LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết thiết của đề tài tài nghiên nghiên cứu: cứu: Bảo hiểm thương mại nói chung và Bảo hiểm Nhân thọ nói riêng là một ngành dịch vụ đặc biệt của nền kinh tế quốc dân. Các sản phẩm được cung cấp cho khách hàng là những sản phẩm vô hình. Chính vì vậy, việc lựa chọn kênh phân phối phù hợp là một yêu cầu quan trọng và đòi hỏi khách quan đối với bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh việc nắm bắt thị hiếu để thiết kế ra những sản phẩm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày một đa dạng và phong phú của khách hàng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phải lựa chọn hệ thống kênh phân phối phù hợp với từng nhóm khách hàng và từng thị trường mục tiêu. Tại thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, với khoảng thời gian hơn 20 năm hình thành và phát triển, việc xây dựng và phát triển hệ thống kênh phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đang ở những bước đi ban đầu. Nhưng trong giai đoạn 2007 – 2009, thế giới chứng kiến sự suy giảm nghiêm trọng của thị trường tài chính, trong đó có bảo hiểm nhân thọ. Không nằm ngoài xu hướng đó, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã gặp phải những hệ luỵ từ cuộc suy thoái kinh tế này. Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tại Bảo Việt, tuy nhiên chưa chưa có công trình nào đi sâu phân tích, đánh giá tổng thể thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt V iệt Nam trước và sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Vì những lý do đó nhóm quyết định chọn đề tài: “Thực trạng hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam giai đoạn 2004-2009”
2. Đối tượng, tượng, mục đích đích và phạm phạm vi nghiên nghiên cứu:
1
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu cơ bản về bảo hiểm nhân thọ và thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2009, từ đó phân tích cũng như đưa ra những ảnh hưởng của cơn bão tài chính thế giới. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài có tầm bao quát và xem xét lại nhiều vấn đề trong quá khứ lâu dài về trước, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu tập trung vào khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2009.
3. Phư Phương ơng pháp pháp nghi nghiên ên cứu: cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, sử dụng các số liệu nghiên cứu thứ cấp. Bên cạnh đó các phương pháp mô hình hoá sử dụng bảng biểu phân tích thị trường bảo hiểm một cách sinh động.
4. Kết Kết cấu cấu đề tài: tài: Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và phụ lục, bài viết được chia thành bốn phần chính như sau: Phần I: Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ. Phần II: Thực trạng hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ Việt Nam giai đoạn 2004 – 2009. Phần III: Định hướng phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong thời gian tới.
5. Kết quả nghiê nghiênn cứu cứu dự kiến: kiến: Đóng góp chủ yếu của đề tài là: •
Khái quát hoá cơ sở lý luận về bảo hiểm nhân thọ.
2
•
Phân tích thực trạng thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong giai đoạn
trước vào sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2004 – 2009. •
Đưa ra định hướng kèm thêm một số kiến nghị cho thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam. Do đây là lĩnh vực có tính vĩ mô cao, và trình độ người viết còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến, chỉ bảo để đề tài của nhóm được hoàn chỉnh hơn.
3
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................1 MỤC LỤC.......................................................................................................4 KẾT LUẬN...................................................................................................22 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................23
I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ:
1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi người tham gia có những sự kiện đã định trước (chẳng hạn như: chết thương tật toàn bộ vĩnh viễn, hết hạn hợp đồng, sống đến một thời hạn nhất định). Còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn.
4
Như vậy bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự bảo đảm “một hình thức tiết kiệm” và mang tính chất tương hỗ. Mỗi người mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (thường gọi là người được bảo hiểm) sẽ định kỳ trả những khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) trong mọt thời gian dài đã thoả thuận trước (gọi là thời hạn bảo hiểm) vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lý, và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn đã định trước (gọi là số tiền bảo hiểm) cho người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định, khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hay khi có một sự kiện xảy ra (người được bảo hiểm kết hôn hoặc vào đại học hoặc nghỉ hưu) hoặc cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm nếu không may họ chết sớm hơn. Số tiền lớn trả cho thân nhân và gia đình người có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khi không may họ chết sớm ngay khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ sẽ giúp những người còn sống chi trả những khoản phải chi tiêu rất lớn như tiền thuốc thang, bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết cho những người còn sống, chi phí giáo giục cho con cái nuôi dưỡng cho chúng nên người. Chính vì vậy bảo hiểm nhân thọ được coi là một hình thức bảo đảm và mang tính chất tương hỗ, chia xẻ rủi ro giữa một số đông người với một số ít người trong số họ phải gánh chịu. Với tính chất như một hình thức tiết kiệm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ giúp cho mỗi người, mỗi gia đình có một kế hoạch tài chính dài hạn thực hiện tiết kiệm thường xuyên có kế hoạch. Với xã hội như một hình thức bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ góp phần xoá bỏ những đói nghèo, khó khăn của mỗi gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình mất đi. Như một hình thức tiết kiệm, việc triển khai bảo hiểm nhân thọ là một hình thức tập trung nguồn vốn tiết kiệm dài hạn trong nhân dân, góp phần tạo nên nguồn vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế.
