trong vào những năm 1615-1621, khi ông ở Macao. Vì chưa đến tận nơi, ông chỉ soạn theo những thư từ ở Đàng Trong gửi tới, khác với Cristoforo Borri là người đã sống chừng năm năm trên đất nước ta, rồi mới viết bản tường trình rất đầy đủ về cả hai phương diện: đời và đạo. Vì là bản đầu tay đề cập tới xứ ta trong đầu thế kỷ 17 này, nên chúng tôi nhân thể tìm hiểu thêm về đất nước và con người Việt Nam chúng ta vào đầu thế kỷ 17 này. Đàng Trong Đàng Trong và Đàng Ngoài là hai tiếng người dân thời đó gọi hai phần đất nước tạm phân chia Nam Bắc vào thời vua Lê, bởi vì có hai chúa, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều lấy danh nghĩa phù vua mà thực hiện tham vọng của mình. Đó là thời kỳ Nam Bắc phân tranh kể từ đầu thế kỷ 17 tới gần cuối thế kỷ 18. Hai từ “Đàng Trong”, “Đàng Ngoài” được ghi lại trong Tự Điển Việt Bồ La của De Rhodes, in năm 1651 tại Roma: “Đàng Ngoài: quattuor Provinciae circa Tunquini regiam (bốn tỉnh ở chung quanh đền vua Đông Kinh); Đàng Trong: reliquae Provinciae a regia Tunquinensi usque ad Regnum Ciampa (những tỉnh còn lại từ đền vua Đông Kinh cho tới vương quốc Chàm)” Trong sử sách của ta, ta thường gọi Đàng Trong là hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, hay Thuận Quảng. Người ngoại quốc lại theo người Nhật và người Bồ gọi Đàng Trong là Cocincina, bởi hai chữ Cocin (Giao Chỉ), người Nhật đọc là Cochi và người Bồ là Cochin. Nhưng vì ở An Độ đã có một tỉnh kêu là Cocin rồi, thì người ta đã thêm chữ thứ hai Cina có nghĩa là Trung Quốc. Borri viết trong cuốn Tường Trình của ông như sau: “Xứ Đàng Trong được người Bồ gọi như vậy; thực ra trong tiếng bản xứ là Annam có nghĩa là miền Tây, đối với nước Tàu, vì chính ra Trang 17
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
thuộc về phương Tây. Nhưng người Nhật gọi xứ này là Cochi, trong tiếng bản xứ, cũng có nghĩa là Annam trong tiếng Đàng Trong. Nhưng người Bồ đã vào nước Annam để buôn bán, họ dùng tiếng Nhật Coci và tiếng Tàu Cina mà làm thành tiếng thứ ba là Cocincina để chỉ xứ này, chủ ý phân biệt Cocin cạnh Cina với tỉnh Cocin thuộc An Độ, do người Bồ chiếm đóng” (Borri, sd.Bản dịch Hồng Nhuệ, tr.10). Về sau chúng ta cũng thường dùng Bắc Hà và Nam Hà để chỉ hai xứ phân chia đất nước ta vào thời kỳ này. Vì kể từ đầu thế kỷ 17, hai xứ phân chia trở thành đối nghịch nhau, cho nên kể như hai “nước” có ranh giới riêng biệt của mình. Vì thế người ngoại quốc đến xứ ta, đặc biệt các giáo sĩ, họ đều nghiên cứu ranh giới riêng của mỗi xứ. Về Đàng Trong, Borri viết: “Xứ này về hướng nam thì ở cạnh Chàm, và vĩ tuyến 11, về hướng bắc xế đông thì là xứ Đàng Ngoài, về hướng đông là biển Trung Quốc và về hướng tây, xế về tây bắc là nước Lào” (Borri, sd.tr.10). Về tây đông bắc thì ranh giới đã rõ rệt, nhưng về ranh giới với nước Chàm vào thế kỷ 17 này thì thế nào. Đó là điều chúng ta sẽ biết rõ hơn khi nói về các tỉnh của xứ Đàng Trong vào đầu thế kỷ 17, khi đạo Kitô được truyền bá sâu rộng vào xứ này. Bản tường trình của Gaspar Luis không đả động tới phần địa dư, địa chí Đàng Trong. Nhưng Borri viết: “Xứ Đàng Trong chia làm năm tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa, thứ hai là Quảng Nam, nơi hoàng tử làm trấn thủ, thứ ba là Quảng Nghĩa, thứ tư là Quy Nhơn người Bồ đặt tên là Pulucambris, thứ năm ở sát nước Chàm gọi là Phú Yên (Ranran)” (Borri, sd.tr.11) Để thấu triệt đoạn văn trên đây, chúng tôi coi lại sử sách của ta và thấy về mỗi tỉnh, đúng hơn về Thuận Hóa và Quảng Nam như sau: 1. Thuận Hóa. Ai cũng biết từ nguồn cội của xứ này. Năm 1306 vua Lý Thánh Tông đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chàm và ông vua này đã dâng hai châu Ô và Lý cho ta (Cương Mục, ch.8, 44, Toàn Trang 18
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
thư, tập 2, tr.102). Tới năm 1307, đinh mùi năm thứ 15, tháng giêng mùa xuân, thì đổi tên châu Ô, châu Lý là Thuận châu, Hóa châu. Danh từ Thuận Hóa có từ thời đó. Sách Cương Mục (chb.21, 34) cho biết: “Thuận Hóa nay là đất Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng Bình”. Như vậy chúng ta biết rõ vị trí của hai châu cũ Ô Lý. Trong các sách vở của các giáo sĩ vào thời này, họ chỉ viết trống là nhà chúa ở Thuận Hóa, hoặc ở Hóa (sau này thành Huế). Như vậy Borri chưa phân biệt những thành phần của đất Thuận Hóa. Trái lại De Rhodes đã ghi trong bản đồ: “Quảng Bình và Thuận Hóa”. Borri có thể chưa đặt chân lên đất Thuận Hóa, theo lời lẽ ông nói trong cuốn Tường Trình, trái lại De Rhodes đã ở Thuận Hóa và còn táo bạo lên cho tới đất Quảng Bình “ranh giới Đàng Ngoài” với luỹ Thầy danh tiếng. (De Rhodes, Hành trình và Truyền giáo) 2. Quảng Nam. Về tỉnh này có một lai lịch ngóc ngách hơn, kể từ đời nhà Hồ, Cương Mục chép: “Nhâm ngọ (1402) Hán Thương, năm Thiệu Thành thứ hai (Minh, năm Kiến Văn thứ 4), tháng 7, mùa thu, Hán Thương sai tướng Đỗ Mãn đánh Chiêm Thành. Chiêm Thành dâng đất xin hàng. Đỗ Mãn đem quân về. Hán Thương thấy bọn Trần Tùng đi đánh Chiêm Thành không thành công, phải rút về, lại dùng Đỗ Mãn làm đô tướng, Nguyễn Vị và Nguyễn Bằng Cử làm chiêu thảo sứ, đem đại quân sang đánh. Khi đại binh kéo đến biên giới Chiêm Thành, Định Đại Trung làm tiên phong, gặp tướng Chiêm Thành là Ba Đích Lại, hoảng sợ, sai người cậu là Bố Điển đem dâng các sản vật địa phương và dâng đất Chiêm Động, để xin cho rút quân. Khi Bố Điển đến nơi, Quý Ly bắt ép thay làm tờ biểu khác dâng cả đất Cổ Luỹ nữa. Rồi đem hai đất ấy chia làm bốn châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt chức an phủ sứ lộ Thăng Hoa, để trấn trị, còn ở đầu nguồn thì đặt làm trấn Tân Ninh”. (Cương mục, chb.11, 42). Như vậy, đất mà về sau người ta gọi là Quảng Nam thì do hai châu Chiêm Động và Cổ Luỹ của Chiêm Thành, đổi thành 4 châu của ta là Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa. Bốn châu này về sau sẽ thành Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn. Trang 19
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Thời Hồng Đức Lê Thánh Tôn năm 1471, tháng 6, thì đặt thành đạo Quảng Nam gồm ba phủ và 9 huyện. Ba phủ đó là Thăng Hoa (Quảng Nam), phủ Tư Nghĩa (Quảng Nghĩa) và phủ Hoài Nhân (Quy Nhơn). Như vậy, Thuận Hoá được kể từ đèo Ngang (Hoành Sơn) cho tới đèo Hải Vân, còn Quảng Nam thì từ Hải Vân cho tới đèo Cù Mông. Borri nói về ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa và Quy Nhơn, thực ra trong giấy tờ hành chính của ta thì chỉ có xứ Quảng Nam gồm ba phủ. Thực lục năm 1604, thời Nguyễn Hoàng, cũng ghi: “Lấy huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong đặt làm phủ Điện Bàn, quản 5 huyện lệ thuộc vào xứ Quảng Nam. Đổi phủ Tiên Bình làm phủ Quảng Bình, phủ Tư Ngãi là phủ Quảng Ngãi, huyện Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa (nay đổi làm Thăng Bình) là huyện Lễ Dương, huyện Hy Giang làm huyện Duy Xuyên” (Thực Lục, tb.q.1, 1, tr.43). Thăng Hoa tức là Quảng Nam, khi không còn là xứ Quảng Nam nữa. Như vậy, Đàng Trong của ta, nói theo danh từ bây giờ thì gồm có: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Thuận Hóa), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định hay Quy Nhơn (xứ Quảng Nam). 3. Phú Yên. Tỉnh này là tỉnh mới hơn cả. Nguyễn Hoàng đã lấy của Chiêm Thành và cho thành một phủ lệ thuộc vào Quảng Nam. Thực lục viết: “Tân hợi năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy” (Thực lục, tb.q.1, 1, tr.43-44). Như vậy đất này còn rất mới. Đoàn giáo sĩ Dòng Tên lần đầu tiên đến Đàng Trong vào năm 1615. Vì thế mà trong các bản tường trình của Gaspar Luis cũng như của Borri, không thấy nói tới hoạt động trong tỉnh Phú Yên, cũng như không nghe tới xứ Thuận Hóa, như chúng tôi đã nói ở trên. Trái lại vào những năm 1640-45, De Rhodes Trang 20
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
đã chia các thầy giảng làm hai toán, một toán đi lên xứ Thuận Hóa và một toán xuôi Quảng Nam, nghĩa là từ Quảng Nam cho tới Phú Yên rấp ranh giới Chàm. Có thể cũng vì cái mới mẻ này mà tương đối phong tục Chàm còn rớt lại, hoặc người Việt cũng lây ảnh hưởng Chàm chăng? Bởi vì theo Borri, chúng ta thấy những cách ăn mặc và ăn uống hơi khác chúng ta và ngày nay chúng ta chưa nhận định ra. Cũng vậy, có một nhân vật với cái tên là lạ mà chưa ai cắt nghĩa được, đó là viên sứ thần chúa Nguyễn Phúc Nguyên phái đi Campuchia, có nói trong Gaspar Luis và Borri. Chúng ta sẽ có dịp đề cập ở sau đây. Có thể ông là một người Việt gốc Chàm? Theo sách vở các giáo sĩ để lại vào thời này, chúng ta thấy ở Đàng Trong có ba điểm trọng yếu mà nhà chúa cẩn thận cắt đặt người làm trấn thủ. Ở hai đầu nguồn và cuối nguồn là Quảng Bình và Phú Yên có hai tướng lãnh được tin cậy là rể của chúa, còn ở Quảng Nam (dinh Chiêm) thì thường là hoàng tử trưởng hay thứ, chúng ta sẽ nói sau. Bản đồ của De Rhodes (1615) ghi: Quảng Bình, Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Như vậy vào năm 1611, Đàng Trong được kể từ đèo Ngang (Hoành Sơn) cho tới đèo Đại Lãnh hay đèo Cả. Con người Một chút lịch sử để hiểu biết những nhân vật đã làm nên hay đã để lại tên tuổi trong lịch sử Đàng Trong đầu thế kỷ 17, lúc Kitô giáo gia nhập xứ này. Năm 1558 Nguyễn Hoàng con Nguyễn Kim được vua Lê phái vào Thuận Hóa, theo ông có một số người xứ Thanh. Tới năm 1570, vua Lê triệu trấn thủ cũ của Quảng Nam về và cho Nguyễn Hoàng kiêm lãnh hai xứ Thuận Quảng. Sử nhà Nguyễn tức Thực Lục dĩ nhiên nói tốt về mình. Dẫu sao năm 1572, Thực lục ghi: “Nhâm thân năm thứ 15 (1572), mùa đông tháng 11. Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính trị rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Trang 21
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” (Thực lục q.1 sd.1, tr.136). Câu nói lưu ý chúng ta là “thuyền buôn các nước đến nhiều”, bởi vì nhờ đó mà các giáo sĩ của ta theo thương gia người Bồ tới giảng đạo. Chúng ta sẽ có dịp đề cập tới rõ rệt hơn. Năm 1593, sau khi đã đuổi được nhà Mạc và lấy lại kinh thành, thì Nguyễn Hoàng ra chầu vua Lê và được vua Lê phong cho làm “Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái uý đoan quốc công” (Sd.1, tr.38). Chúng tôi ghi ở đây để biết tên thông thường dân chúng thời đó gọi Nguyễn Hoàng là ông Đoan (Bentô Thiện, Lịch sử nước Annam, bản viết tay năm 1659, do Đỗ Quang Chính ghi trong Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn 1972, tr.119). Nhưng khi nói về ngôi chúa thì gọi là chúa Tiên. Năm 1599 vua Lê Thế Tôn mất. Nguyễn Hoàng sau khi phục vụ nhà vua 8 năm thì năm 1600 trở về Thuận Hóa và từ đó không còn ra Đông Đô bao giờ nữa, nhà vua chỉ căn dặn phải hàng năm nộp thuế cống. Sử chép: “Chúa hậu đãi sứ giả và sai sứ đi tạ ơn vua Lê, lại gởi thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia” (Sd.1, tr.41). Thế là chúa gả Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con Trịnh Tùng. Từ nay ông củng cố vị trí cho hùng mạnh về mặt kinh tế cũng như chính trị, về xã hội cũng như tôn giáo. Ông cho lập kho chứa thóc, xếp đặt các phủ huyện, xây dựng chùa chiền: chùa Thiên Mụ năm 1601, chùa Sùng Hóa năm 1602, chùa Bảo Châu năm 1607 ở Trà Kiệu, chùa Kính Thiên năm 1609 thuộc Quảng Bình. Nhất là ông lấy đất Phú Yên năm 1611. Nguyễn Hoàng có mười người con, bốn ngừơi đầu tiên thì chết sớm, là Hà, Hán, Thành, và Diễn, Hải là thứ năm thì để làm con tin ở đất Bắc, người con thứ sáu là chúa Nguyễn Phúc Nguyên sau này, được chúa đặt làm trấn thủ Quảng Nam năm 1602. Trang 22
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Năm 1613 Nguyễn Hoàng mất thọ 89 tuổi, ở ngôi chúa (theo sử nhà Nguyễn) 56 năm. Con là Nguyễn Phúc Nguyên lên nối vị. Ông là hoàng tử thứ sáu sau Hải làm con tin ở đất Bắc, và trên bốn người em là Hiệp, Trạch, Dương và Khê. Khê là con bà Minh Đức Vương Thái Phi, thứ phi của Nguyễn Hoàng sau này thường gọi là bà Maria, theo đạo công giáo. Nguyễn Phúc Nguyên Ông này, mỗi khi sử nhắc tới thì thường gọi ông là “hoàng tử thứ sáu” được kể như là trưởng, bởi vì bốn người anh đã mất sớm và Hải thì làm con tin ở đất Bắc, như chúng tôi đã nói. Thực Lục ghi một trận thuỷ chiến trong đó hoàng tử thứ sáu đánh bại giặc nước Tây dương. Nhưng chúng tôi chưa nhận định được Tây dương đó là ai. Sử chép: “At dậu năm thứ 28 (1585), bấy giờ có tướng giặc nước Tây dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên Hiệu của bọn tù trưởng phiên, không phải tên người) đi năm chiếc thuyền lớn, đến đậu ở cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn mười chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan hai chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy. Chúa cả mừng nói rằng: “Con ta thực là anh kiệt” và thưởng cho rất hậu. Từ đó giặc biển im hơi” (Thực lục, tb.2, Sd.1, tr.37). Nhâm dần năm thứ 45 (tức năm 1602) chúa Tiên đặt hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ Quảng Nam, vị trí then chốt vì là huyết mạch của xứ. “Sai hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ Quảng Nam. Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa. Chúa thường để ý kinh dinh đất này. Đến đây, đi chơi núi Hải Vân, thấy giải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang bờ biển. Chúa khen rằng: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng”. Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn”. (Thực lục, tb.2, Sd.1, tr.42). Trang 23
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Biết mình sắp chết, Nguyễn Hoàng cho gọi hoàng tử thứ sáu và quần thần lại và nói những lời trối trăng cho hoàng tử. Ông lại nhắc tới hai xứ Thuận Quảng và dặn dò con như sau: “Tháng 6 ngày canh dần (năm 1613), chúa yếu mệt, triệu hoàng tử thứ sáu và thần đến trước giừơng, bảo thân thần rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”. Rồi chúa cầm tay hoàng tử thứ sáu dặn bảo rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thương yêu nhau. Mày mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Lại nói: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh giang) hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Vì bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”. Ngày ấy chúa băng” (Thực Lục, tb.1, Sd.1, tr.44) Với những lời lẽ trên đây, đã thấy sự phân chia hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài là phần chắc và cuộc chinh chiến giữa hai chúa sẽ diễn ra ác liệt như sẽ thấy bắt đầu vào năm 1627, năm De Rhodes đặt chân lên đất Bắc. Người ta cũng nhận ra một vùng đất nước giàu có, sung túc và không bỡ ngỡ hay cho là quá lạc quan, khi thấy Borri đề cập tới miền Thuận Quảng như một thứ địa đường, có đủ mọi thổ sản, mọi nhu yếu cần cho sinh sống nhân dân. Hoàng tử thứ sáu lên nối nghiệp cha với danh tánh là “Thống lĩnh thuỷ bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại binh chưởng quận quốc công trọng sự thái bảo Thuỵ quận công”. Lúc này chúa đã 51 tuổi thọ. Vua Lê sai đem sắc tặng và đưa phẩm vật đến phúng rồi cho Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ hai xứ Thuận Quảng. Người dân thường gọi chúa là “ông Thuỵ” (coi Bentô Thiện, sd.1 tr.119). Người ta cũng xưng ông là chúa Sãi. Sử chép: “Chúa lên nối ngôi, sửa thành luỹ, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là chúa Phật. Từ Trang 24
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
đấy mới xưng quốc tính là họ Nguyễn Phúc” (Thực lục, tb.2, sd.1, tr.47). Việc đầu tiên Sãi vương làm là đặt người con trưởng làm trấn thủ Quảng Nam thay thế mình, giữ đúng truyền thống đức thân phụ để lại. “Giáp dần năm thứ 1 (1614), mùa hạ, tháng 4, thăng hoàng tử cả Chưởng Cơ Kỳ làm hữu phủ chưởng phủ sự, trấn giữ dinh Quảng Nam. Kỳ tới trấn chăm làm việc ân huệ, yêu thương quân dân, trong cõi yên vui” (Thực lục, 2, sd.1, tr.47). Và ở đây chúng ta đi vào một giai đoạn chính yếu trong buổi đầu đạo Kitô tiếp xúc với giới trí thức và nhà cầm quyền của ta. Hoàng tử Kỳ trấn thủ Quảng Nam, con trưởng chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chính là nhân vật được nói tới trong bản Tường trình của Gaspar Luis và Borri dưới danh hiệu “Ông Nghè” vào những năm đầu thế kỷ 17. Sử ta nói tới ông hoàng “làm việc ân huệ, yêu thương quân dân” thì cũng như các bản điều trần đề cập tới một người hết lòng giúp đỡ các giáo sĩ và bênh vực họ khi cần thiết. Hãy trở về với Sãi vương. Nhà Lê đã đặt tam ty để lo việc hành chính và cai trị, chúa Nguyễn Phúc Nguyên năm 1614 cũng đặt tam ty ở các xứ, năm 1615 định quy chế về chức vụ các phủ huyện và năm 1617 đặt nhà Đồ. “Xứ Thuận Quảng duy không có mỏ đồng, mỗi khi những thuyền buôn Phúc Kiến, Quảng Đông hay Nhật Bản chở đồng đỏ đến bán thì nhà nước thu mua, cứ 100 cân thì trả 40 hay 50 quan tiền”. (Thực lục, tb.2, Sd.1, tr.48). Việc buôn bán với người Tàu, người Nhật, đặc biệt ở cửa biển Hội An, Đà Nẵng, cũng được các giáo sĩ nói tới. Nơi đây ngoài những khu phố dành riêng cho người Tàu, khu phố cho người Nhật với chế độ tự quản trị với phong tục riêng, tiếng nói riêng của từng nước, người ta còn đề nghị cho người Bồ mở thương điểm tự quản trị như người Tàu, người Nhật. Nhưng dự định này hình như người Bồ không nhận, như Borri đã viết trong bản Tường trình (bản Việt ngữ Hồng Nhuệ, Sd, tr.56-57). Trang 25
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Cũng nhờ vào việc các thương gia người Bồ tới Hội An thông thương buôn bán mà các giáo sĩ đã tới nước ta, mượn cớ làm tuyên uý cho người Bồ, để truyền giáo. Ông Nghè Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, nghè là các phòng làm việc ở trong điện các nhà vua. Đời Lê chỉ những người đỗ tiến sĩ mới được vào làm việc trong các, cho nên mới gọi tiến sĩ là ông nghè. Đến triều Nguyễn, những người được vào làm trong các, dù không đỗ tiến sĩ cũng gọi là nghè. Gaspar Luis viết: “Điều giúp cho việc trở lại là sự thông biết toán học và sau đó là đời sống tốt lành của các cha dòng chúng ta. Sự việc xảy ra như sau: Trong những hoàng tử của xứ này có một vị tên là Ông Nghè, từ những năm trước đây vẫn là chốn nương thân độc nhất và nơi trú ẩn của cac cha Dòng chúng ta. Một người trong chúng tôi đến thăm ông và trong cuộc đàm đạo về chiêm tinh học, ông đặt mấy câu hỏi và cha đã giải đáp rất xác đáng, cha còn tìm cách khôn khéo chêm vào vài lời về Kitô giáo, nhờ ơn Thiên Chúa, những lời đó không rơi trên đất. Bởi vì ông hoàng tốt lành này chỉ sẵn sàng nghe vào đầu năm tới, lúc ông thong dong và rảnh việc hơn”. Thế nhưng chưa tới năm mới thì vào cuối năm, nghĩa là vào ngày mồng 9 tháng 12 năm 1620, đã xảy ra một nguyệt thực. Như chúng ta biết, vì chưa hiểu biết về sự vận chuyển các hành tinh, nên nguyệt thực được coi như một việc huyền bí và là một điềm kì lạ. Người ta đã làm nhiều phù phép, nhiều nghi lễ để cứu mặt trăng bị con gấu nuốt. Borri đã tường thuật về việc này. Gaspar Luis cũng đề cập tới ở đây. Trong dịp này, hẳn Nguyễn Phúc Nguyên cũng có mặt ở Quảng Nam, dinh Chiêm hay Kẻ Chàm, lúc này hoàng tử Kỳ làm trấn thủ, còn Sãi vương thì cũng là cựu trấn thủ ở đây trước khi lên nối nghiệp chúa. Theo Gaspar Luis và cũng theo Borri, người ta được biết chúa có các nhà toán học của chúa và hoàng tử Kỳ có nhà toán học của mình, cả hai đều tính toán giờ giấc và ngày xảy ra nguyệt thực. Kết quả là tất Trang 26
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
cả đã tính sai, trái với lời lẽ của giáo sĩ. Từ nhà chúa tới các quan cận thần, từ tướng sĩ tới người bình dân, họ đã kéo nhau ra làm lễ cứu mặt trăng, nhưng nguyệt thực không xảy ra như đã dự tính. Gaspar Luis viết: “Khi giờ tiên đoán về nguyệt thực đã qua thì Ông Nghè, vẫn có lòng quý mến chúng tôi đến tìm chúa và xin chúa lui về an giấc vì các cha đã quyết định không sai về ngày giờ sẽ xảy ra. Chúa tin lời và lui về cho tới giờ các cha tiên đoán và lúc trở lại, chúa thấy nguyệt thực đúng như đã nói. Chúa rất sửng sốt đến nỗi chúa không ngớt ca tụng sự tinh thông của các cha, làm cho nhà chiêm tinh của chúa rất xấu hổ và mất mặt. Có điều làm cho các cha được tín nhiệm hơn nữa chính là các nhà chiêm tinh này vừa tới học với các cha”. Cũng xảy ra một việc tương tự nhân dịp có nhật thực. Về nhật thực này, xảy ra vào ngày 21 tháng 5 năm 1621 ở Nước Mặn thuộc Quy Nhơn, Borri đã kể tường tận trong cuốn Tường trình của ông. Theo Cadière, chúng tôi cũng tìm xem sử ta, thường hay ghi các hiện tượng này, nhưng chúng tôi cũng như Cadière không thấy ghi những việc vào ngày tháng đã nói. Sách Thực lục ghi: “At mão năm thứ hai (1615), mùa xuân, tháng ba, ngày mồng một, có nhật thực.” “Mậu ngọ năm thứ năm (1618) mùa đông, tháng 11, sao chổi xuất hiện ở phương đông hơn một tháng mới hết”. Ngoài ra không thấy ghi những hiện tượng vào những năm các giáo sĩ nói tới ở trên. Trong một dịp khác, chúng ta lại được nghe nói tới Ông Nghè. Ông này đem theo mấy nhà trí thức của ta, tất cả đều thuộc dòng quý phái chính yếu trong nước. Họ đã phục sự hiểu biết của các giáo sĩ thì họ cũng một phần nào chịu nghe lời giáo sĩ. Gaspar Luis viết: Trang 27
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Nhưng không có kết quả gì, trừ việc hoàng tử tỏ ra rất thịnh tình với Kitô giáo, ông khâm phục và trong mọi dịp ông hết lời ca tụng”. Thế nghĩa là ông chưa tin theo đạo Kitô được. Gaspar Luis kể ra hai lý do không cho phép ông hoàng tốt lành này trở thành Kitô hữu. Ông viết: “Có hai điều chính yếu ngăn cản ông đó là các thê thiếp của ông và chức vụ của ông trong triều, đứng đầu bộ Lễ lương dân và bảo quản tất cả các dị đoan, những thứ này rất nhiều trong xứ và trong mọi việc, nhất là trong việc tang ma vua chúa, tới nay ông chưa gạt bỏ được. Ngoài ra trong mọi việc khác ông sống và ăn ở như giáo dân Kitô hữu”. Về vấn đề đa thê, chung quy cũng là phong tục và truyền thống nơi các vua quan của ta thời xưa. Sử ta ghi chép: Đinh Tiên Hoàng mới lên ngôi đã lập 5 hoàng hậu, làm cho sử gia Lê Văn Hưu phải lên tiếng chỉ trích (Cương Mục, chb.1, 4), rồi Lê Long Đĩnh lập 4 hoàng hậu, Lý Thái Tôn 7 hoàng hậu, không kể cung phi. Lý Thánh Tôn cho tuyển gái dân gian vào cung, tuyển 12 con gái sung vào hậu cung, Lý Nhân Tôn lập 36 cung nhân. Thời Lê Hiến Tôn, cho vài trăm người cung nữ ra khỏi cung cấm. Đó là lời Cương Mục ghi lại. Toàn thư viết: “Quý sửu, Thái Ninh năm thứ hai (1073) – thời Lý Nhân Tôn – giam hoàng thái hậu Dương Thị, tôn Hoàng Thái Phi làm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (tức Ỷ Lan), bèn sai giam Dương Thái Hậu và thị nữ 76 người vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết, chôn theo lăng Thánh Tôn”. (Toàn Thư bản kỷ q.3, Sd.1, 236) Kitô giáo gia nhập xứ ta và một trong những giáo lý căn bản, đó là không bao giờ nhượng bộ về việc này, cho dầu có gặp khó khăn cản trở, có khi gặp bách hại, trục xuất, như có dịp chúng ta sẽ thấy. Cho nên về điểm này, đối với ông hoàng tốt lành, không có gì là lạ. Còn về lời Gaspar nói ông đứng đầu ở bộ Lễ và lo các nghi thức tang ma nhất là tang ma của nhà chúa, dĩ nhiên phải kể ngay những ngày giỗ đầu, giỗ cuối, giỗ hằng năm của ông chúa thuỷ tổ nhà Trang 28
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Nguyễn ở miền Thuận Quảng này là Nguyễn Hoàng, mất năm 1613. Theo sử ta người đứng đầu bộ này thuộc về một trong tam ty mà nhà Lê đã cho lập, và Nguyễn Phúc Nguyên năm 1614 đặt lại ở Thuận Quảng. “Bắt đầu đặt tam ty: ở trong là Chính dinh thì (ba ty) là ty Xá sai, coi việc văn án từ tụng, do đô tri và ký lục giữ, ty Tướng thần lại, coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do cai bạ giữ, ty Lệnh sử coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương hướng cho quân đội Chính dinh, do nhà uý giữ. Những thuộc viên thì một ty có ba câu kê, 7 cai hợp, 10 thủ hợp, 40 ty lại. Lại đặt ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, hai ty Tả, Hữu Lệnh sử chia thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ”. (Thực Lục, q.2, Sd.1, tr.47). Theo lời lẽ của Gaspar Luis, chúng ta có thể phỏng đoán, dựa vào bản văn trên đây: hoàng tử Kỳ, con trưởng của Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ xứ Quảng Nam và đứng đầu ty Lệnh sử coi việc tế tự, lễ tiết và phát lương cho quân nhân. Cũng có thể ông kiêm cả ty Tả Hữu Lệnh sử bởi vì đồng tiền là huyết mạch, việc thu tiền sai dư ở hai xứ đưa về nộp. Nếu chỉ nguyên có chữ Ông Nghè thì người ta chưa rõ chức vụ thứ hai của hoàng tử Kỳ. Phải nhờ vào dòng chữ của Gaspar Luis nói trên đây thì mới có thể phỏng đoán chức vụ chính yếu của ông. Nếu chúng ta thấy sự giàu có của đất đai, thì cũng thấy then chốt của công việc cắt đặt này. Huynh đệ tương tàn Như trên chúng tôi đã nói tới số người con của chúa Nguyễn Hoàng trong đó hoàng tử thứ sáu là Sãi vương lên nối vị đức thân phụ năm 1613. Tới năm 1620 thì xảy ra hai người con thứ bảy và thứ tám của đức tiên vương nổi loạn chống chúa Sãi. Thực Lục viết: “Canh thân năm thứ 7 (1620) (Lê Vĩnh Tộ năm 2, Minh Thái Xương năm 1), mùa xuân, chưởng cơ là Hiệp và Trạch (con thứ 7, thứ 8 của Thái tổ) mưu nổi loạn, gửi mật thư xin họ Trịnh phát binh, tự mình làm nội ứng, hẹn khi nên việc thì chia đất này cho trấn giữ. Trịnh Tráng khiến đô đốc Nguyễn Khải đem 5.000 quân đóng ở Nhật Lệ (thuộc huyện Phong Lộc) để đợi.” (Thực Lục, tb, q.2, Sd.1, tr.49). Trang 29
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Chúng tôi không trích dẫn thêm, chỉ biết rằng hai người em của chúa Sãi đã không thành công, chúa đã dùng mấy người cháu đứng ra chống cự, trong đó có Tuyên là con của Tôn Thất Hà. Thực Lục tiếp: “Hiệp và Trạch thua chạy, Tuyên đuổi bắt được đem dâng. Chúa trông thấy, chảy nước mắt nói: “Hai em sao nỡ bỏ luân thường?” Hiệp và Trạch cúi đầu chịu tội. Chúa muốn tha, nhưng các tướng đều cho là pháp luật không tha được. Bèn sai giam vào ngục. Hiệp và Trạch sầu khổ sinh bệnh chết. Nguyễn Khải nghe tin dẫn quân về”. (Thực Lục t.b, q.2, Sd.1, tr.49, 50). Thực ra, theo luật Hồng Đức, những can phạm thuộc hoàng tộc thì không được làm đổ máu vì họ thuộc dòng họ nhà vua nhà chúa, chỉ để cho chết đói, chết khát, như chúng ta có dịp đề cập tới về vụ công chúa Ngọc Liên pháp danh Madalêna bị “giam vì đạo”. Về vụ tương tàn huynh đệ này, Gaspar Luis viết có mấy dòng vắn tắt: “Ngoài ra còn có cuộc chiến tranh nguy hiểm làm cho lãnh thổ tiêu điều sụp đổ, nếu nhà chúa không cứu chữa bằng một trận chiến thắng hai người em hùng mạnh cầm võ khí phản nguỵ chống lại chúa, cuộc phản nguỵ hẳn sẽ làm cho nước này kiệt quệ”. Bản Tường trình được viết năm 1621, nghĩa là chỉ một năm sau biến cố xảy ra. Hậu quả đối ngoại của vụ này là từ đây Sãi vương tuyệt giao với chúa Trịnh ở Bắc Hà. “Chúa thấy Trịnh vô cớ nổi binh, từ đấy không nộp thuế cống nữa”. (Thực lục t.b, q.2, Sd.1, tr.50). Đó là đầu nguồn của chiến tranh Trịnh Nguyễn sẽ được chuẩn bị vào năm 1626, để bùng nổ lần thứ nhất năm 1627. Nạn đói Borri nói tới vụ đói vì mất mùa xảy ra ở Đàng Trong (Sd, q.2, ch.2, tr.64-65), còn Gaspar Luis thì viết: Trang 30
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Người ta đã cởi bỏ được dư luận từ lâu còn giữ trong đầu óc họ cho rằng chúng tôi đã gây ra nạn đói trong những vùng đất này. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho những nơi Dòng chúng tôi có trụ sở thì được dồi dào sung túc hơn các nơi khác, có đủ sự cần dùng để nuôi sống con người. Còn ở nơi khác thì rất đắt đỏ, có nhiều người chết vì ăn phải những thứ độc. Họ ăn tất cả những gì tay họ với được. Nhiều người phải đi ăn trộm, ăn cắp đó đây. Quảng Nam và Nước Mặn là hai tỉnh khác nhau đã trở thành hoang vu”. Sử nhà Nguyễn không nói gì tới việc này. Dĩ nhiên người ta chỉ đưa ra những gì tốt đẹp, tỉ như vụ được mùa năm 1608, sử chép: “Mậu thân, năm thứ 51 (1608), được mùa to, mỗi đấu gạo giá 3 đồng tiền. Bấy giờ từ Nghệ An ra Bắc bị đại hạn, giá gạo đắt, nhiều dân xiêu bạt chạy về (với chúa)” (Thực Lục tb.2, Sd.1, tr.43). Toàn thư và Cương mục cũng đề cập tới vụ đói này ở Bắc Hà: “Năm ấy (1608) trong nước bị đói. Mùa thu, mùa đông, thóc lúa giá đắt quá, nhiều người chết đói” (Toàn thư bản kỷ, q.18, Sd.4, tr.237). “Mậu thân năm thứ 9 (1608) (Minh Vạn Lịch thứ 36), tháng 9, mùa thu. Đại hạn. Dân bị nạn đói to” (Cương mục, chb.31, 10). Vụ đói Gaspar nói trên đây, có thể đã xảy ra vào những năm 16171618 nghĩa là vào hai hay ba năm sau khi giáo sĩ Buzomi tới Đàng Trong. Thực Lục không nói gì tới. Trái lại, không biết những năm đói kém ở Đàng Ngoài có ảnh hưởng gì tới Đàng Trong, hoặc cả hai nơi đều bị một tai nạn như nhau không. Toàn thư ghi: “Mùa thu tháng 7 (1617) ngày 15, có gió bão to, nước lụt tràn ngập, thóc lúa mất hết” (Toàn thư bản kỷ q.18, Sd.4, tr.241). Cương mục ghi năm 1617 cũng mưa to gió lớn vào tháng 7 và đến tháng 9, nước biển tràn ngập. Nhưng hẳn đây không phải là vụ đói kém ở Đàng Trong do hạn hán. Borri đã kể lại lúc ông tới Đàng Trong là lúc đang xảy ra vụ đói kém do hạn hán. (Borri, Sd. tr.64-65). Sứ thần Zegrô Trang 31
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Trong Tường trình của Gaspar Luis có nói tới một nhân vật khá lạ lùng, đó là viên sứ thần của chúa Phúc Nguyên sai đi Campuchia, ông này tên là Zegrô. Gaspar viết: “Viên sứ thần của chúa và bà vợ nói ở trên, tuy rất thân với chúng tôi, nhưng lại là đồ đệ của vị tiến sĩ thời danh. Người ta tìm được dịp mời cả hai đến nghe giáo lý. Bà vợ tới trước, còn ông chồng thì vẫn ở trong phủ. Sau mấy lần vui vẻ và chăm chú nghe thì bà tin theo và chịu phép thánh tẩy lấy tên là Ursula”. Luis nói rất vắn tắt, trái lại Borri đã tỉ mỉ trình bày sự việc trong Tường trình của ông (Borri, sd.q.2, ch.5). Xin theo một tôn giáo còn mới lạ và có nhiều điểm xung khắc với các tôn giáo cổ truyền mà không có phép của chồng hay ít ra có ý kiến của ông, thì kể là một việc còn hiếm có. Thế nhưng, khi ông chồng trở về mà thấy bà vợ đã thành Kitô hữu, thì ông cũng bằng lòng xin theo. Luis viết: “Zegrô đã có dịp về thăm nhà (vì ông thường ở trong phủ) trước khi đi sứ ở nước Campuchia. Khi biết bà vợ đã trở thành giáo dân Kitô lúc ông vắng mặt thì ông rất hài lòng và muốn theo gương vợ. Suốt đêm ông học hỏi về các mầu nhiệm đức tin và hôm sau chịu phép thánh tẩy lấy tên là Inhaxu, rồi làm phép cưới lại với Ursula công giáo. Có mười hai gia nhân cũng chịu phép rửa tội sau ông”. Luis cũng như Borri không nói về năm nào, nhưng có thể đoán là vào năm 1621, bởi vì ông này đã tới Đàng Trong năm 1618, rồi sau nhiều việc xảy ra thuận cũng có mà nghịch thì nhiều hơn, ông viết: “Ba năm trôi qua như vậy, trong thời gian đó chúng tôi không cảm thấy quá thiếu thốn những sự cần dùng để bảo dưỡng. Thân xác chúng tôi chịu nhiều cơ cực, chỉ có Thiên Chúa biết”. (Borri, Sd.tr.86) Trong những năm này, sử của nhà Nguyễn không nói gì tới công việc này. Đất nước ta mới mở rộng cho tới Phú Yên, nghĩa là tới đèo Đại Lãnh có núi Bia hay Thạch Bi sơn. Nhưng sử của nước Chân Lạp thì có chép đầy đủ, theo các học giả người Pháp tìm kiếm và công bố. Theo bài của Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM 1987, tr.146-148, thì chúng ta được biết từ Trang 32
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
những năm 1618 đã có liên hệ ngoại giao giữa hai nước. G.Maspéro trong Đế quốc Khơme (L’Empire Khmer, Phnom Penh, 1904, tr.61) viết: “Nhà vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Udong, nơi đây ông long trọng cử hành lễ cưới với một con vua Annam. Bà này rất đẹp, chẳng bao lâu ảnh hưởng mạnh đến nhà vua.” Moura, một dịch giả biên niên sử Khơme, cũng viết (trích theo Nguyễn Đình Đầu): “Tháng 3 năm 1618, Prea Chey Chessda đựơc phong vương với tước hiệu Somdach Prea Chey Chessda Thirêach Thupphdey Barommopit. Ông liền nâng em là Prea Utey lên chức phó vương. Khi đó, vua Annam gả một người con gái cho vua Cao Miên. Công chúa này rất đẹp, được nhà vua sủng ái và lập làm hoàng hậu với tước hiệu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey”. (Moura, Royaume du Cambodge, t.II, Paris 1883, tr.57, trích theo Nguyễn Đình Đầu, sd) Như vậy vào năm 1618, đã có cuộc bang giao giữa hai nước mà sử ta không ghi, trái lại sử Campuchia có chép, như hai đoạn văn chúng tôi đã trích theo sách đã dẫn. Như chúng tôi đã nói, Luis viết vắn tắt nhưng Borri kể dài dòng hơn và sau đây là lời lẽ của Borri: “Bà đáp: tôi hăm hở sốt sắng ao ước và tâm can tôi bầng bầng mong mỏi nên không thể chờ lâu được, nhất là tôi chờ ngày mốt ngày mai đây, ông sứ thần chồng tôi từ phủ chúa về và khi ông về thì tôi phải xuống tàu ngay để theo ông đi nước Campuchia” (Borri, sd.tr.90) “Sau đó không lâu thì sứ thần chồng bà từ phủ chúa trở về với ý định là lập tức đi sứ tới Campuchia” (ibid. tr.92) Không thể chối cãi được nữa, ông này là sứ thần nhà chúa sai đi Campuchia. Cả Luis cả Borri đều quả quyết như vậy. Trang 33
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Sử của ta không nói tới, cũng như việc gả công chúa cho vua Campuchia vào năm 1618, sử ta cũng không đề cập tới. Borri nói trong Tường trình của ông: “Ngoài ra ngài còn chuẩn bị võ khí liên tục và mộ binh giúp vua Campuchia đã lấy một người con gái riêng của ngài, cung cấp cho vua thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Thái Lan”. (Borri, sd.tr.51) Hành trình đi Campuchia Khi đã lo liệu các công việc xong xuôi rồi thì sứ thần của chúng ta sửa soạn đi Campuchia bằng đường biển. Cho tới đây, chúng ta được biết người phương Bắc đã đi đường biển tới sông Bạch Đằng, tới nước Chiêm Thành, và người Chiêm Thành cũng đã từ nước họ đi đường biển qua cửa Đại An, cửa Thần Phù ngược lên sông Hồng, để cướp phá đô thành của ta vào thế kỷ 14, 15. Rồi hải quân của ta cũng đã đem quân vào đánh phá Chiêm Thành cũng bằng đường biển. Nhưng ở đây, có thể là lần đầu tiên một văn kiện nói tới hành trình từ Quy Nhơn đi Campuchia. Luis viết: “Xong xuôi rồi ông sửa soạn hành trình tỏ ra làm gương nhân đức. Ông có bốn thuyền chiến để phục vụ ông: ở đuôi chiếc thuyền chính ông ở, ông cho vẽ ảnh Chúa Cứu Thế trên thập tự và trên buồm thì viết tên Chúa Giêsu”. Borri không nói tới số thuyền ông sử dụng, nhưng cũng viết: “Sau buổi lễ này vị sứ thần Inhaxu trẩy đi nước Campuchia. Ông truyền cho người ta phải dựng trong chiếc tàu chính yếu một lá cờ thật đẹp có vẽ hình thánh giá và ảnh cha thánh cả Inhaxu quan thày của ông, lại còn thêm nhiều biểu hiệu, cờ lệnh và cờ xí khác tỏ cho người ta biết tôn giáo ông tin theo. Tất cả kị binh và các bà Kitô hữu đều xuống thuyền và may mắn khởi hành tới nước Campuchia” (Borri, Sd.tr.98)
Trang 34
