Phản biện là một sinh hoạt thiết yếu trong nghị luận, nhờ đó những kết quả học tập, nghiên cứu được phát triển nhiều mặt và thoát khỏi các quan niệm cực đoan, phiến diện. Lý thuyết Đông Y trình bày tại trang ‘Y học cổ truyền’ được Khí Công Y Đạo phản biện vì bản thân nó thực sự đã có những khuyết điểm : Đông Y hiện nay có lý thuyết thiếu mất truyền thống, không khế hợp với thực hành và không thể tự khẳng định. Lý thuyết Đông Y thiếu hiểu biết về Kinh Lạc, một nền tảng sở trường truyền thống nên có những vấn đề không chứng minh được khi học hành. Lý thuyết Đông Y mơ hồ chẳng những không giải thích thỏa đáng trong Y giới mà còn chứng tỏ không phù hợp với thực tế đã được khoa học đương thời khám phá. (cụ thể là còn có Bộ vị Tấu hiệp với Biểu Lý đủ 3 Bộ vị nơi thân người phù hợp với quan niệm Tam Tài ; Bộ vị này thống lãnh bởi hai Phủ Tạng Tam Tiêu và Tâm Bào Lạc, con đường truyền chuyển Sinh Bệnh lý mà Tây Y gọi là Thần Kinh và Thể Dịch). Hiện nay, Y giới Đông phương tự hào là học hành Y học cổ truyền với lý luận căn bản là ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH. Thoáng nhìn điều này chưa thấy sai trái nhưng những điểm thiếu sót của nó cần luận thêm mới rõ : Giáo trình của Đông Y hiện nay luận về Âm Dương cho thấy khá đầy đủ các mặt như tương đối, hổ căn, bình hành, tiêu trưởng…. nhưng chỉ luận theo hiện tượng dễ thấy, ví dụ :
Âm Dương tương đối : là hiện tượng đối lập của Âm Dương nên cũng như truyền thống, Đông Y hiện nay cũng luận không khác. 1
Âm Dương hổ căn : Đông Y hiện nay luận Âm Dương sở dĩ tồn tại được chứng minh theo hiện tượng là Âm sinh Dương và Dương sinh Âm, trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Đông Y truyền thống luận rõ ràng hơn, hổ căn là song sinh cùng có một gốc tuyệt đối không thể tách rời nên từ gốc đó gọi là Âm Dương thống nhất [hổ căn # thống nhất].
Âm Dương bình hành : Đông Y hiện nay hiểu đơn sơ bình hành là ngang bằng nhau trái với truyền thống là Âm Dương của toàn thể sự vật sở dĩ luôn có thăng bằng mà biến hóa là nhờ vừa có bản chất từ gốc tuyệt đối gọi là Âm Dương thống nhất [bình]; vừa có hiện tượng nơi ngọn tương đối gọi là Âm Dương đối lập [hành].
Âm Dương tiêu trưởng : Đông Y hiện nay nói theo hiện tượng dễ thấy là hễ Âm tiêu thì Dương trưởng, Dương tiêu thì Âm trưởng ; còn Đông Y truyền thống thì đơn giản hơn khi Dương tiêu gọi là Biến, khi Âm trưởng gọi là Hóa, còn nói rõ hơn môi trường của chúng là Khí và gọi với năng lực biến chuyển của Âm Dương là Khí hóa.
Đông Y hiện nay luận Ngũ Hành tương sinh tương khắc theo hình đồ hiện đại gồm: NGŨ HÀNH HIỆN ĐẠI TƯƠNG SINH
TƯƠNG KHẮC
(vòng tròn)
(đoạn thẳng)
Tương sinh theo vòng thứ tự Ngũ Hành trên một vòng tròn, ví dụ Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy… 2
Tương khắc theo đoạn thẳng có mũi tên, ví dụ Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy… Đông Y truyền thống luận Ngũ Hành chú trọng Hành Thổ tại trung ương chẳng những cho thấy luận Ngũ Hành theo Bộ vị [thuộc Đất] mà còn phân hiểu thực tế tại Nhân thân vốn có Kinh Lạc cần được luận theo Khí Hóa [thuộc Trời]. NGŨ HÀNH TRUYỀN THỐNG
Y giới Đông Phương hiện nay tự hào lý thuyết của họ có gốc lâu đời từ 4 sách cổ là Nội, Nạn, Thương, Kim (Nội kinh, Nạn kinh, Thương Hàn Luận, Kim Quỹ Yếu Lược tức Tạp Bệnh Luận) nhưng nếu học tập Nội Kinh mà chỉ lựa chọn Tố Vấn bỏ qua Linh Khu là sách luận đầy đủ về Kinh Lạc của Nhân Thân Khí Hóa thì làm sao gọi là thật học ; đọc Nan Kinh mà chưa thấy ở đó có kho tàng Mạch Chứng ; đọc Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận mà chưa thấu hiểu Bản Nghĩa của nó là một bộ Bệnh Lý học nơi thân người với đầy đủ Lục Kinh, Tam Âm Tam Dương có chức năng Khí Hóa và Bộ vị, Ngũ Tạng rõ ràng thì có phải là hiện nay chỉ dùng cái lý thuyết khoa học tự nhiên vốn có của người xưa để khoe khoang tình trạng của một nền Đông Y đã không còn truyền thống, cần được bổ sung và thay thế hay không ? Lý thuyết tương xứng với Thực hành là định luật suốt xưa nay, thử xét khoa học hiện đại luận vật thể chia 2 phần vật chất và tinh thần là thuận lý Âm Dương với giả thuyết không sinh động, còn nếu luận vật thể có sinh động thì cũng không khác với quan niệm Tam Tài vốn có (theo cổ truyền gọi năng lực sinh hoạt là Khí Hóa, hoặc theo hiện đại gọi là Lượng tử).