2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ: 2.1. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn:
5
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn được hiểu là loại hình bảo hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia khi họ không may bi chết. Đó là lúc công ty sẽ thanh toán toàn bộ số tiền bảo hiểm. Bảo hiểm sinh mạng là một loại bảo đảm tạm thời và thời hạn bảo hiểm đựơc quy định cụ thể như: 1, 5, 10 hoặc 20 năm hoặc độ tuổi đến 60, 65, 70 và có thể là 75 tuỳ theo từng công ty hoặc hợp đồng.
2.2. Bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời: Bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời có số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm chết, với điều kiện đã đóng đủ phí bảo hiểm cho đến khi chết và nếu chết trước tuổi 100. Giá trị của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời tăng đều và sẽ bằng số tiền bảo hiểm nếu người được bảo hiểm còn sống và đã nộp phí đầy đủ cho đến tuổi 100. Nếu chủ hợp đồng sống đến 100 tuổi và hợp đồng vẫn còn hiệu lực như hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp. Như vậy hợp đồng bảo hiểm trọn đời là một hình thức bảo vệ lý tưởng trong nhiều trường hợp. Nếu so sánh với các loại bảo hiểm dài hạn khác thì loại này cung cấp số tiền bảo hiểm lớn nhất, mà phí bảo hiểm lại nhỏ nhất, hợp đồng có ưu thế chuyển đổi linh hoạt.
2.3. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn hỗn hợp: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp cũng là một trong những loại bảo hiểm dài hạn và có đặc trưng riêng biệt của mình. Hợp đồng này đáp ứng nhu cầu của những người muốn có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có giá trị tiền mặt tăng nhanh để họ có một khoản tiền nào đó trong tương lai.
2.4. Hợp đồng tiền trợ cấp hưu trí: Đây là loại hình mà phí bảo hiểm đóng ngay một lần và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm về hưu cho đến khi chết. Người ta thường kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hưu trí với bảo hiểm hưu trí. Khi về hưu người được bảo hiểm được nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng bảo hiểm trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống khi về hưu cho đến khi chết.
6
3. Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm nhân thọ: 3.1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ: Có thể khẳng định rằng các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chắc chắn mang lại lợi ích cho các chủ hợp đồng khi họ tham gia. Mặt khác còn góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên áp dụng ở Việt Nam, nghiệp vụ này cho thấy bảo hiểm nhân thọ ra đời đáp ứng được những vấn đề cơ bản sau:
Trường hợp người tham gia không may bị chết, gia đình có tiền để trả nợ
trả những khoản chi phí mai táng chôn cất. Bù đắp được những khoản thu nhập thường xuyên cho gia đình. Khi người chủ gia đình bị chết hoặc là người tham gia là người có thu nhập chính trong gia đình nay không còn có thu nhập nữa.
Trường hợp người tham gia không may bị thương tật vĩnh viễn hoặc bị ốm
đau, gia đình sẽ có tiền chi phí để cứu chữa (như tiền thuốc, tiền nằm viện, phẫu thuật). Đối với cuộc sống bình thường: gia đình sẽ có tiền để trả học phí và các khoản lệ phí khác trong trường hợp còn học đại học, cưới xin, khởi nghiệp kinh doanh... Và có được khoản tiền để trả nợ nếu mua một ngôi nhà mới. Ngoài ra còn có được một khoản tiền lớn khi về hưu đồng tiền góp phần tăng thêm tích luỹ ngân sách cho gia đình.
Đối với hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ góp phần bù
đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp do người chủ doanh nghiệp không may bị chết thì sẽ được trả số tiền bảo hiểm mà đã được chọn trước cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Trường hợp tai nạn dẫn đến thương tật toàn bộ vĩnh viễn thì sẽ được trả số tiền bảo hiểm và hợp đồng vẫn được duy trì miễn phí với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm khác và từng năm sẽ được chia thêm lãi từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty.
3.2. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ ra đời đóng một vai trò rất quan trọng. Có thể khái quát được một số vai trò chủ yếu sau:
7
Đối với từng cá nhân và gia đình, nó thể hiện sự quan tâm lo lắng của người
chủ gia đình với người phụ thuộc, giữa cha mẹ với con cái đồng thời góp phần làm giảm bớt khó khăn về mặt tài chính của gia đình khi không may gặp rủi ro.
Tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng có nghĩa là tiết kiệm một cách thường
xuyên có kế hoạch. Khi quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì những khoản phí nhỏ phải nộp hàng tháng trích từ ngân sách của một gia đình có thể coi như những khoản chi tiền điện, tiền nước, tiền nhà.
Trong điều kiện kinh tế phát triển và ổn định những gia đình có thu nhập,
chi tiêu ở mức cao có thể trích một khoản tiền để mua bảo hiểm nhân thọ, nó không ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình chi tiêu trong một tháng của gia đình đó và như vậy hàng tháng họ đã tiết kiệm được một khoản tiền nhất định.