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Về chi tiết hai bản văn có những điểm khác nhau, nhưng nói chung, người ta như được thấy lại những đoàn tàu của nghĩa binh thánh giá thời vua thánh Luis đem quân đi đánh người Hồi đã chiếm đóng xứ Palestina, hoặc như những đoàn tàu của các vua công giáo, của Kha Luân Bố đi tìm thế giới mới, hoặc những đoàn thương thuyền của người Bồ: buồm lớn nhỏ đều thêu hay vẽ ảnh thánh giá rất đẹp, rất lộng lẫy, đến nỗi khi tới Campuchia, người bản xứ cũng như người ngoại quốc ở đấy cứ tưởng như thể nhà chúa phái một sứ thần người Bồ chứ không phải người Đàng Trong. Nhưng trước khi khởi hành theo cổ truyền và mê tín, người ta còn phải bói xem có phải là ngày lành tháng tốt để bắt tay vào việc, nghĩa là người ta xem chân gà, tự điển De Rhodes ghi là “xem giò” xem chân con gà. Sứ thần từ chối, thế nhưng người ta vẫn cứ làm (thay ông) và mặc dầu thấy điềm không lành, ông vẫn cứ trẩy đi và đã tới bến bình an. Sự mê tín này vẫn còn được các tướng lãnh và nhà chúa bảo tồn, trước khi ra trận, người ta còn cho bói xem có phải lúc phải giờ để khởi công không, một trong những tập tục xấu mà các giáo sĩ tìm cách phê phán và chỉ trích. Về hành trình theo đường biển, bà vợ vị sứ thần đã nói mấy lời rất đích đáng: “Cha biết những nguy cơ khi đi biển và lúc nào cũng có thể gặp rủi ro. Vì thế rất có thể cơn bão nổi lên và tôi bị chìm dưới đáy biển, bị trầm luân đời đời.” (Borri, sd.tr.90). Dẫu sao, phái đoàn ngoại giao đã tới Campuchia giữa sự bỡ ngỡ của mọi người. (coi Borri sd. tr.98) Luis viết: “Nhưng Inhaxu coi khinh quẻ bói và điềm báo, đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa, ông can đảm xuống thuyền và tới Campuchia”. Về vấn đề đời tư của sứ thần, Borri viết: “Bởi vì sứ thần còn giữ trong tư dinh ở Campuchia nhiều nàng hầu, cũng như vợ ông có nhiều người hầu hạ phục dịch, ông liền ra lệnh sa Trang 35
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
thải hết và không muốn nhìn tới nữa”. (Borri, sd. tr.98). Tại sao lại có cái tên “Zegrô” Borri không nói tới tên vị sứ thần, trái lại Luis gọi sứ thần là Zegrô. Nhà học giả Cadière cũng chịu và không thể biết được tại sao lại có cái tên ấy và ông đưa ra giả thuyết, có thể vị sứ thần này thuộc về gốc Chàm, vì ông sinh tại Quy Nhơn, một lãnh thổ mới thuộc về xứ Quảng Nam. Borri viết: “Chồng bà sinh quán ở Nước Mặn nơi chúng tôi đang ở và là người vị vọng nhất sau quan trấn thủ, lúc này ông còn ở trong phủ chúa ở Thuận Hóa để bàn về các công việc của phái đoàn ngoại giao” (Borri, sd. tr.89) Về giả thuyết này, chúng tôi thực ra cũng đã có một vài cảm tưởng khi đọc cuốn Tường trình của Borri, bởi vì ông nói về những phong tục hơi xa lạ đối với chúng ta, thí dụ về việc ăn uống, cỗ bàn, về cách ăn vận, áo quần rất có thể thuộc về người Chàm hơn người Việt ta. Hai châu Chiêm Động và Cổ Luỹ của Chàm chạy dài từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông, đầu nguồn là Quảng Nam và cuối nguồn là Quy Nhơn. Theo sử của ta thì thấy chúng ta đã có chính sách đồng hóa, một đàng đem người mình đến ở, và đàng khác đưa văn hóa học thuật của mình dạy dỗ cho người bản thổ, kể cả người ta và người Chàm còn sót lại. Cương mục Mục chép: “Quý mùi tháng 2 mùa xuân (1403) Hán Thương dời dân đi Thăng Hoa. Trước đây, Chiêm Thành dâng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ, họ dời hết dân đi nơi khác mà bỏ đất không. Quý Ly chia đất ấy làm lộ Thăng Hoa. Đến nay mới đem dân các lộ, người nào không có ruộng mà có của đến đây để ở. Người mới đến cùng với người cũ của lộ ấy còn sót lại đều biên tên vào quân ngũ, nhưng thích hai chữ tên châu hiện ở vào cánh tay. Năm sau lại cho vợ con những người đã đi đến khi trước đi theo. Những người này lúc đi đường biển gặp gió bão, bị chết đuối nhiều. Lòng dân rất là náo động”. (Cương mục, chb.12, 1) Tới thời vua Lê Thánh Tôn, thì đặt đạo Quảng Nam, năm 1471, nhà vua “ra sắc lệnh dụ bảo Phạm Bá Tôn, tham chính Quảng Nam: dân sinh nào là trai từ 15 tuổi trở lên, tư chất thông minh chăm học, thì đến Trang 36
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ngày thi khảo, hai ty Thừa ty và Hiến ty bản đạo hội đồng kén chọn, tâu bày đầy đủ, sẽ cho sung vào sinh đồ bản phủ, để dạy bảo cho biết lễ nghĩa”. (Cương mục, chb.22, 7). Chúng tôi phỏng đoán, vị sứ thần Zegrô, vì là người Việt gốc Chàm, cho nên mới có cái tên đó? Nếu chúng tôi phiêu lưu đi vào việc phân tích các tình tiết hay tâm lý nhân vật này, thì chúng tôi cũng có thể phỏng đoán cái gốc Chàm của ông. Borri đã tả khá tỉ mỉ tâm trạng ông từ khi bỏ phủ Thuận Hóa mà về Quy Nhơn bất ngờ thấy vợ mình đã thành Kitô hữu. Và ông đã bằng lòng theo gương vợ gia nhập Kitô giáo, không do dự, không đắn đo. Theo những sách vở các giáo sĩ để lại, chúng ta thấy phần đông những người có địa vị xã hội lúc đó, thường rất do dự và phần nhiều chưa dám bước tới điểm quyết liệt là bỏ đạo tổ tiên để đi theo đạo mới. Ngoài cản trở về luân lý, luật độc thê, con có địa vị xã hội phải bảo vệ. Bà vợ cũng rất tế nhị, bà không muốn tỏ cho ông biết, nếu theo Kitô giáo thì phải bỏ đa thê. Bà để cho tới phút trót mới cho ông biết. Do đó ông đã học đủ giáo lý và chỉ còn chờ lúc nghiêng đầu chịu làn nước thánh tẩy là ông thành Kitô hữu như bà. Borri viết khi ông biết muốn thành giáo dân Kitô thì phải bỏ hết các vợ mọn: “Nghe lời bất ngờ này, sứ thần lạnh như đá và nhiệt thành buổi đầu tắt ngay như người đổ nước vào lửa, đến nỗi ông từ biệt chúng tôi ngay. Ông nói: ‘Việc này không phải việc nhỏ và phải có thời gian để suy nghĩ cho chín chắn’” (Borri sd.tr.94) Ông đã ra về và tìm một vị hòa thượng trình bày lý lẽ để hôm sau đưa vị đó tới tranh luận với giáo sĩ về vấn đề đa thê và độc thê. Kết cục ông đã chịu lẽ phải. Điều chúng tôi thấy ở ông là ông không đưa danh phận chức phận của ông ra làm lý do đắn đo lo ngại. Có thể ông là một viên tướng lãnh hơn là một nho gia, một người có huyết thống Chàm, còn bà vợ có thể là một người Đàng Trong, với tất cả khôn ngoan mánh lới. Dẫu sao cũng chỉ là giả thuyết và cái tên Zegrô còn phải được tìm hiểu thêm. Trang 37
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Bà em gái của hoàng hậu Trong buổi tiếp xúc đầu tiên, các giáo sĩ đã làm quen với nhà cầm quyền của ta lúc đó, trong số này có hàong tử Kỳ trấn thủ Quảng Nam, con trưởng chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thường gọi là Ông Nghè. Cũng có hàng trí thức, dĩ nhiên là những nhà nho, những nhà toán học của chúa, của hoàng tử, không kể một số các vị hòa thượng chính yếu. Chúng tôi đã để ý tới công việc của Nguyễn Hoàng trong đó có việc xây cất chùa chiền và là những ngôi chùa danh tiếng như ngày chúng ta thấy. Về một người rất gần với hoàng tộc, Gaspar Luis viết: “Mùa Chay và Phục Sinh đã qua, có rất nhiều giáo dân tân tòng tuôn đến. Và đây là cơ hội cho lương dân tỏ thiện tình với đạo thánh ta, rồi từ đó nhiều người, cả những hàng quyền quý và bậc vị vọng trong nước quỳ xuống thờ lạy ảnh Chúa Cứu Thế. Trong những người này, người ta để ý tới bà em của hoàng thái hậu, bà này suy ngắm đời sống Chúa Kitô do cha Jerónimo Nadal chạm trổ, thì rất xúc động. Bà chưa theo đạo nhưng rất sẵn sàng cũng như chồng bà cùng mấy viên quan khác dùng quyền thế mình mà ưu đãi chúng tôi”. Ở Quảng Nam lúc này, có thể có hoàng hậu cùng đi với chúa Nguyễn Phúc Nguyên tới đây chăng? Sử của ta viết về hoàng hậu, nguyên phi của Sãi vương, khi bà này mất năm canh ngọ, 1630: “Mùa đông tháng 11, ngày giáp thân, nguyên phi (vợ của chúa) là Nguyễn Thị băng (con gái cả Mạc Kính Điển, trước kia Kính Điển bại vong, theo chú là Cảnh Huống ẩn ở chùa Lam Sơn, được tiến vào hầu tiên đế, được cho họ là Nguyễn), thọ 53 tuổi, tặng hiệu là Doanh Cơ, thuỵ là Nhã Tiết, an táng ở xã Chiêm Sơn (thuộc huyện Du Xuyên, Quảng Nam, tức là lăng Vĩnh diễn)” (Thực Lục, tb.q.2, Sd.1, tr.5960). Theo Cadière, thì trước khi bà lấy Sãi vương, bà hẳn là người ở làng Cổ Trai, miền Cửa Tùng (Quảng Trị). Ở đây có đền thờ bà và còn giữ cuốn gia phả, trong đó có ghi tên người em gái của bà là Nguyễn Thị Ngọc Lâu, pháp danh Bà Sãi Đô, thuộc gia đình rất sùng đạo Phật. Trang 38
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Đây là ngừơi em út của hoàng hậu, công chúa Ngọc Lâu, bà này đã tỏ ra có ý muốn theo Kitô giáo. Nhưng thực ra Cadière còn đưa ra giả thuyết thứ hai. Ở Quảng Nam lúc đó không có Sãi vương, cho nên hoàng hậu ở đây có thể hiểu là bà Minh Đức Vương thái phi tên rửa tội là Maria, mà sau này De Rhodes nói tới khá nhiều. Dẫu sao giáo sĩ Cadière ngả về thuyết thứ nhất nhiều hơn. Như vậy thì hoàng tử Kỳ đã chứa trọ cả mẹ cả người em gái của mẹ”. (Cadière, bài đã dẫn tr.431, chú 32) Các thương gia Tàu và Nhật Sự có mặt của các thương gia người Tàu và người Nhật đã được Borri ghi rõ ràng trong Tường trình, khi ông nói về hải cảng Hội An. “Người Tàu và người Nhật là những người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong, trong một phố chợ họp mỗi năm ở một hải cảng và kéo dài tới chừng bốn tháng”. (Borris, Sd tr.55). Ở thành phố này, chính quyền còn cho họ ở riêng biệt theo quốc tịch của họ, người Tàu có phố của người Tàu và người Nhật có khu của người Nhật. Borri viết: “Thành phố này gọi là Hội An, là một thành phố rất lớn có thể chia làm hai, một khu phố người Tàu và một khu phố người Nhật, mỗi bên có khu vực riêng và quan cai trị riêng, sống theo tập tục riêng, người Tàu có luật lệ của người Tàu và người Nhật cũng vậy”. (Borri, Sd tr.56) Nhận xét này của Borri rất xác đáng. Thế nhưng, một việc khá lạ, đó là không thấy giáo sĩ nói tới việc truyền giáo cho người Tàu mà thường chỉ nói về việc giảng đạo cho người Nhật, ngoài việc chính yếu truyền giáo cho người bản xứ. Có thể vì thế mà Gaspar Luis không đả động tới người Tàu ở Đàng Trong, Hội An. Ông viết: “Có bốn người trong trụ sở (Đà Nẵng) này, hai cha và hai thầy, đều không ngớt làm việc giúp các linh hồn dân bản xứ và người Nhật cư trú ở đây để buôn bán.” Trang 39
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Sử của ta không nói gì về việc này. Trước thời người Bồ đến buôn bán và đem theo các giáo sĩ tuyên uý, thì việc buôn bán ở Hội An thế nào? Trên đây chúng tôi đã trích mấy dòng lịch sử ở Thực lục tiền biên, chúng tôi lại xin lặp lại một lần nữa để tìm hiểu vấn đề: “Nhâm thân năm thứ 15 (1558), mùa đông tháng 11. Bấy giờ chúa ở trấn hơn mười năm, chính trị rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn”. (Thực lục, tb.1, Sd.1, tr.36). “Các nước” ở đây hẳn bao gồm các nước miền Đông Nam Á Châu, trong đó tất nhiên có người Tàu, người Nhật. Riêng về người Nhật, ông Chen Ching Ho, trong bài “Mấy điều nhận xét về Minh hương xã và các cổ tích ở Hội An” đăng trong Tập san Khảo Cổ, số 1, Sài gòn 1960, cho biết vào năm 1371 nhà Minh cấm không cho buôn bán với nước ngoài. Đó là chính sách “thốn bản bất hạ hải” (một tấc gỗ cũng không cho ra hải ngoại). Trong thời gian gần 200 năm, không có buôn bán với nước ngoài. Cho tới năm 1567, nhà Minh mới bắt đầu mở “hải cấm”, cho phép thường dân đi buôn bán với nước ngoài. Thế nhưng cũng bị hạn chế, chưa được tự do hoàn toàn. Hạn chế đó là chỉ được buôn bán với các nước Đông Nam Á Châu, nhưng cấm không được vượt biển qua Nhật, và không được bán những nguyên liệu thuộc quân sự và kinh tế như quặng sắt, tiêu hoàng, đồng v.v… “Chính vì lẽ đó, từ năm 1593, các nhà cầm quyền Nhật bản tiếp tục phát một thứ giấy thông hành cho các tiểu vương và đại thương gia Nhật bản, khuyến khích họ phái thuyền tới Quảng Nam (Hội An), Xiêm La, hoặc Phi Luật Tân (Manila) để giao dịch với các thương gia Trung Quốc, năm nào cũng từ đại lục tới hải khẩu ấy buôn bán, và theo cách như thế được cung cấp các hàng hóa và vật liệu mà thị trường Nhật Bản cần đến” (Chen Ching Ho, Sd.tr.9-10) Ông còn cho biết, trong số những kiều dân ngụ ở Hội An, người ta chia ra làm hai loại, một thứ tạm trú và một thứ thường trú. Tạm trú là Trang 40
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
những người hoặc là vì nhỡ mùa gió hoặc nhỡ về hàng hoá chưa xong, họ đánh phải ở lại chờ cho tới “giờ mùa” sang năm. Thường trú là những người ở lâu năm, dài hạn, bởi vì họ là những người đại lý cho một hãng buôn lớn, họ ở đây để mua sẵn hàng hóa, tích trữ đợi chuyến tàu đến đem đi. Vào đầu thế kỷ 17 này, còn một hạng người Nhật không phải là thương gia, ít ra lúc ban đầu, đã tới trụ ngụ ở xứ ta. Đó là những Kitô hữu Nhật Bản, vì tránh cuộc bắt đạo ở Nhật Bản, nên họ lánh nạn sang nước ta để được tự do làm các việc thuộc tôn giáo và chịu các phép bí tích. Cũng có thể chia làm hai loại, tạm trú và thường trú. Ban đầu vào mùa chay thánh, họ kéo nhau ra đi để được xưng tội, rước lễ, rồi trở về. Nhưng sau, cuộc bắt đạo bên Nhật càng ngày càng gắt gao, nhà nước Nhật sợ rồi người ta sẽ đưa các linh mục vào, nên săn đón các cửa biển nghiêm ngặt hơn và hình phạt cũng nặng hơn nếu còn bắt được những người đi về. Do đó một số ở lại làm thường trú. Gaspar Luis viết về những giáo hữu người Nhật ở Hội An như sau: “Người Nhật ở đây được làm những gì mà ở nước họ bị cấm vì bắt đạo.” Cũng vì thế ban đầu thường có các thầy trợ sĩ người Nhật cùng đi với các giáo sĩ người Bồ hay người các nước khác, thuộc Dòng Tên, đến xứ ta: thầy Giuse, thầy Phaolô cùng đi với cha Buzomi, cha De Pina tới Đàng Trong; thầy Giulio Piani đi với cha Baldinotti tới Đông Kinh, tức Thăng Long. Hơn nữa, cũng lúc ban đầu, những giáo sĩ ấy thường là những người vì tình nguyện đi giảng ở Nhật nên đã học thông thạo tiếng Nhật và như thế dĩ nhiên cũng biết đủ chữ Hán. Do đó, khi đến nước ta mà chưa kịp học tiếng ta, họ có thể dùng bút lông mà “đàm thoại” được rồi với sự trợ lực của các thầy người Nhật. Baldinotti đã ngồi đàm đạo với mấy nhà trí thức Đàng Ngoài. Chính ông chưa biết tiếng Đàng Ngoài mà cũng không có thông dịch viên. Cũng nên thêm ở đây rằng giáo sĩ Marquez cùng đi với Borri tới Đàng Trong năm 1618 là người Bồ lai Nhật, bố là người Bồ còn mẹ là người Nhật, sinh năm 1575 tại Nhật. Ông vào Đàng Trong tất cả sáu lần: 1618-1626, 1637-1639, 1652, 1653-1655, 1658, 1670, đến Đàng Trang 41
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Ngoài một lần 1627-1630. Ông mất năm 1670 trong một vụ đắm tàu ở đảo Hải Nam (theo Đỗ Quang Chính, sd.tr.22, chú 3). Đạo Hoa Lang Vào lúc ban đầu, giáo sĩ chưa biết tiếng, người thông dịch viên mới hiểu lờ mờ và nói bập bẹ vài ba tiếng Bồ, vì thế việc diễn giảng gặp rất nhiều khó khăn. Người ta cũng chưa biết phải gọi đạo mới này là đạo gì. Thế là người ta đã gọi đạo do người Bồ đưa tới là đạo người Bồ. Gaspar Luis viết: “Thực ra họ cũng nhận đức tin nhưng chỉ tin theo cách đại khái rằng đạo người Bồ tốt hơn đạo của họ”. Ông cũng đề cập tới một sách giáo lý mới được khởi soạn bằng tiếng Đàng Trong để cho cả trẻ con người lớn học và người ta đã dạy giáo lý đạo Kitô bằng tiếng bản xứ “ở nhà một bà tên là Gioanna”. Nhưng chúng ta vẫn chưa rõ trong sách này người ta gọi đạo là đạo gì. Dẫu sao Gaspar Luis viết thêm: “Ngoài mấy người trở lại đạo, cha còn cho mọi người có thịnh tình với đạo ta, đến nỗi không còn gọi là đạo người Bồ mà là đạo chung của mọi người.” Đạo chung của mọi người tức là đạo công giáo, nhưng hẳn lúc đó danh từ công giáo chưa được dùng. Ngay trong Phép Giảng Tám Ngày của De Rhodes in năm 1651 cũng chưa có từ ngữ công giáo. Ông đã đề nguyên văn chữ latinh Ecclesia catholica apostolica “là các bổn đạo Đức Chúa Trời ở khắp thiên hạ, hộp làm một dưới ông thánh Papa ở nước Roma là thầy cả trên, thay vì Đức Chúa Iêsu, theo đòi ông thánh Peđro” (Sd. tr.312). Borri kể lại câu chuyện nực cười, khi người ta hỏi xem có muốn theo đạo Kitô không thì người ta đã nói: “Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?” (Borri sd, tr.61) với ý nghĩa là “muốn vào đạo Hoa Lang” tức đạo người Bồ. De Rhodes trong Phép giảng cũng nhắn nhủ không nên gọi đạo này là đạo người Bồ. Ông viết: “Chớ có nói: đạo này là đạo pha lang” (De Trang 42
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Rhodes, Sd.tr.25) Theo Cadière thì ở mấy miền Nam Trung Quốc, hoa còn được đọc là pha hay pha được đọc là hoa. Do đó không thể hiểu “Hoa lang” là “Hòa Lan” như nhiều người đã lầm (Coi bài về từ “Đạo Hoa Lang” của chúng tôi). Vào thời Trung cổ, người Pháp đem quân tới Palestina đánh người Hồi để lấy lại các nơi thánh do người Hồi chiếm giữ. Do đó người Hồi ban đầu gọi người Pháp là người Franchi (đọc như “Franki”) rồi từ Franchi này có nghĩa là người theo Kitô giáo, người Au Châu, tất cả những người thời đó theo đạo Kitô. Khi người Bồ tiếp xúc với Trung Quốc, lúc đó đã có quan hệ với người Hồi từ miền Nam tới, họ cũng gọi người Bồ là Franchi và đạo của họ là đạo Franchi. Nhưng vì trong tiếng Trung Hoa không có vần r nên họ đọc là falang cơ, falang. Như chúng ta biết, Borri cũng như De Rhodes đều dịch hai từ ngữ Hoa Lang và Pha Lang là người Bồ, chứ không phải là “Hòa Lan” như trong sử của ta và trong nhiều sách nói về việc này. Điều này hợp với sách “Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa”, trong đó có câu: Ở… bấy… đen. Ở Phất lang quốc dệt nên giống nhau: Phất lang ở đây là theo chữ Hán, tức Pha Lang, Hoa Lang vậy. Chữ quốc ngữ Chữ quốc ngữ thực ra là chữ nôm của ta, dùng để viết tiếng nói của ta tức tiếng Việt thông thường, không phải là chữ Hán, chữ nho. Thời xưa giấy tờ sử sách đều viết bằng chữ Hán, ngoài ra người ta bắt đầu làm thơ bằng quốc ngữ, tức chữ nôm. Đến thời Pháp mới đến cai trị nước ta, người ta bắt đầu dùng thứ chữ đã được hình thành từ gần ba thế kỷ và gọi là chữ quốc ngữ, tức là thứ chữ dùng tự mẫu latinh để viết tiếng Việt. Thứ chữ này bắt đầu có từ những năm đầu việc truyền giáo. Gaspar Luis không cho chúng ta biết gì về chữ quốc ngữ. Ông chỉ nói là đã soạn một cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong và người ta đã bắt đầu học đạo bằng thứ tiếng bản xứ, cả người lớn cũng như trẻ con, như chúng tôi đã nói. Trang 43
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Thế cũng có nghĩa là các giáo sĩ ngoại quốc lúc đó đã học tiếng nước ta. Trong những người đầu tiên đặt chân lên đất Đàng Trong, ngoài Buzomi vì đã có tuổi nên không thông thạo tiếng, thì có Borri cũng nói được tiếng Việt, nhưng chưa tinh thông để giảng dạy đàng hoàng. Trái lại có De Pina là người còn trẻ và đã rất tinh thông Việt ngữ. De Pina còn là thầy dạy của De Rhodes. Gaspar Luis viết: “Chúng tôi bắt đầu hái được kết quả chúng tôi mong ước trong việc thông thạo ngôn ngữ chúng tôi đã học trong mấy năm trước.” “Mấy năm trước” là những năm nào. Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, thế có nghĩa là vào những năm theo sau đó, từ 1616 tới 1620. Trong một dịp đố thách của một vị tiến sĩ rất thông hiểu các đạo cổ truyền của ta, các giáo sĩ chưa dám tới tranh luận: “Có lần ông chủ ý cho tranh luận bất cứ ai, nếu người nào nhận đố thách và trả lời đúng như lý thuyết của giáo phái thì ông cho thưởng như ông đã hứa. Các cha đã bàn và định tới gặp ông ngay khi thông thạo tiếng nói”. Theo phỏng đoán của chúng tôi thì quyển giáo lý bằng tiếng Đàng Trong nói trên, có thể là đã được viết vừa bằng chữ nôm cho người bản xứ dùng, vừa bằng chữ Việt theo tự mẫu latinh hay quốc ngữ tiện cho các giáo sĩ. Những vị này cũng thường có một thứ sổ tay làm ngữ vựng ghi bằng quốc ngữ còn thô sơ để họ học tiếng. Trong bản Tường trình của Gaspar Luis, bản tiếng Pháp năm 1626, ngoài mấy danh từ riêng, chúng tôi chỉ thấy có mấy chữ ông ghi bằng chữ quốc ngữ cổ, đó là Bàn Cổ, Ông Nghè, ông trùm, Phật sư sãi (?) mà ông ghi hay người dịch ghi là Focisays. Đỗ Quang Chính nói, trong bản viết tay bằng La ngữ năm 1621, có mấy chữ quốc ngữ như Cacham (kẻ Chàm, kẻ Chiêm), Nước Mặn, Ông Nghè, Bàn Cổ. Trái lại bản tường trình của Borri có ghi nhiều chữ quốc ngữ cổ, trong đó có mấy câu rất lý thú như: “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam” (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?), “Tuijciam biết” (Tôi chẳng biết), Trang 44
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Onsaij di lay” (ông sãi đi lại), “da an nua da an het” (đã ăn nửa, đã ăn hết), “Da den lut, da den lut” (Đã đến lụt, đã đến lụt). Trong bản viết tay bằng tiếng Ý năm 1621, cũng thấy những dòng chữ quốc ngữ như trong bản dịch bằng tiếng Pháp năm 1631, hay bản tiếng Ý in năm 1631. Luis chưa nói gì về tiếng Việt, nhưng Borri đã bắt đầu nghiên cứu và vắn tắt phác họa một thứ ngữ pháp tiếng Việt trong bản Tường trình q.2, ch.6. Ông nói về sự học của ta thời đó, về các trường dạy học, về Khổng Tử, Khổng học, về tiếng nói và chữ viết của ta ngày xưa, ông phân biệt “kinh” và “chữ”, đúng hơn “sách kinh” là sách kinh điển của thánh hiền, còn “sách chữ” là sách viết thông thường. Về tiếng Việt, ông đã phân biệt các thanh của ta và ông nói thanh của tiếng Việt phong phú hơn thanh tiếng Trung Hoa và ông viết: “Họ có tai sành âm nhạc và có khả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau” (Borri, sd tr.44-45). Ông cũng đề cập tới cách “không chia động từ” của tiếng ta và ông kết luận: “Do đó thì dễ biết rằng ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng tôi chuyên cần, tôi đã học được đủ để có thể nói truyện với họ và giải tội được nữa, tuy tôi chưa được tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn” (Borri, sd tr.46). Như chúng tôi đã nói, Tường trình của ông ấn hành bằng tiếng Ý, tiếng Pháp năm 1631, tiếng Latinh, tiếng Hòa Lan năm 1632, tiếng Đức, tiếng Anh năm 1633, nhưng bản viết tay còn giữ được ở văn khố Dòng Tên Roma, ghi năm 1621. Cũng phải nói thêm rằng, sau năm 1621 và trước năm 1631, khi về Au Châu, ông đã viết thêm chương 11 “về xứ Đàng Ngoài” theo những bản tường trình ông được biết. Vì thế trong bản tiếng Ý, có chương 11 này. Nhưng trong bản dịch tiếng Pháp ấn hành ở Lille năm Trang 45
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
1631, người ta đã không dịch. Khi chúng tôi cho ấn hành bản Việt ngữ của chúng tôi thì chúng tôi cũng chưa được biết. Do đó khi khám phá ra thì đã quá muộn. Hy vọng trong lần tái bản sẽ có đầy đủ, nghĩa là có cả chương 11 trong q.2. Thái độ của Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên. Ở Bắc Hà khi các giáo sĩ tới nước ta vào buổi đầu, thì đã trực tiếp được tiếp kiến Trịnh Tráng tại kinh thành: Baldinotti năm 1626 cũng như De Rhodes năm 1627. Nhưng ở Nam Hà, người ta có cảm tưởng như đoàn giáo sĩ chỉ tiếp xức với trấn thủ Quảng Nam, tức hoàng tử Kỳ, con trưởng của Sãi vương, và họ cũng hoạt động ở vùng Thuận Hóa, nơi đây có dinh của nhà chúa. Gaspar Luis không nói gì tới chúa Nguyễn Phúc Nguyên, cũng không đả động tới thủ phủ của nhà chúa. Borri viết, khi nói tới hoạt động đầu tiên của Buzomi: “Người ta còn đặc biệt thấy việc người làm ở Quảng Nam là thành phố chúa đóng đô”. (Borri, sd tr.63). Đây cũng là một nhận định sai lầm. Nguyễn Phúc Nguyên không đóng đô ở Quảng Nam. Người ta được biết khi Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong, năm 1558, thì đã lập dinh ở Ai tử (thuộc huyện Triệu Phong ngày nay). Tới năm 1570 thì dời về Trà Bát thuộc huyện Đăng Xương, rồi tới năm 1600 ông dời dinh về phía đông Ai tử, thường gọi là Dinh Cát. Ở Quảng Nam, từ năm 1602 đã thành lập trấn dinh ở Cần Húc, huyện Duy Xuyên, thủ phủ của xứ Quảng Nam. Sở dĩ có sự lầm lẫn này là vì, theo Gaspar và Borri, người ta thấy sự có mặt của Sãi vương ở Quảng Nam, nơi hoàng tử Kỳ làm trấn thủ. Và có lần giáo sĩ nói tới nhà chúa thì cho chúng ta hiểu lúc đó Nguyễn Phúc Nguyên đang ở tỉnh này. Việc ông năng đi lại tỉnh này có thể được đặt ra, bởi vì trước khi lên nối vị ông đã làm trấn thủ tỉnh Quảng Nam từ năm 1602 cho tới khi được triệu về để nhận lời trối trăng của Nguyễn Hoàng, trứơc khi ông này nhắm mắt, đó là năm 1613. Trang 46
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Như trên chúng ta đã thấy công việc của ông làm cho dân cho nước, “sửa thành luỹ, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu đâu cũng vui phục”. Về mặt kinh tế, ông đã cho đặt “nhà đồ, thu các hàng hóa phẩm, giao cho Nội lệnh sử ty giữ” (Thực Lục, tb.2, Sd. tr.48). Thế nhưng, ông cũng nghiêm trị khi “ngai vàng” của ông bị lung lay hay tình hình đất nước giao động: ông đã thẳng tay trừng trị hai em làm loạn. Tuy nhiên ông cũng rất khoan hồng và có mưu lược an dân, vỗ về dân, như việc đánh dẹp người man hay Lào và bắt được nhiều tù binh, năm 1621. Thực lục ghi: “Quả nhiên bọn người Man đến cướp, kéo vào cửa động, phục binh nổi dậy, bắt được hết đem về. Chúa muốn lấy ấn tín vỗ về ngừơi đất xa, sai cởi trói ra và cấp cho quần áo lương thực, răn dạy rồi thả về. Quân Man cảm phục, từ đấy không làm phản nữa.” (Thực lục, tb.2, sd.1, tr.50). Nhưng còn đối với Kitô giáo mới gia nhập xứ ông thì ông có thái độ nào. Gaspar Luis không nói gì tới ông, nhưng khi chúng ta thấy có mấy nhân vật thuộc vào hàng quan cao cấp trong phủ ông tỏ ra có thiện cảm với Kitô giáo thì chúng ta cũng có thể đoán là Sãi vương không ngăn cấm hay đe loi trừng phạt. Người con trưởng của ông là hoàng tử Kỳ được tự do giao tiếp và giúp đỡ các giáo sĩ, quan trấn thủ Quy Nhơn đặc biệt ưu đãi Buzomi và đoàn truyền giáo, sứ thần Zegrô tự do theo Kitô giáo, mặc dầu ông này có một chức vụ ngoại giao không thuộc bậc nhỏ. Chúng tôi còn có dịp nói tới tinh thần cởi mở và rộng lượng của ông khi đề cập tới mấy nhân vật “lớn” và đã theo Kitô giáo dưới triều của ông, như bà Minh Đức Vương thái phi, công chúa Ngọc Đỉnh, công chúa Ngọc Liên. Borri khen ông khi ông khéo xử sự trong vụ người ta vu oan cho đoàn giáo sĩ: “Chúa vừa khôn ngoan vừa có lương tri, nên ngài coi thường đề nghị và cho rằng đó chỉ là nguyên hình sự tưởng tượng và ảo tưởng các thầy sãi bày đặt ra… Ngài không cần để ý tới, vả lại ngài rất quý các cha và rất trọng người Bồ”. (Borri, sd tr.65) Trang 47
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Quý các cha”, “trọng người Bồ”, vì thực ra có thể nói trong giai đoạn này, hai sự việc có ảnh hưởng tương hỗ. Nhà chúa muốn có người Bồ tới buôn bán ở đây thì cũng phải trọng nể giáo sĩ đi theo họ để làm tuyên uý. Sãi vương cũng cần các giáo sĩ để thương lượng với người Bồ. Vì thế trong việc khó xử này, Sãi vương rất khôn khéo, ông “cho vời các cha vào và rất thân tình nói với các cha, vì ngài biết rõ chúng điên rồ và sự ngu si của các thầy tế… Ngài xin các cha chịu vắng mặt trong ít lâu, ra khỏi nước này ngay tức khắc…” (Borri, sd tr.65) Vào cuối bản Tường trình, Borri còn nói tới những liên hệ khó khăn xảy ra, giữa Sãi vương và các giáo sĩ đã có nhiều xung khắc. “Chúng tôi lại nghe nói, chúa cấm không cho người ta theo Kitô giáo và còn đe trục xuất các cha ra khỏi xứ ngài, chỉ vì thương gia người Bồ không còn đem tàu bè đến buôn bán. Thế nhưng Thiên Chúa nhân lành không cho phép cuộc bắt bớ này đi xa hơn, nên chúa bằng lòng để cho một trong các cha của chúng ta trở về Macao, để vận động cho người Bồ tiếp tục đến buôn bán như trước”. (Borri, sd tr.124). Đoạn văn này hẳn là đã được viết sau năm 1622 là năm Borri bỏ Đàng Trong, và trước năm 1631 là năm ấn hành bản tường trình. Một trong các cha trở về Macao để vận động cho nhà chúa là cha nào, và cuộc vận động ra sao, chúng ta không được biết. Cho tới năm 1622 mới chỉ có bốn giáo sĩ là Buzomi, De Pina, Marquez và Borri. Từ 1622 cho tới 1631 có chừng 14 người nữa, dĩ nhiên có sự đi về trong giai đoạn này. Tóm lại việc trọng đãi người Bồ và các nhà truyền giáo cũng do ý nhà chúa muốn thông thương buôn bán với người Bồ, để thu lợi nhuận và cung cấp võ khí để chống chúa Trịnh ở Đông Kinh. Người ta nói, phần thắng thế của chúa Đàng Trong, một phần vì địa thế hiểm trở thành luỹ bảo vệ, một phần vì lực lượng vũ trang hoàn bị hơn, trong đó có phần đóng góp của người Bồ. Borrri còn kể sự tranh giành giữa hai đế quốc Hòa Lan và Bồ. Sãi vương cho người Hoà Lan tới buôn bán ở xứ ta. Người Bồ đã sai sứ Trang 48
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
giả tới để can ngăn chúa, bởi vì nếu nhà chúa không nghe, thì có thể nguy tới vận mệnh quốc gia. Người Bồ không quên đưa ra lý lẽ dọa nạt chúa. “Nếu ngài không cẩn thận thì e rằng người Hòa Lan với thời gian chúng rất khéo và rất quỷ quyệt, chúng dám xâm lược một phần xứ Đàng Trong, như chúng đã làm ở mấy nơi trong nước An Độ”. (Borri, sd tr.57). Nói như vậy thật ra cũng không ổn, bởi vì chính người Bồ, trước người Hòa Lan, họ cũng đã xâm chiếm nhiều nơi trong nước An Độ và bán đảo Malacca, những nơi này, một phần đã bị người Hòa Lan tới đuổi người Bồ và chiếm lại. Do đó mà có sự thù địch giữa hai nước. Nhưng Sãi vương theo lời bàn của những người hiểu tình thế, ông không nghe người Bồ và cho mọi quốc gia, kể cả Hòa Lan, tới buôn bán ở nứơc ta. Borri viết: “Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới”. (Borri, sd tr.57) Vẫn theo Borri, Nguyễn Phúc Nguyên còn đẩy mạnh sự cởi mở hơn nữa, vì mấy lần ông mong cho người Bồ đến lập thương điếm ở Hội An, Đà Nẵng, như thể người Tàu, người Nhật đã làm, nghĩa là có trụ sở, có khu phố riêng biệt, với phong tục, tập quán, tiếng nói riêng. Thế nhưng người Bồ đã không nhận. Có thể họ tính toán và thấy không có lợi cho họ bằng những địa điểm thuộc Trung Quốc, tỉ như Macao. Borri còn đường đường chính chính yêu cầu nhà cầm quyền Bồ nên nhận lời mời của Sãi vương để lập căn cứ thương mãi ở đây. Ông còn đưa ra hai lợi ích vừa về kinh tế vừa về chiến lược như sau: “Và tôi mạn phép nói lên cảm tưởng của tôi về việc này với hoàng đế công giáo, tôi xin nói rằng ngài nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp chúa Đàng Trong đã đưa ra và sớm xây cất ở đó một thành phố tốt đẹp, làm nơi an toàn và cư trú, lại dùng để nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi Trung Quốc. Cũng có thể giữ một hạm đội hoàn toàn sẵn sàng chống lại người Hòa Lan đi Tàu đi Nhật, dù muốn dù không bó buộc họ phải qua giữa eo biển nằm trong bờ Trang 49
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ tỉnh Phú Yên và Quy Nhơn với những quần đảo Chàm” (Borri, sd.57) Thật không còn che đậy gì nữa, Borri mong cho sự cởi mở của Sãi vương được hoàn bị. Và rất phù hợp với bài của Chen Ching Ho nói về chính sách bế quan tỏa cảng của vua Trung Quốc vào thế kỷ 15, 16, trái với ý thức mở rộng cửa thông thương của Sãi vương. Borri viết: “Rất trái ngược với vua Trung Quốc, ông này sợ tất cả, đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không cho phép buôn bán trong nước ông và sứ giả phải nại nhiều lý do mới được như ý sở cầu”. (Borri, sd tr.157). Sãi vương và mê tín Ở đây, mê tín, chúng tôi có ý nói về những tập tục kỳ dị người ta tỏ ra khi có nguyệt thực và nhật thực. Nếu chỉ có nơi dân gian thì chúng ta ít để ý tới. Đàng này, từ trên tới dưới, từ chúa cho tới quần thần, tất cả đều “tin tưởng” như nhau và nhất là mê tín này có thể như một nghi lễ chính thức trong đền đài, thủ phủ. Gaspar Luis tả nguyệt thực xảy ra ở Quảng Nam, lúc đó có chúa Sãi ở đó: “Lúc mọi người đã tề tựu đông đủ thì chúa ra khỏi đền mặc áo cẩm bào tới điện kính thiên địa để tế mặt trăng, chờ nguyệt thực, lúc thì quỳ gối cầu khấn, khi thì đứng, khi sấp mặt trên đất để xin được phù hộ và che chở cho mình và lãnh thổ mình. Sau khi chúa tế xong thì đến lượt tiếp thay nhau, hoàng tử, tướng lãnh, quân sĩ và dân chúng. Người ta giữ nghi lễ long trọng trong dịp này”. Người ta có cảm tưởng như đứng trước một nghi lễ quan trọng như lễ tế Giao, và điện kính thiên địa ở đây cũng nhắc tới đàn Nam Giao của ta, ở đất kinh thành Thăng Long cũng như ở Thuận Hóa, thủ phủ nhà Nguyễn. Người ta cũng có cảm tưởng như dinh Chiêm ở đây được coi như “đền vua”, “phủ chúa”. Do đó chúng ta có thể thấy “trấn dinh ở xã Cần Húc” này có một tầm vóc quan trọng. Trong một dịp khác, cũng diễn ra cảnh tương tự, đó là vụ nhật thực mà Gaspar chỉ nói sơ qua, nhưng Borri cho đủ chi tiết: Trang 50
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Ngày đó trời đẹp, sáng và trong, không có chút mây nào. Vả lại vào tháng năm, mặt trời ở xứ này chiếu thẳng trên đầu và vào khoảng ba giờ chiều, phải xảy ra điều họ kể, đúng giờ mọi người chịu nóng bức. Thế nhưng chúa không quên ra khỏi phủ với các cận thần, chịu mệt nhọc trong một thời gian để chờ đợi, nhưng rồi bị cụt hứng, xúc động vì vừa chịu nóng bức vừa bực mình vì thấy các nhà toán học dốt nát, chúa khiển trách rất nặng và qưở mắng rất nhiệm nhặt. Họ tạ lỗi và cho là nhật thực chắc chắn xảy ra, nhưng trong khi tính toán họ đã nhầm lẫn một ngày có liên quan tới sự giao hội của mặt trăng, và không còn nghi ngờ gì nữa, ngày mai cũng vào giờ này sẽ có. Chúa tin lời họ nói và ngày hôm sau vào đúng giờ này, chúa không nhận thấy gì ngoài cái nóng bức như ngày hôm trước. Các nhà toán học của ngài bị khinh bỉ và xấu hổ hết sức và chắc rồi sẽ bị phạt nặng. Bởi vì không những ngài rút hết các lãnh thổ đã phát cho họ để lấy huê lợi, mà để nhạo báng họ ngài còn truyền cho họ quỳ gối một ngày trọn ở giữa sân trong phủ đầu trần phơi giữa ánh sáng mặt trời thiêu đốt, lại còn chịu xỉ nhục và chê cười của tất cả cận thần. Hoàng tử thấy mình giỏi hơn và toàn thắng, thì viết một bức thư lên đức thân phụ và vui đùa cho ngài biết là mình chỉ gặp may hơn ngài về việc nhật thực và mình có những người thông thạo hơn những người trong phủ ngài mà thôi” (Borri, sd. tr.106-107). Ông Hoàng Xuân Hãn nói rất đúng khi viết: “Một nhược điểm của văn hóa ta là rất kém về khoa học. Cho nên, ngoài y học, hình như ta ít sáng kiến. Riêng về thiên văn, lịch học, ta đã không có trình độ khoa học có thể lập được một phép lịch đặc trưng. Các triều đại ta chỉ dùng một vài lịch pháp Trung Quốc có khi đã bị bỏ ở Trung triều rồi” (Hoàng Xuân Hãn, Lịch và Việt Nam, tập san KHXH, Paris 1982) Người thời đó tin vào ảnh hưởng trực tiếp với vận mệnh con người, vận mệnh quốc gia do những hiện tượng huyền bí là những thiên thực. Trong lịch hằng năm, người ta cẩn thận ghi những ngày có nhật, nguyệt thực, sao chổi, sao băng hoặc những hiện tượng lạ lùng nào khác như mưa máu, sấm kinh hoàng, núi lở, sét vang. Về thiên thực, vì Trang 51
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
không hiểu nguồn gốc khoa học, nên người ta mới tìm cách cứu chữa mặt trăng khỏi con gấu ăn. Borri nhắc lại: “Khi tới (nguyệt thực) thì tất cả các quan trong tỉnh, các hàng quan khác, các tướng lãnh, kị binh và dân chúng cùng các viên chức, tất cả hội họp nhau trong mỗi thành và mỗi lãnh thổ. Nhưng cuộc hội chính yếu là ở trong phủ chúa, nơi có mặt tất cả các quan cao cấp trong nước, tất cả đều đem theo vũ khí và cờ hiệu. Chúa đứng đầu mặc y phục tang chế, rồi tất cả triều đình, họ nhìn ngắm mặt trời và mặt trăng, và trong khi thấy thiên thực thì họ quỳ xuống lạy một hai hay nhiều lần, nói mấy lời thương xót vị hành tinh đang chịu cực nhọc và thống khổ. Bởi vì họ cho rằng thiên thực không là gì khác, chỉ là mặt trời và mặt trăng bị con rồng nuốt và đáng lý ra như chúng tôi nói mặt trăng bị khuất một nửa hay bị khuất hết, thì họ lại nói đã ăn nửa, đã ăn hết, có nghĩa là con rồng đã ăn một nửa, con rồng đã ăn hết tất cả”. (Borri, sd tr.100-101). Dĩ nhiên Sãi vương đã không am hiểu sự thể, các nhà toán học hay thiên văn học của ông lại cũng không sành vấn đề, làm cho đã xảy ra những điều đáng tiếc. So với mấy giáo sĩ tinh thông thiên văn học, họ thấy mình kém cỏi và dốt nát. Còn lại là những nghi lễ có tầm vóc quốc gia và được duy trì rất mức nghiêm chỉnh.