Khoản tiền tiết kiệm được thực chất đã tạo lập được nguồn quỹ nhất định
cho gia đình. Góp phần để giáo dục con cái và có tiền để chi dùng khi về hưu.
Đối với nền kinh tế, bảo hiểm nhân thọ đã thu hút được một lượng tiền rất
lớn còn nhàn rỗi nằm tản mạn ở các tầng lớp dân cư trong xã hội. Lượng tiền này không chỉ có ý nghĩa tiết kiệm chống lạm phát mà còn góp phần đáng kể vào nguồn vốn đầu tư dài hạn giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đối với xã hội, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao phúc lợi cộng đồng. Như ở Hàn Quốc có hơn một triệu người làm việc ở các công ty bảo hiểm nhân thọ.
II.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 – 2009 :
1. Lịch sử ra đời bảo hiểm nhân thọ Việt Nam: Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra đời từ rất lâu trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng
8
ra đời tương đối muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện lịch sử của đất nước. Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm Việt Nam được học hỏi và tiếp cận với những kỹ thuật bảo hiểm mới trên thế giới. Từ kinh nghiệm các nước, Bảo Việt lúc đó vẫn là công ty bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam, đã thấy được tiềm năng to lớn của bảo hiểm nhân thọ ở nước ta. Vì vậy, Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển khai bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam với đề án “Bảo hiểm nhân thọ và điều kiện triển khai ở Việt Nam”, nhưng lúc đó chưa có đủ điều kiện vì: thu nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn kém phát triển, tỷ lệ lạm phát còn cao, thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo hiểm chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán bộ bảo hiểm lúc đó chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Do đó, Bảo Việt chỉ triển khai bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1 năm (bảo hiểm nhân thọ tử kỳ thời hạn 1 năm). Đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ đơn giản nhất và có nhiều đặc điểm tương đồng với bảo hiểm con người phi nhân thọ. Sau thời kỳ đổi mới kinh tế được 10 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao từ 6 - 9 %/ năm, đồng thời môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lý có nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao và ở một bộ phần quần chúng dân cư đã bắt đầu có tích luỹ. Đây là những nhân tố rất thuận lợi cho bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển ở Việt Nam. Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên ở Việt Nam, thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm: bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và ảo hiểm an sinh giáo dục.
9
Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra thị trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam. Sau Nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, từ năm 1994 đến nay, nhiều công ty bảo hiểm mới được cấp phép hoạt động. Có thể nói, Nghị định 100 /CP ra đời là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nghị định này đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của nhà nước ta. Tuy nhiên, xét về thực chất kể từ khi có sự ra đời của các công ty bảo hiểm 100% Vốn nước ngoài như công ty bảo hiểm nhân thọ Chinfon Manulife (nay là Manulife), Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential, Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh-CMG (nay là Dai-ichi Life), Công ty bảo hiểm nhân thọ quốc tế Mỹ AIA, thị trường bảo hiểm Việt Nam trong đó có bảo hiểm nhân thọ mới chấm dứt giai đoạn độc quyền nhà nước về bảo hiểm và bắt đầu đi vào phát triển và có sự cạnh tranh. Ngày 09 tháng 12 năm 2000, Quốc Hội đã thông qua luật kinh doanh bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Nhờ có luật kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh bình đẳng hơn và đang thực sự là động lực thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển.
2. Thực trạng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam giai đoạn 2004 -2009 2.1. Cơ hội và thách thức cho bảo hiểm nhân thọ Việt Nam: 2.1.1. Cơ hội: Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO tháng 11 năm 2006, những cơ hội đến với ngành bảo hiểm Việt Nam liên tục mở ra. Việc mở cửa thị trường đã và đang tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước. Việc tham gia
10
thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài làm đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước. Đây còn là cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước chuyển đổi cơ cấu để tăng khả năng cạnh tranh. Thị trường bảo hiểm nhân thọ đón nhận rất nhiều thông tin lạc quan. Và theo nhận định của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, đời sống và nhận thức của người dân được nâng cao, cũng như sự đa dạng hợp lý các sản phẩm mới của doanh nghiệp, sẽ thúc đẩy thị trường này phục hồi nhanh và tăng tốc trong thời gian tới. Ngoài ra cơ hội phát triển của bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn được dự báo dưới các quá trình như sau:
Quá trình củng cố hợp nhất chắc chắn sẽ diễn ra bởi hiện tại nó đang là xu
hướng của ngành bảo hiểm ở các quốc gia lớn như Anh, Mỹ và nhiều nước khác. Việc kết hợp lại sẽ mang đến nhiều lợi thế như mở rộng quy mô, tăng cường uy tín, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng nếu chúng ta nắm bắt được xu hướng này, ngành bảo hiểm của Việt Nam chắc chắn sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn.
Lượng người già ngày càng tăng gợi mở một thị trường rất tiềm năng đó là
khai thác các nhu cầu như lập kế hoạch thừa kế di sản, bảo vệ tài sản, và tích lũy thu nhập.
Nhu cầu của thị trường lớn có quy mô dân số ngày càng lớn và đa dạng là
cơ hội lớn cho mọi công ty bảo hiểm hướng tới những thị trường mới và tăng cường lượng khách hàng sẵn có.
Cùng với sự phát triển của Internet, giờ đây các công ty bảo hiểm sẽ có rất
nhiều cách thức để tiếp cận khách hàng. Dự báo trong một thập kỉ tới số đại lí bảo hiểm sẽ giảm nhưng số giao dịch qua mạng và giao dịch trực tuyến sẽ tăng lên rất nhiều. Hiện nay Bảo Việt đã kí kết thỏa thuận với công ty HP và chắc chắn hệ thống công nghệ thông tin của Bảo Việt sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh. Nếu nắm bắt tốt xu hướng này tin chắc rằng Bảo Việt có thể gặt hái được những thành công lớn trong tương lai. 11
Sự sẵn có của thông tin trên mạng Internet đồng nghĩa với việc khách hàng
sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn thông tin về bảo hiểm và có đánh giá tốt hơn về những sản phẩm và dịch vụ họ mua. Đó chính là những cơ hội lớn không chỉ cho Bảo Việt mà còn dành cho toàn bộ ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới. Song bên cạnh đó sẽ là những thách thức lớn đang chờ đợi.
2.1.2. Thách thức: Việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với các công ty bảo hiểm trong nước. Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường (Bảo Việt Nhân Thọ giảm từ trên 70% năm 2000 xuống còn 38% năm 2005). Ngoài ra, hiện nay mức phí bảo hiểm tại Việt Nam vẫn còn khá cao do đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khá vất vả khi gặp những tập đoàn bảo hiểm tầm cỡ với chương trình bảo hiểm toàn cầu có mức phí rất thấp. Luật pháp đối với lĩnh vực bảo hiểm nói chung và lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ nói riêng còn chưa hoàn thiện và vẫn còn có những hạn chế pháp lý đối với việc đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư của các công ty bảo hiểm. Thêm vào đó là sự ảnh hưởng của biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý. Mức độ tập trung thị trường cao dễ dẫn đến hiện tượng thông đồng giữa các công ty bảo hiểm lớn, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho các công ty vừa và nhỏ. Ngoài ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 cũng là thách thức lớn với các công ty bảo hiểm nhân thọ. Niềm tin của các nhà đầu tư sụt giảm, động cơ tích trữ tiền mặt tăng lên. Tuy nhiên hiện nay thị trường cũng đang có những tín hiệu hồi phục khả quan. Các công ty trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ phải khéo léo tìm ra con đường phát triển mới mong đạt được
12
tăng trưởng thị phần trong tương lai. Trong thời gian sắp tới những thách thức mới về lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ liên tục đến với các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Sự kém hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trong bối cảnh thị
trường chứng khoán bùng nổ, các phương tiện đầu tư phong phú thông qua các quĩ đầu tư đã dẫn đến việc khách hàng tạm thời chuyển hướng sang các sản phẩm ngân hàng hoặc quay sang một số hình thức đầu tư truyền thống như vàng, ngoại tệ như một thứ tài sản đầu tư hiệu quả.
Dân số Việt Nam vẫn sẽ tăng mạnh trong những năm tới tuy nhiên nếu
không có được những chiến lược hợp lí thì các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn không thể cạnh tranh được với các công ty bảo hiểm nước ngoài đang có mặt ở Việt Nam. Cần phải ra tăng các lĩnh vực và đối tượng được tham gia bảo hiểm đồng thời tăng cường các ưu đãi để thu hút được lượng người tham gia ngày càng đông hơn.
Hiểu biết của người dân về bảo hiểm ngày càng được cải thiện chính vì vậy
bản thân doanh nghiệp cũng phải thay đổi, mang đến cho khách hàng những dịch vụ ngày càng tốt hơn, cung cấp những thông tin chính xác để người tiêu dùng tin tưởng vào sản phẩm của mình.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đòi hỏi lãnh đạo phải có tầm nhìn
chiến lược, không để công ty mình bước chậm hơn so với các đối thủ về phương pháp tiếp cận khách hàng. Đây là thách thức rất lớn với các công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam bởi chúng ta vẫn đang là những người đi sau về lĩnh vực này. Nếu biết tận dụng công nghệ thông tin chắc chắn các công ty trong nước sẽ có được 1 thị phần lớn mà các công ty bảo hiểm khác đang cực kì mong muốn.
2.2. Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam 2004-2009: Sau hơn 20 năm mở cửa và phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, tính đến nay đã có 10 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, bao gồm 01 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước đó là Bảo Việt 13
Nhân thọ, 01 doanh nghiệp liên doanh đó là Bảo Minh- CMG (nay là Công ty bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi - Công ty 100% Vốn nước ngoài của Nhật Bản), 8 doanh nghiệp 100% Vốn đầu tư nước ngoài khác đó là các công ty bảo hiểm nhân thọ Manu Life, Prudential, AIA, ACE, Prevoir, Great Eastern, Cathay và bảo hiểm nhân thọ Hàn Quốc.