Trang 52
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
GIULIANO BALDINOTTI - TƯỜNG TRÌNH VỀ ĐÀNG NGOÀI 1626 Lời giới thiệu Bản tường trình này ngắn nhưng rất quý, bởi vì trong mấy câu vắn tắt tác giả cho chúng ta biết sơ qua về Kẻ Chợ- Hà Nội ngày nay- ở vào đầu thế kỷ 17. Còn về việc truyền giáo, chúng ta cũng được biết sơ lược về buổi tiếp xúc đầu tiên của giáo sĩ với chúa Trịnh Tráng, với các nhà sư, nhà nho thời đó. Điều làm ngăn trở không cho giáo sĩ giao thiệp rộng rãi hơn đó là việc không tinh thông ngôn ngữ bản xứ. Chúng tôi phỏng đoán cuộc đàm thoại đã xảy ra bằng chữ viết, nhờ một thầy trợ sĩ người Nhật cùng đi với giáo sĩ. Giuliano Baldinotti sinh tại Ý năm 1591, vào Dòng Tên. Chúng ta chưa biết nhiều về ông, chỉ biết ông qua Macao, rồi năm 1626 Bề trên phái ông đi với thương gia người Bồ tới Kẻ Chợ Đàng Ngoài. Cuộc tiếp xúc này mở đầu cho một công việc truyền giáo lâu dài, bởi vì ngay sau ông là De Rhodes, người đã học thạo tiếng Việt ở Đàng Trong. Baldinotti mất tại Macao năm 1631. Bản Tường trình này thường gọi là Bức thư Êtiopia năm 1626, viết bằng tiếng Ý, xuất bản ở Roma và Milan. Bản dịch Pháp văn nhan đề Tường trình về những gì xảy ra ở nước Êtiôpia năm 1626 cho tới tháng 3 năm 1627, và ở Trung Quốc năm 1625 tới tháng 2 năm 1626. Kèm thêm bản ký sự cuộc hành trình tới nước Đàng Ngoài vừa mới khám phá ra, do những thư Cha Bề Trên Cả dòng Tên nhận được. Dịch từ tiếng Ý sang tiếng Pháp do một cha cùng Dòng. Paris, nơi Sébastien Cramoisy, rue Saint Jacques, 1629. Chúng tôi dùng bản in trong tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient, t.III 1903, tr.75-78. Hồng Nhuệ Giuliano Baldinotti, S.J
Trang 53
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Trích thư từ Êtiopia, Roma 1626. Viết tại Macao ngày 12-11-1626 ĐÀNG NGOÀI Nhân dịp có mấy thương gia người Bồ lấy tàu đi xứ Đàng Ngoài, hành trình cho tới đây chưa ai thực hiện [1], nên Bề trên nắm lấy cơ hội sai tôi và thầy Giuliô Piani người Nhật, làm tuyên uý và đồng thời cũng để tôi xem xét tình hình ở xứ đó có chịu nhận lời Thiên Chúa. Với ý đó, chúng tôi trẩy đi từ Macao ngày mồng 2 tháng 2 năm 1626, ngày lễ Đức Mẹ dâng mình. Chúng tôi lênh đênh trên biển ba mươi sáu ngày[2], một phần vì thiếu kinh nghiệm về cuộc hành trình còn quá mới mẻ, một phần vì có cơn bão lớn nổi lên; con bão này chỉ yên khi chúng tôi ném xuống biển một di vật của thánh Phanxicô Xaviê [3]. Ngày mồng 7 tháng 3 chúng tôi tới xứ Đàng Ngoài, qua một con sông chảy từ đất liền dài mười tám dặm. Được tin chúng tôi tới, chúa [4] phái bốn thuyền chiến đón chúng tôi, những thuyền này đi theo chúng tôi suốt khúc sông để hộ vệ chúng tôi khỏi bọn cướp biển. Khi tới, tôi và thầy Giuliô theo người Bồ đến yết kiến chúa. Ngài tiếp đón chúng tôi rất niềm nở, chúc mừng chúng tôi, đãi chúng tôi những món ăn đặc biệt và hứa giúp chúng tôi trong mọi sự chúng tôi cần dùng. Khi chúng tôi tạm biệt chúa, thì chúa ban cho thuyền trưởng và tôi những bộ áo rất quý ở xứ này, lại còn cho chúng tôi cư trú ở những nhà đẹp nhất kinh thành. Trong khi chúng tôi ở xứ Đàng Ngoài, chúa còn săn sóc chúng tôi, ngài thường sai người đem quà bánh cho thuyền trưởng và cho tôi. Chúa thường làm thế mỗi lần thuyền trưởng và tôi đến chầu ngài, nghĩa là vừa ban quà bánh vừa cho tặng phẩm đủ thứ. Chúa còn hay mời chúng tôi đến dự những cuộc vui [5] như đấu voi, đua ngựa và đua thuyền; chính ngài cũng ngự trên một con voi rất cao lớn, cho lính cầm đao, gươm và những vũ khí khắc đưa lên, voi lấy vòi cuốn lấy rồi dâng lên chúa. Ngựa cũng làm như thế, nghĩa là Trang 54
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
cầm đao để dưới đất rồi đưa lên cho kỵ mã thắng ngựa. Chúa cũng mời chúng tôi đi dự tuồng kịch và những hội vui khác, có mấy cuộc vui tôi không muốn đi dự vì thanh danh của tôi. Chúa đặc biệt tiếp đãi chúng tôi, theo tôi nghĩ vì chúa muốn thông thương với người Bồ[6], người ta đồn khắp xứ là người Bồ đem tàu chở hàng hóa làm lợi cho xứ này. Suốt thời kỳ chúng tôi ở xứ Đàng Ngoài, tôi hết sức khuyên người Bồ làm gương sáng cho dân xứ này: họ đã thực hiện, làm cho chúa thán phục. Vì thế chúa rất kính trọng đạo ta và tỏ ra muốn cho tôi ở lại xứ ngài. Chúa sai một hoạn quan là một quan trong phủ, đến tìm tôi để tôi giảng cho chúa biết cuộc vận hành các tinh tú [7], vì chúa thấy tôi giỏi về toán học. Viên quan này nói với tôi rằng chúa thấy tôi tinh thông khoa này là vì có một trong các hoạn quan, vị quan chính yếu trong phủ và một trong các vị tăng của chúa, đã đến thăm tôi và đàm luận với tôi về đạo của vị tăng và tôi thì đàm về đạo của tôi và về nhiều vấn đề thường thức khác. Vị này, sau ba giờ đàm đạo đã phục lý đến nỗi nhiều lần trước mặt bộ hạ và người Bồ đã khẳng định rằng người xứ Đàng Ngoài không biết ăn nói, không biết suy nghĩ và sống như súc vật. Ông cũng năn nỉ tôi ở lại đây để giảng dạy họ, sau đó còn tặng tôi nhiều phẩm vật và đến thăm tôi một cách rất lịch thiệp. Với vị quan được chúa sai đến, tôi đáp lại rằng tôi không thể ở lại xứ này, vì tôi không có phép của Bề trên tôi, người chỉ cho tôi theo người Bồ trong cuộc hành trình khứ hồi này mà thôi, để làm gia sư và hướng dẫn linh hồn; nhưng khi tôi về tới Macao thì tôi sẽ xin phép trở lại và định cư ở xứ Đàng Ngoài này để phụng sự chúa. Điều làm tôi vui sướng đó là được rảo các lãnh thổ rộng lớn miền Đông phương này, không phải để tìm vàng tìm bạc, nhưng để giảng dạy những ai cần biết những sự trên trời và dạy cho biết Thiên Chúa thật, đấng dựng nên trời đất. Chúa rất hài lòng về câu trả lời của tôi và mấy ngày sau khi vời tôi vào phủ qua trung gian vị tăng trụ trì ngôi chùa chính (tôi thường đàm đạo về tôn giáo của tôi với ông và có một lần ông bái sấp mặt trên đất để tôn kính ảnh Chúa chúng ta và dâng của lễ) và cho dự yến tiệc rất thịnh soạn, rồi chúa hỏi tôi về những vấn đề toán học liên quan tới trái địa cầu [8] và yêu cầu tôi quyết định trở lại nước chúa trong năm sau. Trang 55
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Chúa còn cấp cho tôi một giấy thông hành để nhập cảnh và cư trú ở các lãnh thổ thuộc nước chúa, không bị thuế má chi hết. Hoàng tử cũng là thế tử cũng cấp cho tôi một giấy thông hành tương tự và tôi nhận được nhiều phẩm vật của ông cùng của hoàng thái hậu. Bà này bị ma quỷ hành hạ, ban đêm có những cơn ác mộng, bà xin tôi nếu tôi có phép khiến ma quỷ không được quấy rối bà thì bà xin theo đạo. Tôi đáp lại rằng, nhờ vào quyền cao cả của Thiên Chúa, tôi tin nếu bà trở lại đạo Kitô thì ma quỷ không còn hành hạ bà và nó sẽ ra khỏi bà, như nó vẫn tránh xa giáo dân tốt lành và rất sợ và tôi sẽ cầu khẩn Thiên Chúa thật cho bà. Như thuyền trưởng kể lại cho tôi, bà lấy tràng hạt đeo vào cổ, thế là bà được thoát khỏi mọi hành hạ của ma quỷ. Nhưng tức giận vì bị trục xuất khỏi xứ này và thấy đã chớm mở một công cuộc truyền giáo mới khởi sự, ma quỷ nhất định ngăn cản, qua trung gian một người Hồi [9], người này phao tin vu khống cho người Bồ, trong những tin đó có tin vu cho người Bồ làm gián điệp cho chúa Đàng Trong, thù địch của chúa Đàng Ngoài [10]. Nó còn vu cho thuyền trưởng người Bồ đã nhận của chúa Đàng Trong một món tiền lớn. Vì những tin bày đặt mà người Hồi này một đàng tìm cách báo thù mấy người Bồ, đôi bên có sự bất hòa, và đáng khác để chiếm đoạt những đồ vật của người Bồ còn lại khi bị trục xuất vì là gián điệp hay kẻ gian. Chúa không để ý tới kẻ vu khống, vì chúng tôi viết bài tường trình để tự thanh minh cho chúng tôi và vì có người họ hàng gần với chúa, người này đã quen biết người Bồ ở nhiều nơi, nên ông đã cho chúa biết thực hư, nhưng cũng chưa đủ để chúa yên tâm hoàn toàn. Chúa muốn cho chúng tôi phải thề là không còn tới Đàng Trong [11] và không gặp chúa thù địch, trái lại là bạn tốt và trung thành với chúa. Muốn vậy, chúa bắt chúng tôi đến trước bàn thờ Phật với đông đúc dân tuôn đến coi. Ở đây người ta đặt trên bàn một cái bình đầy rượu và nước, rồi lấy một cái xẻng bằng sắt và đầu một thanh gươm cho chạm vào bình đó. Rồi người ta châm lửa đốt một tờ giấy viết lời thề. Sau đó cắt cổ con gà mái mà cho chảy một giọt máu để giập tắt tờ giấy đang cháy. Họ chỉ làm thế và không có nghi lễ nào khác trong chùa, họ đứng vòng quanh bàn. Sau đó họ bảo chúng tôi thề nhân Trang 56
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
danh thần phật, bàn thờ và cánh lá vàng bày trên bàn thờ, chúng tôi phải giữ đúng nghi thức thề và uống rượu đó. Bấy giờ tôi trải một tấm ảnh Chúa Cứu Thế mà tôi đã kín đáo mang theo vì tiên đoán sự việc có thể xảy ra. tôi quỳ gối trước ảnh và tôi nói: tôi không muốn thề nhân danh bất cứ thần phật nào khác ngoài Thiên Chúa của tôi, trước một mình ảnh Thiên Chúa, đấng có quyền phạt những kẻ lỗi lời thề. Viên hoạn quan, một nhân vật trọng yếu trong phủ thay mặt chúa trong dịp này, ông không chịu để chúng tôi thề theo như tôi đã trình bày, nhưng thề nhân danh thần phật của họ. Tôi phân trần cho ông hiểu lý lẽ rằng theo thông tục mọi nước, thì dân nào thề nhân danh đấng dân ấy thờ và thực ra có lợi cho chúa hơn, nếu người Bồ thề nhân danh hình ảnh Thiên Chúa của họ, bởi vì người Bồ sẽ không giữ lời thề với những thần nào khác mà họ không công nhận và không kính sợ. Viên hoạn quan chưa chịu lý lẽ nên tôi đề nghị đưa ý kiến của chúng tôi lên chúa. (Tức thì ông sai người đi ngay) và chúng tôi sẵn sàng chết hơn là thề như vậy, không phải vì không muốn giữ điều chúa truyền, nhưng vì không công nhận là thần thánh những vị không phải là thần là thánh. Chúa khôn ngoan đã hiểu sự việc và phái người tới cho biết để chúng tôi thể theo kiểu người theo Kitô giáo như chúng tôi muốn. Phần tôi lúc đó, tôi quay lưng về phía thần phật và trước mặt là hình ảnh Thiên Chúa, tôi quỳ gối, tay để trên ảnh, tôi lớn tiếng khẳng định rằng tôi không thề nhân danh thần phật của xứ Đàng Ngoài hay bất cứ thần phật nào, vì tất cả đều là giả trá, nhưng tôi thề nhân danh Thiên Chúa thật, đấng dựng nên trời đất, Người phạt tôi chết vì nước, vì lửa, vì gươm đao, súng đạn, với những cực hình khác có thể nghĩ ra được, nếu tôi không giữ lời thề. Thầy Giuliô cũng thề, rồi tới thuyền trưởng và những người Bồ khác. Lương dân rất hài lòng về nghi lễ này, còn chúng tôi một nửa vừa ý một nửa phân vân vì mất một dịp tốt để hi sinh mạng sống vì Đấng đã vì chúng tôi mà bỏ mất sự sống rất thánh rất quý của Người. Lời thề này làm cho chúa không còn nghi ngờ chúng tôi và tức thì chúa sai người đem tặng chúng tôi nhiều phẩm vật và quà bánh, và cho phép chúng tôi trẩy đi [12]. Chúa rất có thể còn giữ chúng tôi mấy tháng nữa nếu cần, chỉ vì sợ chúng tôi vào Đàng Trong. Trang 57
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Trong khi chúng tôi bị giữ thì tôi có đủ dễ dàng để thu nhặt một ít tình hình về xứ này, theo như lệnh đã ra cho tôi phải tường trình. Xứ Đông Kinh [13] được gọi theo một thành phố cùng tên, là nơi chúa ngự. Phía bắc giáp giới Trung Hoa, phía nam liền với Đàng Trong, phía tây là người Lào và phía đông là biển Trung Quốc. Tính ra chừng một trăm dặm vuông. Có nhiều sông lớn còn hầu hết là đồng bằng, có rất nhiều lương thực như lúa, thịt dã thú và gia súc, gà, vịt và rất nhiều trái cây giống như ở Trung Quốc. Tuy đất phì nhiêu nhưng lương thực không rẻ, vì quá đông dân cư. Dân xứ này thờ dị đoan. Nhiều người theo ảo thuật người Calđê [14]. Người khác theo thầy tướng thầy bói; người khác lại theo triết gia khổ hạnh An Độ [15]. Nhiều người thờ một pháp sư bản xứ gọi là “Zinum” [16] : họ cúng tế vị này vì họ sợ. Người ta kể rằng thủ cấp vị pháp sư này bị chặt thì có phép làm khô cằn cây có và phá hoại vườn ruộng, giết các giống vật khi mắt nhìn tới. Người ta giữ thủ cấp đó trong thành phố sinh quán của ngài, thành này xa phủ chúa chừng bốn ngày đàng, nơi sinh sống các con cháu giòng họ. Có người thờ kính thần phật kể ở trên; cứ chung chung mà nói thì họ ít sùng phật (nơi họ chỉ cầu những lợi lộc trần gian), một phần vì họ thông minh, họ nhận ra sự giả trá của thứ đạo này, một phần vì không đủ chư tăng xứng đáng, những vị này không thuộc phái nhà nho [17], lại không đủ tư cách để thuyết phục; hoặc vì họ ưa ngành võ bị hơn [18], đặc biệt là pháo binh và súng ống mà họ tỏ ra rất thiện nghệ. Về diện mạo thì họ khá cao ráo, vạm vỡ và can đảm. Họ mặc một thứ áo dài vạt về phía trước rủ xuống tới giữa cẳng chân. Họ để tóc dài và đội nón. Binh sĩ thì đeo gươm đeo kiếm. Đó là những người bệ vệ, dễ giao thiệp, trung thành, vui vẻ. Họ không có những tật xấu như người Trung Hoa và Nhật Bản. Dân thường thì hay trộm cắp, vì thế người ta phạt kẻ ăn trộm ăn cắp cũng như người ngoại tình bằng án tử hình. Vua xứ Đàng Ngoài đứng đầu chính lãnh thổ [19], có ba quốc vương đến triều cống đó là vua xứ Lào, chúa Đàng Trong và vua Cao Bằng. Còn chính ngài thì phải triều cống Trung Quốc, mỗi năm cống Trang 58
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ba tượng vàng và ba tượng bạc [20]. Lợi tức được chừng hai triệu. Ngài có thể giàn trận với những đạo quân lớn, khi cần có sáu trăm quan cao cấp phải cung cấp cho ngài [21], người thì một nghìn, người thì hai nghìn binh tự mình đài thọ cho tới hết chiến tranh. Những tướng lãnh này có hai hoặc ba vùng đất phong vua ban cho để chi dụng vào việc này. Ngài có chừng bốn ngàn thuyền chiến [22], hai mươi sáu tay chèo mỗi bên, đậu ở nhiều nơi, hầu hết khi ra trận thì có đủ súng ống, trong đó có khẩu mười bốn líu. Hầu hết ở đầu thuyền thì sơn son thiếp vàng rất đẹp. Có lần tôi thấy năm trăm chiếc hội lại để dự lễ giỗ đức thân phụ chúa đương thời [23], vị này mấy năm trước đây đã do người con út ám sát vì muốn tranh ngôi báu, nhưng người em út này lại bị người anh cả giết đi, đó là vị chúa đương thời, vị thế tử đích thực và nối ngôi trị nước. Chúa rất hiếu chiến, ngài không ngừng theo luyện bắn súng và cưỡi ngựa, có nhiều ngựa rất đẹp, cả voi cũng vậy. Ngài thích cho đua thuyền, cho lượn đủ kiểu, vòng đi lượn lại theo tiếng gõ nhịp chạm nhau. [24] Kinh thành ở vào vĩ tuyến hai mươi mốt [25]. Khí hậu rất nóng khi không có gió thổi, nhất là vào tháng sáu. Kinh thành không có tường không có luỹ [26]. Trong phủ chúa có nhà lợp ngói và xây gạch lớn, ngoài đó ra thì chỉ bằng thứ cây sậy của xứ này gọi là tre, mái lợp gianh và không có cửa sổ. Trong thành có nhiều hồ lớn [27] để có thể giập tắt đám cháy cách nhanh chóng, có những vụ hỏa tai thiêu trụi tới năm sáu ngàn mái nhà, nhưng sau đó bốn năm ngày lại dựng được ngay. Vòng quanh thành chừng năm sáu dặm và dân cư thì rất đông. Có một con sông lớn [28] thuyền bè đi được chảy ra biển xa chừng mười tám dặm, nước sông rất đục, nhưng người ta vẫn uống vì trong thành không có vòi nước, không có giếng, không có bể chứa nước. Một năm hai lần, nước sông dâng lên vào tháng sáu và tháng một, làm ngập một nửa thành phố, nhưng không lụt lâu. Đó là những điều chính yếu tôi biết được về xứ Đàng Ngoài. Vì đã hết gió nồm nên chúng tôi trảy đi ngày 11 tháng 8 có thuyền chiến của chúa tháp tùng cho tới biển [29]. Trước khi chúng tôi ra đi thì chúa đãi tiệc lớn mời tôi, thầy Giuliô, viên thuyền trưởng và những người Bồ khác. Chúa còn tặng chúng tôi nhiều phẩm vật và cho xem kho tàng Trang 59
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
của ngài. Nhờ ơn Thiên Chúa, chúng tôi tới Macao bằng yên ngày 16 tháng 9. Ước mong Thiên Chúa mở đường truyền giáo nước này để có thể từ đó gia nhập Trung Quốc (việc này làm được rất dễ dàng, như nhiều người Nhật đã nói với tôi, họ đã tới tỉnh Trung Quốc gọi là Quảng Đông, chỉ xa xứ Đàng Ngoài chừng bốn ngày đàng) và để tới nước Lào, như tôi đã nói là nước lân cận với xứ Đàng Ngoài và là một dân tộc rất sẵn sàng nhận đức tin của ta, như cha Đắc Lộ đã tường thuật, cha đã tới truyền giáo ở đó. Chúng tôi trông vào lòng từ bi Thiên Chúa để không những ở đại quốc gia Đàng Ngoài mà cả ở nước Lào, đức tin xâm nhập và giải thoát vô số linh hồn khỏi ách nô lệ ma quỷ, trước khi giáo phái tai hại của Mahomét tới [30]. Từ Macao này 12 tháng 11 năm 1626. Kính gửi cha Người con bất xứng và kẻ tôi tớ trong Thiên Chúa Giuliano Baldinotti. Chú thích [1] Các thương gia người Bồ, người Hòa Lan, thường cho tàu lần theo bờ biển Đàng Trong cho tới Quy Nhơn, Quảng Ngãi hoặc Hội An, rồi mới chiếu thẳng để đi Trung Quốc và Nhật Bản. Vì thế Đàng Ngoài mãi về sau mới được người ngoại quốc tới. Mới đây Pierre Yves Manguin đã chứng minh điều này một cách rõ rệt, dựa vào các giấy tờ của các nhà hàng hải Bồ vào thế kỷ 16, 17 và 18 (P.Y.Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viet Nam et du Champa, EFEO, Paris 1972). [2] Tác giả cho biết lý do, một là vì có bão lớn, hai là vì chưa thạo đường lối. Trong cuốn sách kể trên, cũng có một lộ trình từ Macao tới Đông Kinh hay xứ Bắc, nhưng đó là lộ trình còn mới mẻ so với tất cả những lộ trình khác: Quy Nhơn Macao, Quảng Ngãi Macao hay Hội An Macao. Trang 60
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[3] Đây là một thói quen có vẻ dị đoan ở thế kỷ 16, 17 này. Người ta ném xuống biển một ảnh tưởng thánh hay một di vật thánh để cho biển yên lặng. Coi Hành trình và truyền giáo của De Rhodes: hai lần người ta ném xuống biển một sợi tóc của Đức Trinh Nữ (!). [4] Trịnh Tráng (1623-1657) Thanh Đô Vương. Như sẽ thấy sau, lúc này, để đương đầu với Đàng Trong, Trịnh Tráng cần sự giúp đỡ của ngoại quốc, vì biết quân chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng đã được một lực lượng về võ khí đáng kể do người Bồ cung cấp. Miền Nam tiếp xúc sơm hơn miền Bắc với người Bồ. [5] Những cuộc vui này đều là do nhà chúa cho tổ chức và trong nhiều cuộc chính ông cũng tham dự. Trong các sách vở của giáo sĩ ngoại quốc thời này, có nói tới những cuộc vui như vậy; coi Hành trình và Truyền Giáo. [6] Như đã nói ở trên, Trịnh Tráng muốn thông thương với người Bồ, một đàng vì muốn mua hàng ngoại quốc, nhưng đàng khác muốn được chuẩn bị về khí giới để đánh Nguyễn Phúc Nguyên ở miền Nam. De Rhodes có đề cập tới trận mở đầu năm 1627 trong Hành Trình và Truyền Giáo và trong Lịch sử Đàng Ngoài (1651) [7] Các giáo sĩ Dòng Tên thường là những người thông tinh toán học, họ đã tới giúp triều Bắc Kinh để thiết lập đài thiên văn và giúp làm lại lịch. Các vua ta lúc đó cũng rất ít hiểu về toán học và thiên văn học, nên cuộc đàm đạo về nguyệt thực và nhật thực cũng như cách tính ngày giờ xảy ra nguyệt thực, nhật thực được các người cầm quyền thời đó rất ham chuộng. Coi thêm Hành trình, Lịch sử Đàng Ngoài. [8] Sau này De Rhodes đã đem theo cuốn Kỉ hà nguyên bản bằng chữ Hán do các cha dòng Tên dịch và in ở Trung Quốc dâng Trịnh Tráng. [9] Không rõ người này là ai? Tại sao lại có người Hồi ở đây? [10] Trịnh Tráng nghi ngờ các giáo sĩ làm gián điệp cho chúa Nguyễn, và không phải không có lý do. Đắc Lộ kể rõ tình hình trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài. Số là khi Baldinotti thấy cần phải có người thạo tiếng Đàng Ngoài để có thể giảng cho dân xứ này, thì ông thuê Trang 61
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
người cầm thư vào Đàng Trong để xin phái một cha thông tinh tiếng Việt ra Đàng Ngoài. Mặc dầu hết sức giữ bí mật và tốn kém nhiều, tin này đã lộ ra làm cho nhà chúa nghi ngờ, đến nỗi bắt các giáo sĩ phải thề. Ở Đàng Trong khi nhận được thư cha Baldinotti thì đã phái De Rhodes tới Đàng Ngoài, song không dám đi thẳng ra Bắc mà phải trở về Macao, sau đó từ Macao tới Bắc. [11] Vì câu chuyện rắc rối này mà thuyền trưởng và phái đoàn phải ở lại đất Bắc lâu hơn đã định. Thương gia lần này không hài lòng, một đàng gặp tai nạn nguy hiểm tính mệnh đối với chúa Trịnh, đàng khác vì ở lâu nên tốn phí, nhuận lợi không được là bao, có khi còn lỗ vốn. Do đó trong chuyến đi lần sau từ Macao, ít người muốn nhổ neo để tới đất Bắc. Coi thêm Lịch sử Đàng Ngoài. [12] Thế là thoát, bởi vì như ngay sau tác giả nói: chúa có thể giữ họ lại nếu chúa chưa thấy sáng tỏ vấn đề, nếu chúa còn nghi ngờ phái đoàn có liên lạc với miền Nam. [13] Đời nhà Lý (1010) Hà Nội ngày nay được gọi là Thăng Long, sang đời Trần lại có tên là Trung Kinh, tới đời nhà Hồ gọi là Đông Đô, rồi Lê Thái Tổ sau khi đánh đuổi quân Minh thì đổi là Đông Kinh. Từ chữ Đông Kinh này mà người ngoại quốc gọi miền Bắc là Tonkin, lấy tên kinh thành làm tên xứ và do đó chữ Tonkin còn lại cho tới ngày nay. [14] Thuộc miền Cận Đông, nơi có nhiều pháp thuật và phù chú. [15] Có thể chỉ Phật tổ [16] Zinum không rõ là ai, có thể là “dị nhân” chăng? [17] Ở đây hé mở cho chúng ta nhận thấy sự xung đột giữa hai khuynh hướng Phật và Khổng, Phật giáo và Khổng giáo. Phật giáo thịnh hành nhất vào đời Lý Trần, nhưng sang đời Nguyễn thì nho giáo được tôn trọng hơn. [18] Trịnh Tráng ở Bắc phải đương đầu với Nguyễn Phúc Nguyên ở miền Nam, cho nên việc tập luyện về võ nghệ rất mực quan trọng, nhất là so với lực lượng xứ Nam, xứ Bắc đuối thế hơn nhiều. Trang 62
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[19] Chín tỉnh lớn (?): bản đồ De Rhodes ghi bảy tỉnh: Kẻ Bắc (Kinh Bắc), Kẻ Đông (Hải Dương), Kẻ Nam (Sơn Nam), Kẻ Tây (Sơn Tây), Thanh Hóa, Nghệ An và Bố Chính. [20] Nhắc tới lệ triều cống từ đời Lê Thái Tổ sau khi đánh đuổi được nhà Minh. Sách Việt Sử thông giám cương mục ghi sản phẩm địa phương triều cống gồm có: người vàng thế mạng 2 pho, lư hương bằng bạc một chiếc, bình hoa bằng bạc một đôi, lụa 30 tấm, ngà voi 14 đôi, hương xông 12 bình, hương vòng 20.000 vòng, trầm hương và tốc hương 24 cân. [21] Nhà vua cung cấp cho các tướng lãnh một số hộ để lấy lợi tức, với điều kiện khi cần phải mộ cho nhà vua một số lính. [22] De Rhodes nói nhiều về những chiến thuyền của Trịnh Tráng cũng như của Nguyễn Phúc Nguyên trong các sách của ông: coi Hành Trình và Truyền Giáo, Lịch sử Đàng Ngoài. [23] Sử gia Trần Trọng Kim viết: Trịnh Tùng năm 1623 đau, hội các quan lại giao binh quyền cho con là Trịnh Tráng và Trịnh Xuân làm phó. Trịnh Xuân không bằng lòng, đem binh làm loạn, đốt phá kinh thành. Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xã Hoàng Mai, vào nhà Trịnh Đỗ, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi. Được mấy hôm Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì. Trịnh Tráng lên nối nghiệp làm chúa. (Việt Nam Sử Lược, q.2 tr.36) [24] Coi thêm De Rhodes, các sách đã dẫn. [25] Ngành hàng hải của người Bồ đã tiến nhiều ngay từ thế kỷ 15, 16. Bản đồ của De Rhodes ghi các vĩ tuyến rất rõ rệt, tuy về hình thái thì còn thô sơ. [26] Hà Nội thưở xưa có Đại La Thành và La Thành, nhưng chỉ là những tường luỹ bằng đất và cắm tre mứa, chứ không như những thành luỹ kiên cố bằng đá hay gạch ở Au Châu. Mà những thành luỹ cổ ấy không tồn tại cho tới thời Trịnh Nguyễn này.