2.2.1. Giai đoạn 2004 – 2007: Thị trường bảo hiểm nhân thọ đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ về qui mô như: tăng số lượng các công ty bảo hiểm, tăng doanh thu phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và số lượng hợp đồng bảo hiểm tăng, bình quân phí thu hàng năm của thị trường tăng từ 30% đến 40%/năm. Từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ thì đến nay toàn thị trường đã có 10 công ty bảo hiểm nhân thọ hoạt động, với doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Qui mô thị trường bảo hiểm ngày càng được mở rộng, thể hiện tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường tăng nhanh qua các năm, năm 1999 doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt 485 tỷ thì năm 2001 đạt gần 2.786 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,56% GDP. Tốc độ tăng trưởng bảo hiểm nhân thọ giai đoạn 1996-2001 đạt 165%/năm.
14
( Đơn vị: tỷ đồng) Doanh thu phí bảo hiểm gốc 2001 2002 2003 2004 2005 Bảo Việt nhân thọ 1.507 2.157 2.606 3.043 3.063 Công ty BHNT Dai-ichi 40 79 140 211 286 Công ty TNHH BHNT 828 1.635 2.557 3.103 3.354 Prudential Việt Nam Công ty TNHH BHNT 302 548 780 888 898 Manulife Công ty TNHH BHNT 106 224 356 463 522 AIA Việt Nam Công ty TNHH BHNT 3 ACE life Công ty TNHH BHNT Prevoir Việt Nam Tổng toàn thị trường 2.785 4.645 6.441 7.710 8.130 Bảng 1: Doanh thu phí bảo hiểm gốc của các doanh nghiệp
TT Tên DNBH 1 2 3 4 5 6 7 8
2006 3.099 369 3.529 896 518 52 16 8.481
bảo hiểm nhân thọ (Giai đoạn 2001- 2005) (Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt)
Theo thông tin từ Hiệp hội bảo hiểm thì tổng kết năm 2006 chỉ số APE (phí bảo hiểm quy năm) của toàn thị trường tiếp tục giảm từ 3% - 3,5%. Các công ty bảo hiểm nhân thọ có “máu mặt” như Prudential, AIA, Manulife đều bị giảm và mất thị phần. Bên cạnh đó, tổng doanh thu phí bảo hiểm của nhiều công ty cũng đã có tốc độ tăng trưởng âm (dưới 1%) và lực lượng đại lý (tư vấn bảo hiểm) bị thu hẹp hơn 30% so với năm 2005. Song bước qua nửa đầu năm 2007 này tình hình thị trường có vẻ nhộn nhịp hơn. Kết quả kinh doanh của hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ đều cho thấy ngành này đang có dấu hiệu hồi phục, tăng trưởng trở lại. Cụ thể, doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Nhân Thọ trong 6 tháng đầu năm đạt hơn 1.600 tỷ đồng, tăng khoảng 5% và doanh thu khai thác mới tăng trưởng đến 35% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, doanh thu từ đầu tư tài chính của doanh nghiệp này 15
cũng đã tăng khoảng 20% so với năm 2006, đạt gần 600 tỷ đồng. Tương tự, kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm AIA Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến lạc quan. Kết quả khai thác phí bảo hiểm mới thực thu trong quý I/07 tăng trưởng hơn 28%, tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng gần 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Sang quí II/07 tốc độ tăng trưởng còn cao hơn, phí bảo hiểm mới thực thu tăng lên gần 40%, đồng thời tổng doanh thu phí bảo hiểm cũng tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý nữa là kết quả hoạt động kinh doanh của ACE Life, nửa đầu năm 2007 công ty này đã có mức doanh thu phí bảo hiểm mới tăng hơn 300% so với cùng kỳ năm 2006. Đây là mức tăng trưởng cao, trong tình hình thị trường bảo hiểm nhân thọ chững lại như trong thời gian qua. Được biết, phí bảo hiểm mới thực thu của hầu hết các doanh nghiệp khác cũng đều tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước, như Prevoir tăng khoảng 250%, Manulife tăng trên 40% và Dai-ichi Life tăng hơn 22%. Tốc độ tăng trưởng của toàn ngành bảo hiểm nhân thọ đạt hơn 25% và tổng doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường tăng gần 9%. Hầu hết các nhà kinh doanh đều nhận định việc thị trường bảo hiểm nhân thọ hồi phục là xu thế chung của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra thêm nhiều cơ hội hơn cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đồng thời khi đời sống kinh tế của người dân được cải thiện người dân sẽ chú ý hơn đến nhu cầu bảo hiểm như bảo hiểm khi đi du lịch, bảo hiểm cho con đi du học. Tuy vậy, không chỉ có ngồi chờ nhu cầu của thị trường mà trong thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng đã có nhiều nỗ lực để hâm nóng thị trường. Như trong tháng 6/07 vừa qua Prudential Việt Nam đã công bố việc chia thêm khoản bảo tức đặc biệt trị giá 521 tỉ đồng cho những khách hàng là chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đủ điều kiện chia bảo tức đặc biệt. Công ty này cho hay, đây là khoản tiền lãi nhờ vào kết quả đầu tư trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007. Theo ông Nguyễn Đức Tuấn, Tổng Giám đốc Bảo Việt Nhân thọ, cơ sở giúp Bảo Việt Nhân Thọ tăng tốc nhịp độ kinh doanh là nhờ công tác triển khai các sản phẩm mới. 16