Trang 63
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[27] Thành phố Hà Nội ở giữa một vùng ao hồ với một ít đồi đất nhỏ bé. Hiện nay vẫn còn những hồ nổi tiếng như hồ Trúc Bạch, hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Bẩy Mẫu, hồ Thiền Quang. [28] Sông Hồng hay Hồng Hà, có nước phù sa đỏ thẫm. Thực ra lúc đó chưa có hệ thống nước uống như ở Au Châu. [29] Theo bản đồ Manguin vẽ thì có hai cửa là cửa Thái Bình và cửa Đáy. Theo cửa Thái Bình thì phải qua sông Luộc để tới sông Hồng. Theo cửa sông Đáy thì lên tới Sơn Tây rồi vào sông Hồng để tới Hà Nội. Còn theo cửa Ba Lạt ở giữa hai cửa trên thì thẳng tới Hưng Yên (Phố Hiến) để ngược lên tới Kẻ Chợ Hà Nội. [30] Người Hồi ở những đảo Java, Sumatra, Borneo có thể tới đây làm thương mãi. ĐÀNG NGOÀI DƯỚI THỜI TRỊNH TRÁNG Đàng ngoài vào năm 1626 Năm 1626 là cao đỉnh của tình hình căng thẳng giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, giữa Bắc Hà và Nam Hà, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Về phía Cao Bằng thì tạm yên. Năm 1623 nhân việc nước có đại tang Trịnh Tùng mất, Mạc Kính Khoan cầm quân dấy loạn, nhưng Trịnh Tráng đem quân đi dẹp được. Trái lại giữa hai bên, bắt đầu có tranh chấp lớn. Toàn Thư và Cương Mục không nói gì, nhưng Thực Lục tiền biên viết: “Năm giáp tý, Trịnh Tráng nhà Lê sai Công bộ thượng thư Nguyễn Duy Thì và nội giám Phạm Văn Trị đến đòi thuế đất. Chúa triệu hai người ấy bảo rằng: ‘hai xứ Thuận Quảng liền mấy năm không được mùa, dân gian túng đói, vì thế không nỡ thu thuế. Khi khác được mùa sẽ nộp cũng chưa muộn’. Sứ Trịnh không nói sao, bèn từ biệt về”. (Đó là năm 1624) (Thực Lục tiền biên q.2, Đại Nam thực lục, tập 1, NXB Sử học Hà Nội, 1962, tr.51).
Trang 64
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Đây chỉ là một lý do thoái thác, không muốn thần phục chúa Trịnh. Trong khi đó chúa Nguyễn thu phục nhân tài và củng cố doanh trại để đương đầu với chúa Trịnh. Sang tới năm 1626, Toàn Thư và Cương Mục vẫn không nói gì, nhưng Thực Lục chép: “Bính dần năm thứ 13 (1626) mùa thu tháng tám, Trịnh Tráng sai thái bảo Nguyễn Khải và thiếu bảo Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đóng đồn ở xã Hà Trung (thuộc huyện Kỳ Anh) làm kế xâm lấn miền Nam.” Rồi “mùa đông tháng 10, Trịnh Tráng sai Binh khoa cấp sự trung Nguyễn Hữu Bảo vâng sắc dụ vua Lê đến đói số thuế từ năm giáp tý về sau và mời chúa đến Đông Đô.” (Sd, tr.52) Nhưng Nguyễn Phúc Nguyên từ chối không chịu nộp. Ông hậu đãi sứ giả rồi cho về. Tình hình căng thẳng như vậy, thế mà giáo sĩ Baldinotti vì nhiệt tình truyền giáo, khi thấy mình không biết tiếng để có thể truyền giáo cho người bản xứ được, thì đã sai lầm lớn, mặc dầu cũng đã biết sự nguy hiểm, phái người kín đáo cầm thư từ Bắc đưa vào Nam để xin sai người thông thạo tiếng ra Bắc truyền đạo. Mặc dầu đã hết sức bí mật nhưng sự việc đã bại lộ. Trong bản Tường trình, Baldinotti không nói tới việc đưa thư vào Nam. Ông chỉ nói đã có người vu cáo với nhà chúa. Đó là một người Hồi thù địch của người Bồ. Hẳn là có sự cạnh tranh giữa người Hồi và người Bồ, nhưng nếu không có việc đưa thư trên đây thì chắc cũng không thể xảy ra vụ đáng tiếc mà Baldinotti kể như sau: “Nhưng tức giận vì bị trục xuất khỏi xứ này và thấy đã chớm mở một công cuộc truyền giáo mới khởi sự, ma quỷ nhất định ngăn cản, qua trung gian một người Hồi, người này phao tin vu khống cho người Bồ, trong những tin đó có tin vu cho người Bồ làm gián điệp cho chúa Đàng Trong, thù địch của chúa Đàng Ngoài. Nó còn vu cho thuyền trưởng người Bồ đã nhận của chúa Đàng Trong một món tiền lớn. Vì những tin bày đặt mà người Hồi này một đàng tìm cách báo thù mấy người Bồ, đôi bên có sự bất hòa, và đáng khác để chiếm đoạt những Trang 65
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
đồ vật của người Bồ còn lại khi bị trục xuất vì là gián điệp hay kẻ gian. Chúa không để ý tới kẻ vu khống, vì chúng tôi viết bài tường trình để tự thanh minh cho chúng tôi và vì có người họ hàng gần với chúa, người này đã quen biết người Bồ ở nhiều nơi, nên ông đã cho chúa biết thực hư, nhưng cũng chưa đủ để chúa yên tâm hoàn toàn. Chúa muốn cho chúng tôi phải thề là không còn tới Đàng Trong và không gặp chúa thù địch, trái lại là bạn tốt và trung thành với chúa.” Baldinotti viết trong bản Tường trình của mình như thế. Còn De Rhodes trong Lịch sử Đàng Ngoài thì lại khác. Ông viết: “Tất nhiên cha không phải không biết có sự thù địch giữa hai chúa làm cho việc di chuyển các cha từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài thêm khó khăn. Cha còn ngại nếu chúa Đàng Ngoài biết có sự trao đổi thư tín của chúng ta từ xứ này qua xứ kia thì ngài đâm nghi ngờ có mưu cơ bí mật nào giữa chúng ta và chúa Đàng Trong, mà ngài biết từ lâu đã liên kết với người Bồ. Sau khi đã trao phó mọi sự thành công trong việc này cho Thiên Chúa thì cha hết sức giữ bí mật sai một sứ giả và hứa trả công rất hậu, đem thư viết cho cha Gabriel de Matos lúc ngày giữa chức vụ Kinh lý Đàng Trong. Cha cho biết trong khắp xứ Đàng Ngoài người ta rất sẵn sàng nhận hạt giống đức tin…” Mà vì có khó khăn và nhất là có nguy cơ nếu thợ nào đi thẳng từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài, bởi vì giữa hai chúa có sự chia rẽ và hai bên đang sửa soạn giao chiến sắp tới đây, nên cha nhắn người nào trong chúng ta được chọn làm việc này thì nên rẽ về Macao phía Trung Quốc, rồi mới từ Macao tới Đàng Ngoài để tránh cho người Đàng Ngoài khỏi nghi ngờ về việc đến lãnh thổ họ.” (De Rhodes, Lịch sử Đàng Ngoài q.2 ch.2) Kết quả, một đàng cha De Rhodes được cử ra Đàng Ngoài, nhưng trước khi đem ra thi hành thì phải về Macao đã, và đàng khác Baldinotti bị vướng vào vụ “nghi ngờ làm gián điệp cho chúa Đàng Trong” và vì thế chúa Trịnh Tráng bắt tất cả phái đoàn người Bồ phải thề trung thành, như có kể trong bản tường trình. Nhịp cầu sau đó được nối lại và thịnh tình của Trịnh Tráng còn nguyên vẹn vì một đàng ông tin vào lời thành thực của phái đoàn và đàng khác ông vẫn Trang 66
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
muốn giữ liên hệ để thông thương buôn bán. Dẫu sao, người Bồ vẫn phải rất thận trọng. Baldinotti viết tiếp: “Chúa rất có thể còn giữ chúng tôi mấy tháng nữa nếu cần, chỉ vì sợ chúng tôi vào Đàng Trong”. Cái chết của Trịnh Tùng năm 1623 Trong bản Tường trình, nhân dịp có lễ giỗ Trịnh Tùng là thân phụ Trịnh Tráng, Baldinotti viết: “Có lần tôi thấy năm trăm chiếc hội lại để dự lễ giỗ đức thân phụ chúa đương thời (23), vị này mấy năm trước đây đã do người con út ám sát vì muốn tranh ngôi báu, nhưng người em út này lại bị người anh cả giết đi, đó là vị chúa đương thời, vị thế tử đích thực và nối ngôi trị nước.” Thực ra sử của ta không ghi là Trịnh Tùng bị con là Trịnh Xuân ám sát và cũng không nói là Trịnh Xuân bị Trịnh Tráng là anh giết đi. Toàn Thư viết khá tỉ mỉ về vụ này (bản kỳ q.18, bản dịch tập 4, tr.248249). Cương Mục viết vắn tắt: “Tùng mắc bệnh, họp trăm quan bàn chọn người lập làm thế tử, cho con trưởng là Thanh quận công Trịnh Tráng giữ binh quyền, Xuân giữ chức phó. Xuân ấm ức không hài lòng, định mưu nổi loạn, hắn bèn phóng lửa đốt nhà cửa phố xá trong kinh thành. Tùng hay tin có biến động, gượng bệnh lên xe ra khỏi kinh thành, đến làng Hoàng Mai huyện Thanh Trì, vào nhà riêng Trịnh Đỗ, rồi sai người giả vờ bảo Xuân vào hầu sẽ cho giữ binh quyền. Bấy giờ Xuân, miệng cắn cỏ, phủ phục ở sân, Tùng kể tội lỗi của Xuân. Trịnh Đỗ sai chưởng cung giám Bùi Sĩ Lâm dùng giáo giết chết Xuân. Vì cớ con là Xuân nổi loạn, Tùng phải chạy vạy ở bên ngoài bệnh nặng, mất ở chùa Thanh Xuân”. (Sd. chb.31, 18-19). Thực lục cũng chỉ kể vắn tắt, nhưng có thêm một vài chi tiết về cảm tưởng của chúa Nam Hà và những dự tính trong dịp đại tang của Bắc Hà này: “Quý hội năm 10 (1623), mùa hạ tháng 6, Trịnh Tùng nhà Lê bệnh nặng, con thứ của Tùng là Xuân nổi loạn, phóng lửa đốt Đông Đô, bức dời Tùng đến quán Thanh Xuân (ở huyện Thanh Trì). Tùng chết ở dọc đường. Con trưởng là Tráng lên nối, lập vợ là Ngọc Tú làm Tây cung. Trang 67
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Chúa nghe tin Tùng chết, bảo các tướng rằng: ‘Tùng không biết có vua, Xuân không biết có cha, đạo trời báo ứng, thật chẳng lầm vậy’. Rồi sai bắn 3 phát súng và kêu 3 tiếng.” (Thực lục q.2, Sd tập 1, tr.50). Dự tính của triều thần chúa Nguyễn là đem quân nhân dịp này đi đánh, nhưng chúa cho như vậy là không có tinh thần thượng võ, trái lại vì hai bên là thông gia, chúa cho người đi phúng viếng và nhân thể dò la tình hình đất Bắc. Cương Mục và Thực Lục không nói tới ngày mất của Trịnh Tùng, chỉ nói về tháng, đó là tháng 6 âm lịch tức vào tháng 7 dương lịch. Và như Baldinotti đã viết, ông tới Đàng Ngoài mồng 7 tháng 3 và bỏ đất Bắc ngày 11 tháng 8 năm 1626. Như vậy, Baldinotti là chứng nhân trong ngày giỗ chúa Trịnh Tùng, tháng 6. Xứ Đông Kinh Trong tình hình đất Bắc lúc này khá căng thẳng, Baldinotti và một thầy trợ sĩ người Nhật tên là Giuliô Piani đã theo đoàn thương gia người Bồ tới Đông Kinh, thủ đô nước Đại Việt ta. Thực ra người ngoại quốc chưa biết quốc hiệu chính thức của ta. Họ nói với nhau là đi Đông Kinh, Kẻ Chợ (Hà Nội ngày nay), đối với họ còn có nghĩa là đến xứ Bắc hay Đàng Ngoài. Baldinotti viết: “Xứ Đông Kinh được gọi theo một thành phố cùng tên, nơi chúa ngự.” Thủ đô nước ta từ năm 1010 đời Lý đã được gọi là Thăng Long, tới đời Lê, Thuận thiên năm thứ 1 (1421) thì gọi là Đông Đô, còn Thanh Hóa là Tây Đô. Tới Canh tuất năm thứ 3 (1430) thì “đổi Đông Đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh” (Toàn thư, q.10, Sd tập 3 tr.74). Bản viết tay ghi Đông Kinh đầu tiên hẳn là bản của Borri vào năm 1621. Ông viết Tunchim trong bản viết tay bằng tiếng Ý. Bản này đã được in thành sách năm 1631. Còn về chữ in thì hẳn phải kể bản của Baldinotti này, bản tiếng Pháp năm 1626 ghi Tunquin (thực ra chúng tôi chưa được coi chính bản bằng tiếng Ý hoặc chính bản bằng tiếng Pháp. Chúng tôi mới chỉ căn cứ vào bản in trong Tạp Chí Viễn Đông Trang 68
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
bác cổ học mà thôi). Từ ngữ này về sau được dùng qua tiếng Pháp trong thời Pháp thuộc là Tonquin (Bắc Kỳ, Bắc Bộ). Về vị trí thì tác giả viết: “Phía bắc giáp giới Trung Hoa, phía nam liền với Đàng Trong, phía tây là người Lào và phía đông là biển Trung Quốc. Tính ra chừng một trăm dặm vuông.” Baldinotti không ghi vĩ tuyến bắc nam như Borri đã làm trong sách của ông hoặc De Rhodes cũng vậy, ông này đã chép rõ vĩ tuyến về phía bắc và phía nam của Đông Kinh. Khi nói về quyền hành của chúa Đàng Ngoài thì Baldinotti viết: “Vua xứ Đàng Ngoài đứng đầu chính lãnh thổ, có ba quốc vương đến triều cống đó là vua xứ Lào, chúa Đàng Trong và vua Cao Bằng. Còn chính ngài thì phải triều cống Trung Quốc, mỗi năm cống ba tượng vàng và ba tượng bạc.” Có một điều thiếu sót trong bản Tường trình, đó là tác giả không nói tới cái chế độ vua Lê chúa Trịnh ở đất Bắc thời bấy giờ. Ông chỉ nói về một người có thực quyền là chúa Trịnh Tráng mà thôi. Chúng tôi chưa thấy rõ “chín lãnh thổ” ở đây gồm những tỉnh nào. Theo bản đồ của De Rhodes năm 1651, người ta thấy có ghi: Kẻ Bắc (Kinh Bắc), Kẻ Đông (Hải Dương), Kẻ Tây (Sơn Tây), Kẻ Nam (Sơn Nam), Thanh Hóa, Nghệ An và Bố Chính, tức 7 tỉnh. Còn theo Baldinotti thì Cao Bằng và Đàng Trong, tức Nam Hà, thì được kể như nước ít ra tự trị và phải triều cống xứ Bắc. Hay là chúng ta hiểu chín lãnh thổ nếu thêm vào đó hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam (Thuận Quảng)? Về lệ triều cống Tàu, sử của ta viết: “Đinh mùi (1427), mùa đông tháng 11… đến đây sai… đem tờ biểu và sản vật địa phương (tượng người vàng thay mình hai pho, lọ hương bạc một chiếc, bình hoa bạc một đôi, lụa thổ 300 tấm, ngà voi 14 đôi, hương xông áo 20 lọ, hương nén 2 vạn nén, trầm hương, tốc hương 24 khối.” (Toàn Thư q.10, Sd tập 3, tr.49). Trang 69
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Cương Mục ghi trong lời chú giải tức lời chua về những lễ phẩm cống nhà Minh như sau: “Sản vật địa phương: người vàng thế mạng 2 pho, lư hương bằng bạc 1 chiếc, bình hoa bằng bạc 1 đôi, lụa ta (thổ quyến) 30 tấm, ngà voi 14 đôi, hương xông (huân hương) 12 bình, hương vòng (tuyến hương) 20.000 vòng, trầm hương và tốc hương 24 cân”. (Cương Mục, chb.24, 14) Đó là khởi đầu việc triều cống khi Lê Lợi lên nắm chính quyền. Về sau hẳn cũng có thay đổi trong lệ triều cống. Baldinotti nói tới “ba tượng vàng và ba tượng bạc”. Có thể ông chỉ nghe người ta nói, cũng như về vụ tương tàn của anh em họ Trịnh kể trên. Sách vở lúc đó đâu có dễ dàng như ngày nay. Thành Đông Kinh, Hà Nội ngày nay Chúng ta rất ít có tư liệu nói về Kẻ Chợ hay thủ đô nước Đại Việt vào đầu thế kỷ 17. Baldinotti viết: “Kinh thành ở vào vĩ tuyến hai mươi mốt. Khí hậu rất nóng khi không có gió thổi, nhất là vào tháng sáu. Kinh thành không có tường không có luỹ. Trong phủ chúa có nhà lợp ngói và xây gạch lớn, ngoài đó ra thì chỉ bằng thứ cây sậy của xứ này gọi là tre, mái lợp gianh và không có cửa sổ. Trong thành có nhiều hồ lớn để có thể giập tắt đám cháy cách nhanh chóng, có những vụ hỏa tai thiêu trụi tới năm sáu ngàn mái nhà, nhưng sau đó bốn năm ngày lại dựng được ngay. Vòng quanh thành chừng năm sáu dặm và dân cư thì rất đông.” Trong mấy dòng chữ vắn tắt, Baldinotti đã cho chúng ta biết rõ Kẻ Chợ của ta hồi đó. Đặc biệt ở đây ông ghi rõ vị trí của kinh thành vào vĩ tuyến 21, điều mà ông không đề cập tới khi định vị trí của xứ này. Về khí hậu, thật không còn gì đích đáng bằng. Những ai ở Hà Nội đều biết cái nóng thiêu đốt vào những tháng hè, tháng sáu và tháng bảy. Người Au Châu đến xứ ta vào đầu thế kỷ 17 này, họ đều sửng sốt khi thấy đô thành của ta như thể một thành bỏ ngõ cửa. Bởi vì trong nước họ, các thành trì lớn và quan trọng, thường có thành luỹ bao bọc, được xây bằng đá tảng rất kiên cố. Trang 70
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Thực ra, kinh thành của ta thời xưa cũng có luỹ cũng có tường, như sử sách có ghi chép. Đó là thành Đại La mà ngày nay còn giữ được tên gọi và một chút dấu vết. “Bính tuất (866), tháng 11, Biền giữ phủ xưng vương, đắp La thành vòng quanh là 1982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng hai trượng 5 thước, tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường đi bộ 34 sở. Lại đắp đê vòng quanh 2125 trượng 8 thước, thân cao hơn một trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng. Lại làm hơn 40 vạn gian nhà” (Toàn thư, ngoại kỷ, q.5, Sd, tập 1, tr.140-141). Cương Mục tb.5, 10 cũng ghi tương tự. Đến thời nhà Lý, có nói tới xây đắp Thăng Long thành, nhưng hình như chỉ là kiến thiết hoàng thành nơi nhà vua ở mà thôi. (Toàn Thư bản Kỷ q.2, Sd, tập 1 tr.191) Tới thời Hồng Đức, Đinh Dậu năm thứ 8 (1477) Toàn Thư chỉ ghi vắn tắt là vào tháng 2 “xây thành Đại La” (Sd tập 3, tr.235). Cương Mục nói dài hơn vài ba chữ: “Đinh dậu, năm thứ 8 (1477) (Minh năm Thành Hóa thứ 13), tháng 2 nhuận, mùa xuân. Đắp thành Đại La cho kiên cố thêm”. Và ở lời chú giải, người ta lại nhắc tới Tiền biên 5, 10 nói ở trên. Thực ra, thành luỹ của ta hồi đó chỉ là những ụ đất cao, cắm chông cắm nhà, chứ không xây bằng đá tảng kiên cố như những thành luỹ ở Au Châu cũng vào thời kỳ đó. Ngày nay còn thấy lờ mờ vết tích của thành Đại La kể trên và người ta còn giữ được những đường phố như phố Đại La, đường La Thành. Còn đền đài dinh thự của vua chúa thời đó, cũng không có gì là nguy nga đồ sộ. Baldinotti chỉ nói sơ lược nhưng hẳn là rất chính xác. Ngoài một số nhà xây bằng gạch, thì chỉ là thứ nhà bằng tre, mái lợp gianh. Theo những hình ảnh người ta còn giữ được từ hồi người Pháp xâm chiếm nước ta, thì thấy Hà Nội ba sáu phố phường không có gì là đặc biệt lắm: một số nhà ngói lẹt đẹt. Có một điều tác giả để ý đó là nhà không có cửa sổ. Hay là ông có ý nói nhà không có cửa kính cho sáng, vì thực ra lúc đó chúng ta chưa có sản phẩm này. Ngay bây giờ, vào ngưỡng cửa thế kỷ 21, mà ở chốn Trang 71
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
thôn quê và cả trong một số khu nhà tập thể ở Hà Nội, cửa kính vẫn là một thứ hiếm, có khi còn không có nữa, huống hồ vào cái thế kỷ chúng ta đang nói ở đây. Sử ta vào đời Lý đề cập tới việc xây cất hằng ngàn chùa chiền, nhưng thực ra những cơ ngơi đó cũng rất nhỏ hẹp. Nói ra thì có vẻ lớn lao lắm nhưng trong thực tế thì quá nhỏ hẹp thô sơ, tỉ như chùa Diên Hựu Một Cột danh tiếng. Chùa Diên Hựu ngày nay còn đó, nhưng bé nhỏ khiêm tốn, còn chùa Một Cột chỉ như một đồ chơi cỏn con, so thế nào được với những lâu đài dinh thự hoặc những thánh đường bề thế trong thời Trung cổ Au Châu. Về các hồ lớn ở thành Đông Kinh thì quả là xác đáng. Thăng Long nằm giữa một vùng xình lầy với nhiều hồ ao mà ngày nay người ta vẫn còn trông thấy. Cạnh hoàng thành cổ về mạn bắc thì có hồ Tây, hồ Trúc Bạch với sông Tô Lịch, về phía Tây thì có những hồ đầm thuộc khu Giảng Võ, xuống về phía Nam thì có hồ Bảy Mẫu, hồ Thuyền Quang. Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm ngày nay ở vào giữa thành phố nhưng thời xưa nó còn ăn lan ra tới bờ sông, đây là nơi thi đua và tập luyện thuỷ quân. Người ta đã đắp ngăn lại, chỉ còn giữ một nửa làm thành hồ Gươm thơ mộng của chúng ta ngày nay. Còn về nhận xét về những vụ hỏa tai thường xảy ra trong kinh thành thì cũng chỉ là kết luận hiển nhiên của thành phố đông người ở trong những nhà tranh vách ván hay liếp. Borri trong cuốn Tường trình Đàng Trong cũng nhận thấy sự việc này: khi có hỏa tai người ta cho voi đến phá đổ tường và rỡ mái nhà. Và trong một trường hợp xây cất nhà thờ, người ta đã trong một thời gian chưa đầy một ngày đem hết các vật liệu bằng gỗ làm sẵn để lắp ngay trước mắt một ngôi thánh đường bằng gỗ. Lạ hơn nữa, bởi vì vội lắp nên ngôi nhà có vẻ nghiêng, làm cho ngừơi ta phải rỡ ra và lắp lại cho ngay ngắn (Sd bản Việt ngữ Hồng Nhuệ, tr.76-77). Về sông Hồng hay Hồng Hà nằm ngay cạnh kinh thành, Baldinotti ghi mấy nét độc đáo: “Có một con sông lớn thuyền bè đi được chảy ra biển xa chừng mười tám dặm, nước sông rất đục, nhưng người ta vẫn uống vì trong thành không có vòi nước, không có giếng, không có bể chứa nước. Một năm hai lần, nước sông dâng lên vào tháng sáu và tháng một, làm ngập một nửa thành phố, nhưng không lụt lâu.” Trang 72
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Tác giả cũng đã ghi, lúc mới tới cửa biển thuộc hải phận nước ta thì đã “qua một con sông chảy từ đất liền dài mười tám dặm.” “Được tin chúng tôi tới, chúa phái bốn thuyền chiến đón chúng tôi, những thuyền này đi theo chúng tôi suốt khúc sông để hộ vệ chúng tôi khỏi bọn cướp biển.” Rồi “lúc chúng tôi trảy đi ngày 11 tháng 8 có thuyền chiến của chúa tháp tùng cho tới biển.” Theo bản đồ thì thấy con sông Hồng là đường thuỷ rất tiện lợi. Từ cửa Ba Lạt ngược lên cho tới Hưng Yên, nơi đây các thuyền tàu ngoại quốc dừng lại và người ngoại quốc đã được nhà chúa cho xây cất thương điếm, biến nơi này thành một chốn buôn bán rất sầm uất. Vì thế mới có câu ca dao tục ngữ: “Thứ nhất Kinh kỳ thứ nhì phố Hiến.” Phố Hiến là Hưng Yên ngày nay. Nước sông rất đục, đúng hơn vì chở nhiều đất phù sa nên nước có mầu hồng hồng, đặc biệt về mùa nước lũ từ trên ngàn xa xăm đưa về. Nói tới vấn đề nước uống trong kinh thành, Baldinotti đã so với hệ thống dẫn nước uống ở Au Châu: người ta hẳn đã có bể chứa nước, lọc nước, đã có giếng với máy bơm tay với vòi nước được bắc ở nhiều nơi trong thành phố. Còn chúng ta thời đó, tuy chưa có hệ thống bể nước nhưng cũng đã có giếng mà Baldinotti nói là không có. Chúng tôi thiết nghĩ việc đào giếng tìm nước uống hẳn đã có từ lâu nơi dân tộc ta. Vấn đề lụt lội vẫn là điều chính quyền thời xưa để ý canh phòng và sông Hồng là con sông có nước lũ lớn rất nguy hiểm vào hai thời điểm Baldinotti đã nói tới. Hệ thống đê điều của ta cũng đã nghiêm chỉnh hoàn bị. Sử ta cũng ghi chép ở một vài nơi: “Mậu thân năm thứ 17 (1248), tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê đỉnh nhĩ (quai vạc), đắp suốt từ đầu nguồn cho đến bờ biển để giữ nước lụt tràn ngập. Đặt chức Hà đê chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp vào mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê đỉnh nhĩ bắt đầu từ đây”. (Toàn Thư bản kỷ q.5, sd tập 2 tr.22) Trang 73
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Cương Mục cũng ghi tương tự như trên (Cương Mục, chb 6, 31). Năm 1503 còn nói tới việc đắp đê sông Tô Lịch, là con sông nhỏ chảy về phía bắc kinh thành để vào sông Hồng. Con sông Tô Lịch ngày nay không còn thông vào sông Hồng vì vào thời Pháp mới chiếm thành Hà Nội, họ đã lấp một phần làm cho sông không còn dòng nước lớn như ngày xưa. “Quý hợi, năm thứ sáu (1503) mùa hạ tháng 4, tả thị lang Lễ bộ Dương Trục Nguyên tâu xin đắp đê bên sông Tô Lịch trên từ xã Trát Kiều xuống đến xã Công Xuyên để phòng lụt và hạn, lợi cho việc nông, và khai cừ An Phúc xuống đến xứ cừ Thượng Phúc để tưới nước vào ruộng dân”. (Toàn Thư, q.14, sd tập 4, tr.36). Cương Mục cũng ghi nhận như trên (chb 25, 12). Tuy vậy, thường thường vẫn có thể có những năm nước sông lên làm lụt lội thành phố, nhưng như Baldinotti nói, “không lụt lâu”. Các tôn giáo Không như sau này, các giáo sĩ ngoại quốc đã nhận ra ba đạo chính thịnh hành ở Việt Nam và một ít mê tín dị đoan khác. Baldinotti chỉ biết sơ qua về một ít tin tưởng và thờ cúng: ảo thuật Calđê, bói toán pháp sư, triết gia An Độ – có thể là Đức Thích Ca (?) Ông nói tới một vị thần bản xứ gọi là Zinum. Chúng tôi chưa biết gì về vị này. “Nhiều người thờ một pháp sư bản xứ gọi là “Zinum” : họ cúng tế vị này vì họ sợ. Người ta kể rằng thủ cấp vị pháp sư này bị chặt thì có phép làm khô cằn cây có và phá hoại vườn ruộng, giết các giống vật khi mắt nhìn tới. Người ta giữ thủ cấp đó trong thành phố sinh quán của ngài, thành này xa phủ chúa chừng bốn ngày đàng, nơi sinh sống các con cháu giòng họ.” Về Phật giáo, Baldinotti nhận thấy sự tin theo trong dân gian không có gì là sâu sắc, các nhà lãnh đạo không có trình độ để hướng dẫn chỉ đạo một tôn giáo “không thuộc phái nhà nho”. Trang 74
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Borri và sau này De Rhodes nghiên cứu tường tận hơn như chúng ta được biết trong những tường thuật của họ. Còn Baldinotti thì chỉ rất sơ lược và đại khái. Con người Việt Nam Thực ra, Baldinotti chỉ viết có mấy trang sách, vì thế ông cũng nhận xét rất sơ lược về con người mà ông được tiếp xúc trong mấy tháng trời ở đất Bắc Hà. “Về diện mạo thì họ khá cao ráo, vạm vỡ và can đảm”. Về y phục của họ thì ông viết: “Họ mặc một thứ áo dài vạt, về phía trước rủ xuống tới giữa cẳng chân”. Tức là thứ áo dài thời xưa, có thể hơi khác cái áo dài của chúng ta ngày nay. Ông không nói rõ áo đàn ông hay áo đàn bà. Nhưng chúng ta có thể hiểu: thứ áo này chung cho cả hai giới, như chúng ta thấy cách đây mấy chục năm ở thôn quê. Về đầu tóc thì ông ghi: “Họ để tóc dài và đội nón”. Sau này, De Rhodes tả rõ hơn và thêm ý nghĩa sự để tóc dài này, không bện thành đuôi sam như người Trung Hoa. Baldinotti không cho biết sự giàu có hay nghèo khổ của dân, nhưng một lần ông nói, nhà chúa phải cho thuyền đi hộ vệ từ biển cho tới kinh thành vì sợ có cướp sông cướp biển, và một lần khác ông nói thẳng: “Dân thường thì hay trộm cắp, vì thế người ta phạt kẻ ăn trộm ăn cắp cũng như người ngoại tình bằng án tử hình.” Điều này làm cho chúng ta biết mức sinh hoạt của dân không thể cao được, nghèo khổ mới hay sinh trộm cắp, như ngày nay chúng ta được thấy ở những nước nghèo khổ. Dĩ nhiên phải hiểu, xử tử kẻ trộm cắp thì cũng phải là những vụ lớn, chứ không thể áp dụng vào những vụ trộm vặt. Thuỷ quân của ta
Trang 75
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Baldinotti mới chỉ hé mở cho người ta biết lực lượng của chúa Đàng Ngoài và trước hết là thuỷ quân. Có ít ra hai lý do chính. Thứ nhất, về sự chuyên chở, chúng ta chưa có xe cộ, và thứ hai chúng ta có rất nhiều sông ngòi. Cho nên việc di chuyển quân sĩ thường được thực hiện bằng đường sông. Lúc này, việc chuẩn bị biến dịch đối phó với chúa Nguyễn ở Đàng Trong là khẩn cấp, cho nên việc tăng cường lực lượng thuyền chiến, ở cả hai bên, đều là lẽ dĩ nhiên. Baldinotti nói: “Ngài có chừng bốn ngàn thuyền chiến, hai mươi sáu tay chèo mỗi bên, đậu ở nhiều nơi, hầu hết khi ra trận thì có đủ súng ống, trong đó có khẩu mười bốn líu.” (“líu” chúng tôi dịch ở từ livre, có nghĩa là nửa kilô). Các nhà truyền giáo tới nước ta vào thế kỷ này, họ đều để ý tới những chiến thuyền rất nhiều của ta, nhất là De Rhodes sau này, khi ông viết về đất Bắc hay Đàng Ngoài. Người ta cũng rất thích thú tả những thuyền chiến của chúng ta: “hầu hết ở đầu thuyền thì sơn son thiếp vàng rất đẹp”. Người Au Châu lấy làm lạ, bởi vì đối với thuyền tàu của họ, không phải đầu thuyền là đài chỉ huy, mà là ở phần đuôi. Trái lại của ta, tướng chỉ huy lại đứng ở lầu đầu thuyền. Điều này De Rhodes nói rất rõ. Do đó sự trang trí ở đầu thuyền là hợp lý. Người ngoại quốc cũng thường thích thú được dự những buổi thi đua bơi thuyền, hoặc những buổi thao diễn, hoặc những buổi lễ trình diễn, như vào dịp lễ giỗ Trịnh Tùng chúng tôi đã nói ở trên. “Có lần tôi thấy năm trăm chiếc hội lại để dự lễ giỗ đức thân phụ chúa đương thời”. Mà chúng ta đọc trong sử có chép: Trịnh Tùng mất ngày 20 tháng 6 năm 1623, như đã nói ở trên. Cách chiêu mộ binh sĩ Baldinotti cũng nói qua về cách mộ binh sĩ của chúa Trịnh, tức vào thời nhà Lê lúc đó. Nhà vua dùng quân điền công thổ để trả “lương” cho các tướng lãnh và các quan cao cấp. Nhưng trong trường hợp nhà Trang 76
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
chúa cần thì chính những vị này phải cung cấp cho nhà chúa đủ số binh sĩ và thuyền chiến cần dùng. Do đó, rất dễ dàng và mau lẹ nhà nước có thể khi cần chiêu mộ một đạo binh rất lớn. “Ngài có thể giàn trận với những đạo quân lớn, khi cần có sáu trăm quan cao cấp phải cung cấp cho ngài, người thì một nghìn, người thì hai nghìn binh tự mình đài thọ cho tới hết chiến tranh. Những tướng lãnh này có hai hoặc ba vùng đất phong vua ban cho để chi dụng vào việc này.” Trịnh Tráng Đọc bản Tường trình, chúng ta mong ước tác giả cho ta biết chân dung chúa Trịnh Tráng, bởi vì trong thời gian ông cư trú ở Kinh thành, ông có rất nhiều dịp tiếp xúc với triều đình. Nếu Baldinotti cũng như sau này các giáo sĩ khác không đề cập tới vua Lê, thì cũng là điều hiển nhiên, bởi vì nhà vua không có quyền hành gì, đối nội cũng như đối ngoại, trừ việc tiếp xúc phái đoàn Trung Quốc và phát bằng cấp cho các ông nghè ông cống. Thế nhưng qua những lời nói của Baldinotti, người ta cũng có thể phác họa một chút về Trịnh Tráng. Trước hết Trịnh Tráng là người con có hiếu. Điều này là lẽ dĩ nhiên trong nhãn giới nho giáo, nhưng cũng vì một phần nào do cái chết thương tâm của đức thân phụ “chết dọc đường” chứ không trong đền đài như sử ta chép (Thực lục, tiền biên, q.2, sd tập 1, tr.50). Baldinotti nói qua về ngày giỗ long trọng Trịnh Tráng làm để kính vong linh Trịnh Tùng; hẳn là vào tháng 6 âm lịch năm 1626: “Có lần tôi thấy năm trăm chiếc hội lại để dự lễ giỗ đức thân phụ chúa đương thời.” Trịnh Tráng chuyên chú thao luyện về ngành võ bị để làm gương cho quân sĩ lúc này đang sửa soạn đi chinh phạt chúa Nguyễn: “Chúa rất hiếu chiến, ngài không ngừng theo luyện bắn súng và cưỡi ngựa, có nhiều ngựa rất đẹp, cả voi cũng vậy.” Có những cuộc tiêu khiển được coi như những thao luyện binh đao. Baldinotti ghi: Trang 77
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Chúa còn hay mời chúng tôi đến dự những cuộc vui (5) như đấu voi, đua ngựa và đua thuyền; chính ngài cũng ngự trên một con voi rất cao lớn, cho lính cầm đao, gươm và những vũ khí khắc đưa lên, voi lấy vòi cuốn lấy rồi dâng lên chúa. Ngựa cũng làm như thế, nghĩa là cầm đao để dưới đất rồi đưa lên cho kỵ mã thắng ngựa.” Như chúng tôi đã nói, vì đường sông, đường biển là phương tiện di chuyển thuận lợi nhất, nên thuỷ quân của ta cũng khá hùng mạnh. Dĩ nhiên việc thao luyện cũng rất nghiêm chỉnh. Các bản tường trình về sau này đều ghi chép tương tự. “Ngài thích cho đua thuyền, cho lượn đủ kiểu, vòng đi lượn lại theo tiếng gõ nhịp chạm nhau.” Nhà chúa cũng không quên để cho các người ngoại quốc tham dự những cuộc tiêu khiển, như ca hát, múa nhảy, tuồng chèo. Baldinotti viết: “Chúa cũng mời chúng tôi đi dự tuồng kịch và những hội vui khác, có mấy cuộc vui tôi không muốn đi dự vì thanh danh của tôi.” Chúng ta có thể hiểu lời nói sau cùng này: có thể người Bồ và thuỷ thủ người Bồ đi dự, còn giáo sĩ thì không. Chúng ta có thể phỏng đoán đó là những cuộc hát ả đào chẳng hạn. Bởi vì ngoài việc thưởng thức giọng ca lời hát, còn có những khía cạnh lả lớt khác không tiện và không hợp với một nhà tu. Trịnh Tráng cũng tỏ ra hám học hỏi và muốn biết về các khoa còn rất bí ẩn đối với người đồng thời, đó là khoa toán học và khoa vũ trụ học, tuy mới phôi thai. Baldinotti viết: “Chúa sai một hoạn quan là một quan trong phủ, đến tìm tôi để tôi giảng cho chúa biết cuộc vận hành các tinh tú, vì chúa thấy tôi giỏi về toán học.” Trong mấy dòng sau, tác giả bản Tường trình lại viết thêm: “Rồi chúa hỏi tôi về những vấn đề toán học liên quan tới trái địa cầu”.
Trang 78
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Thực ra, những vấn đề này cũng không có gì là cao xa huyền bí, bởi vì có thể nói, như sau này chúng ta đọc trong các bản tường trình khác cũng như trong bản của Borri, những nhà trí thức của ta thời đó, trong đó có cả Trịnh Tráng, nguyệt thực và nhật thực là những biến cố họ chưa thấu triệt. Vì chưa hiểu sự vận hành tinh cầu, nên mới có những dị đoan và cúng tế mỗi lần xảy ra nguyệt thực hay nhật thực. Điều rất hiển nhiên, đó là Trịnh Tráng rất trọng đãi phái đoàn người Bồ, có thể là lần đầu tiên chính thức đến xứ này. Ông đã phái đoàn thuyền đón phái đoàn và đưa tới kinh thành, rồi cũng cho thuyền đưa ra tới biển, khi phái đoàn trở về Macao. “Ngài tiếp đón chúng tôi rất niềm nở, chúc mừng chúng tôi, đãi chúng tôi những món ăn đặc biệt và hứa giúp chúng tôi trong mọi sự chúng tôi cần dùng.” Baldinotti không nói tới phẩm vật hai bên tặng nhau theo thông thường tục lệ; nhưng ông cũng viết: “Chúa ban cho thuyền trưởng và tôi những bộ áo rất quý ở xứ này… Lại còn cho chúng tôi cư trú ở những nhà đẹp nhất kinh thành.” Trong thời gian ở đây, Trịnh Tráng tỏ ra săn sóc phái đoàn và chiều chuộng đủ thứ, như mời yến tiệc, cho dự các hội vui, ban quà bánh. “Trong khi chúng tôi ở xứ Đàng Ngoài, chúa còn săn sóc chúng tôi, ngài thường sai người đem quà bánh cho thuyền trưởng và cho tôi. Chúa thường làm thế mỗi lần thuyền trưởng và tôi đến chầu ngài, nghĩa là vừa ban quà bánh vừa cho tặng phẩm đủ thứ.” Ngay sau khi vụ nghi ngờ gián điệp đã được giải quyết ổn thỏa, thì Trịnh Tráng tiếp tục nối lại liên hệ trước và “sai người đem tặng chúng tôi nhiều phẩm vật và quà bánh”. Còn về việc học hỏi hay để ý tới giáo lý của đạo, thì Trịnh Tráng kín đáo hơn. Ông không trực tiếp hay đích thân nghe truyền giáo, nhưng ông gián tiếp cho sĩ phu và các vị hòa thượng đến đàm đạo với giáo sĩ để hai bên trao đổi tìm hiểu nhau: Trang 79
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Chúa sai một hoạn quan là một quan trong phủ, đến tìm tôi để tôi giảng cho chúa biết cuộc vận hành các tinh tú, vì chúa thấy tôi giỏi về toán học. Viên quan này nói với tôi rằng chúa thấy tôi tinh thông khoa này là vì có một trong các hoạn quan, vị quan chính yếu trong phủ và một trong các vị tăng của chúa, đã đến thăm tôi và đàm luận với tôi về đạo của vị tăng và tôi thì đàm về đạo của tôi.” Thế nhưng Trịnh Tráng tỏ ra khâm phục giáo lý và nhất là cách sống của người tu sĩ cũng như của người Bồ. “Suốt thời kỳ chúng tôi ở xứ Đàng Ngoài, tôi hết sức khuyên người Bồ làm gương sáng cho dân xứ này: họ đã thực hiện, làm cho chúa thán phục. Vì thế chúa rất kính trọng đạo ta và tỏ ra muốn cho tôi ở lại xứ ngài.” Chúng ta cũng nên để ý là các giáo sĩ thường chỉ là những người làm tuyên uý cho người Bồ để tới nước ta; lúc này và cả sau này họ cũng thường lấy danh nghĩa đó để vào xứ ta. Cho nên khi xong việc, người Bồ trở về Macao thì họ cũng thường theo người Bồ ra đi, trừ khi được phép nhà cầm quyền cho ở lại hay cố tình trốn tránh lẩn khuất. Nếu người Bồ chủ ý làm thương mại và nhân dịp đó cho các giáo sĩ có cơ hội truyền giáo, thì các tu sĩ chủ ý đi giảng đạo, như lời Baldinotti thưa với Trịnh Tráng, khi ông này ngỏ ý muốn cho Baldinotti ở lại Đàng ngoài: “Với vị quan được chúa sai đến, tôi đáp lại rằng tôi không thể ở lại xứ này, vì tôi không có phép của Bề trên tôi, người chỉ cho tôi theo người Bồ trong cuộc hành trình khứ hồi này mà thôi, để làm gia sư và hướng dẫn linh hồn; nhưng khi tôi về tới Macao thì tôi sẽ xin phép trở lại và định cư ở xứ Đàng Ngoài này để phụng sự chúa. Điều làm tôi vui sướng đó là được rảo các lãnh thổ rộng lớn miền Đông phương này, không phải để tìm vàng tìm bạc, nhưng để giảng dạy những ai cần biết những sự trên trời và dạy cho biết Thiên Chúa thật, Đấng dựng nên trời đất. Chúa rất hài lòng về câu trả lời của tôi.” Thế nhưng nhà truyền giáo không phải không nhận thấy cái thâm ý của Trịnh Tráng cũng như nhà cầm quyền thời đó. Ở xứ Đàng Trong Trang 80
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
từ 1615, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã niềm nở đón tiếp các giáo sĩ dòng Tên đa số là người Bồ, họ cũng theo các thương gia Bồ đến buôn bán ở Hội An. Năm 1626 này, nhà chúa nồng nhiệt tiếp xúc với người Bồ, không phải không chủ ý, một là thu nhuận lợi trong thương mại, hai là nhờ người Bồ có thể giúp về nghệ thuật binh đao, chống chọi với chúa Đàng Trong. Baldinotti viết: “Chúa đặc biệt tiếp đãi chúng tôi, theo tôi nghĩ vì chúa muốn thông thương với người Bồ, người ta đồn khắp xứ là người Bồ đem tàu chở hàng hóa làm lợi cho xứ này.” Có một điểm chúng tôi nhận thấy nơi Trịnh Tráng, đó là ông khá sáng suốt, biết cư xử đúng thời đúng lúc, không câu nệ, không thiển cận trong cách ăn ở, đối đãi. Số là khi nhà chúa bắt người Bồ phải thề, mà người Bồ nhất định không chịu thề theo tục lệ bản xứ có tính cách mê tín dị đoan, họ đòi cho được thề theo cách riêng của xứ họ, nghĩa là theo tục lệ của người theo đạo Kitô. Các quan thay mặt chúa cương quyết không chịu. Thế là người ta đành nại tới quyền trực tiếp của chúa. Trịnh Tráng hiểu được vấn đề và ra lệnh để cho người Bồ thề theo cách của họ. “Viên hoạn quan, một nhân vật trọng yếu trong phủ thay mặt chúa trong dịp này, ông không chịu để chúng tôi thề theo như tôi đã trình bày, nhưng thề nhân danh thần phật của họ. Tôi phân trần cho ông hiểu lý lẽ rằng theo thông tục mọi nước, thì dân nào thề nhân danh đấng dân ấy thờ và thực ra có lợi cho chúa hơn, nếu người Bồ thề nhân danh hình ảnh Thiên Chúa của họ, bởi vì người Bồ sẽ không giữ lời thề với những thần nào khác mà họ không công nhận và không kính sợ. Viên hoạn quan chưa chịu lý lẽ nên tôi đề nghị đưa ý kiến của chúng tôi lên chúa. (Tức thì ông sai người đi ngay) và chúng tôi sẵn sàng chết hơn là thề như vậy, không phải vì không muốn giữ điều chúa truyền, nhưng vì không công nhận là thần thánh những vị không phải là thần là thánh. Chúa khôn ngoan đã hiểu sự việc và phái người tới cho biết để chúng tôi thể theo kiểu người theo Kitô giáo như chúng tôi muốn.” Trịnh Tráng khôn ngoan, quý khách, muốn thu lợi nhuận và để được người Bồ giúp đỡ, nhưng không phải vì thế mà ông nhắm mắt Trang 81
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
không nghĩ tới lợi ích tối cao của quốc gia. Về điểm này, người ta thấy rất rõ theo những lời tường thuật của Baldinotti. Khi nhà chúa được người ta cho biết, hoặc chính ông nhận thấy, các giáo sĩ người Bồ này (mặc dầu là người Ý, nhưng lúc đó tất cả người ngoại quốc đều được kể như người Bồ) đã phái người cầm thư vào Đàng Trong (không cần biết việc riêng có liên hệ không phải tới chính trị nhưng tới tôn giáo) thì Trịnh Tráng đem lòng nghi ngờ. Baldinotti nói là người Hồi nào đó đã tố cáo với chúa là người Bồ làm gián điệp cho Nguyễn Phúc Nguyên ở Đàng Trong, lại còn vu cho thuyền trưởng đã nhận một số tiền lớn của chúa Nam Hà. “Người này phao tin vu khống cho người Bồ, trong những tin đó có tin vu cho người Bồ làm gián điệp cho chúa Đàng Trong, thù địch của chúa Đàng Ngoài. Nó còn vu cho thuyền trưởng người Bồ đã nhận của chúa Đàng Trong một món tiền lớn.” Thật là một nguy cơ, kẻ vu oan đã đánh vào chỗ yếu của Trịnh Tráng, đang thu xếp đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên để hỏi tội như chúng tôi đã trình bày ở trên và như sử sách ghi rất rõ rệt. Baldinotti cũng là một tay khá sành sõi và hết sức chống đỡ, mặc dầu chính ông đã phạm cái sai lầm chỉ vì quá nhiệt tình muốn truyền giáo có hiệu quả ở Bắc Hà này. Ông viết: “Chúa không để ý tới kẻ vu khống, vì chúng tôi viết bài tường trình để tự thanh minh cho chúng tôi và vì có người họ hàng gần với chúa, người này đã quen biết người Bồ ở nhiều nơi, nên ông đã cho chúa biết thực hư, nhưng cũng chưa đủ để chúa yên tâm hoàn toàn”. Thế là “Chúa muốn cho chúng tôi phải thề là không còn tới Đàng Trong và không gặp chúa thù địch, trái lại là bạn tốt và trung thành với chúa.” Kết quả là người Bồ bó buộc phải nhận làm lễ thề: họ không thề trước mặt thần phật của nhà chúa, nhưng trước ảnh tượng Kitô giáo mà họ đã chủ ý đem theo. Baldinotti viết: “Tôi thề nhân danh Thiên Chúa thật, đấng dựng nên trời đất, Người phạt tôi chết vì nước, vì lửa, vì gươm đao, súng đạn, với những cực Trang 82
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
hình khác có thể nghĩ ra được, nếu tôi không giữ lời thề. Thầy Giuliô cũng thề, rồi tới thuyền trưởng và những người Bồ khác”. “Giữ lời thề” có nghĩa là không làm gián điệp cho chúa Nam Hà, không trở về vào Đàng Trong phục vụ chúa Nguyễn Phúc Nguyên thù địch của Trịnh Tráng. Đó là năm 1626, năm mà Trịnh Tráng bắt đầu khởi công đe dọa miền Nam, để rồi năm sau 1627 đưa vua Lê vào chinh phạt chúa Nguyễn. Cho nên Trịnh Tráng rất lịch thiệp và muốn giao tiếp với người Bồ, nhưng khi có nguy cơ cho vận mệnh quốc gia, thì ông rất cứng rắn và nghiêm trị. Và Baldinotti viết tiếp: “Chúa rất có thể còn giữ chúng tôi mấy tháng nữa nếu cần, chỉ vì sợ chúng tôi vào Đàng Trong.” Giữ lại mới chỉ là từ ngữ nhẹ nhàng, nhưng rất có thể là bị giam giữ, hoặc ít ra bị quản thúc. Về phía giáo sĩ thì không sao, vì họ được dịp chịu khổ vì đạo giáo của họ, đó lại là một danh dự, một ước muốn, nhưng về phía các thương gia người Bồ thì cả là một tai hại. Baldinotti không nói hết, chỉ biết rằng ông tới Kinh thành vào ngày mồng bảy tháng ba năm 1626, thì ngày mồng một tháng tám mới ra đi, nghĩa là sau hơn năm tháng. Lần này như thế là người Bồ đã bị giữ lại quá thời hạn định. Tiền tiêu dùng trong mấy tháng quá hạn này đã lên quá số dự trù. De Rhodes viết trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài khi nói tới dự định trở lại Đàng Ngoài mà chính Baldinotti đã mong muốn. “Một đàng người Bồ tỏ vẻ e ngại chúa Đàng Ngoài nghi ngờ họ, cũng như e ngại ý xấu mà một quan ở trong phủ Đàng Ngoài có tín nhiệm đối với chúa đã tỏ ra chống đối quốc gia Bồ. Và đàng khác các thương gia lần cuối cùng buôn bán ở Đàng Ngoài nhận thấy bị lỗ vốn nhiều nên làm cho người khác chán ngán và không tìm được thương gia nào muốn khởi hành đi một chuyến mới, nếu không hy vọng kiếm lời và cầm chắc lỗ vốn” (De Rhodes, sd q.2, ch.3) Dẫu sao, nắm chắc lòng trung thành của phái đoàn người Bồ và không sợ họ làm gián điệp cho chúa Nguyễn, Trịnh Tráng bằng lòng Trang 83
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
để họ ra đi, vì cũng còn mong họ trở lại tiếp tục buôn bán với xứ sở mình. Trên đây chúng tôi mới thử phác họa chân dung Trịnh Tráng mà chúng tôi cho là một nhân vật quan trọng trong buổi phôi thai Kitô giáo gia nhập xứ ta. Phải nghiên cứu thêm về ông trong giai đoạn De Rhodes hoạt động ở Đàng Ngoài, tiếp ngay sau Baldinotti, nghĩa là từ 1627 tới 1630. Nên nói ở đây rằng, chính Trịnh Tráng khi đưa quân đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên thì đã gặp De Rhodes mới chân ướt chân ráo tới Đàng Ngoài, chính ông cũng đã niềm nở đón tiếp giáo sĩ trước và sau khi giao chiến, chính ông cũng đã đón giáo sĩ và cho ở trong kinh thành, chính ông cũng đã thảo một bức thư bằng chữ Hán gửi cho cha Bề trên cả dòng Tên- bức thư mà ngày nay chúng ta còn giữ được nguyên bản nguyên văn – đó là năm 1627, và cũng chính ông cũng vì lý do quốc sự hay được kể là quốc sự, đã ra lệnh trục xuất De Rhodes khỏi Đàng Ngoài tháng 5 năm 1630. Tất cả sự việc này De Rhodes tường thuật trong Lịch sử Đàng Ngoài và trong Hành trình và truyền giáo. Hành trình khứ hồi Macao-Đông Kinh Lần đầu tiên người ta được biết trên giấy tờ cuộc hành trình theo đường biển từ Macao tới Đàng Ngoài. Theo cuốn sách nghiên cứu rất khoa học và rất tỉ mỉ về “người Bồ tới ven bờ biển Việt Nam và Chàm”, hay các lộ trình hàng hải vào thế kỷ 16, 17 (P.Y.Manguin, Les Portugais sur Les côtes du Vietnam et du Campa, EFFO, Paris 1972), người ta thấy vào hai thế kỷ này các thương gia người Bồ quen biết Đàng Trong nhiều hơn Đàng Ngoài. Họ đi từ Malacca tới vùng đảo Côn Lôn rồi hoặc là rẽ thẳng tới Phi, tới Trung Quốc, tới Nhật, hoặc họ tới men bờ biển Đàng Trong cho tới Quy Nhơn, Đà Nẵng, Hội An, để rồi chiếu thẳng tới Trung Quốc, Nhật Bản. Rất ít hay chưa có người nào theo lộ trình Macao-Đàng Ngoài. Theo Baldinotti thì hình như đây là lần đầu tiên người Bồ từ Macao tới xứ ta. Ông viết: “Chúng tôi trẩy đi từ Macao ngày mồng 2 tháng 2 năm 1626, ngày lễ Đức Mẹ dâng mình. Chúng tôi lênh đênh trên biển ba mươi sáu ngày, một phần vì thiếu kinh nghiệm về cuộc hành trình còn quá mới mẻ, một phần vì có cơn bão lớn nổi lên; con bão này chỉ yên khi Trang 84
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
chúng tôi ném xuống biển một di vật của thánh Phanxicô Xaviê. Ngày mồng 7 tháng 3 chúng tôi tới xứ Đàng Ngoài.” Ba mươi sáu ngày, thật là quá nhiều, bởi vì năm sau là năm 1627, phái đoàn người Bồ trong đó có De Rhodes, họ chỉ bỏ ra có 7 ngày để từ Macao tới Cửa Bạng, thuộc Thanh Hóa. Họ ra đi ngày 12 tháng 3 và 19 cùng tháng họ đã tới nơi. Cũng vậy hơn ba mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1658, ngày mồng 5 tháng 4, Tissanier rời Macao, thì ngày 13 cùng tháng đã tới Đàng Ngoài. De Rhodes theo lộ trình có 7 ngày, còn Tissanier 8 ngày, thế mà Baldinotti đã mất những 36 ngày, gấp hơn 5 lần. Baldinotti không ghi rõ đã qua những đâu, nhưng theo những bản tường trình về sau này và cũng theo bản đồ P.Y.Manguin ghi thì thấy, đoàn thương thuyền đã từ bán đảo Macao chiếu thẳng tới eo biển giữ Trung Quốc và đảo Hải Nam, rồi từ đó chiếu thẳng tới cửa sông Hồng hoặc né hay bị dạt vào bờ biển Thanh Hóa. Hẳn lúc về cũng theo lộ trình như lúc đi song ngược lại. Ở đây cũng thấy đoàn thuyền đã mất khá nhiều ngày. Họ từ biệt kinh thành này 11 tháng 8 mà mãi tới ngày 16 tháng 9 họ mới về tới Macao, phải kể cả giai đoạn thuộc nội địa đất Bắc nghĩa là từ Kinh đô ra tới cửa biển, theo con sông Hồng. Baldinotti viết: “Trước khi chúng tôi ra đi thì chúa đãi tiệc lớn mời tôi, thầy Giuliô, viên thuyền trưởng và những người Bồ khác. Chúa còn tặng chúng tôi nhiều phẩm vật và cho xem kho tàng của ngài”. Kho tàng của chúa Trịnh Tráng gồm có những gì? Chúng ta cũng tò mò muốn biết, nhưng giáo sĩ chỉ nói có vậy, nên chúng ta không biết tỉ mỉ về chi tiết. Qua Việt Nam để vào Trung Quốc Vào cuối bản tường trình, Baldinotti đề cập tới một khả năng theo biên giới Việt Nam để vào Trung Quốc. Ông viết:
Trang 85
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Ước mong Thiên Chúa mở đường truyền giáo nước này để có thể từ đó gia nhập Trung Quốc (việc này làm được rất dễ dàng, như nhiều người Nhật đã nói với tôi, họ đã tới tỉnh Trung Quốc gọi là Quảng Đông, chỉ xa xứ Đàng Ngoài chừng bốn ngày đàng) và để tới nước Lào.” Có thể là lúc đó chính quyền nhà Minh thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, không cho người ngoại quốc gia nhập nước mình. Vì thế con đường thông thường từ Macao vào đất Tàu không được dễ dàng như người ta tưởng. Họ đã đi tìm một lối khác và lối đó là qua xứ Bắc có biên giới sát tỉnh Quảng Đông. Trong sách Cương Mục, chb 33, 5-6, khi chú giải từ ngữ “Hoa Lang” nhà làm sử đã viết như sau: “Sách Kiên biểu bí lục của Chử Học Giá nhà Thanh chép: cuối năm Gia Tĩnh (1522-1566) triều Minh, Mã Đậu tập họp người đồng bạn đi tàu biển du lịch các nước gồm sáu năm, đến nước Annam rồi vào địa giới Quảng Đông.” Chúng tôi chưa rõ bản văn này, thực ra nếu nói là Mã Đậu thì không đúng, vì Ricci tới Trung Quốc vào năm 1583. Chỉ nhận rằng đã có nhà truyền giáo qua nước ta để vào nước Tàu, điều mà Baldinotti đề cập tới ở đây, qua lời nói của nhiều người Nhật. Như vậy sự thăm dò của ông đạt được kết quả: có thể từ nước ta qua Trung Quốc cũng như tới nước Lào. Kho tàng của Trịnh Tráng Nước ta vào đầu thế kỷ 17 này, vẫn còn là một nước nông nghiệp và tiểu thủ công. Sản phẩm thiên nhiên thì có, nhưng những vật dụng kể như không có gì. Hơn nữa, đồ vật của ta vẫn không sánh được với hàng Trung Quốc và Nhật Bản. Theo bản kê khai những cống phẩm của ta và những hàng hóa người Bồ tới mua thì chúng ta một phần nào biết được cái kho tàng của Trịnh Tráng. Những sản phẩm quý đó gồm có: vàng, bạc, lụa, ngà voi, hương trầm. Ngoài ra có thể có xà cừ, ngọc trai “nội hóa”. Hàng hóa Trung Quốc thường gồm có lụa là, gấm vóc, cành vàng lá ngọc. Của Nhật Trang 86
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Bổn thì có gươm đao, ngọc trai (Tissanier trong Tường trình về Đàng Ngoài, bốn mươi năm sau, 1666, có nói tới phẩm vật chúa Đàng Ngoài, lúc đó là con Trịnh Tráng tức Trịnh Tạc, tặng làm quà cho sứ thần Thái Lan đến gặp nhà cầm quyền của ta, đó là: hai tấm lụa Đàng Ngoài, bốn khẩu súng muskê, trong đó có hai khẩu nạm bạc và hai khẩu nạm vàng). Như vậy cái kho của nhà chúa gồm có tất cả thổ sản quý của nước ta, với những phẩm vật của các nước lân bang hay nước bạn đem tới, với những gì đã mua được của ngoại quốc. Người ta không thấy nói tới những bức họa thời danh, những điêu khắc có tiếng bằng đá hay bằng đồng, hay những cẩm thạch đủ loại như những kho tàng của ông hoàng bà chúa thời Trung cổ Au Châu. Chúng ta cũng biết ngoài những thứ kể trên, người nước ta lúc đó rất chuộng ngọc trai đưa từ Nhật, từ Trung Quốc, san hô Trung Quốc, ngà voi từ nước Lào, sừng tê giác từ Đàng Trong. Nhưng chỉ có chúng ta mới hiểu cái tế nhị của Trịnh Tráng khi ông này cho người Bồ coi kho tàng của mình. Thế có nghĩa là: các ông xem đây, tôi muốn có những thứ này thứ kia, hiện nay tôi chỉ mới có thế này. Làm vậy để cho người Bồ hiểu chuyến sau khi tới thì nên đem những sản vật nào, thứ hàng nào. Buổi tiệc tùng tiễn đưa, cũng là buổi cần phải nói với nhau những gì cần phải nói. Vì thế De Rhodes, trong Lịch sử Đàng Ngoài, năm 1627 tức là chỉ một năm sau, khi người Bồ tới và gặp Trịnh Tráng ở dọc con đường đi chinh phạt miền Nam, người Bồ đã đem tặng ông những đồ vật ông rất ưa thích. De Rhodes viết: “Người Bồ đi với chúng tôi dâng ngài những phẩm vật rất thích hợp và rất đúng lúc, nghĩa là những vũ khí đẹp và hoàn bị để bảo vệ bản thân ngài nếu ngài muốn sử dụng khi ra trận. Còn chúng tôi, chúng tôi dâng chúa những phẩm vật thuộc tôn giáo rất khiêm tốn, chúa nhận mặc dầu nhỏ mọn và thưởng chúng tôi những đồ vật quý.” (De Rhodes, sd q.2, ch.5) Baldinotti không nói về phẩm vật tiến Trịnh Tráng, nhưng De Rhodes lại ghi rõ trong Lịch sử Đàng Ngoài như sau: Trang 87
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Thuyền trưởng người Bồ dâng tiến trước những phẩm vật rất được chúa ưa thích về hai quyến dũ: giàu sang và hiếm có… Cha Baldinotti trong dịp này cũng không quên hiến chúa phẩm vật, tuy đơn sơ và là đồ thuộc về tôn giáo, nhưng chúa rất vui lòng vì mới lạ và chưa bao giờ thấy.” (De Rhodes, sd q.2, ch.1). “Phẩm vật giàu sang và hiếm có” phải chăng là san hô, ngọc trai, còn “phẩm vật thuộc về tôn giáo” phải chăng là ảnh bằng kim khí? Thực ra ít lâu sau khi Trịnh Tráng rút quân về và gặp lại phái đoàn người Bồ, thì De Rhodes đã đem tặng Trịnh Tráng “một sách hình cầu Eucliđê mà một cha ở bên Tàu đã dịch ra chữ Tàu và có trang trí nhiều hình toán học rất đẹp.” (De Rhodes, sd q.2 tr.9). Ở quyển 2, ch.10, ông còn nhắc là đã dâng Trịnh Tráng, khi gặp trên đường đi chinh phạt chúa Nguyễn, “đồng hồ có bánh xe và đồng hồ cát”. Đó là tặng phẩm Trịnh Tráng nhận được vào năm 1627. Tóm lại hẳn phải nghiên cứu cho đầy đủ hơn về vị chúa Đàng Ngoài này và đặt ông vào vị trí lúc đó, khi Kitô giáo mới gia nhập “chính thức” ở xứ này. Lịch sử Đàng Ngoài của De Rhodes sẽ là một tư liệu cần thiết. Baldinotti và các sĩ phu Trong bản Tường trình, Baldinotti về nhiều điểm nói quá sơ lược và còn nhiều điều khác chúng ta chưa được thỏa mãn. Theo ông, đây là hành trình đầu tiên của phái đoàn người Bồ trong đó có một giáo sĩ và một thầy trợ sĩ dòng Tên cùng đi, hành trình “cho tới đây chưa ai thực hiện”. Nhưng trong cuộc tiếp xúc với người Đàng Ngoài ông đã dùng tiếng Đàng Ngoài trực tiếp hay ông phải cậy nhờ vào thông dịch viên. Về cả hai điều này, ông không hề đề cập tới. Chúng ta được biết trong phái đoàn đầu tiên tới Đàng Trong do Buzomi cầm đầu năm 1615, theo Borri, thì đã có người làm thông dịch viên thực ra cũng chưa giúp được nhiều, bởi vì họ chỉ biết một vài cách, một ít tiếng nói của người Bồ, và họ đã làm sai lạc nhiều điều quan trọng như vụ “con nhỏ muốn vào trong lòng Hòa Lang” để chỉ “có muốn vào đạo Kitô”. Điều Baldinotti không nói ra thì De Rhodes đã dài dòng và đằng tả viết trong Lịch sử Đàng Ngoài. Baldinotti viết: Trang 88
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Bề trên nắm lấy cơ hội sai tôi và thầy Giuliô Piani người Nhật, làm tuyên uý và đồng thời cũng để tôi xem xét tình hình ở xứ đó có chịu nhận lời Thiên Chúa.” De Rhodes cũng ghi: “Vào đầu năm 1626 mới sai cha Giuliano Baldinotti người Ý với một thầy phụ tá tên là Giuliô Pinani tới xứ Đàng Ngoài, nhân dịp có chiếc tàu của thương gia người Bồ từ Macao đi, không phải để hoạt động mà để thăm dò xứ này nổi tiếng khắp nơi và để xem có hy vọng đến rao giảng Phúc Am và đức tin Kitô giáo” (De Rhodes, sd. q.2, ch.1). Có thể là vì thế mà người ta chưa cần biết nói tiếng xứ này, như De Rhodes viết: “Dẫu sao cha cũng chưa có khả năng dâng ngài (Trịnh Tráng) kho tàng quý báu Phúc Am vì chưa thông thạo ngôn ngữ và cũng chưa có người thông dịch để giải thích các mầu nhiệm.” (De Rhodes, sd q.2, ch.2). De Rhodes còn nhắc lại hai lần nữa về việc này, một lần khi Baldinotti đàm đạo (?) với một vị hoà thượng mà De Rhodes gọi là thầy sãi và một lần khi nói về hoa quả đầu mùa Baldinotti hái được. “Thấy có thể là một phương tiện rất thuận lợi để vun trồng đức tin trong xứ này, nếu cha thông thạo ngôn ngữ Đàng Ngoài hoặc có người thông ngôn để rao giảng và dạy dỗ những chân lý đạo ta” (De Rhodes, sd q.2, ch.1). “Ở Đàng Ngoài nơi cha không có phương tiện vì không thông thạo ngôn ngữ và không có thông ngôn (như cha mong muốn)” (ch.3) Kết quả khiêm tốn là Baldinotti đã rửa tội được bốn trẻ em hấp hối và “đó là hoa quả đầu mùa của dân tộc trở lại đạo này, cha gửi về trời. Ở đây hẳn chúng khẩn nài Thiên Chúa cho dự định truyền giáo được thực hiện và cho phương tiện thành đạt vì vinh danh Người và việc cứu rỗi xứ Đàng Ngoài”. (ch.3) Trang 89
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Không biết tiếng, không có người dịch, thì Baldinotti và thầy trợ sĩ người Nhật phải bó tay ư? Chúng ta biết ông đã nhiều lần gặp Trịnh Tráng, mấy lần “đàm đạo” với quan thái giám, với vị hòa thượng. Trong mấy tháng trời, gặp nhiều hoàn cảnh khó xử, phải đương đầu với mấy vụ rắc rối, muốn giúp ích cho mọi người, vậy ông đã dùng cách nào để trao đổi, để đối thoại. Baldinotti không đề cập tới, nhưng lại có De Rhodes cho chúng ta biết. Số là Baldinotti giỏi tiếng Nhật. Vì thế đem theo một người Nhật đi, như ở trong Nam phái đoàn đầu tiên cũng đã làm như thế, không phải là không có lý do đích đáng. De Rhodes viết về Baldinotti: “Mặc dầu cha công bố những điều kỳ diệu và mùa gặt thiêng liêng phong phú được chuẩn bị trong cánh đồng rộng lớn, nhưng vì thấy mình không tinh thông ngôn ngữ nên dầu có ý tốt cũng vô hiệu. Do đó cha không tỏ ra nhiệt tình trở lại Đàng Ngoài nữa. Cha vẫn thiết tha với việc truyền giáo ở Nhật, nơi cha hy vọng lượm được nhiều kết quả bởi vì cha thông hiểu ngôn ngữ Nhật”. (ch.3) Chúng tôi thiết nghĩ, trước khi học tiếng Nhật, hẳn người ta cũng đã học chữ Hán, vì chữ Hán là căn bản, là nguồn gốc tiếng Nhật văn hoa trí thức. Do đó, cái vốn liếng tiếng Nhật này, Baldinotti cũng như Piani đã đem ra xử dụng ở Đàng Ngoài, nghĩa là những cuộc đàm thoại thực ra là “bút thoại”. Nguyên một việc một người Au Châu viết được chữ Hán, “bút thoại” được với các sĩ phu của ta thời đó cũng làm cho thanh danh ông “lẫy lừng”. Trong số những nhân vật ông tiếp xúc có kể trong bản tường trình, người ta thấy có: quan thái giám trong phủ chúa Trịnh Tráng, vị hòa thượng trụ trì ngôi chùa chính, viên quan thái giám được chỉ định thu xếp việc thề, không kể những tiếp xuc khác với Trịnh Tráng, với Trịnh Tạc “là thế tử”, với bà hoàng thái hậu nữa. Đề tài những buổi “bút thoại” này là sự vận chuyển trái đất và các hành tinh, trong đó dĩ nhiên nói về nhật thực và nguyệt thực, trình bày giáo lý đạo Kitô, thanh minh về vụ vu khống, viết lời thề trên giấy… Dĩ nhiên trong sinh hoạt hằng ngày, mỗi lúc mỗi phải dùng tới bút thoại. Trang 90
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Tiếp xúc văn hóa Á Âu Hẳn không phải là lần đầu tiên có người Au Châu đến nước ta, cũng không phải là lần đầu tiên người nước ta tiếp xúc với người Au Châu, nhưng ở đây trên văn bản, trên giấy tờ, trên sách vở, chúng tôi thấy có những cuộc trao đổi về văn hóa, về tư tưởng, học thuật. Về sự học của ta thời xưa, có nhiều ưu điểm, nhưng cũng có những khuyết điểm. Đó là một cái học từ chương, chỉ biết sách thánh hiền, không hiểu kỹ thuật, khoa học tự nhiên, không ra ngoài nhãn giới nước Đại Minh hay Trung Quốc. Các đời vua Nghiêu vua Thuấn là kiểu mẫu, là thánh hiền là bất di bất dịch. Sĩ tử đi thi, không được viết xa đường lối của người xưa, không được viết phạm huý của nhà vua nhà chúa. Chúng ta ngưỡng mộ quê quán của Khổng, của Lão. Thực ra, không riêng gì ta, chính Trung Quốc và Nhật Bản, một thời cũng có những tư tưởng nông cạn và thoái lui như thế. Có ba điểm chúng tôi thấy nổi bật trong bản tường trình của Baldinotti: sự có mặt của người Bồ từ phương xa tới, sự trao đổi giữa ông và các vị hòa thượng, tiêu biểu cho Phật giáo, và nhận xét về Nho giáo. Thứ nhất người Bồ từ thế kỷ 15 đã đi khai thác nguyên liệu trong thế giới, họ đã thu nhập được nhiều nguồn lợi nhuận làm giàu cho dân nước họ. Chúng ta không thể tha thứ cho kẻ xâm chiếm cướp đoạt như chúng tôi đã nói, nhưng cũng không quá dùng một thứ từ ngữ thiên lệch để gán cho họ tội nọ tội kia. Chính chúng ta, để tự vệ, để bảo tồn giống nòi, chúng ta cũng đã mở mang bờ cõi nơi đất Chiêm Thành vào cho tới Đồng Nai. Những người từ ở một vòng nửa thế giới, họ đã có kỹ thuật vượt trùng dương, có can đảm liều chết tới đây đem biếu chúng ta “những phẩm vật rất thích hợp và đúng lúc”, “những phẩm vật rất được chúa ưa thích về hai quyến rũ: giàu sang và hiếm có”. Chúng ta có bờ biển rộng lớn, hải cảng an toàn, thế nhưng chúng ta không có thương thuyền đi đến các vùng lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản, Mã Lai. Chúng ta để cho người ngoài đến làm giàu trên đất nước ta. Đó là một nhận xét về buổi tiếp xúc năm 1626 này. Thứ hai, cũng là lần đầu tiên trong sách vở thấy có đối thoại giữa hai giáo sĩ thuộc hai tôn giáo khác nhau: Trang 91
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Một trong các vị tăng của chúa, đã đến thăm tôi và đàm luận với tôi về đạo của vị tăng và tôi thì đàm về đạo của tôi và về nhiều vấn đề thường thức khác.” Kết quả là chúng ta thấy hai bên am hiểu nhau, vị hoà thượng kia cũng rất cởi mở và nhìn nhận giá trị của Kitô giáo. Còn Baldinotti hẳn ông cũng có những tâm tình tương tự. Một lần khác, có vị hòa thượng trụ trì một ngôi chúa chính cũng đến đàm đạo với giáo sĩ: “Tôi thường đàm đạo về tôn giáo của tôi với ông và có một lần ông bái sấp mặt trên đất để tôn kính ảnh Chúa chúng ta và dâng của lễ.” Qua những cuộc tiếp xúc đó và những nhận xét khác, Baldinotti viết: “Cứ chung chung mà nói thì họ ít sùng phật (nơi họ chỉ cầu những lợi lộc trần gian), một phần vì họ thông minh, họ nhận ra sự giả trá của thứ đạo này, một phần vì không đủ chư tăng xứng đáng, những vị này không thuộc phái nhà nho.” Đã có một thời Phật giáo rất thịnh hành và có nhiều hòa thượng thông thái làm cố vấn cho nhà cầm quyền, chỉ đạo cho giới trí thức. Nhưng có thể là thời này, một đàng phái nho gia chiếm ưu thế và, đàng khác, đạo sa sút vì thiếu người lãnh đạo có khả năng. Vả đây cũng là phán đoán của nho giáo đối với đạo Phật. Nhận xét về đạo Phật rồi, ông cũng bắt đầu chú ý tới những mê tín dị đoan khác như bói toán, ảo thuật, pháp thuật, sự thờ cúng các tiên thánh. Những mê tín, những sai lệch trong tâm tính đạo giáo, về sau này, nghĩa là sau ba thế kỷ, người ta mới chính thức để ý bài trừ (coi Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục, trong Đông Dương tạp chí, 1913-1914; Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Hà Nội, 1938). Baldinotti mới mở đường để rồi những người kế tiếp sẽ nghiên cứu và phê phán rõ rệt hơn. Thứ ba, về trí thức thuộc Nho giáo của ta, Baldinotti không trực tiếp phê phán. Ông nhường lời cho một vị hòa thượng của chúa: Trang 92
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Vị này, sau ba giờ đàm đạo đã phục lý đến nỗi nhiều lần trước mặt bộ hạ và người Bồ đã khẳng định rằng người xứ Đàng Ngoài không biết ăn nói, không biết suy nghĩ và sống như súc vật.” Lời phê phán có vẻ không đúng và chạm tự ái của ta, nhưng thực ra, như chúng ta biết và chúng tôi cũng đã nói, cái học từ chương của ta ngày xư đã đưa tới sự cấn đọng, dốt nát như vậy đó. Không biết “nói” có nghĩa là ngoài sách thánh hiền thì không biết gì nữa. Có nhiều khoa học hỏi, nhiều vấn đề khác mà người ta không dạy cho biết. Người Trung Hoa đã nhận mình là cái rốn của vũ trụ, không biết tới ai, còn nho sĩ của ta lại chỉ biết có cái rốn ấy. Cho nên không biết bàn cãi về vũ trụ, về địa chí, về hàng hải, về khoa học, v.v… thật ra ta chưa biết “ăn nói”. Chúng ta mở miệng ra là nói Khổng Mạnh, cũng như về sau này mở miệng ra là tây tây tàu tàu, hay Lênin Cácmác, mỗi lần viết bài là nại tới kinh điển. Ngoài ra không biết gì. Cũng vậy, “không biết suy nghĩ” có nghĩa là chỉ biết nói theo người, lặp lại sách vở, chưa có sáng tạo, chưa có tự lập về tư tưởng, về lý luận. Chúng tôi thiết nghĩ, phê phán của vị hòa thượng đó không phải không có căn bản đối với sĩ phu của ta thời đó. “Ba giờ đàm đạo”, đúng hơn “bút thoại”, viên quan thái giám và vị hòa thượng đã nói những gì: về đạo Phật, về đạo Nho, nhưng còn “nhiều vấn đề thường thức khác” là những gì. Về phía Baldinotti, ông có thể cho người ta biết, ngoài giáo lý của đạo ông, còn nhiều hiểu biết ông có thể bàn luận giảng giải như về cuộc vận chuyển các tinh tú, về nhật thực nguyệt thực, về bản đồ thế giới mà Ricci đã cho in bằng chữ Hán ở Trung Quốc, về toán học như cuốn sách của Euclidê đã được dịch ra chữ Hán và in rất đẹp ở Tàu. Sĩ phu của ta chưa biết tới hoặc chưa thấu đáo ngọn nguồn. Sau cùng lời phê phán rất chói tai và xúc phạm về người Đàng Ngoài “sống như súc vật”. Chúng ta có thể hiểu thế nào? Chúng tôi phỏng đoán vị hoà thượng có ý ám chỉ cái tục lệ đa thê của ta ngày xưa chăng? Chúng tôi sẽ có dịp bàn sâu rộng hơn về vấn đề này. Ở đây chỉ thấy rằng, các giáo sĩ về sau này, kể từ De Rhodes và thực ra từ trước nữa, họ rất chú ý tới việc này. Họ công bố luật độc thê, nhất phu nhất phụ của Kitô giáo mặc dầu đây là cản trở lớn không cho giới trí thức thuộc hàng quan lại, sĩ phu trở lại theo Kitô giáo. Và cũng vì phê phán găn gắt về điểm này mà nhiều người bị trục xuất, đạo bị Trang 93
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
bách hại. Nói chung, đa thê thường có nơi nhà giàu có phú quý, còn đám bình dân, ít hay rất ít có cái tệ lạm mà sau này người ta bài trừ và bãi bỏ, sau ba thế kỷ, kể từ cuộc tiếp xúc giữa hai văn hóa Á Au này.