Tháng 6/07 vừa qua công ty này đã tung ra sản phẩm “An Nghiệp Thành Công” và dự kiến trong tháng 8/07 tiếp tục ra mắt các sản phẩm liên kết ngân hàng. Bên cạnh đó, Bảo Việt Nhân Thọ còn có những sự kiện, chương trình nhằm gia tăng quyền lợi dành cho khách hàng và đẩy mạnh đầu tư dịch vụ sau bán hàng. Dựa vào sản phẩm để tăng thị phần cũng là “chiêu” của ACE Life Việt Nam, hiện doanh nghiệp này đang độc quyền sản phẩm "kế hoạch tài chính trọn đời”, sản phẩm có mức đóng góp trên 90% vào doanh số của công ty. Song theo ông Lâm Hải Tuấn - Tổng giám đốc ACE Life Việt Nam, uy tín mới là vấn đề quan trọng hàng đầu và con người là một nhân tố để tạo nên uy tín, do vậy chiến lược của công ty là đầu tư vào đội ngũ kinh doanh, chú trọng vào nguồn lực của công ty.
2.2.2. Giai đoạn 2007 – 2009: Cũng chịu ảnh hưởng từ những khó khăn chung của nền kinh tế, bảo hiểm nhân thọ đạt doanh thu 2.514 tỷ đồng, chỉ tăng 7% so với năm 2008. Số lượng hợp đồng khai thác mới trong 3 tháng đầu năm giảm hơn 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng số lượng khai thác mới trong kỳ đạt 114.575 hợp đồng, trong đó dẫn đầu là Prudential khai thác được 44.130 hợp đồng; tiếp theo là Bảo Việt Nhân Thọ 32.060 hợp đồng; AIG Life là 10.092 hợp đồng. Số lượng hợp đồng khôi phục hiệu lực trong kỳ là 21.425 hợp đồng, tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng phải thanh toán số tiền bảo hiểm cho 151.052 hợp đồng hết hiệu lực trong kỳ, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Trên thực tế, cơ cấu các loại hình sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khai thác mới chiếm tỷ trọng cao là sản phẩm hỗn hợp với 63,9%, sản phẩm tử kỳ chiếm 16,9%, sản phẩm liên kết đầu tư (gồm liên kết chung và liên kết đơn vị) chiếm 15,6%. Sản phẩm hỗn hợp do tính bảo vệ đa dạng, cung cấp nhiều lợi ích vẫn là dòng sản phẩm được ưa chuộng nhất trên thị trường Việt Nam. Các sản phẩm đầu tư cũng là dòng sản phẩm được chú ý khi tỷ trọng khai thác tăng lên hơn 15,6% chỉ trong 2 năm kể từ khi được phép triển khai, thể hiện sự thay đổi về nhu cầu đối với hình thức bảo hiểm - đầu tư của khách hàng. Sự
17
kết hợp bán những sản phẩm tử kỳ bằng các kênh bán hàng phi truyền thống (bán hàng từ xa, cung cấp kèm với sản phẩm tín dụng cá nhân qua kênh ngân hàng) đang tạo ra sức bật mới đối với dòng sản phẩm này. Tổng mức trách nhiệm mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải đảm nhận là 273,585 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một trong những cách thức mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang sử dụng để vượt qua những khó khăn hiện nay: tung ra nhiều loại hình sản phẩm có mức độ bảo vệ cao hơn, nhiều lớp bảo vệ và đa dạng hơn với phí rẻ tương đối (nếu tách rời từng lớp bảo vệ độc lập) nhằm nâng cao tính hiệu quả khai thác của hợp đồng bảo hiểm trước tình hình khai thác mới ngày càng khó khăn. Sự chuyển hướng về sản phẩm có lớp bảo vệ cao và đa dạng đang tạo ra một hướng đi tích cực đối với thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế đang tác động tới hoạt động chi tiêu của các hộ gia đình. Suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng lớn tới thu nhập của người lao động Việt Nam từ người làm công ăn lương đến những tiểu thương, tiểu chủ và chủ doanh nghiệp. Điều này làm cho nguồn khách hàng tiềm năng giảm sút. Không ít khách hàng tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về kinh tế không đủ khả năng đóng phí bảo hiểm muốn chấm dứt trước thời hạn. Tuy nhiên, khi lãi suất tiền gửi giảm nhanh, đầu tư chứng khoán và bất động sản mạo hiểm và bấp bênh tạo cho người dân có suy