Trang 94
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ANTONIO FRANCISCO CARDIM - TƯỜNG TRÌNH VỀ ĐÀNG NGOÀI 1595-1659 Hồng Nhuệ dịch Paris 1989 TƯỜNG TRÌNH VỀ NHỮNG VIỆC xảy ra từ mấy năm nay cho tới năm 1644 ở NHẬT BẢN, Ở ĐÀNG TRONG, Ở TÍCH LAN và ở nhiều đảo, nước thuộc Đông Phương dưới danh hiệu là các tỉnh Nhật Bản và Malabar, thụôc dòng Tên, chia làm hai phần, tức hai tỉnh đó. PHẦN THỨ NHẤT Tường trình về tỉnh dòng Nhật Bản viết bằng tiếng Bồ do cha A.Francisco Cardim thuộc dòng Tên, giám quản tỉnh này, dịch ra tiếng Pháp Paris, Mathurin Hénault, Rue St. Jacques et Jean Hénault 1646 với đặc quyền và chuẩn y Lời Giới Thiệu Có những bản tường trình dài hơn, thực ra là một pho sách, nhưng cũng có những bản tường trình chỉ như một bản thông tin hằng năm, dài ngắn tuỳ thuộc nội dung. Bản của Cardim thuộc về loại sau này. Về thân thế ông, người ta cũng không biết nhiều. Ông sinh năm 1597 và mất năm 1659. Năm 1623 ông tới Macao, rồi đi Thái Lan năm 1626. Năm 1631 ông tới Đàng Ngoài rồi tìm cách đi Lào, nhưng không thành công. Về sau ông về Macao và mất ở đấy. Bản tường trình này được rút từ một bản trường hơi ông viết bằng tiếng Bồ được dịch sang tiếng Pháp nói về tất cả những khu truyền giáo thuộc dòng Tên trong mấy năm trước 1644. Bản tiếng Pháp ấn hành tại Paris năm 1646. Về vấn đề truyền giáo, ông đã nêu lên năm sáu lý do khiến người Đàng Ngoài tin theo đạo, và đó là một tài liệu rất quý để hiểu sâu sắc Trang 95
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
về sự gia nhập của Kitô giáo vào đất nước này. Về đất nước và con người Việt Nam, ông cũng hé mở cho chúng ta biết qua về một vài chi tiết, thí dụ ông nói về chúa Trịnh Tráng “có vóc người xinh xắn và cao ráo, bệ vệ và tính tình tốt, can tràng, khôn ngoan và thích làm thân với người ngoại quốc”. Về bà em gái của chúa De Rhodes đã nói trong Lịch sử Đàng Ngoài và trong Hành Trình và Truyền Giáo, đó là bà Catarina rất sành văn chương thi phú. Nhưng Cardim cho ta biết thêm về bà: “Bà Catarina em ruột chúa rất vững niềm tin, đến nỗi khi vắng các cha, bà liên tục bị ông chồng và nhà chúa anh ruột bà nhiễu nhương và xúi giục bỏ đạo, bà đã trả lời là bà chỉ bỏ đạo khi bỏ đời này, bởi vì bà biết rất rõ là bà thờ phượng một thiên địa chân Chúa”. Khi ông cùng cha Gaspar d’Amaral và cha Antonio de Fontes tới Đàng Ngoài và vào Kẻ Chợ thì nhằm vào kỳ thi hội. Ngày ông tới kinh thành là ngày 15 tháng 3 năm 1631, còn ngày thi hội năm đó vào tháng ba âm lịch. Toàn thư chép: “tháng ba, thi hội các sĩ nhân trong nước… Ngày thi Đình, vua thần ra đầu đề văn sách…” Khi nói về Đàng Trong mà ông không tới, ông cũng cho biết một vài chi tiết, như “trong số những người tin theo đạo có một bà thứ phi của chúa quá cố”, tức bà Minh Đức vương thái phi và chúa quá cố ở đây là Nguyễn Hoàng. Ông có cảm tình với chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) hơn chúa Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng), bởi vì chúa tuổi tác làm thinh cho phép các giáo sĩ trú ngụ trên đất ngài, trái lại người con của ngài “hung ác và rợ mọi không bao giờ cho phép một người nào ở lại, mặc dầu là trốn tránh”. Ông cũng cho ta biết thêm về trấn thủ Phú Yên Nguyễn Phúc Vinh với phu nhân là công chúa Ngọc Liên. Theo Cardim thì ông trấn thủ đã cho một Kitô hữu tranh luận với một nhà nho về vấn đề đạo giáo. Ông trấn thủ này hiểu biết và bênh vực Kitô giáo, ông còn để cho bà vợ theo đạo ta, nhưng về phần ông thì ông chưa tin theo, lý do ông còn vướng nhiều vợ mọn. Đây là sự việc được đề cập tới trong hết các bản tường trình nói về ông trấn thủ này và bà phu nhân theo Kitô giáo, nhưng không có tài liệu nào đề cập tới dòng họ nhà chúa của bà.
Trang 96
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Bản Tường trình được kết thúc bằng một lá thư De Rhodes viết từ Đàng Trong gửi về Macao, đó là năm 1641. Trong bức thư này, De Rhodes kể lại hoạt động truyền giáo của mình ở Đàng Trong, trong đó lại nói tới quan trấn thủ Phú Yên và bà phu nhân “lúc này đang ở trong phủ chúa”, rồi “từ phủ chúa bà Maria phu nhân quan trấn thủ đã về tới”. Được tin đồn có sự bắt bớ đạo, bà liền vào nhà thờ lên tiếng giảng cho dân biết ăn ở trung tín và bất khuất trước nguy hiểm. Sau cùng bản tường trình cũng nhắc tới bào đệ của chúa, tức hoàng tử Tôn Thất Trung mà Thực Lục tiền biên nhắc tới. Hoàng tử tỏ ra muốn tin theo đạo, nhưng một cách kín đáo, giấu giếm. Thế nhưng cha De Mattos đã không nhận. Đành chờ một thời cơ thuận lợi hơn. Hồng Nhuệ KHU TRUYỀN GIÁO ĐÀNG NGOÀI Xứ Đàng Ngoài đối diện với vịnh lớn Đàng Trong, người Trung Hoa gọi là Đông Kinh [1], nhưng người bản xứ thì gọi là Annam, có nghĩa là xứ miền tây, bởi vì đối với người Trung Quốc thì dĩ nhiên thuộc về miền tây và vì lý do đó mà người Trung Hoa gọi là Đông Kinh, có nghĩa là kinh đô miền tây, như thể họ gọi triều đình phương bắc là Bắc Kinh và triều phương nam là Nam Kinh. Phía nam xứ này gần nước Chàm, từ vĩ tuyến 11 về phía nam tới vĩ tuyến 23 giáp ranh giới xứ Cao Bằng, cạnh Trung Quốc, là nước họ chịu văn hóa và phong tục, không phân biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong. Kinh đô cả nước được người bản xứ gọi là Kẻ Chợ, ở vào khoảng vĩ tuyến 17 về phía bắc, về phía đông thì có biển, phía tây là núi rất cao phân chia với nước Lào, còn về phìa bắc thì là xứ Cao Bằng cạnh ranh giới Trung Quốc, nơi mà cho tới nay ánh sáng Phúc âm chưa chiếu tới, mặc dầu người ta đã khá vất vả để cho gia nhập, nhưng vô hiệu, bởi vì cuộc chinh chiến do một kẻ nghịch thần của Đàng Ngoài gây nên và đã làm ngăn trở. Về phía nam là xứ Đàng Trong đã nổi lên chống lại xứ Đàng Ngoài, tuy cả hai đều thuộc về một quốc gia, một phong tục và một ngôn ngữ. Về mạn đó thì rộng hơn một trăm dặm vuông và về mé biển thì chỉ chừng 130 hay 140 thôi. Tất cả đồng bằng đều có nhiều sông lớn tưới nước và cung cấp cho dư dật của cải để tiện về sinh sống cho con người, tuy không có bánh mì, không có rượu nho. Trang 97
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Nước mưa liên tục và nước từ tuyết tan chảy từ trên núi xuống làm cho có sự phong phú trù mật đó: nước tràn ngập đồng bằng, đến nỗi coi như một biển rộng, vì thế người ta thường đi bằng thuyền, nhà nào cũng sẵn ghe thuyền để dùng vào mùa lụt lội. Nước làm cho đất trở nên phì nhiêu đến nỗi khi nước rút thì một hát thóc nẩy sinh hơn một trăm. Và để hiểu biết thêm về tất cả, tôi sẽ nói đại khái đôi chút về mấy trái cây thấy ở xứ này. Cam thì nhất định lớn hơn cam ở Au Châu và bất cứ nơi tôi đã đi qua, hơn nữa lại có một tính tốt này là vỏ mềm hơn, dịu hơn, khá thơm ngon và có vị điều hòa hơn, có thể ăn cùng với ruột được, như thể người ta ăn trái chanh ở Ý. Lại có thứ cây lá vừa rộng vừa dài [2], chỉ hai lá cũng đủ che toàn thân một người, một là đàng trước, một là đàng sau. Cây này đâm ra một buồng với hai mươi hay ba mươi trái dính liền với nhau, người Bồ gọi là figos, và mỗi trái thì khá lớn; khi chưa chín thì vỏ xanh, lúc chín thì vàng, vỏ này cũng dễ bóc như bóc hạt đậu của chúng ta, bên trong là một chất tuỷ rất thơm, mầu vàng, có vị như trái lê Bergamo, dễ tan trong miệng khi trái thật chín. Tôi còn thấy một cây khác người ta gọi là mít. Ở An Độ cũng có rất nhiều, có trái gọi là trái mít. Cây thì cao và có gai, trái thì to như bí đao thấy bày bán ở cửa hàng thực phẩm bên Ý, vỏ tựa như vỏ trái thông, bên trong có những múi tròn màu vàng, giữa có hột rất dễ bóc, chất mềm thì để ăn, người Bồ gọi là Jacca barea. Cũng có rất nhiều thứ trái người Bồ đặt tên là annama [3], dứa- tròn tương tự như artisô. Trái cây thì dài chừng nửa piê, tròn như cột và khá lớn, hai lòng bàn tay chưa ôm nổi. Vỏ thì có vảy như vảy cá chép và khá cứng; khi chín thì bên ngoài và bên trong có màu vàng, người dùng dao bổ ra, bên trong cứng như củ cải của ta, nhưng mùi vị thì chua dịu, rất thơm ngon. Còn thấy một thứ cây khác có thân thẳng và cao như cây dừa[4], nhưng rỗng và chỉ trổ mấy lá ở chỏm như cây dừa. Giữa chùm lá thì đâm mấy buồng trái như trái dẻ của ta, xanh ở bên ngoài và trắng ở bên trong, cứng chắc như trái dẻ và không có mùi vị gì, người Bồ gọi trái này là arec –cau. Người ta không ăn trái đó một mình, nhưng bọc Trang 98
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
trong một thứ lá gọi là lá trầu, khá thông dụng ở An Độ, lá này tương tự như lá nho dại ở Ý. Người ta cắt lá và bọc một miếng cau; người ta làm thành 4 hay 5 miếng, quệt thêm chút vôi, không phải vôi đá mà là vôi vỏ hầu. Người nào cũng đem theo một hộp trầu để ăn, khi đã nhai rồi thì nhả ra, chỉ có cái chất trầu làm cho dạ dày khoẻ khoắn. Khi đi thăm ai thì cũng đem theo hộp trầu têm sẵn như đã nói ở trên để mời kẻ mình đến thăm, mở hộp trầu, lấy một miếng và bỏ vào miệng, rồi trước khi từ biệt thì người tiếp khách cũng mời trầu lại theo phép lịch sự. Cũng còn có nhiều thứ gỗ gọi là trầm hay kỳ nam. Đây là một thứ cây khá cao, nếu chặt khi còn non thì gọi là trầm hương, còn nếu đẵn khi cây già thì gọi là kỳ nam, có mùi thơm dịu, thơm ngọt ngào: đây là thứ hàng hóa chỉ có một mình chúa Đàng Ngoài được mua bán, bởi vì rất có giá, rất đắt. Dân xứ này đa số thì cao ráo, trắng như người Nhật và người Trung Hoa. Binh lính thì khá khéo bắn súng hỏa mai, áo thì ngắn cho tới nửa vế đùi với một thứ áo dài như áo trùng thâm, mở về phía mặt có tay áo khá rộng, họ đội một thứ mũ cao và gấp ở viền trên. Binh lính thì mang gươm hay dáo mác đeo trên bả vai, toàn dân, nói chung, thì không có những thói hư tật xấu thịnh hành ở Tàu và Nhật. Có chín tỉnh [5] thuộc về lãnh thổ nhà chúa, còn chúa Đàng Trong, vua người Lào và chúa Cao Bằng thường thì phải đến triều cống, còn về phần ông, thì mỗi năm phải phái người sang triều cống vua Trung Quốc mà ông thần phục, phẩm vật [6] thì gồm ba tượng vàng và ba tượng bạc, giá bằng 5 hay 6 nghìn êcu. Ông có chừng hai triệu lợi tức hằng năm, ông có thể cho ra mặt trận những đạo quân lớn ngoài 600 viên quan hiện có trong nước, những người này buộc phải cung cấp cho ông lấy ở trong số quân trù bị của mình, người thì một nghìn, người thì hai nghìn, người thì ba nghìn. Mỗi viên quan thì được làm chủ 16, 20, 30, 40, 50, hoặc 60 thôn xã do chính nhà chúa ban phát cho, với điều kiện là khi ông truyền thì phải cung cấp cho ông đủ số binh, kể cũng khá nặng. Ở nhiều nơi, ông bảo dưỡng bốn nghìn chiến thuyền [7], mỗi thuyền có 25 hay 30 tay chèo mỗi bên, nhưng thuyền thì khá nhẹ thường dùng để phô trương và trưng bày hơn là để nghênh chiến, bởi vì chỉ có một người cầm tay chèo, lại phải cầm súng hỏa mai. Mỗi thuyền chiến thì có một khẩu đại bác; tất cả mũi thuyền đều Trang 99
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
sơn son thếp vàng được trang trí rất tinh xảo bàng hàng nghìn hàng vạn cách. Người ta chèo theo tiếng trống, khi nhặt khi khoan, tuỳ theo người chỉ huy, thật là ngoạn mục, bởi vì có thể coi những tay chèo thuyền theo nhịp trống như một vũ điệu. Kinh thành [8], chu vi chừng 5 dặm hoặc hơn, dân rất đông, nhà cửa thì thường làm bằng thứ cây mọc trong xứ, người ta gọi là tre và lợp bằng rạ. Nhà nào khá nhất thì bằng gỗ, còn đền nhà chúa thì bằng những tấm ván lớn ghép rất khéo vào những cột cao cũng bằng gỗ và bởi vì vật liệu này dễ bén lửa, nên đó đây trong kinh thành có nhiều hồ đầy nước để tắt lửa thường gặp hỏa hoạn ở nhiều nơi. Có một vị đế vương trong nước thích vui chơi, muốn tránh khó nhọc trong việc cầm quyền trị nước, thì đã trao tất cả quyền hành cho một tướng lãnh, cho ông toàn quyền cai trị thay mình. Người này khá khôn khéo và quỷ quyệt liền chiếm đoạt hết mọi quyền hành trong nước, chính nhà vua chỉ còn có danh là bua hay vua, không quyền hành và cả những người kế vị cũng không quyền hành gì, trái lại viên tướng lãnh mới thực có thế lực. Nhà vua mỗi năm nhận triều yết của chúa hay tướng lãnh, vị chúa này mới có thực quyền hành chính và quân sự; vua chỉ nhận được những buổi triều yết mà thôi. Ở đây thịnh hành đạo Thích Ca, là con một vua An Độ tên là Ioboa, kết duyên với một bà tên là Maia, sinh hạ được một con trai tên là Ragola. Sau khi sinh hạ người con trai này thì ông thoát li thế trần và đi sống ở nhiều nơi, thu tập nhiều đồ đệ và giảng dạy cho họ môn triết học và làm nhiều phù phép. Ông sống vào khoảng bốn trăm năm trước Thiên Chúa giáng sinh. Dân xứ Đàng Ngoài rất sùng đạo Phật và nhiều người theo đạo này vì sợ hơn là có thiện chí. Đạo Thiên Chúa Gia Nhập Xứ Đàng Ngoài Nhân dịp có thuyền mấy thương gia người Bồ từ Macao, năm 1626 trẩy đi xứ Đàng Ngoài, thì cha Emmanuel Dias, kinh lý tỉnh dòng Nhân Bổn và phó tỉnh dòng Trung Quốc liền sai cha Giuliano Baldinotti người thành Pistoia và thầy Giuliano Piani người Nhật, để họ có thể thu lượm được một hoa trái nào nơi các người Nhật Bổn. Cha may mắn tới triều đình, được chúa tiếp đãi rất lịch thiệp và thân thiết. Ngài còn xin cha ở lại nước ngài và cam đoan để cho cha giảng đạo của cha cho thần dân ngài. Nhưng cha chỉ được phái tới để điều tra về phong tục và tập quán trong nước, rồi lại trở về Macao thông Trang 100
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
báo cho cha kinh lý tường, để rồi nếu dân và nhà chúa sẵn sàng thì người ta có thể sai các thợ đến cắm ngọn cờ Phúc âm. Cha chỉ hứa với nhà chúa là mình sẽ trở lại nều cha kinh lý vui lòng cho phép, hoặc ít ra phái một người nào khác thay mình, như cha đã làm sau này. Vị chúa này có vóc người xinh xắn và cao ráo [9], bệ vệ và tính tình tốt, can tràng, khôn ngoan và thích làm thân với người ngoại quốc, do đó có nhiều tàu tới đậu ở các hải cảng và chở nhiều thứ hàng hóa tới. Ngài mở nhiều cuộc tiêu khiển cho các cha coi, cưỡi voi chạy theo binh sĩ, khi thì ngồi bên kia lúc lại ngồi bên này (vì có rất nhiều cỗ voi rất xinh đẹp); voi lấy vòi cầm giáo để dưới đất dâng lên ngài và hết các thứ vũ khí khác con vật đưa lên, mặc dầu ngài vẫn cưỡi trên lưng voi: tóm lại ngài cho tổ chức nhiều cuộc vui và khéo léo khác. Ngài còn truyền cho người ta đem vào sông tới năm trăm chiến thuyền, rồi người ta theo tiếng trống [10] mà chèo như tôi đã nói ở trên. Rồi cha đã bỏ xứ Đàng Ngoài mà về Macao sau khi đã được chúa tiếp đón rất trịnh trọng, cha đã thông báo đầy đủ cho cha kinh lý biết về hết những gì cha đã nhận xét, bằng một lá thư được ấn hành tại Roma. Ngày 11 tháng 3 năm 1627, cha Anrê Palmeiro, tân kinh lý, đã phái mấy thừa sai tới Đàng Ngoài là cha Phêrô Marquez người Bồ và cha Alexandre de Rhodes người thành Avignon; vì cha De Rhodes đã cư trú mấy năm ở Đàng Trong, nên rất tinh thông ngôn ngữ xứ này. Hai cha đã may mắn tới hải cảng xứ này, chỉ sau tám ngày đi biển, các cha tới vào đúng ngày lễ kính thánh Giuse, và thấy có rất đông người tới bến để xem những người ngoại quốc. Thế là cha Alexandre de Rhodes đặt tên cho cửa biển này là cửa thánh Giuse, rồi cha lợi dụng cơ hội để quăng lưới Phúc âm. Đứng trên mũi thuyền, theo gương Đức Con Thiên Chúa, cha đã giảng, thế là ngay mẻ đầu cha đã bắt được 32 con cá, trong số đó có một người con trai của một trong những viên quan chính yếu địa phương này, một vị lão thành thuộc phái nhà nho và một người quý phái. Người ta đã chu đáo dạy họ và họ đã được chịu phép rửa tội. Người thứ nhất tên là Giuse, vì chính vào ngày lễ kính thánh nhân đã được mẻ cá lớn; người thứ hai là Phêrô và người thứ ba là Inhaxu; nghi lễ được cử hành trong niềm hân hoan đặc biệt và vui mừng lớn của những người tân tòng và các cha nữa. Họ đã dựng một ngọn cờ thánh giá trên một đỉnh núi cao để cho các thuỷ thủ từ xa nhìn thấy và để cho lương dân hãi hùng và kinh sợ; đại đội dòng Tên thực ra cũng dùng thứ võ khí này để tấn công. Trang 101
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Ngày áp lễ Phục sinh, một người Bồ từ phủ chúa trở về, ông đưa tin cho biết có tàu cập bến và cùng đi với ông có một viên quan thái giám chúa phái tới và ra lệnh cho bốc hết các hàng hóa trong tàu và an toàn đưa tất cả cùng các cha tới chúa. Khi đến cửa sông thì gặp chúa dẫn một số rất lớn thuyền chiến và binh sĩ đi giao chiến với chúa Đàng Trong. Ngài truyền cho các cha đi theo ngài. Khi đã dừng thuyền thì ngài cho vời các cha tới. Khi đến thì các cha đem theo các phẩm vật theo tục các nước miền An Độ này: ngài đón tiếp rất thân thiện và truyền cho các cha đợi ngài trở về ở một nơi trong tỉnh Thanh Hóa, trước đây cũng là kinh đô của cả xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong [11]. Các cha cho dựng ở nơi này một ngôi nhà theo kiểu một túp lều tranh và một nhà khác đặc biệt hơn làm nhà thờ, để dâng thánh lễ và làm các việc đạo đức, lại dựng trước cửa một cây thánh giá cao được bào đẽo rất tươm tất, đó là phù hiệu chúng tôi ở đây và cũng là một sáng kiến mới lạ và đẹp đẽ dân ở đây chưa bao giờ thấy. Sáng kiến này thực ra đã làm ích cho nhiều người bởi vì có mấy vị sư ở một chùa lớn có rất nhiều người vãng cảnh, các vị là những người đầu tiên đến nấp dưới bóng ngọn cờ thánh giá. Các vị tới thăm các cha một cách rất lịch thiệp và để đáp lại các cha giảng Phúc âm cho họ, cho họ biết mình từ cùng kiệt thế giới tới đây rao giảng đường dẫn tới sự sống đời đời, điều này các người ngoại giáo rất hiểu, họ bắt đầu nhận thấy sai lầm của họ và khi đã đầy đủ học hỏi thì được chịu phép thánh tẩy. Vị sư đã khá có tuổi thường gọi là sãi lấy tên là Gioankim và bà vợ là Anna. Bà lão tốt lành từ nhà thờ chúng tôi trở về, đến ngã ba đường phố thì bà lớn tiếng giảng Phúc âm cho một số đông dân chúng, bà công bố tin mừng về thiên đàng, còn Gioankim nhân ái thì như sói dữ hoá chiên lành, từ kẻ gieo rắc gian dối và sai lầm, hóa thành người giảng đạo thánh, ông đến hết các nhà lân cận, ông không thể giữ nổi ngọn lửa bùng cháy trong lồng ngực, ông khuyên nhủ, thôi thúc mọi người theo Kitô giáo, ông còn làm gương sáng về các việc lành phù hợp với lời khuyên dạy sốt sắng. Ông dâng một khu đất rộng gần nhà thờ chúng tôi và cho dựng một nhà thờ rộng lớn hơn, có thể chứa được nhiều người hơn, ông cũng cho trang trí bằng nhiều đồ trang hoàng đẹp đẽ và nhiều đồ đạc sang trọng. Ông còn cho dựng ở lối vào một cây thánh giá trên đó khắc mấy chữ đại tự: cây giá Chúa Trời. Vợ ông và ông không ngừng ở đây, vì họ cho dựng thêm vào ngôi nhà thờ mới Trang 102
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
này mấy nhà khác để cho việc phụng tự được đầy đủ hơn. Họ liên tục không những giảng bằng miệng mà hơn nữa bằng cách ăn ở lành thánh của họ. Họ lôi cuốn rất nhiều các đồ đệ cũ theo gương họ và trở lại đạo Kitô, thế là mỗi ngày đạo được lan rộng nhờ vào những gương sáng các cha và các Kitô hữu tân tòng làm trước mặt lương dân. Các cha cũng đã làm một việc từ thiện và việc này đã kích động nhiều người xin học đạo và xin chịu phép thánh tẩy. Có một lương dân đột nhiên ngã bệnh ở một ngã ba đường phố, bệnh nặng đến nỗi hình như hấp hối sắp chết. Có một Kitô hữu tới gần và hỏi xem người bệnh có muốn trở thành Kitô hữu như mình không; người bệnh trả lời là rất bằng lòng. Người Kitô hữu liền vội chạy về nhà chúng tôi để thông báo cho các cha biết có món mồi mới tìm ra, thế là cả hai đến gặp người bệnh, giảng dạy các điều cần thiết, rửa tội và đưa về nhà, cho nằm giường tươm tất lại săn sóc tận tình và hết lòng thương mến; nhưng sau mấy ngày thì Thiên Chúa nhân từ đã để rút về với Người. Các cha loan tin cho hết các giáo dân tân tòng biết để tới dự đám tang. Họ đã đến dự và đám tang được cử hành long trọng, hết các nghi lễ của Giáo hội được chu đáo tuân thủ, làm cho mọi người đều khen ngợi, họ không quen những công việc từ thiện như của chúng ta và rất nhiều ngừơi cảm xúc đến rơi lệ và xin học đạo và chịu phép rửa tội; có mấy người quyền quý trong số này. Đã xảy ra ở đây một việc buồn cười: số là có một vị sãi bất mãn vì các đệ tử bỏ ông để theo Kitô giáo. Ông cho phao tin đồn khắp thành phố rằng: các cha làm cho giáo dân trưởng giả ở đời này thành nô lệ cho người Bồ ở đời sau. Chưa hài lòng vì tin đồn, ông còn tới nhà thờ chúng tôi và chửi bới các cha, ông lớn tiếng kêu và nói là đạo thánh chúng ta không có gì tốt; ông nhả ra nghìn lời chửi rủa và nhất là vu khống cho chúng tôi đã đốt các kinh sách đạo cũ trong xứ Đàng Ngoài để cho gia nhập kinh sách đạo mới của chúng ta. Các cha nhớ lại trong dịp này lời thánh Autinh: Dum nimis curatur humilitas, minuitur auctoritas, uy thế rất cần cho các người giảng Phúc âm, thế là chúng tôi ủy lạo nhau và đầy nhiệt tình chúng tôi đã khiển trách ông sãi về sự táo bạo của ông; các ngài tỏ cho ông biết là ông đã gian dối giảng sự sai lầm về các thần rơm thần rạ và ông rất hiểu lý lẽ làm cho ông khuất phục, nhưng ông không muốn tin theo. Các cha còn dùng những lý luận xác đáng nói cho ông biết: các kinh sách của ông không có một chỗ nào làm cho người ta thấy dù là hình bóng sự thật. Trang 103
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Càng thêm táo bạo hơn trước, ông đem sách mở tới hơn nghìn chỗ và đưa ra hai tờ vừa bẩn vừa đen vì lâu ngày phơi ánh sáng, để tỏ ra đạo ông có từ lâu đời, nhưng các cha đem kinh sách của chúng ta, nghĩa là bộ kinh thánh và cuốn sách lễ đóng rất khéo, có mạ vàng ở mép; vừa thấy thì mọi người đều nói đạo chúng ta là đạo thật và đạo các sư sãi là đạo giả, đạo dối; thế là ông sãi hết sức xấu hổ, nhưng không ra hàng, ông liền rút lui lẩm bẩm bực tức, còn tất cả người tân tòng thì đều vững niềm tin và có mấy đồ đệ của ông xin theo đạo ta. Các cha đã rửa tội được 200 người ở đây, trong số đó có một bà họ gần với chúa. Có một bà tên là Monica đến thăm bà khi bà đau bệnh và kể cho bà những gì biết về đạo Thiên Chúa một cách nhiệt tình đến nỗi bà công chúa này say mê xin theo và chịu phép rửa tội, nhưng sau ít ngày thì đã về trời hưởng hạnh phúc trường cửu. Đạo truyền bá khắp các nơi, tiếng đồn tới tai bà em của chúa [12], bà liền sai người tới tìm các cha và thỉnh cầu các cha đến cắt nghĩa các mầu nhiệm thánh cho bà nghe. Khi các cha đã bắt đầu tra tay làm việc thì được tin chúa trở về, thế là phải hoãn việc rửa tội cho bà và đến triều yết chúa. Chúa về tới nơi đã chỉ định cho các cha khi mới tới, các cha liền đến yết kiến và dâng một cuốn sách về toán học bằng chữ Hán đóng rất đẹp. Chúa tiếp đãi rất lịch thiệp, tỏ ra ngài rất thích thú nhận phẩm vật. Ngài đối xử rất thân thiện và truyền cho các cha theo ngài về kinh thành. Trong cuộc hành trình, ngài thường cho vời các cha đến và xin các cha giải thích môn toán học chứa đựng trong cuốn sách, thế là các cha có dịp để phân giải những điều thuộc về đạo thánh ta, về Đấng Cao Cả tạo thành thiên địa vạn vật và những điều tương tự, mặc dầu về bản thân ngài thì các cha chưa thuyết phục được, mới chỉ được lòng mấy viên quan cận thần. Vì thế vừa tới nơi trong kinh thành thì họ đã đến tìm các cha, xin học giáo lý và chịu phép rửa tội. Việc này đã được thực hiện với sự thỏa thuận của chúa. Những người đến nhà thờ của chúng ta thì rất đông đến nỗi phải giảng ít là mỗi ngày bốn lần, có khi tới năm lần. Người ta liên tiếp rửa tội cho những người xin chịu phép bí tích thánh và từ khi chúng tôi đến cho tới tháng 5 năm 1628 thì đã có 1500 người chịu phép thánh tẩy.
Trang 104
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Trong số những người xin theo một cách nhiệt tình hơn cả, thì có một viên quan rất có thế giá và rất được chúa yêu vì; sau khi đã chuyên chú học giáo lý thì được chịu phép thánh tẩy và được gọi tên là Phêrô. Tên này thực ra rất thích đáng vì ông giống như vị thủ trưởng các tông đồ, ông là người thủ lãnh và người bảo vệ các Kitô hữu trong cả nước này, ông khuyến khích mọi người kể cả người tân tòng, ông nêu gương sáng cho mọi người noi theo. Nhưng Thiên Chúa muốn ban phần thưởng cho ông và gọi ông về thiên quốc; ông đã chết lành và mọi người đều được lòng tin khi thấy ông hết sức nhẫn nhục thanh thản trao phó sự sống trong tay Đấng Tạo thành. Nhà chúa rất buồn phiền vì ông mất, bởi vì ngài rất quý mến ông, nhưng ngài lại có những ý tưởng sai lầm do thần dân ngài đồn thổi, đến nỗi ngài phẫn uất về cái chết của một nhân vật rất có thế giá, cái chết mà ngài cho nguyên do là bởi Kitô giáo là đạo người chết. Thế là ngài cấm các cha không được rửa tội cho ai, nhưng Thiên Chúa đã tỏ cho thấy rõ sai lầm bằng những truyện sau đây. Có một lương dân đưa một Kitô hữu ra ngoài ruộng rồi khuyên người đó bỏ đạo Kitô, ông nói: Kitô giáo là đạo người chết, bởi vì hết những ai theo đạo này thì đều chết sau khi tin; ông này hết sức thúc giục đến nỗi làm cho Kitô hữu nhượng bộ và hứa sẽ bỏ đạo. Vừa mới nói ưng thuận thì người lương dân bất nhân ngã xuống đất cứng đờ như chết; người Kitô hữu hoảng hốt sợ hãi trở về nhà và cũng ngã bệnh. Tà ma mấy lần trong đêm đã hiện ra bảo ông theo y. Người Kitô hữu liền cho người tới tìm các cha, ông đã xưng tội và đau đớn khóc lóc ròng ròng và từ đó quỷ ác không còn đến hành hung ông nữa. Cái chết của người lương dân được người ta đồn thổi các nơi làm cho những người lương dân xin học giáo lý và chịu phép rửa tội, bất chấp lệnh cấm của nhà chúa. Người ta đã trao cho hoàng hậu một cuốn sách đạo, nhưng khi biết là sách gì thì bà liền ném đi, bà nói là không muốn biết đạo nào khác ngoài đạo Phật. Thiên Chúa đã phạt bà, vì tức thời bà ngã bệnh ngay trong phủ và bệnh khá trầm trọng; người ta phải đưa bà về tư dinh hoàng tử con bà cũng là thế tử, ông này liền cho mới các thầy phù thuỷ đến chữa cho mẹ mình bằng những phù phép. Họ đã dùng hết những gì họ có thể làm được, nhưng vô hiệu. Người bệnh nghe tin các Kitô hữu làm những phép lạ chữa bệnh nhân, bà liền bảo con cho mời họ tới. Người ta đã làm theo và các Kitô hữu đã tới. Khi thấy các thầy Trang 105
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
phù thuỷ lăng xăng quanh bà thì họ nói với hoàng tử hãy cho chúng về, vì họ không thể trước mặt chúng cầu xin cho sức khoẻ của thân mẫu ông. Nhưng hoàng tử trả lời là để cho họ cùng cầu nguyện chung, nhưng các Kitô hữu từ chối, viện cớ là nếu Thiên Chúa cho bà được phục hồi sức khoẻ thì chúng nhận là do những phù phép của chúng. Hoàng tử cương quyết không chịu để chúng đi, thế là các Kitô hữu bỏ về. Sự kỳ lạ làm sao! Ngay khi họ vừa ra thì người bệnh kêu la: kìa con quỷ tới bắt tôi, kìa nó trói tôi và gông cổ tôi và người ta thấy rõ bà không sao cựa quậy được chứ không phải chỉ có tay và bà nói thêm: không ai có thể cứu tôi thoát những hình khổ này, trừ các Kitô hữu, hãy gọi họ lại đây nhanh lên; nhưng ông con nhất định không muốn, thế là bà chết cách khốn nạn, bà bị Thiên Chúa ruồng bỏ khi bà chết bởi vì lúc còn sống bà đã ném sách đạo đi. Tất cả kinh thành đều rất xúc động và các Kitô hữu được vững chắc trong niềm tin nhờ những việc xảy ra tương tự như việc này, thế là càng làm cho kẻ nguội lạnh thêm sốt sắng và người lương dân trở lại đạo rất đông. Có một bà Kitô hữu tên là Anna, rất được trọng trong toàn quốc vì có mấy cô con gái lấy các hoàng tử, bà có một người làm công là Kitô hữu tên là Luca. Ông này không may có cuộc cãi lộn với một người lương dân, hắn bỏ bùa cho ông và giấu bùa dưới giường nằm thì thấy có một con quỷ chạy vào buồng mình, một tay cầm lưỡi giáo, một tay cầm gươm và dưới chân có ngọn lửa; ông rất hoảng sợ và liền kêu người bạn tên là Bentô tới. Thế là tên quỷ đánh cho ông một cái rất mạnh. Việc này lại càng làm cho Luca hết sức sửng sốt, ông liền nhiệt tình cầu thánh thiên thần bản mệnh, tức thì ngài hiện ra và bảo ông cầm lấy chính thanh gươm của con quỷ mà chém vào tai nó. Luca vâng theo, thế là có một hình nhân bằng rơm đột ngột rơi xuống chân ông, đây là thân xác con quỷ dùng để chạy vào buồng. Trong nháy mắt thiên thần đích thực cũng biến mất. Đêm sau con quỷ lại hiện ra với hình thù và cách thức như đêm trước; Luca lại kêu cầu thiên thần, ngài đã đến cứu ông như hôm trước, ngài yên ủi ông và bảo ông đánh nó như trong đêm qua, đừng sợ hãi gì; thế là có một hình nhân thứ hai bằng rơm ngã ngay trong phòng ông, còn thiên thần, trước khi rút lui, thì dặn ông là sẽ còn thấy đứa xấc xược hay hình nhân bằng rơm dưới một chiếc ghế trong nhà; vậy phải bắt lấy và xé đi, đó là bùa yểm để hành hung ông, sau đó sẽ không còn gì nữa. Luca vui vẻ đi kiếm và đã tìm thấy những 13. Ông đã huỷ đi hết. Rồi sau đó từ tay ông viết kể lại hết các việc xảy ra cho các cha lúc này đang ở trong phủ. Các cha đem Trang 106
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ra đọc trước mặt viên y sĩ của nhà chúa, bởi vì ở những khu vực này, các y sĩ thường là những nhà pháp thuật. Ông nói với các cha rằng: kẻ yểm bùa thật là một nhà pháp thuật đại tài và rất thành thạo trong nghề, nhưng người giải được bùa đó thì còn cao tay hơn thầy pháp rất nhiều. Thật ra ông nói rất đúng vì đó là thiên thần bản mệnh đã phá tan mưu cơ. Thế là người ta trìu mến cảm tạ Thiên Chúa đã săn sóc bảo vệ các Kitô hữu qua trung gian các thiên sứ của Người. Do những việc xảy ra và những phép lạ khác mà ruộng nho Thiên Chúa sinh sôi nảy nở đến nỗi trong nước này, năm 1631 đã rửa tội được 5.727 người, năm 1633 có 9.797, năm 1634 có 9.874, năm 1635 có 8.176, năm 1636 được 7.121, năm 1637 được 9.707, năm 1638 được 9.076, năm 1639 được 12.234, năm 1640 được 10.070 và năm 1641 tất cả những người đã chịu phép rửa thì lên tới con số 108.000. Thêm vào đó, trong những năm này đã được 235 nhà thờ trong nhiều nơi. Thật là những kết quả lớn lao, nếu xét ra chỉ có một số thợ rất ít được sai tới để gặt hái. Mỗi người phải cai quản tới 12 hay 15 nghìn người về phần mình, và cần phải được mấy đồng sự phụ vào, nhưng sự nhiệt tình và lòng sốt sắng của những tông đồ mới mẻ được ơn Trên giúp đỡ, đã làm tăng thêm sức để làm toại nguyện mọi người thực ra không ít khó nhọc, bởi vì phải đi bộ hơn một nghìn dặm hay qua nhiều thôn xã khác nhau, nơi có những người tân tòng ở, và những khốn khổ nhọc mệt đã đánh ngã hai người, cha Bernardino Reggio và cha Giuse Mauro đã tắt thở vì quá mệt nhọc, làm cho tân giáo đoàn này hết sức nhớ thương. Số những người được rửa tội có thể là khá lạ lùng và không thể tin được bởi vì rất ít các cha được phái tới đây. Nhưng tôi có thể trả lời và làm thỏa mãn những ngừơi nghĩ tưởng như vậy; tôi đưa ra những lý lẽ vững chãi, ngoài ơn và sự hộ phù đặc biệt của Thiên Chúa là nguyên nhân chính yếu của mọi công việc tốt lành, đó là như căn bản và nền tảng các việc trở lại đạo ta, thì còn những lý do làm cho người ta có thể tin được như sau: Lý do thứ nhất làm cho lương dân theo đạo ta tại xứ Đàng Ngoài là nhiệt tình không thể tưởng tượng được của họ để học hỏi và hiểu biết các điều tin trong đạo, và lòng ham muốn rất lớn để sau khi đã học thì đi truyền bá và giải thích cho những người khác. Tất cả đều thú nhận là họ không thể tự cầm mình không làm việc này được. Vì thế họ rảo khắp các làng mạc, các thôn xóm lân cận để giảng đạo cho hết mọi người qua lại, và gương sáng của họ thu được hiệu quả hiển nhiên, Trang 107
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
làm cho lương dân thấy từ những Saolô họ trở nên những Phaolô, và từ sói dữ họ thành chiên lành; thế là nhiều người trở lại đạo và vội vàng chạy đến các cha để chịu lời giảng dạy bổ túc và xin cho được chịu phép rửa tội. Nhiều khi các cha không thể đi được vì quá bận thì sai các thầy giảng, sau đó mới đi một vòng thăm họ, củng cố đức tin của họ bằng lời rao giảng và sự dạy dỗ. Lý do thứ hai, các quan ngoại đạo đối xử với dân thì rất kiêu căng và ngạo mạn, đến nỗi không thèm nhìn tới dân, nếu có thì cũng là cách cau có; nhưng khi trở lại đạo thì họ hoàn toàn thay đổi cách ăn ở, đối xử rất nhân ái và thân thương, tiếp đón họ lịch thiệp, làm cho lương dân khốn đốn khi thấy sự thay đổi đó thì phải thú nhận Kitô giáo là đạo rất tốt rất thánh; họ cũng nhận thấy sự hiền từ và dịu dàng nơi các Kitô hữu; thế là họ tới tìm các cha để xin học giáo lý và chịu phép rửa tội. Lý do thứ ba, họ rất tôn trọng vong linh người quá cố, và khi thấy các Kitô hữu làm đám tang cho người đồng đạo qua đời với tất cả danh dự như đưa xác với đuốc sáng, nến thắp và những lễ nghi trang trọng, họ cho đạo ta rất thích hợp với tâm tư của họ. Lý do thứ tư, vì Thiên Chúa cho phép trong xứ này ma quỷ hành hung rất dữ dằn những người ngoại đạo, không những nơi bản thân họ mà còn làm hại cả nhà cửa tài sản họ, đến nỗi nhiều khi nó bốc người ta lên trên không cho tới mái nhà rồi cho rớt xuống đất một cách rất dữ dằn, làm cho người ta chết. Vì thế để không bị xử hung ác như vậy thì người ta phải dọn cho chúng ăn, bày thịt thà trước cửa nhà và chạy theo các xó nhà cầm gậy lùa chúng cho chúng đến dùng bữa tiệc đã dọn sẵn cho chúng. Nhưng khi thấy các Kitô hữu đuổi tà ma ra khỏi nhà lương dân bằng tràng hạt và nước phép, và nhà cửa của họ không bị quỷ ám ảnh hay hành hung, thì họ đến xin học đạo và chịu phép thánh tẩy. Thế là số Kitô hữu càng tăng lên và số người được tuyển cũng thêm. Lý do thứ năm, dân đất nước này rất kiêu căng va ngạo mạn như tôi đã nói; các quan và kẻ quyền thế muốn cho người ta phải cúi sâu chào kính mình, thần dân phải sấp mặt tới đất lạy đức quân vương; cũng vậy các môn đồ đối với tôn sư. Lương dân thấy các cha không muốn cho người ta tỏ lòng tôn kính như thế đối với mình, lại còn ngăn cản Trang 108
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
các Kitô hữu. Thế là họ rất có cảm tình ngay với đạo ta và tự nguyện xin theo. Hơn nữa, họ còn nhận thấy các cha giảng dạy không vì tư lợi mình, nhưng để cho họ chiếm được cõi Trời. Vì thế các cha không nhận cũng không muốn được gì nơi các người nghe, trái lại các ngài phát không cho nhiều ảnh đạo các ngài lấy tiền riêng của mình mà mua, và như ở An Độ người ta không thương lượng một việc vì mà không có lễ phẩm, nên người nào không nhận phẩm vật thì được trọng như một vị thần thánh. Tôi thêm vào tất cả những lý do này một lý do chính khác, đó là sự bắt bớ ôn hòa của bạo vương; ông đã không muốn rõ ràng tuyên bố cho tới bây giờ rằng sắc lệnh của mình có mục đích chống Kitô giáo, nhưng chỉ cấm không cho thần dân táo bạo theo đạo người chết mà thôi. Ngài có ý hiểu là đạo Kitô, và nhiều viên quan đã bắt đầu cho hành hung họ khi sắc lệnh ban hành; nhưng Thiên Chúa công bố đạo người chết không phải đạo của Người, nhưng là đạo của lương dân, bởi vì đã phát hiện bệnh dịch trong nhiều nơi, có chỗ cả nhà bị bệnh mà lương dân thường thì chết hết, trái lại các Kitô hữu thì tránh khỏi. Thế là ngừng cuộc bắt bớ hành hung, tuy chưa giập tắt hẳn, bắt đầu từ Đàng Ngoài, vì thế nó không làm ngạt đức tin lại còn cho tăng thêm. Chúng tôi tin vào Thiên Chúa nhân từ, bởi vì khu truyền giáo này là khu tốt đẹp nhất trong tất cả những khu miền Đông An dưới quyền các vua chúa ngoại đạo, nên hẳn là Người sẽ hối thúc một người nào đứng ra bảo vệ để mở mang đạo, gìn giữ và làm tăng số các Kitô hữu và những người làm việc trong ruộng nho này. Thật là một việc rất cần thiết bởi vì mặc dầu chúng tôi có trong nước này tất cả là bốn nhà, hai ở trong phủ, một trong tỉnh Thanh Hóa và một trong tỉnh Nghệ An, nhưng có đủ thợ để làm việc vun trồng trong toàn cõi. Thiên Chúa không quên, Người thường tỏ hết thế lực của Người nơi bản thân những Kitô hữu dùng cây thánh giá và nước phép để xua đuổi tà ma, và hồi phục sức khoẻ bệnh nhân. Đây là một trường hợp rất kỳ diệu. Bệnh dịch đã len lỏi vào một địa hạt gần kinh thành; các người tân tòng liền dựng cây thánh giá ở lối cửa ra vào, một cây ở giữa và một cây ở đầu bên kia. Họ cùng nhau rất tận tuỵ săn sóc bệnh nhân. Thiên Chúa cộng tác với lòng bác ái của họ, bởi vì họ đặt chân vào nhà người bệnh nào thì họ chữa khỏi ngay tức khắc. Chỉ có một người hấp hối chết không được hồi phục sức khoẻ thân xác thì được hồi phục sức khoẻ linh hồn, bởi vì được vội vàng giảng dạy đầy đủ, Trang 109
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
người đó được chịu phép rửa tội, rồi sau đó thì tắt thở. Những người tân tòng này công khai tỏ lòng bác ái và chịu hết phí tổn dựng một bệnh xá, họ gọi là nhà thương, nơi họ tận tuỵ làm việc bác ái và làm gương sáng, vì thương xót những người cùng khổ [13]. Nhưng thù địch loài người bực tức thấy việc thờ cúng các ngẫu tượng mỗi ngày mỗi xuống dốc trong xứ này, và những tia lửa nhỏ bé của đức tin dần dần nhen nhóm khắp nơi, thì y liền dùng các quan nịnh thần ngoại đạo xúi giục nhà chúa công khai ra sắc lệnh chống các cha, truyền phải ra khỏi kinh thành ngay vì các ngài cho phá phách đền tượng thần Phật và dạy đạo người chết. Sắc lệnh được thi hành ngay vào tháng 3 năm 1629. Các cha bị điệu xuống thuyền để rời bỏ xứ này. Được tin, các người tân tòng đã khóc nhiều. Ông Gioankim tốt lành đã tắt thở vì đau đớn. Khi thuận buồm xuôi gió thì các ngài dạy giáo lý cho viên thuyền trưởng và các binh sĩ có bổn phẩn dẫn đưa, tất cả có 23 người, thì đều xin chịu phép rửa tội, và sau cùng cả thuyền trưởng. Họ đi loanh quanh không có mục đích nào ngoài ý định để giảng dạy giáo lý chỗ này nơi kia cho lương dân và rửa tội cho họ. Thế là trong bảy tháng kể từ ngày bị trục xuất, các ngài đã rửa tội được một nghìn người. Để tránh phí tổn cho các Kitô hữu và để cho họ không bị tịch thu hết tài sản thì các ngài thuê một chiếc thuyền để đi các làng mạc giảng Phúc âm và được tự do thừa hành chức vụ. Nhưng khi tới tỉnh Nghệ An thì thấy có một chiếc tàu người Bồ ngược lên kinh thành, có hai người của chúng ta, cha Gaspar d’Amaral, người Bồ, và cha Phaolô Saito, người Nhật, sau này chết vì đạo ở Nhật, chịu hành hung trong hầm. Các cha liền nhập bọn và cùng đồng hành lên kinh thành, như thể vừa mới từ Macao tới; điều này làm cho giáo dân tân tòng rất vui sướng. Tại kinh thành có nhiều Kitô hữu rất nổi tiếng vì chức vị tỉ như các bá tước bốn chục và năm chục dân xã và nhiều người khác trong hoàng tộc. Chính bà em của chúa tôi đã nói ở trên, sau khi bị hoãn thì cũng đã được rửa tội; bà còn chinh phục được cụ thân mẫu và cả hai đều được gọi là Catarina và Madalena. Niềm hân hoan của các Kitô hữu không được lâu, vì các cha không được dài hạn ở với họ, chiếc tàu người Bồ lại lên buồm trở về Macao, chúa bắt các cha phải cùng theo người Bồ trẩy đi. Được tin này, các cha đã giải tội cho hết các Kitô hữu, triệu tập hết các thầy giảng là những người rất nhân đức, rất có học thức, cho họ mệnh lệnh và cách thức phải làm khi vắng các Trang 110
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ngài để giúp giáo đoàn Kitô hữu, trao cho họ sổ giáo dân lên tới 5.602, để thay các cha, thay các bậc tôn sư, họ giảng dạy giáo lý. Thế là họ đã thề hứa tuân thủ trước mặt mọi người, trong khi tàu sắp lên buồm. Đó là năm 1630, ba năm sau khi các cha tới xứ này. Rồi các ngài trẩy đi giữa những giòng nước mắt tuôn trào của giáo dân tân tòng vì nhớ thương xa cách. Họ đã tự an ủi mình trong việc soạn một bài thơ dài tường thuật sự gia nhập của các cha và đạo Kitô trong xứ này, và cả việc trục xuất các ngài nữa; trẻ em công khai ca hát bài thơ này qua các phố phường và thôn xóm. Chú thích [1] Đông Kinh dĩ nhiên đối với người Tàu và người Nhật thì ở về phía Tây, nhưng đông kinh không thể có nghĩa là kinh đô miền tây như tác giả nói. Đông Kinh ở về phía đông của Tây Kinh là kinh đô miền tây hay Thanh Hóa, trước đây gọi là Tây Đô nên Đông Kinh trước đây cũng gọi là Đông Đô. [2] Cây chuối [3] Cây dứa [4] Cây cau [5] Theo De Rhodes thì có bảy là: Kinh Bắc (Kẻ Bắc), Hải Dương (Kẻ Đông), Sơn Tây (Kẻ Tây), Sơn Nam (Kẻ Nam), Thanh Hóa, Nghệ An và Bố Chính. [6] Về phẩm vật, Toàn Thư ghi vắn tắt là phẩm vật địa phương và người vàng thay mình. Còn Cương Mục thì chép chi tiết hơn như người vàng thế mạng hai pho v.v… Coi chú thích, Tissanier q.2 chú 24. [7] Về thuyền chiến, ý kiến của Cardim cũng giống ý kiến của Marini sau này, nghĩa là thuyền cảnh hơn là thuyền chiến, nếu so với thuyền chiến của Au Châu. [8] Nhận xét về Kẻ Chợ của ta vào thế kỷ 17 thì khá đúng và khá sát sự thật, coi thêm trong Tissanier và Marini. Trang 111
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[9] Chỉ có Cardim mới nói về hình vóc của chúa Trịnh Tráng. [10] De Rhodes lại nói chèo theo nhịp hai thanh tre, Lịch sử Đàng Ngoài. Baldinotti nói là chèo theo tiếng gõ nhịp chạm nhau, Tường trình về Đàng Ngoài. [11] Nhận xét rất đúng vì nhà Trịnh vẫn phò vua Lê và nhà Nguyễn lúc ban đầu cũng lấy vua Lê làm mục tiêu tranh đấu. [12] Bà Catarina em ruột chúa Trịnh Tráng [13] Làm việc xã hội cứu giúp người đau yếu tàng tật theo luật mến Chúa yêu người của Kitô hữu. Sự Tiến Triển Đức Tin Trong Xứ Đàng Ngoài Dân xứ Đàng Ngoài rất hướng về đạo và có ý tưởng rất tốt về đạo Thiên Chúa thật, tất cả đều sẵn sàng tin theo và nếu mối thịnh tình và sự quý mến của nhà chúa đối với các cha được bền bỉ cho tới ngày nay, thì tôi cam đoan là trong khắp đại vương quốc này không còn nơi nào là không phấp phới ngọn cờ thánh giá toàn thắng. Trong vòng mười tháng các cha bị trục xuất thì các thầy giảng mà các cha đã để lại, đã rửa tội được 3.340 người, và cho dựng 20 nhà thờ ở nhiều nơi. Nhưng những phán đoán thầm kín của Thiên Chúa thì không ai thấu được và chúng ta phải vâng theo tôn ý nhân ái của Người. Thực ra lòng mẫn cán của các thầy giảng thật là đáng khen, họ không ngừng giảng dạy giáo lý một cách trìu mến, cắt nghĩa các mầu nhiệm đức tin, thu tập các Kitô hữu trong nhà thờ vào những ngày lễ cho giáo dân tân tòng lần hạt kính đức Trinh Nữ, đọc ba kinh lạy cha, ba kinh kính mừng cầu nguyện cho đức giáo hoàng, ba kinh cầu cho Giáo hội Công giáo, ba kinh cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục và ba kinh cầu xin cho các cha trở lại xứ này, để cho nhà chúa và khắp nước tin theo đạo; sau cùng họ đọc một đoạn sách thánh tường thuật sự thương khó Chúa chúng ta, rồi họ về nhà rất mực động lòng thương mến. Bà Catarina em ruột chúa rất vững niềm tin, đến nỗi khi vắng các cha, bà liên tục bị ông chồng [14] và nhà chúa anh ruột của bà nhiễu nhương và xúi giục bà bỏ đạo; bà đã trả lời là bà chỉ bỏ đạo khi bỏ đời này, bởi vì bà biết rất rõ là bà thờ phượng một thiên địa chân Chúa. Trang 112
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Một Kitô hữu khác là Phanxicô giúp việc cho người anh em của chúa; ông rất sốt sắng giữ đạo, không những chỉ giữ các giới răn mà còn theo những lời khuyên Phúc âm, đi nhà thờ liên tục, làm các việc từ thiện bác ái, chôn cất người chết và làm các việc đạo đức khác. Một hôm, người chủ cho gọi ông đến và nghiêm trọng truyền cho ông phải bỏ đạo và không được về miền quê chôn xác các Kitô hữu. Người bầy tôi trung thành hoàn toàn chối từ lời chủ truyền. Ông nói là ông sẵn sàng làm hết mọi việc chủ truyền, nhưng ông không thể bỏ đạo là đạo cứu rỗi như ông đã rõ ràng nhận thấy. Chủ rất giận vì lời đáp này và liền đuổi ông ra khỏi nhà. Mấy hôm sau, ông lại bị gọi và người ta tưởng ông đã biết điều và đổi ý hướng; nhưng vẫn thấy ông kiên trì bất khuất như trước, chủ liền cho đánh đòn rất dữ dằn, bắt giam ngục và lấy đòn bẩy đánh gẫy hai ống chân, rồi sau cùng bổ đầu làm đôi bằng một cái rìu. Ông chịu tử đạo một cách kiên trì khôn tả và lên trời, đó là người thứ nhất hiến dâng mạng sống vì đức tin ở trong xứ Đàng Ngoài. Trong tỉnh Nghệ An, ở một nơi gọi là Rum, có một nữ Kitô hữu tên là Maura đã ngã bệnh nặng và chết vì bệnh này. Người con tên là Bentô (Biển Đức) rất sầu khổ không phải vì cái chết này mà bởi vì bà chưa được xưng tội, vì không có linh mục nào trong xứ này, và khi người ta muốn mai táng thì người con rất có lòng tin và hẳn cũng được Thiên Chúa soi sáng, đã lấy một chút nước phép nhỏ vào miệng người mẹ đã chất với hy vọng là Thiên Chúa sẽ cho bà được sống lại để bà có thể xưng tội. Do lòng tin mạnh mẽ vào thần lực của nước phép thì kỳ lạ thay, bà bắt đầu thở đều trước mặt mọi người, và bà hồi tỉnh khỏi bệnh. Bà còn sống cho tới khi các cha bị trục xuất được gọi về và bà đã được xưng tội. Phép lạ này đồn thổi đi khắp vùng và rất đông dân chúng tuốn đến xem, họ có dư luận rất tốt về đạo ta, đến nỗi hết những người kéo đến thì đều trở lại đạo và xin chịu phép rửa tội, con số lên tới chín trăm người. Các Cha Từ Macao Trở Lại Đàng Ngoài Chúng tôi từ Macao trẩy đi, cha Gaspar d’Amaral, cha Antonio de Fontes và tôi, ngày 18 tháng 2 năm 1631, và tới kinh thành xứ Đàng Ngoài ngày 15 tháng 3 cùng năm. Tức thì chúa phái một chiếc thuyền tới, báo cho chúng tôi biết rằng chúng tôi phải đến gặp ngài ngay và ba sứ giả ngài phái tới thì cho chúng tôi biết ý ngài; một người đón Trang 113
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
chúng tôi ở nơi đổ bộ, một người đợi chúng tôi ở dọc đường và một người tiếp chúng tôi ở cửa kinh thành; mỗi người đều giục chúng tôi mau mau tới. Chúa tiếp đón chúng tôi rất thịnh tình, thiết đãi chúng tôi đủ thứ trái cây và bánh mứt để giải khát, và sau khi đàm đạo với chúng tôi một chốc thì từ biệt chúng tôi, cho người đưa chúng tôi tới tư dinh người con rể của ngài để chúng tôi nghỉ ngơi. Hoàng tử này dành cho chúng tôi một khu riêng trong tư dinh, nơi chúng tôi được mọi người trong nhà tiếp đãi rất thân tình và mộ mến. Khi họ thấy chúng tôi đem theo mấy bức ảnh để trưng trong nhà thờ của chúng tôi thì họ muốn được xem, và hoàng tử gọi các công chúa, phu nhân cùng các thế nữ và tất cả gia nhân đến coi. Ông hoàng tử này không chán ngắm nghía và thú nhận rằng các điều trong đạo ta chỉ có thể là đích thực hết. Nhưng kỳ thi đã tới [15], chúa thường đến dự và ra khỏi phủ vào ngày đã định. Trường thi thông thường thì ở xa kinh thành chừng một dặm. Hết các quan đều phải theo chúa với đoàn tháp tùng; đoàn này thường gồm có chừng một vạn người; tất cả đều mang võ khí, điều này chính mắt tôi trông thấy. Nhà chúa đi kiệu chạm trổ bằng ngà và vàng rất mỹ thuật, có mười hai người lực lưỡng khiêng sau đó là hai cỗ voi bệ vệ, còn chung quanh ngài là các quan cận thần trong phủ. Các hoàng tộc trẻ tuổi thì đi bộ, các quan và hoàng thân có gia thất thì đi ngựa. Ra khỏi phủ, chúng tôi ứng trực ở cửa để bái chào và ngài cho vời chúng tôi lại gần ngài, truyền cho người ta đem ngựa tới, nhưng chúng tôi từ chối, xin để chúng tôi đi bộ hầu tiếp ngài như chúng tôi vẫn làm. Suốt dọc đường ngài đàm đạo với chúng tôi rất thân thiện và cứ thế cho tới khi tới trường thi và lúc các bài vở các văn nhân đã đệ nộp. Khi về thì ngài tuyệt đối ép chúng tôi phải đi ngựa; chúng tôi đành phải vâng theo. Vừa tới phủ thì ngài cho vời chúng tôi và ngài đàm đạo với chúng tôi, chủ ý cho chúng tôi yên tâm về việc trục xuất những năm qua; ngài cho chúng tôi nguôi lòng bởi vì không phải là ngài có ác ý, nhưng vì sợ có hậu quả. Ngài coi chúng tôi như những viên quan đại thần và nếu chúng tôi muốn cư trú trong nước ngài thì ngài rất hài lòng, miễn là chúng tôi đừng phá huỷ các ngẫu tượng, bởi vì kinh thành ngài ngự bây giờ thuộc về chư vị. Tóm lại ngài cho phép chúng tôi rửa tội cho mọi người muốn trở lại làm Kitô hữu, còn nếu mọi người muốn theo Kitô giáo thì lúc đó ngài sẽ cho phép chúng tôi hạ hết các ngẫu tượng. Còn về trú sở thì ngài cho chúng tôi một khu đất rộng và nhiều nhà cho chúng tôi ở. Các người Trang 114
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
tân tòng được những tin mừng này thì rất vui sướng thấy chúa thân tình đón tiếp chúng tôi và lương dân cũng tỏ ra mộ mến đạo ta, họ kéo đến từng đoàn lũ để xin học giáo lý, để rồi mấy ngày sau chúng tôi rửa tội được 1.003 người: ngoài những nhiệt tình lớn lao, ma quỷ không quên gieo rắc sự nguội lạnh trong mấy người Kitô hữu, nhưng Thiên Chúa hằng đem tình phụ tử bảo vệ, bằng những việc kỳ diệu Người ban dư dật cho đạo thánh Người, như chúng ta sẽ thấy sau. TRUYỀN GIÁO TRONG XỨ ĐÀNG TRONG Xứ Đàng Trong gồm có 5 tỉnh [16] đã rũ ách chúa Đàng Ngoài. Thủ lãnh cuộc nổi loạn này là một tướng lãnh tên là Ông Tiên [17], họ hàng với chúa. Ông cai quản các tỉnh này và vẫn cho xứ Đàng Ngoài thuộc về ông; nhưng thực ra xứ này vẫn do người họ hàng với ông cai trị hiện nay [18], còn ông chỉ hưởng thụ 5 tỉnh này mà ông coi mình là chủ, tuy mỗi năm ông vẫn phải triều cống chúa Đàng Ngoài [19]. Con ông tuyệt đối tự xưng là chúa và chối cống vật mà cha mình vẫn nhận trả, ông còn chuẩn bị tuyên chiến với người Đàng Ngoài và chúa Đàng Ngoài cũng muốn dùng võ lực quân sự khôi phục những tỉnh phản nguỵ, những tỉnh này không trù phú bằng xứ Đàng Ngoài, tuy có quế, hồ tiêu, trầm hương, kỳ nam, cánh kiến vả nhân dân cũng không học thức, không lịch thiệp, không có thuần phong mĩ tục bằng người Đàng Ngoài[20]. Trước khi các cha dòng chúng tôi vào xứ Đàng Trong thì đã có các cha dòng thánh Phanxicô, Au tinh và Đaminh tới, nhưng tất cả đã rút lui. Các cha chúng tôi đã mua lại một trong những căn nhà cũ của các ngài [21] và sửa sang cho thích hợp với sự xử dụng của chúng tôi. Những người đầu tiên của chúng tôi đến xứ này là cha Diego Carvalho, người Bồ, đã cư trú mấy năm ở Nhật và trong cuộc bắt đạo của Daisusama đã bị trục xuất, và cha Francisco Buzomi sinh quán thành Genova [22], dạy thần học mấy năm ở Macao. Cả hai đều tới cùng ngày vào năm 1614, các ngài đến yết kiến chúa và thăm các quan, và được tiếp đón rất lịch thiệp, rồi tậu căn nhà đã nói ở trên trong thành phố Quảng Nam. Ở đây các ngài bắt đầu chịu khó học hỏi, học tiếng bản xứ [23]. Các ngài cũng bị phiền nhiễu khá nhiều bởi vì do phán đoán công bình của Thiên Chúa, tiết trời hạn hán, không mưa trên xứ này và dân họ đổ lỗi cho các cha đến xứ họ, đem theo tai họa tới như lương dân thời xưa, theo lời Tertuliano nói: “Nếu trời ngưng, Trang 115
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
đất động, nếu sông Tiber vỡ bờ và chảy vào nhà, nếu sông Nil tràn ngập đồng ruộng thì tức khắc người ta đem các Kitô hữu làm mồi cho sư tử”. Các hình phạt và tai họa Thiên Chúa giáng xuống những kẻ thờ ngẫu tượng này để trừng trị những mê tín dị đoan của họ, nhưng họ lại đổ cho các Kitô hữu. Họ bắt đầu chống đối các cha, làm cho chúa ra lệnh trục xuất cha Diego phải trở về Nhật Bản và bị ném trong một hồ tuyết đông giá lạnh để hoàn tất công việc hiển hách, trút linh hồn nơi Đấng Tạo thành. Chính viên Masammê trấn thủ và chúa tỉnh Xenday đã ném cha vào đó, thế mà người ta nói là y đã sai một phái đoàn tới Roma thời Đức Phaolô V. Cha Buzomi không ra khỏi Đàng Trong bởi vì viên quan trấn thủ tỉnh Quy Nhơn cho rằng sự trục xuất này cũng vô hiệu thì đã mời cha tới tỉnh ông và cha đã ở đó cho tới khi được thêm các bạn đồng sự đến học tiếng với cha. Thế rồi nhà chúa và dân cũng nguôi giận, các cha lại trở về nhà chúng tôi ở Quảng Nam. Ở đây các cha tranh luận với các thượng tọa và đem lý lẽ khuất phục họ, và đã thành công vì có mấy người trở lại Thiên Chúa giáo. Trong số này có một bà thứ phi của chúa quá cố [24], mấy người trong hàng quý phái và mấy viên quan; năm 1629 tổng số được hơn mười lăm nghìn. Cũng năm này, chúa lại trục xuất các cha một cách khắt khe hơn, bởi vì các cha phá huỷ ngẫu tượng, ngài muốn cho sắc lệnh được thi hành nghiêm chỉnh, đến nỗi các cha buộc phải bỏ bốn nhà đã dựng trong xứ này ở Đà Nẵng, Hội An, Quảng Nam nơi có phủ chúa và Nước Mặn hay Pullocambi, ngoài ra còn hơn 200 nhà thờ trong các nơi khác thuộc xứ Đàng Trong. Nhưng hình phạt của Trời hình như cũng sắp giáng xuống dân, bởi vì vừa lúc các cha ra đi thì trời hạn hán như lần trước, đất không được giọt mưa nào, nạn đói đe dọa vì châu chấu phá phách hết cây cối; tai họa này kéo dài mấy tháng. Các cha rút khỏi Đàng Trong [25] thì chia nhau đi các nơi, hai cha về Macao và ba cha đi xứ Chàm, còn hai cha thì trốn tránh ở Đàng Trong để săn sóc các Kitô hữu, và ba cha khác thì ở biên giới tỉnh Phú Yên bị lương dân hành hung, chúng đánh đập rất tàn nhẫn và cướp hết của cải. Giữa những bất trắc đen tối và phiền muộn đó, các cha không thể cứu giúp và săn sóc các giáo dân tân tòng Đàng Trong cho hợp với sự cần thiết, thì đã điều đình với người Bồ ở Macao để họ sai một phái đoàn tới chúa, thương lượng về việc để cho chúng tôi trú ngụ. Họ liền Trang 116
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
làm ngay, họ chuẩn bị một chiếc tàu với mấy sứ thần và ba cha ở tỉnh Phú Yên cùng đi với họ. Chiếc tàu may mắn tới hải cảng Đà Nẵng. Các sứ thần đem tiến phẩm vật như thường lệ và thương lượng với chúa về việc tái lập dòng chúng tôi nơi vương quốc ngài, nhưng không bao giờ ngài ưng thuận, ngài chỉ cho phép được lưu trú trong thời gian tàu người Bồ đến buôn bán và bỏ neo đậu lại ở đây. Thế là chúng tôi phải đi đi về về với các chuyến tàu, không sao trú ngụ được, trừ hai hay ba người được ở lại do sự thỏa thuận của chúa tuổi tác[26], ngài rất hiểu biết và không nói gì. Nhưng từ lúc ngài băng hà thì người con hung ác và rợ mọi [27] không bao giờ cho phép một người nào ở lại, mặc dầu là trốn tránh, thế là tất cả phải rút lui và chỉ tới khi đi theo tàu người Bồ. Thiên Chúa phù trợ nhiệt tình của họ, họ làm cho đạo được truyền bá một cách lạ lùng và cho nhiều chiên mới gia nhập đàn chiên Giáo hội. Có một viên quan rất được trọng nể và rất có thế giá trong xứ Đàng Trong; ông nghe nói về đạo ta thì muốn đọc các sách của chúng ta và vì ông có óc phán đoán rất trung thực, nên ông đã phục các lý lẽ trong sách; ông tha thiết xin chịu phép thánh tẩy và lấy tên là Phaolô, và vì ông rất sùng đạo Phật và đã cho dựng một ngôi chùa rất đẹp, thì bây giờ ông muốn cho triệt hạ, nhưng các cha không cho phép ông thi hành, nói là không nên làm thế vì sợ phạm tới sắc lệnh trục xuất, và nếu ông đã hoàn toàn từ bỏ thì đã quá đủ rồi. Nhưng người tân tòng nhiệt thành không hài lòng về lý lẽ này; coi thường sắc lệnh, ông cho thu hồi hết các ngẫu tượng trong chùa, rồi cho rửa sạch và đặt ở mặt tiền một khung ảnh rất xinh thiếp vàng lồng ảnh rất đẹp Chúa Cứu Thế với mấy chữ đại tự: Giêsu thiên địa chân Chúa. Trường hợp sau đây còn quan trọng hơn nhiều, bởi vì người ta phát giác ra những dấu hiệu đẹp đẽ của ơn tiền định và những bằng chứng huy hoàng của Thiên Chúa quan phòng đối với loài người. Có một lương dân đem mai táng đứa con gái mới được sáu, bảy tháng. Có một người đi qua nơi chôn cất em nhỏ và nghe tiếng kêu yếu ớt như tiếng người than thân trách phận. Ông liền cảm động bới đất ở chỗ có tiếng vọng lại; không cần bới sâu lắm, ông đã thấy cánh tay đứa bé. Thế là ông sợ hãi chạy về nhà gọi một người lương dân khác có một người em là Kitô hữu. Khi cả hai tới nấm mồ, vì vẫn mưa nặng hạt khi người thứ nhất đi đi về về, nên họ dễ dàng lôi được em bé ra khỏi nấm đất và thấy em còn sống. Thật là lạ lùng vì em bé không bị ngạt thở bởi đất Trang 117
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
hay bởi nước lũ. Lúc trở về họ gặp một Kitô hữu và đã trao em bé cho người này. Ông đã rửa tội cho em, trao cho vú nuôi săn sóc và bây giờ vẫn còn chăm nom rất chu đáo và rất thân thương. Hẳn là Thiên Chúa đã chọn em để làm một sự gì lớn lao! Trong tỉnh Phú Yên, có cuộc tranh luận giữa một Kitô hữu nhiệt tình tên là Hiênrô và một cụ đồ nho lương dân, trước mặt quan trấn thủ tỉnh này [28]. Cụ đồ ca tụng, nâng các kinh sách ngẫu tượng lên tới cung mây, còn người Kitô hữu lên tiếng nói: thưa cụ, những kinh sách cụ quá ca tụng thì không đáng xé ra trăm nghìn mảnh mà còn đáng thiêu huỷ đi vì hai điều chứa chấp trong đó. Một là sự tin tưởng vào những dấu hiệu ngày may hay ngày rủi để rồi làm hay bỏ một việc quan trọng, hai là sự liên kết và phối hợp năm tốt hay năm xấu để nếu là tốt vì có ảnh hưởng tốt thì mới lo dựng vợ gả chồng. Và tất cả người Đàng Ngoài, từ vua chúa cho tới thứ dân, ai cũng coi sách đó như những lời sấm, họ cư xử hành động theo những điều tin này và chúa cùng toàn dân đều theo. Thực vậy, khi ngài muốn giao chiến với chúng ta thì ngài cũng cho xem ngày lành tháng tốt và không bao giờ khởi binh nếu không thấy sẽ có dấu hiệu thắng trận, thế nhưng ai cũng biết là hầu như bao giờ ngài cũng đại bại và tan rã vì võ khí của chúng ta và vì những sách xinh đẹp vô giá trị đó đã lừa gạt ngài, đến nỗi ngài phải bẽ mặt rút lui khỏi kinh thành. Còn về các cuộc hôn nhân thì có những cha mẹ và rất nhiều đã gả con gái cho những tên bợm bịp, đạo tặc và những ông chồng hư thân mất nết, họ cũng đã coi những sách giả trá và đã thấy việc cưới hỏi đem lại hạnh phúc và may mắn. Do đó ai cũng có thể thấy rõ trước mắt: những kinh sách kia là những sách dối trá, lường gạt và vì thế nên đốt hết đi như tôi đã nói, để cho chúng không còn lừa gạt cả chúa cả dân. Quan trấn thủ chăm chú nghe cuộc tranh luận và rất ưng ý, ông quay về phía cụ đồ và bảo ông đáp lại, nhưng vì phục những lý lẽ hiển nhiên và rõ ràng, cụ không đủ can đảm đáp lại nửa lời. Hiênrô thấy cụ câm miệng thì tiếp tục nói mình chỉ là kẻ dốt nát chưa đủ khả năng trình bày chu đáo các mầu nhiệm của đạo. Nhưng các cha rất có thể cắt nghĩa rõ ràng hơn nếu người ta bằng lòng xin các ngài, còn về phần mình thì chỉ có thể chứng minh sự dối trá trong các kinh sách của họ mà thôi. Rồi ông chất vấn cụ đồ: xin cụ cho biết tại sao, như trong kinh sách cụ nói, đàn ông có ba hồn bảy vía, còn đàn bà có những ba hồn chín vía; tại sao đàn bà có nhiều vía hơn đàn ông, Trang 118
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
trong khi đó đàn ông là gia trưởng và cai quản gia đình? Hơn nữa, nếu đàn ông có ba hồn và nếu phạm trọng tội phải chém đầu, thì tại sao ba hồn và bảy vía lại bị mất cái thân xác chúng quý chuộng; bởi vì chỉ có một hồn hay một vía làm cho nó phạm tội, thì chỉ có hồn đó vía đó chịu phạt chứ không phải các hồn các vía khác; như thường thấy thi hành trong một nhà hay một nước, kẻ nào phạm thì chỉ một mình người ấy chịu tội chứ không phải những người vô tội. Cụ đồ lúng túng hoàn toàn thụ lý và câm miệng không đáp lại được lời nào. Quan trấn thủ cười cách khôn khéo thế nào như để bắt cụ trả lời, nhưng cụ vẫn lặng thinh, sự ngoan cố không để cho Thiên Chúa mở mắt cho cụ nhận thấy chân lý. Quan trấn thủ nhìn nhận sự thật và rất mực quý trọng đạo ta, nhưng ông không theo vì ông chưa giải quyết được việc riêng của ông là có một số rất đông vợ mọn, nhưng ông để cho bà vợ chính thành Kitô hữu [29] nếu bà muốn, thực ra bà đã tin theo đạo ta và chúng tôi hy vọng chồng bà cũng sẽ theo cách thức của bà mà trở lại đạo. Việc xảy ra sau đây cho chúng ta biết cách khôn khéo các Kitô hữu nhiệt tình kính mến Thiên Chúa chịu khó nhọc để đưa lương dân vào giỏ thánh Phêrô. Trong phủ Thuận Hóa có một viên quan thuộc phái nhà nho muốn vào đường dẫn tới sự sống đời đời thì ông làm các việc từ thiện. Có một Kitô hữu tên là Phaolô được Thiên Chúa soi sáng thì đã mặc áo nhà nho để chinh phục ông. Trong một ống tay áo rất rộng ông đã đem theo mấy cuốn sách về đạo ta. Bước vào nhà ông nói là mình đem mấy viên ngọc cho ông coi. Viên quan nóng lòng muốn xem, lúc đó ông mới rút sách trong ống tay áo ra và đưa cho viên quan. Sau khi đã chuyên chú đọc và thưởng thức những lý lẽ làm chứng đạo chân thật và vững chãi, thì ông liền thụ lý và tuyên bố muốn tuyệt đối bỏ ngẫu tượng giáo mà theo đạo Đức Giêsu Kitô. Thế rồi cha đã tới phủ, làm phép rửa tội cho ông, còn ông, ông thấy tâm thần vô cùng toại nguyện và ngày nay ông sống làm gương sáng và thực hành các nhân đức, làm cho chúng tôi mỗi lần có dịp thì lại ca tụng Thiên Chúa, Đấng có thể từ những hòn đá biến thành con cái Abraham. Và để cho thấy nhãn tiền những hoa trái các cha hái được từ những công việc của mình, thì tôi sẽ trao lại đây bản tóm lược một lá thư cha Alexandre de Rhodes trình lên cha Bề trên Cả dòng, tứ xứ Đàng Trong năm 1641:
Trang 119
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
“Từ Macao tôi trẩy đi với cha Bento de Mattos và may mắn tới Đàng Trong ở hải cảng Đà Nẵng ngày áp lễ Giáng Sinh [30]. Ở đây chúng tôi chia nhau đi, cha Bento thì theo đường tới phủ Thuận Hóa, còn tôi, tôi đi xuôi miền Nam. Dọc đường tôi đi qua một làng có một Kitô hữu nhiệt tình tên là Hiênrô, thường được kể tên trong những lá thư hằng năm; ông muốn theo tôi trong suốt cuộc hành trình. Chúng tôi tới Hà Lầm vào lễ Đức Mẹ dâng mình; tôi đã làm phép Nến theo nghi lễ Giáo hội và rửa tội cho 22 người. Có mấy người xin phép thánh tẩy để được thoát những hành hung của tà ma. Từ đó tôi đến Cát Lâm; ở đây tôi gặp họ đang ăn mừng Tết nguyên đán vào ngày đầu tuần trăng tháng hai [31]. Tôi làm các phép bí tích cho các Kitô hữu và rửa tội cho mười người. Tôi xuống thuyền ở đây để đi biển ở Cửa mới, nơi đây hết các Kitô hữu đến xưng tội và trong số những người chịu phép rửa tội thì có một bà bị quỷ ám thường hay đi lang thang trên rừng, sau khi chịu phép thánh tẩy thì bà thoát tên khách trọ này. Khi tôi ở đây thì các Kitô hữu Baobam sai ba người trùm trưởng đến đưa tôi vào làng mạc của họ. Trong số đó có một thủ trưởng tên là Ông Ký. Ông này khi làm quan thì muốn trao trả chức vụ tận tay nhà chúa, điều này các cha cấm ông vì ông có thể giúp các Kitô hữu hữu hiệu hơn nếu là quan hơn là thường dân. Nhưng các chúa biết ông chịu phép rửa tội thì liền cách chức ông, còn ông, ông rất vui mừng vì được thong dong hơn để chuyên cần làm việc cứu rỗi linh hồn và bây giờ ông được kể như người ra giảng Phúc âm, cho người đồng hương. Tôi ở lại đây 18 ngày, rất bận, tôi chỉ được nghỉ đôi chút mà thôi, vì có rất đông người liên tục tuốn đến từ những làng lân cận để đàm đạo với tôi về lợi ích và sự tiến bộ của việc cứu rỗi. Tôi cũng cho sao chép lại 20 cuốn sách [32] nói về đạo thánh ta mà các cha ở xứ Đàng Ngoài đã cho ấn hành và gửi cho tôi. Mặc dầu có ít người Kitô hữu biết viết, nhưng nhiệt tình của họ và sự rất mực chuyên cần đã đưa tới thành công, vì họ đã sao chép hết; trong 18 ngày tôi ở Baobam, tôi rửa tội cho 300 người. Từ đây tôi trẩy đi, các Kitô hữu rất buồn bã và đến Bến Đà, nơi đây Philiphê đến gặp tôi. Ông đã bỏ tiền dựng một nhà thờ xinh đẹp để thực hiện lời khấn hứa với Thiên Chúa là nếu Người cho ông sinh con trai thì ông sẽ dựng một nhà thờ. Sự việc đã xảy ra. Tôi dừng ở đây mười ngày, rửa tội cho 100 người, trong số này có một người đàn bà thuộc về gia nhân của Philiphê. Trước đây bà rất xa đạo ta đến nỗi khi Trang 120
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
nói tới tên nhà thờ thì bà trốn lẩn vào rừng, người ta cho là do ma quỷ đã gây nên những cuộc lẩn trốn này. Tôi cho đưa bà tới, bà chống cự rất mạnh đến nỗi mấy người đàn ông lực lưỡng cũng không sao khiêng nổi, do đó mới biết rõ ràng sức lực của tà ma. Vừa đem đến nhà thờ để tôi làm phép trừ tà thì tà ma đã hết sức rẫy rụa và buộc phải bỏ bà, sau đó bà rất được yên hàn và xin chịu phép rửa tội; tôi đã ban thánh tẩy cho bà sau khi dạy dỗ đầy đủ về giáo lý và từ ngày đó bà hoàn toàn thoát hết bạo lực của tà ma và tội lỗi. Vào tuần thánh tôi ở với dân tốt lành này, cử hành các nghi lễ theo luật Giáo hội; tôi giảng sự thương khó. Họ làm rất nhiều việc ăn năn đền tội; Philiphê bao giờ cũng đứng hàng đầu, mặc dầu đã ngoài sáu mươi tuổi thọ. Ông cũng bắt tất cả nhà tham dự, chừng 100 người. Ngày thứ sáu tuần thánh sau các nghi lễ thì tôi xuống thuyền đi tỉnh Phú Yên, và ngày hôm sau chúng tôi bị một trận bão rất dữ và rất nguy hiểm làm cho tất cả chúng tôi tưởng là mất hết. Nhưng Thiên Chúa đã cứu chúng tôi thoát nạn, bởi vì vào ngày lễ Phục Sinh, chúng tôi vào tới một vùng an toàn, nhưng không biết là nơi nào. Tôi dâng thánh lễ sốt sắng hết sức có thể trước mặt mọi người trong thuyền, sau đó chúng tôi nhận ra và kéo buồm vào bến Bađây; ở đây chúng tôi nhìn thấy cây thánh giá xinh đẹp và cao lớn đã được danh giá dựng lên; điều này làm cho chúng tôi rất hài lòng và cho chúng tôi hy vọng chiếm được những cuộc đại thắng hiển hách đối với ngẫu tượng giáo trong tỉnh này. Viên quan cai trị hải cảng này và bà vợ là các Kitô hữu, họ có những tên phù hợp với công việc họ làm, Benito và Benita. Được tin tôi tới thì họ cho người đến đón tôi và đã tiếp đãi tôi nồng hậu một cách lạ lùng. Tôi thừa hành các chức vụ ở đây, dâng thánh lễ. Viên quan này tức thì thông báo cho quan trấn thủ [33] cả tỉnh biết là tôi đã tới Bađay. Ông này còn là lương dân nhưng vì phu nhân lúc này đang ở trong phủ chúa, bà là Kitô hữu, nên ông liền phái hai người có thế giá đến đón tôi về tư dinh. Dọc đường nhiều Kitô hữu đến gặp tôi và khi tới tư dinh quan trấn thủ thì ông tiếp đãi tôi rất chân tình và tỏ ra rất quý mến tôi. Vào chiều tối, ông dọn cho tôi một căn nhà rất thuận tiện; ông xin lỗi tôi vì ông không để tôi ở trong nhà ông được, vì không thuận tiện. Ở đây tôi thừa hành các chức vụ thông thường của dòng và rất cảm xúc thấy các Kitô hữu trong tỉnh Phú Yên này không thua lòng sốt sắng của các Kitô hữu Đàng Ngoài. Tất cả những người được chịu Trang 121
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
phép rửa thì có chừng 1.355 người. Có một bệnh viện cho người nghèo, họ được học giáo lý và chịu phép thánh tẩy, có các Kitô hữu giúp đỡ họ, giáo dân phục dịch rất nhiệt tình và bác ái. Hình như Thiên Chúa rất bằng lòng về công việc từ thiện này bởi vì người Kitô hữu nhận trọng trách săn sóc các bệnh nhân, lại dạy giáo lý cho họ, tất cả những người hiện thời ở đây đều trông thấy một hài nhi xinh đẹp trên tay ông, hài nhi tỏ ra bằng lòng về công việc tốt đẹp này và lớn tiếng nói: Người sai tôi đi giảng Phúc Am cho những người cùng khổ. Tất cả đều đặc biệt được yên ủi vì thị kiến này, sau đó họ đã kể cho tôi biết. Tôi đi thăm hết các xã lân cận và tôi cư trú trong tỉnh này hai tháng và tuỳ theo nhu cầu, khi thì đến nơi này lúc thì tới nơi kia để rửa tội, giải tội và làm các phép bí tích cho các Kitô hữu. Trong khi đó thì từ phủ chúa bà Maria phu nhân quan trấn thủ [34] đã về tới, mà vì người ta phao tin chúa cho bắt bớ đạo thánh ta, nên bà đã đến nhà thờ để tạ ơn Thiên Chúa đã cho bà về tới nhà an toàn, và khuyện dụ các Kitô hữu, bà nói: Thưa các anh chị em, không biết rằng những chiến sĩ can tràng thì phải anh dũng liều mạng sống vì nhà vua nhà chúa, bởi tin chắc là vua chúa sau đó sẽ thưởng mình. Cũng vậy chúng ta phải can tràng liều tính mạng ta vì giáo thuyết chính đáng của Thiên Chúa chúng ta, bênh vực đạo thánh Người. Dĩ nhiên Người sẽ thưởng chúng ta, không phải bằng một lương bổng thế trần và chóng hư chóng nát, nhưng là vinh quang vô tận. Anh chị em không thấy các cha dòng là thầy dạy chúng ta, các ngài kiên trì vững chí duy trì, bảo vệ và truyền bá đạo thánh của Thiên Chúa chúng ta ư? Công việc lành thánh của ngài phải thôi thúc chúng ta theo gương bắt chước và đừng nản chí sờn lòng. Bà còn nói nhiều lời tương tự theo nhiệt tình lớn lao thôi thúc bà, những lời này đã ảnh hưởng lớn tới tâm trí tôi đến nỗi tôi tự thấy mình hoàn toàn thêm mạnh mẽ và thêm can đảm để bênh vực thánh danh thầy khả kính của chúng ta là Đức Giêsu Kitô nhân hậu. Bà can đảm này sau khi làm việc đạo đức thì lui về tư dinh và ngày hôm sau bà mời tôi đến dâng thánh lễ trong nhà nguyện ở trong phủ, tất cả Kitô hữu trong nhà bà đều có mặt. Tôi đã tới và quan trấn thủ ra đón tôi ở lối vào. Xong thánh lễ thì các Kitô hữu kéo đến rất đông làm cho tôi phải ở lại bốn ngày; trong thời gian này tôi rửa tội được 90 người, ngoài ra còn có bà em gái của quan trấn thủ. Ông rất hài lòng và thoải mái, ông lớn tiếng tuyên bố mình ao ước cho tất cả mọi người trong tỉnh được rửa tội. Thế nhưng cho tới đây, Thiên Chúa chưa đánh động lòng ông để cho ông lãnh nhận được điều ông mong Trang 122
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
muốn cho người khác nhận được. Dĩ nhiên Người còn dùng ông để đặc biệt làm cho đoàn chiên được tăng tiến. Sau thời gian ngắn, tôi từ biệt ông, từ biệt bà Maria và hết các Kitô hữu khác ở đây; rồi sau đó tôi về Đà Nẵng”. Đó là lá thư tốt đẹp của cha Alexandre. Cha Bento de Mattos tới phủ Thuận Hóa, được chúa đón tiếp rất thân tình. Cha cũng tới thăm ông em của chúa [35] và khi đàm đạo với ông thì cha nhân cơ hội giảng về đạo Thiên Chúa thật, và hối thúc ông chịu phép thánh tẩy; nhưng ông chỉ muốn làm cách kín đáo không cho ai biết. Cha rất có thể rửa tội cho ông nếu ông vững chí; nhưng đàng này ông nói là nếu người ta phát giác ra và nhà chúa bào huynh của ông có hỏi ông xem ông có là Kitô hữu hay không thì ông sẽ trả lời là không. Thế là cha nghĩ nên hoãn lại và cho ông biết rằng Đức Kitô chỉ nhận vào nước Người những kẻ công khai xưng danh Người mà thôi. Cũng vì lý do này mà cha khước từ không rửa tội cho hai đứa cháu ông đưa ra trình diện và cha chờ thời thuận lợi hơn. Cha đã đi thăm cả tỉnh và rửa tội được 572 người, và người ta hy vọng mùa vọng gặt mỗi ngày mỗi phong phú hơn lên. Chú thích [14] Phạm Đình Khiêm trong Người chứng thứ nhất đã đặt nghi vấn: bà Catarina “hình như không xuất giá”, Sd tr.68. [15] Toàn Thư chép: “Tháng ba thi Hội các sĩ nhân trong nước, lấy đỗ bọn Nguyễn Minh Triết sáu người. Khi ấy có Nguyễn Văn Quang người làng Đặng Xá Cẩm Giàng thiếu điểm số mà được dư đỗ sai bỏ tên đi” (Sd tr.4.257). [16] Theo De Rhodes thì có sáu tỉnh: Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên. [17] Tức Nguyễn Hoàng Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế, thường gọi là chúa Tiên, em vợ Trịnh Kiểm. [18] Ngọc Tú con gái Nguyễn Hoàng lấy Trịnh Tráng. Trang 123
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[19] Toàn Thư chép: “Mùa xuân sai quan mang sắc dụ thái bảo Thuỵ Quận công Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Quảng…” (Sd, tr.4, 151-153). Cương Mục ghi rõ hơn: “Trước đây, Tráng sai Công khoa cấp tư trung Nguyễn Hữu Bản phụng sắc chỉ nhà vua đi Thuận Hóa thu tô thuế từ năm giáp tí (1624) trở về trước, lại đón Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế ta đến Đông Kinh…” (chb 31, 23). Thực Lục tiền biên chép: “Đinh mão năm thứ 11 (1627) mùa xuân, tháng giêng, Trịnh Tráng muốn cử quân xâm lấn miền Nam, nhưng sợ không có cớ, bèn sai Lê Đại Nhậm phụng sắc vua Lê sang dụ cho con vào chầu và đòi nộp 30 chiếc thuyền đi biển để dùng vào lệ cống triều Minh…”(sd tr.53). [20] Người Kẻ Chợ vẫn coi các miền mới chiếm được là man dị rợ mọi? [21] Chi tiết độc đáo: các dòng tu như dòng họ Au, Phan, Đaminh đều đã mua nhà riêng để làm việc truyền giáo, nay bán lại cho dòng Tên. [22] Thật sự cha Buzomi là người Napoli, đã bỏ Macao đi Đàng Trong với cha Carvalho mồng 6 tháng 1 năm 1615. [23] Điều kiện chính yếu để làm việc truyền bá Kitô giáo. [24] Bà Minh Đức Vương thái phi, thứ phi của chúa Nguyễn Hoàng, thân mẫu hoàng tử Khê; Cardim nói rõ: Thứ phi của chúa quá cố (Nguyễn Hoàng) [25] Tổng số là 10 người. Ba người ở biên giới, có thể là biên giới Chàm và bị dân ở đây hành hung. [26] Nguyễn Phúc Nguyên, chúa Sãi, mất năm 1635, thọ 73 tuổi. [27] Nguyễn Phúc Lan, chúa Thượng, mất năm 1648, thọ 48 tuổi. [28] Trấn thủ Nguyễn Phúc Vinh, được chúa gả công chúa Ngọc Liên cho năm 1629, coi Thực Lục tiền biên, tr.56. [29] Tức công chúa Ngọc Liên Trang 124
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[30] Giáng Sinh năm 1640, De Rhodes cùng đi với cha De Mattos 17/12/1640 tới Đàng Trong 24/12/1640, cho tới 2/7/1641 thì đi Phi Luật Tân để về Macao; coi Hành Trình và Truyền Giáo, q.2, ch.15. [31] Chi tiết đặc biệt nói về Tết nguyên đán năm 1641. [32] Đây là số sách do cha Jerónimo Majórica biên soạn bằng chữ nôm ở Đàng Ngoài. Majórica tới Đàng Ngoài năm 1632, bỏ Đàng Ngoài năm 1649. Có lẽ mất ở Kẻ Chợ vào năm 1656? [33] Nguyễn Phúc Vinh và Ngọc Liên công chúa. [34] Vẫn là Ngọc Liên công chúa. [35] Bào đệ của chúa chỉ có thể là hoàng tử Tôn Thất Trung. Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên có năm hoàng tử: con cả là Kỳ làm trấn thủ Quảng Năm năm 1614 và mất năm 1631. Con thứ hai là chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Con thứ ba là Anh thay Kỳ làm trấn thủ Quảng Nam nhưng sau làm loạn bị giết năm 1635. Còn Trung là con thứ tư làm chưởng cơ, về sau dính líu tới vụ Tống Thị và mất năm 1654.