nghĩ đúng hơn về bảo hiểm nhân thọ - một kênh đầu tư an toàn, lâu dài và hiệu quả để đáp ứng nhu cầu tài chính tương lai với những công việc không thể không làm trong cuộc đời. Bên cạnh đó, một số người bị thôi việc, giãn việc đã tìm cơ hội việc làm bằng cách tham gia đại lý bảo hiểm nhân thọ. Những điểm tích cực này, đã góp phần đưa bảo hiểm nhân thọ vượt qua sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tổng doanh thu phí 6 tháng năm 2009 toàn thị trường đạt 5.499 tỉ đồng, tăng 8,69%, trong đó doanh thu phí khai thác mới trong 6 tháng đầu năm đạt 1.203,5 tỉ đồng tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp có thị phần lớn trên thị trường vẫn là những gương mặt quen thuộc như: Prudential (với doanh thu phí đạt 2.182 tỉ đồng,
18
chiếm 39,69% thị phần), Bảo Việt Nhân Thọ (với 1.812 tỉ đồng chiếm 32,95% thị phần), Manulife (với 568,5 tỉ đồng, chiếm 10,34% thị phần). Các chỉ tiêu khác so với cùng kỳ năm 2008 đều tăng như: tổng số lượng hợp đồng khai thác mới (hợp đồng chính) đạt 284.792 hợp đồng, tăng 4%, tổng đại lý đạt 82.432 người, tăng 17%; tổng mức trách nhiệm mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang nắm giữ là 250 nghìn tỉ đồng, tăng 15%. Sở dĩ thị trường bảo hiểm nhân thọ 6 tháng đầu năm giữ được mức tăng trưởng là do những tín hiệu tích cực trong hoạt động kinh tế quý 2/2009. Theo đà đi lên của thị trường chứng khoán trong tháng 4 và tháng 5, các sản phẩm đầu tư (gồm liên kết chung và liên kết đơn vị) là nhóm sản phẩm tăng trưởng cao nhất và cũng là nhóm sản phẩm có số lượng hợp đồng khôi phục nhiều nhất. Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA) và Công ty bảo hiểm nhân thọ ACE là những công ty chiếm thị phần và tăng trưởng cao trong nhóm sản phẩm này.
III.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI:
Đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn trên con đường phát triển, các công ty, tập đoàn bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cần phải định hướng rõ ràng cho mình một lối đi riêng biệt, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển ngành bảo hiểm nhân thọ quốc gia trong tương lai.
1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước:
Muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng đảm bảo tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả cho thị trường bảo hiểm thì một bộ máy quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm là vô cùng cần thiết. Nhà nước cần thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng; luôn theo sát bắt kịp với sự phát triển của thị trường đặc biệt trong lúc nền kinh tế đang trong giai đoạn đổi mới, hội nhập hiện nay.
19
Bên cạnh đó, do đặc điểm khá phức tạp, ngành bảo hiểm luôn cần có một
hệ thống pháp luật hoàn thiện, công bằng, kiểm soát thị trường bảo hiểm một cách ổn định, đảm bảo quyền lợi và cách lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
Cùng với đó, một lực lượng cán bộ có đủ trình độ và năng lực quản lý, trình
độ công nghệ quản lý hiện đại với đầy đủ phẩm chất, tư cách đạo đức làm nòng cốt trong bộ máy nhà nước là một vấn đề luôn cần được đề cao. Lực lượng có hoàn thiện, đoàn kết đến đâu thì sức mạnh quản lý, ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm nói riêng và nền kinh tế nói chung của Nhà nước càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa.
Kiện toàn tổ chức bộ máy của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam nhằm phối hợp
chặt chẽ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tăng cường trao đổi thông tin, thể hiện là cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
2. Về phía các tập đoàn, công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam:
Trong giai đoạn đất nước ta đang thực hiện đổi mới, tiến vào hội nhập kinh
tế thế giới, các tập đoàn, công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cần thực hiện hiện đại hoá doanh nghiệp thông qua việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa và công nghệ quản lý, công nghệ kinh doanh tiên tiến nhất trên thế giới. Tổ chức lại hoạt động, chuẩn hoá các quy trình theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm, nâng cao giá trị cho khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động kinh doanh.