Trang 125
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
GIOAN MARACCI - TƯỜNG TRÌNH VỀ XỨ ĐÀNG NGOÀI, ĐÀNG TRONG, CAO MIÊN VÀ LÀO Trích trong “Tường Trình về những việc xảy ra ở Đông An tại ba tỉnh Dòng Goa, Malabar, Nhật Bản và Trung Hoa, và tại các nước do các cha Dòng Tên mới tìm thấy”, do cha Gioan Maracci quản sự tỉnh Dòng Goa đệ dâng Thánh Bộ Truyền Giáo trong tháng 4 năm 1649. Bản Pháp văn, Paris, chez Cramoisy, 1651 Hồng Nhuệ dịch và chú thích Paris 1989
Lời giới thiệu Chúng tôi chưa biết nhiều về Gioan Maracci. Ông không có trong số những giáo sĩ hoạt động ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong. Ông chỉ là quản sự tỉnh Dòng Tên Goa và ông đã viết bản tường trình này vào tháng 4 năm 1649, để thông báo cho Thánh Bộ Truyền Giáo biết những công cuộc giảng đạo ở ba tỉnh dòng Goa, Malabar và Trung Quốc, Nhật Bổn cùng mấy nước khác, trong đó có Việt Nam, Campuchia, Lào. Dĩ nhiên ông đã dùng tất cả tư liệu ông có trong tay, từ các nơi gửi tới cho ông để rồi ông soạn bản tường trình có thể là tường trình hằng năm. Cuốn sách nhỏ khổ 8, hơn một trăm trang, trong đó chỉ có hơn mười trang nói về Đàng Ngoài, Đàng Trong, Campuchia và Lào. Theo chúng tôi, những dòng vắn tắt này cung cấp cho chúng tôi hai tài liệu quý, có thể là mới đối với chúng tôi. Thứ nhất, chúng ta được biết cha Gaspar Luis đã soạn một cuốn ngữ vựng rất đầy đủ về ngôn ngữ Đàng Ngoài, tức Việt ngữ. Như vậy thêm cho chúng ta một tác phẩm mới, sau cuốn tự vị Bồ Việt của Antonio Barbosa và Việt Bồ của Gaspar d’Amaral, hai cuốn Alexandre de Rhodes đã sử dụng để biên soạn cuốn Tự Vị Việt Bồ La của ngài (1651). Cho tới nay, chưa nhà khảo cứu nào đề cập tới Trang 126
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Gaspar Luis, ngay cả Đỗ Quang Chính trong Lịch sử chữ quốc ngữ (Sài gòn 1972). Gaspar Luis tới Đàng Trong năm 1624 và bỏ Đàng Trong năm 1639. Như vậy ông đã có thể học tiếng Việt và ghi cho mình và cho các đồng sự một cuốn sách nhỏ đầy đủ về ngôn ngữ Đàng Trong. Dĩ nhiên, không rõ đây là cuốn Việt Bồ hay Bồ Việt. Thứ hai, trong mấy dòng vắn tắt, chúng ta được biết qua về việc truyền giáo tại Lào, nhất là tại Campuchia. Chúng ta cũng có thể được dịp so sánh các nước bạn với nước Việt Nam chúng ta. Riêng về Campuchia vào thời đó, đã có nhiều thương gia ngoại quốc tới buôn bán vì có hải cảng thuận tiện như ở Việt Nam. Hai nước đa số theo Phật giáo, nhưng hai thái độ khác nhau trước Kitô giáo. Còn nước Việt Nam có thể là vì vừa có Phật giáo vừa có Khổng giáo nên thái độ cũng có thể là trung dung hơn. Bản tường trình này thuộc vào những bản ngắn gọn như những bản của Giulianô Baldinotti, của Gaspar Luis, ngắn gọn nhưng không kém hứng thú. Hồng Nhuệ KHU TRUYỀN GIÁO ĐÀNG NGOÀI Xứ Đàng Ngoài cách Macao chừng 7 hay 8 ngày đi biển [1], có rất nhiều lương dân. Xứ này đã bắt đầu nhận đức tin Chúa chúng ta từ ngày nước Nhật bắt đầu chối bỏ [2]. Những người sáng lập tiên khởi khu truyền giáo này, ngoài cha Giulianô Baldinotti người thành Pistoia [3], thì là cha Phêrô Marquez người Bồ [4] (trong ít năm cha là tỉnh trưởng dòng Nhật Bổn, bị bắt ở Nagasaki vì đức tin với bốn cha khác và bị hành hạ rất dữ dằn) và cha Alexandre de Rhodes thuộc thành Avignon, người rất tinh thông ngôn ngữ Đàng Ngoài [5]. Hiện nay trong khu truyền giáo này có ít là 190.000 Kitô hữu và những bức thư cuối cùng từ đó gửi về Goa thì đều cho biết là có hơn 12.000 người đã được chịu phép rửa tội [6]. Hiện nay các thợ làm việc trong khu truyền giáo phong phú này là cha Felix Morelli người thành Roma [7], được nhà chúa rất ưu đãi và dân chúng rất mến phục, cha Stanislao Torrente người thành Orvieto [8], cha Paolo Callopresi người miền Calabria, cha Onufrio Borges Trang 127
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
người Thuỵ Sĩ, cha Hieronimo Majorica người Ý[9], cha Francesso Montefuscoli người thành Napoli, và bốn cha khác người Bồ, tất cả đều là những người có nhiều tài cán và rất thông thạo tiếng, thứ tiếng rất khó, bởi vì mỗi tiếng là một vần và chỉ khác nhau do những cung hay giọng đọc khác nhau. Cha Gaspar Luis [10], người Bồ đã ở lâu năm trong khu truyền giáo này, cha đã soạn một cuốn Ngữ vựng [11], rất đầy đủ về ngôn ngữ này, nhưng cuốn sách đã mất trong một vụ đắm tàu vì người ta gửi sách đó từ xứ Đàng Ngoài về Macao, và nay không còn bản nào đầy đủ hơn. Người ta cũng đã biên soạn mấy tác phẩm nhỏ và có ích như cuốn Thánh giáo yếu lý [12] với những kinh và lời nguyện tương tự để cho giáo dân truyền tay nhau đọc và sinh nhiều kết quả mỹ mãn. Trong kinh thành, chúng tôi lập một chủng viện với 40 thanh niên người Đàng Ngoài[13], họ được học các môn, nhất là môn thần học, hay đúng hơn những trường hợp khó giải quyết được vắn tắt dịch ra tiếng họ [14]. Sau khi được huấn luyện đầy đủ thì họ theo các cha đi truyền giáo, họ giúp đắc lực vào việc chinh phục đồng bào củahọ. Tính tình người Đàng Ngoài thì thường rất tốt, kẻ thường dân thì rất gớm ghét chế độ đa thê và hơn nữa, họ rất ghét những thói dâm đãng xấu xa. Họ không tham lam của người khác như những nước Á châu khác; do đó họ có tính quảng đại và hay bố thí, và cũng vì thế chủng viện nói ở trên thì được các Kitô hữu tự nguyện bảo quản đóng góp. Cách đây ba năm, có sáu cha đến Đàng Ngoài, nhưng bị đắm tàu chết thê thảm[15], hai cha người Ý, một người Balan và ba người Bồ, chỉ có người thứ bảy là cha André Lubelli người thành Napoli được thoát, chỉ vì có phép lạ, như bản tường trình đã kể về tai họa này. KHU TRUYỀN GIÁO ĐÀNG TRONG Giáo đoàn Đàng Trong cũng được hình thành trong thời các cộng đồng giáo hữu Nhật Bổn bị bắt bớ. Người giảng Phúc Am tiên khởi của Dòng chúng tôi vào xứ này và đã bắt đầu đem lương dân về cùng Thiên Chúa, đó là cha Francesco Buzomi người thành Napoli [16], một nhân vật lỗi lạc về hết mọi đức tính, trong nhiều năm cha đã hiến thân và không mệt mỏi tiếp tục hoạt động cho tới khi chết, cha đã được chứng kiến mấy nghìn lương dân xưng danh thánh Đức Giêu Kitô. Có mấy cha khác thuộc dòng chúng tôi cũng theo gót cha mà Trang 128
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
vào xứ này, là xứ nằm ngay cạnh xứ Đàng Ngoài. Có lúc có tới mười hai cha và đã lượm được dồi dào kết quả, bởi vì có rất đông dân bản xứ trở lại đạo. Hiện nay, giáo đoàn này bị bắt bớ do lệnh mới ban hành của vị chúa vô đạo, ông này bị các sư sãi xúi giục, nên đã cấm giảng Phúc Am và đe xử tử rất dữ dằn mấy giáo dân của ta; những người này thì xưng đức tin rất nhiệt thành và sốt sắng. Ông còn bắt giam cha Metello Saccano người thành Messina, người độc nhất lưu trú trong xứ này, trong khi chờ đợi bạn đồng sự là cha Carlos Rocca, người xứ Piamontê, mà các bề trên phải đi từ Macao. Đây là thư cha Metello từ khu truyền giáo này viết cho cha Gioan Marcelli. “Năm nay tôi viết tới cha Bề trên qua đường Macao. Tôi nhờ đường dây Thái Lan chuyển tới cha, tôi xin hết lòng kính chúc cha bề trên. Tôi đang ở xứ Đàng Trong, hoạt động trong nhà nhiều hơn ở ngoài, vì tôi không được phép đi ra phố người Nhật [17] để thăm ông khóm trưởng là người Kitô hữu. Tôi bị nhà chúa giam cầm. Tôi rất có thể vượt quá ranh giới đã hạn định cho tôi, nhưng tôi sợ liều mình bị người ta trục xuất khỏi xứ Đàng Trong và hoàn toàn không còn được thấy khu truyền giáo vinh quang này. Thế nhưng giáo dân lợi dụng ban đêm tới nơi tôi ở để chịu phép bí tích giải tội và rước lễ, họ rất sốt sắng và nhiệt tình lãnh nhận. Chúng tôi tiến bước rất chậm, chúng tôi buộc mình phải bước những bước nặng như chì, nhưng nếu vội vã thì sợ hỏng hết việc. Ngày mồng một tháng sáu năm nay có ba giáo dân sốt sắng bị bắt vì đức tin, do lệnh của chúa. Hai người đầu là Augustinô và Inhaxu bị chém đầu, người thứ ba là một người già nua tuổi tác tên là Simon, sau khi bị đánh đòn thì bị chặt ngón tay, rồi sau bốn ngày bị hành hạ thì đã bay về trời. Còn ba người khác thì bị đánh đòn, người ta cạo trọc đầu, đây là dấu rất xỉ nhục ở xứ này. Những việc riêng này đã được ghi trong bản tường trình hằng năm. Tôi đang chờ tàu từ Macao tới có đem theo cha Carolo Rocca mà mọi người rất mong đợi ở trong khu truyền giáo sầu khổ này, vì bị đe dọa cầm tù và xử tử sau vụ cấm đạo ở Nhật. Cho tới nay, nhà chúa chưa dám sát hại những người của chúng ta, nhưng hình như cũng chẳng xa [18]; tôi cầu mong Thiên Chúa ban cho ơn trọng đó, điều tôi Trang 129
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
ao ước ở đây là giữ cho giáo đoàn này được bằng an thịnh trị hết sức có thể để chờ thời thuận lợi hơn, xin Thiên Chúa nhân từ vô hạn đoái thương chúng tôi. Xin cha bề trên nhớ tới người bạn thân của ngài và tất cả xứ Đàng Trong trong thánh lễ, chúng tôi rất cần đến. Từ xứ Đàng Trong, ngày 21, tháng 9 năm 1646.” Người bày tôi nơi Thiên Chúa, Metello Saccano, S.J Chúng tôi không biết đã xảy ra những gì từ đó, vì ngày mồng 5 tháng 2 năm ngoái, khi có tàu từ An về Au Châu thì các thư từ Trung Quốc và các nước lân cận chưa tới Goa. Hai năm trước có ba thầy giảng kể trên đã hiến mạng sống vì đức tin, còn mấy người khác thì cũng đã chết vì đức tin trong xứ này. Người thứ nhất tên là Anrê. Từ lúc thiếu thời, anh đã tự nguyện hiến thân phụng sự Thiên Chúa trong chủng viện, đã khấn giữ đức trinh khiết và tự nguyện cho đến chết giúp chinh phục lương dân dưới quyền điều khiển của các cha. Anh khiêm nhường hiếm có, cầu nguyện rất sốt sắng và liên tục, lòng bác ái đối với hết mọi người thật là đáng khen, còn lòng nhiệt thành thì như nung nấu để giảng dạy đường cứu rỗi cho lương dân. Mấy năm liền anh kiên trì làm việc, theo cha Alexandre de Rhodes là thầy và bề trên trong hết mọi nơi, có Thiên Chúa phù trợ cho cả hai để chinh phục một số rất đông lương dân trở lại đạo. Đã có một bản tường trình riêng về cái chết của người thanh niên này [19] cùng những sự việc đáng ghi nhờ xảy ra trước mặt nhiều người Au Châu và Á Châu, giáo dân cũng như lương dân. Các bảng niêm yết ở thành phố thì đã minh bạch công bố lý do làm cho nhà chúa kết án tử hình, đó là vì anh không muốn bỏ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, niềm tin mà anh giảng dạy, còn nhà chúa thì cho là có hại cho đạo của lương dân. Trước khi chết, anh đã dàn dụa nước mắt sốt sắng xưng tội cùng thầy dạy của anh, người hằng ở bên cạnh anh ở nơi hành hình. Sau đó anh cầu xin Thiên Chúa ban ơn trở lại đạo cho đất nước anh và cho những người lên án giết anh. Anh cũng lấy lời lẽ rất thân thương khuyên bảo giáo dân rất đông đến dự hãy kiên trì và trung tín trong đạo thật của Đức Giêsu Kitô. Sau cùng anh quỳ gối, bị đâm và bị chém đầu, trút linh hồn thanh tịnh nơi Đấng Tạo thành. Sau khi anh Trang 130
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
chết thì đã xảy ra mấy việc quan trọng mà Đức ông Horatio Massa khá nổi tiếng ở Ý, người chứng kiến vụ hành hình này, đã viết giấy làm chứng và tự tay ký nhận và tuyên thệ[20]. “Tôi là Horatio Massa chứng nhận có thật, năm 1644 ngày 26 tháng 7, một thầy giảng thuộc dòng Tên, tên là Anrê, sinh quán ở thị xã Phú Yên thuộc xứ Đàng Trong, đã chịu tử đạo trong tỉnh Quảng Nam thuộc xứ Đàng Trong, và sau khi chết đã xảy ra trong thành phố này ba vụ hỏa tai lạ lùng trong ban đêm [21]. Vụ thứ nhất là mấy địa điểm và chùa chiền đều bị cháy, vụ thứ hai là nhà tù giam anh và đường phố lương dân dẫn anh qua để tới nơi hành hình người đầy tớ Thiên Chúa thì đều bị lửa thiêu trụi. Sau cùng là vụ thứ ba, lửa bén tới khu phố có nhà của viên cai đội người ta gọi là quan, viên này cùng với quan cai trị, chiều hôm hành hình vị tử đạo, đã tới đánh đập giáo dân kéo nhau tới dự vụ hành hình người thanh niên thánh này và ném xác người xuống sông, để cho giáo dân không hứng máu và lượm áo người để làm phù phép. Ông này khi nhớ lại những cực hình ông gây nên và lúc này bị ngọn lửa bao vây tứ bề không sao cứu được vật gì trong nhà, thì ông nhận đây là hình phạt Trời giáng. Ông liền cầu khẩn và hối hận xin vị tử đạo tha thứ cho những lỗi lầm, những lời mình đã nói phạm tới người và chống lại giáo dân, ông xin cho mình được thoát vụ hỏa tai này, lại hứa về sau mãi mãi sẽ nhiệt tình tôn kính. Mặc dầu viên quan này còn là lương dân, nhưng nhờ lời cầu khẩn của người đầy tớ Thiên Chúa, nên Trời đã thương cứu giúp ông: bởi vì cả dãy phố đều bị thiêu trụi, chỉ trừ một nhà viên quan này thoát, mặc dầu nhà ông cũng làm bằng vật liệu như những nhà khác, nhưng không bị hư hại, lại đứng vững như thể một đảo nhỏ giữa cánh đồng bị thiêu ra tro hết. Mấy ngày sau, cha Alexandre de Rhodes là thầy dạy của thầy giảng Anrê, trước mặt tôi, đã đặt thủ cấp thầy trong một hòm rất tươm tất và đem của quý đó cùng với thi hài xuống tàu của thuyền trưởng Jean de Resandé đưa về Macao [22]. Khi đi ngang đảo Trung Quốc, có bão rất lớn nổi lên với thứ gió người ta gọi là tứ phong. Hết các tàu khác trên biển, mặc dầu rất vững và có buồm tới, thảy đều bị đắm, trừ tàu chở thủ cấp và thi hài vị tử đạo, mặc dầu tàu này chở nặng hơn và kém trang bị về buồm hơn, tàu đã may mắn về tới Macao bằng an vô sự, không mất mát thiệt hại chi, và tất cả những điều này đều xác thực. Trang 131
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
Tôi, Horatio Massa, xin thề trên Phúc Am thánh lễ”. Ở thành Roma này, chúng tôi đang chờ thủ cấp vị tử đạo thuộc Đàng Trong do những chuyến tàu từ Goa nơi giữ thủ cấp đưa về Au Châu [23], để chúng tôi được giữ trong nơi xứng đáng, đây mới chỉ là nơi tư, cho tới lúc thuận tiện để được kính trọng và suy tôn người bày tôi Thiên Chúa, bằng những danh vọng mà Hội Thánh thường bàn cho những người đã lấy máu mình mà tôn vinh Giáo Hội Người. KHU TRUYỀN GIÁO CAMPUCHIA Campuchia [24] là một xứ người Moro hay người Hồi[25], thù địch chính yếu của Kitô giáo và do đó không thu được kết quả khả quan nơi người xứ này, bởi vì rất ít người trở lại đạo, và nếu có thì cũng rất âm thầm kín đáo, hơn nữa nhà vua đã cấm và đe phạt rất nặng những ai theo đạo nào khác ngoài đạo của ông; tuy nhiên việc truyền giáo gặp một thuận lợi là nhờ vào sự giúp đỡ lớn của tất cả các nước từ hết các nơi tới đây buôn bán, như người Bồ, người Tây, người Hòa Lan, người Trung Hoa, người Nhật Bổn và các người khác; với họ chúng tôi có thể dễ dàng và tự do săn sóc về sự cứu rỗi của họ. Trong nước này, bao giờ chúng tôi cũng có hai hay ba cha rất hoạt động, vừa giảng dạy vừa làm các phép bí tích cho những người công giáo ở đây, duy trì sự hòa hảo và giàn xếp các vụ tranh chấp khi xảy ra. KHU TRUYỀN GIÁO LÀO Quốc gia này [26] ở cạnh xứ Đàng Ngoài, Campuchia và Thái Lan. Từ 15 năm nay đã bắt đầu sinh hoa kết trái về đức tin Kitô giáo, do sự cần cù và khôn khéo của một người đồng sự của chúng tôi là cha Mastrilli, thường gọi là Gioan Maria Leria người thành Milan. Ngài là người đầu tiên vào nước này và tiếp tục hoạt động cho tới nay, ngài may mắn gặt hái được nhiều hoa trái nhờ vào công lao và khó nhọc rất lớn ngài chịu. Đã có rất đông người và còn rất đông người xin theo đạo. Được nhà vua rất quý mến [27], nên ngài đã được toàn quyền giảng dạy đạo Thiên Chúa cho hết các thần dân của vua và hơn nữa, theo lời khẩn khoản của vua, người ta tiếp tục nhận được từ Macao nhiều thợ khác của dòng để xúc tiến công việc làm vườn nho Thiên Chúa và người ta Trang 132
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
hiện đang chờ bất cứ lúc nào có cha Francisco Rivas người thành Napoli, từ Macao phái đến để hoạt động theo như đã dự định. Chú thích [1] Đây là hành trình thuận buồm xuôi gió và với người đã thuộc đường lối. Năm 1626 Baldinotti phải mất hơn một tháng, còn A.De Rhodes năm 1627 chỉ mất một tuần lễ, 12/03/1627 bỏ Macao, tới Cửa Bạng 19/03/1627. Còn Tissanier bỏ Macao 05/04/1658, tới Đàng Ngoài 13/04/1658. [2] Kể từ thời thánh Phanxicô Xaviê, dòng Tên đem hết tâm lực truyền giáo ở Nhật, nhưng vì Nhật đóng cửa và bắt đạo, nên dòng Tên mới chuyển qua các nước lân cận, nhất là Trung Hoa và Việt Nam. [3] Coi: Baldinotti, Tường Trình về Đàng Ngoài, bản dịch của Hồng Nhuệ. [4] Cha Phêrô Marquez lai Nhật, cha là người Bồ và mẹ là Nhật Bản. [5] Hết các tư liệu khi nói về De Rhodes thì đều đồng thanh nói lên sự hiểu biết tiếng Việt của ông. [6] Theo Lịch sử Đàng Ngoài của De Rhodes thì vào năm 1640 ở Đàng Ngoài có chừng 100.000 giáo dân (q.2 ch.47), trong hai năm 1645-46 có thêm 24.000. Như vậy, nếu mỗi năm thêm chừng trên dưới 30 ngàn thì chúng ta có con số nói trên. [7] Về cha Felix Morelli, coi Lịch sử Đàng Ngoài, A.De Rhodes, q.2, ch.51. [8] Về tên riêng, các sách thường không thống nhất khi ghi. Lại nữa, ở đây cũng như ở nhiều nơi khác, thường ghi quê quán ở một thành phố hay một miền, có khi tất cả đều thuộc nước Ý ngày nay. Vào thế kỷ này chế độ phong kiến còn khá nặng, thí dụ Venezia là một tiểu quốc, cũng vậy thành Genova là một tiểu quốc, Avignon nhiều nơi cũng được kể như một tiểu quốc. Trang 133
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[9] Trong số người tinh thông tiếng Việt kể ở đây phải đặc biệt để ý tới cha Hierónimo Majorica, cha còn để lại một số tác phẩm bằng chữ nôm, coi: Hoàng Xuân Hãn, trong tạp chí của dòng Tên, AHSJ, xxii, 1953. Võ Long Tê, Lịch sử văn học công giáo Việt Nam, Sài gòn, 1965, tr.170). [10] Gaspar Luis, coi: Tường trình về Đàng Trong, bản dịch của Hồng Nhuệ. G.Luis chỉ ở Đàng Trong, chứ không thấy ra Đàng Ngoài. [11] Ngữ vựng, thực ra trong bản Pháp văn người ta ghi là “un riche calepin dans cette langue” có thể dịch là một cuốn sổ tay, một tập nhỏ đầy đủ về tiếng (ngôn ngữ) này. [12] Cuốn Thánh giáo yếu lý hay sách giáo lý, sách bổn, đã được soạn từ những năm đầu tiên truyền giáo tại Đàng Trong, nghĩa là trước năm 1620-1621. [13] Theo Lịch sử Đàng Ngoài của De Rhodes thì đã có chủng viện đào luyện các thầy giảng và hội các thầy giảng đã có chừng 100 thầy (q.2, ch.45); coi Hành trình và Truyền Giáo, q.2, ch.10. [14] Đây là một phần của khoa thần học luân lý. Người ta đưa ra những trường hợp éo le trong đời sống Kitô hữu để rồi phải chiếu theo đúng luật Chúa hay giáo luật hay luật Giáo hội mà giải quyết. [15] Về vụ đắm tàu này, coi Lịch sử Đàng Ngoài, q.2, ch.49. [16] Về cha Buzomi, coi Hành trình và Truyền Giáo q.2, ch.13. Cha tới Đàng Trong năm 1615 và mất ở Macao năm 1639, lúc đi công cán cho chúa Đàng Trong Nguyễn Phúc Lan và tĩnh dưỡng nhân thể. [17] Ở Hội An có từng phường, khóm riêng của người Trung Hoa, của người Nhật; coi Borri, Tường trình về Đàng Trong, bản dịch của Hồng Nhuệ, q.1, ch.8. [18] Có ý nói các giáo sĩ người ngoại quốc. Theo Montezon và Esteve, Voyages et travaux des missionnaires de la Cie. de Jésus, Misions de la Conchinchine et du Tonkin, Paris 1858, in 8, tr.399, thì Trang 134
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
người ngoài quốc đầu tiên bị chém đầu là David l’Arménien, thương gia sinh quán nước Armênia, ngày mồng 7 tháng 1 năm 1650. [19] A.De Rhodes, La glorieuse mort d’André catéchiste de la Cochinchine, Paris 1653. Bản tiếng Ý: Relatione della morte di Andrea catechista, Roma 1652. Coi Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, Tinh Việt, Sài gòn 1959. Mặc dầu Phạm Đình Khiêm đã rất công phu soạn cuốn tiểu sử thầy giảng Anrê Phú Yên này, chúng tôi cũng nghĩ nên dịch nguyên văn sách của De Rhodes để làm tư liệu nghiên cứu. Coi bản dịch và chú thích của Hồng Nhuệ. [20] Bản khai này, Phạm Đình Khiêm đã dịch theo bản văn trong La Cochinchine Religieuse của L.E.Louvet, coi sd Phạm Đình Khiêm, tr.237-238. [21] Về hỏa tai này, coi Hành Trình và Truyền Giáo, q.2 ch.32. [22] Theo Hành Trình và Truyền Giáo thì thi hài được đưa về Macao trước, coi q.2, ch.32: “Tôi gửi xác thánh đó về Macao và cả viện chúng tôi đón rước linh đình. Tôi làm tờ biên bản ghi hai mươi ba chứng nhân dự vào cuộc tử đạo. Còn tôi, tôi giữ thủ cấp cho tôi và Thiên Chúa ban cho tôi ơn đưa về được cho tới Roma.” [23] De Rhodes về tới Roma ngày 27 tháng 6 năm 1649, nhưng thủ cấp đã phải gửi về Goa khi giáo sĩ tới Ba Tư năm 1648, để rồi đưa xuống tàu năm 1649, đi vòng Phi châu, cho tới năm 1652, thủ cấp mới về tới Roma, coi Người chứng thứ nhất, tr.189-190. [24] Chúng tôi chưa tìm hiểu thêm về việc truyền giáo ở Campuchia, nhưng qua cha Borri, Tường trình về Đàng Trong, chúng tôi biết đã có liên hệ ngoại giao giữa Đàng Trong và Campuchia (q.1, ch.7). Borri nói tới chúa Đàng Trong gả công chúa cho vua Campuchia, sứ thần Đàng Trong theo Kitô giáo tới Campuchia trình uỷ nhiệm thư. Lúc này đã có các thương gia thuộc nhiều nước khác nhau Au cũng như Á tới đây buôn bán. [25] Chúng tôi không hiểu tại sao tác giả lại nói xứ Campuchia là xứ Hồi giáo, Phật giáo thì mới đúng chứ! Trang 135
Để hiểu LS đạo thiên chúa ở VN
Nguyễn khắc Xuyên
[26] Về việc truyền giáo ở Lào, chúng ta có tư liệu nhiều hơn. Coi De Rhodes, Lịch sử Đàng Ngoài, q.2 ch.42, nói về việc phái các thầy giảng qua Lào năm 1634 do cha Gaspar d’Amaral q.2 ch.43, trên hành trình từ Kẻ Chợ qua Lào, cha Bonel chết dọc đường, sau này cha Leria may mắn tới đất Lào. Coi thêm Marini, Tường trình về khu truyền giáo Lào tiếp theo Tường trình về Đàng Ngoài, Paris 1666. [27] Nước Campuchia và nước Lào là hai nước lấy Phật giáo làm như quốc giáo, thế nhưng hai thái độ khác nhau theo tư liệu này; nước Lào, đúng hơn, vua Lào tỏ ra khoan dung và cởi mở hơn rất nhiều.
HẾT
Trang 136