Thực hiện đa dạng hoá kênh phân phối, xem xét phát triển thêm các kênh
bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống - đại lý, đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở phân đoạn thị trường, nguồn lực và những điểm mạnh của doanh nghiệp. Phát huy sức mạnh vốn có, các đối tác chiến lược trong phát triển sản phẩm, cung cấp dịch vụ, thực hiện bán chéo các sản phẩm. Đồng thời với chủ trương đa dạng hóa sản phẩm cần cần xác định
20
khả năng khai thác của các sản phẩm hiện tại, tập trung nghiên cứu phát triển các loại hình sản phẩm mới như Bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư, nhằm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ đi đôi với việc không ngừng nâng cao chất lượng, mở rộng thị phần, tăng doanh thu. Trong đó, Bancassurance là sản phẩm hợp tác ngân hàng - bảo hiểm được bán qua hệ thống ngân hàng. Loại bảo hiểm này đã được ngân hàng lựa chọn để phân phối, đồng nghĩa với việc khách hàng được “bảo hiểm hai lần”. Còn bảo hiểm liên kết đầu tư là việc người tham gia bảo hiểm sẽ là chủ đầu tư của các quỹ vì thế sẽ được hưởng lãi đầu tư thực tế của các quỹ đầu tư mà khách hàng lựa chọn (có nghĩa là nếu quỹ đầu tư có lãi cao khách hàng sẽ được hưởng lãi cao, ngược lại nếu quỹ đầu tư lãi thấp hoặc không có lãi khách hàng sẽ được hưởng lãi thấp hoặc không nhận được gì). Như vậy, những người muốn có cơ hội đầu tư với lãi suất cao sẽ tham gia sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư.
Tập trung nguồn lực xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm đồng bộ, chú
trọng phát triển sản phẩm theo nhóm khách hàng, đặc biệt sản phẩm nhóm cá nhân, xác định hướng tập trung phát triển sản phẩm thế mạnh; kết hợp đẩy mạnh công tác dự báo. Tập
trung nâng cao việc quản lý có hiệu quả các dự án. Theo đó, các tập
đoàn, công ty bảo hiểm cần tăng cường quản lý, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả, từng bước xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường. Tiến hành rà soát chặt chẽ các dự án đầu tư, bảo đảm đầu tư có hiệu quả; điều chỉnh lại danh mục đầu tư của tập đoàn và các đơn vị thành viên; ưu tiên hỗ trợ các dự án trọng điểm sắp hoàn thành, đẩy nhanh tiến độ thi công; chấp hành nghiêm quy định của Thủ tướng Chính phủ đối với việc đầu tư kinh doanh đa ngành của các tập đoàn kinh tế. Lấy
chính sách phát triển con người làm trọng tâm, đặc biệt khuyến khích
nhân tài qua các biện pháp như tiền lương, tiền thưởng, thăng tiến, đánh giá, đào tạo. Các doanh nghiệp trong ngành cũng cần đầu tư mạnh vào việc đào tạo và phát triển đội ngũ đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp hơn, bởi tầm quan trọng của lực lượng này trong việc tư vấn và giải thích cho khách hàng về các sản phẩm bảo hiểm. Các năm tiếp theo được
21
nhận định sẽ tiếp tục tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các tập đoàn, công ty bảo hiểm nhân
thọ Việt nam cần phải luôn đề cao chủ trương hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, cũng như phát huy những tinh hoa và lưu giữ bản sắc văn hoá Việt trong cung cấp dịch vụ và các hoạt động. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, Việt Nam tham gia với tư cách là một quốc gia nhỏ, với nền kinh tế thị trường còn non trẻ. Ngành bảo hiểm nhân thọ dù đã xuất hiện tại nước ta từ khá lâu, nhưng vẫn chưa thể sánh với các quốc gia khác trên thế giới. Do đó, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện ngành bảo hiểm nhân thọ nước ta luôn luôn là mục tiêu phấn đấu, hướng tới một nền kinh tế phát triển của Việt Nam trong tương lai.
KẾT LUẬN Tóm lại qua nghiên cứu ta thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam là một thị trường non trẻ, có rất nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Nhưng bên cạnh đó cũng còn rất nhiều những khó khăn và thách thức, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế vừa qua, mà đòi hỏi những năm tới chúng ta phải xây dựng hoàn thành. Như vậy để thị trường ngày một phát triển, thì nhà nước ta phải không ngừng có những chính sách hỗ trợ, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo ra một thị trường kinh doanh lành mạnh, thu hút các nhà bảo hiểm nhân thọ nước ngoài đầu tư vào thị trường . Bên cạnh đó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đúng những chính sách mà nhà nước đặt ra, cũng như có các chương trình tuyển dụng, đào tạo cán bộ, đại lý làm bảo hiểm nhân thọ.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Định (2006), GIÁO TRÌNH BẢO HIỂM, Nhà xuất bản trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2. Nguyễn Văn Định (2009), GIÁO TRÌNH QUẢN TRỊ KINH DOANH BẢO HIỂM, Nhà xuất bản trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 3. Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng, Hồ Thuỷ Tiên (1999), LÝ THUYẾT BẢO HIỂM, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội 4. Nguyễn Đức Tuấn, “Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam: thực trạng và triển vọng”, Baoviet.com.vn, 15/02/2010 http://baoviet.com.vn/newsdetail.asp? websiteId=1&newsId=1087&catId=199&lang=VN 5. “Thị trường bảo hiểm nhân thọ “ngấn đòn” suy thoái, Xaluan.com, 23/05/2009 23
http://www.xaluan.com/modules.php? name=News&file=article&sid=121783
24