3
CHÂN THẬT
LÝ THỰC
LÝ SỰ
THUYẾT HÀNH
Lý thuyết không tương xứng với thực hành là lý thuyết suông, không đủ gọi là lý vì chỉ là lời nói không thực, không đi đôi với việc làm (hành). Tình trạng của Đông Y hiện nay có lý thuyết không thể chứng minh phù hợp với việc thực hành là một thiệt thòi lớn cho Đông Y. Từ đó chúng ta thấy được nhu cầu cấp bách của Đông Y hiện nay là thừa kế tận nguồn lý thuyết truyền thống, chẳng những chỉ có Âm Dương Ngũ Hành mà còn phải phù hợp với quan niệm Tam Tài tức là phải hiểu được vai trò của Kinh Lạc nơi thân người ; ngoài 2 Bộ vị Âm Dương là Biểu Lý còn có 1 Bộ vị Tấu [màn lưới Kinh Lạc] liên kết và điều hòa Âm Dương hiệp thành 1 cơ thể thống nhất, phân thành nhiều cơ quan đối lập; ngoài Ngũ Tạng Lục Phủ với hình chất là thực thể của Ngũ Hành còn có chức năng của chúng liên quan đến giác quan và mọi sinh hoạt gọi là năng lực Khí hóa. Lời nói sai lệch là lý không chân, việc làm không đúng là sự không thật. Lý thuyết Đông Y truyền thống đã thể hiện nơi hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận không hề như thế ! Kinh Lạc là Trung Đạo, con đường giữa, ra vào, lên xuống, liên kết các thể hiện tượng Âm Dương đối lập (2 thể) thành bản chất Âm Dương thống nhất [thái cực, 1 thể]. Đông Y truyền thống có lý thuyết đầy đủ và tương xứng với thực hành, không có thiếu sót như hiện nay : Lý thuyết Đông Y truyền thống có căn bản là Âm Dương, đã được Nội kinh Tố Vấn khẳng định nơi chương 'Âm Dương ứng tượng đại luận', chương này có câu 'Trị bệnh tất cầu kỳ Bản', ý nói Bản là Âm Dương hổ căn (Âm Dương cùng có gốc tuyệt đối). Tự 4
hào về học thuyết Âm Dương mà chỉ có thể luận nó theo hiện tượng mà bỏ sót bản chất, lại còn không nắm được Kinh Lạc là con đường hiệp Âm Dương thành nhất thể bản chất (thống nhất) và phân Âm Dương thành nhị thể hiện tượng (đối lập) thì rõ ràng là lý thuyết không đủ truyền thống. Lý thuyết Đông Y truyền thống có nền tảng là triết học Phương Đông dựa trên cặp Âm Dương Thời Vị, được Nội kinh Tố Vấn mô tả nơi chương 'Ngũ Vận Lục Khí' , chương này cho thấy Ngũ Vận là do Ngũ Hành của Đất giao với Lục Khí của Trời, Lục Khí là do Khí của Trời giao với Hành của Đất bởi năng lực tương giao gọi là Khí giao. Tự hào về Ngũ Hành mà bỏ sót Bộ vị Thổ làm chủ tại trung ương và chức năng Khí hóa của nó nhờ vào dương tính của Lục Khí thì sao gọi là đầy đủ ? Cốt lỏi của Lý thuyết Đông Y truyền thống chính là Kinh Lạc. Đức Trọng Cảnh làm 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận là một bộ Bệnh Lý học mô tả rất rõ Nhân Thân Khí Hóa có đủ Lục Kinh, Lục Khí, Lục Phủ, Lục Tạng ; chẳng những là thừa kế Nội Kinh có hệ thống mà còn cho thấy vấn đề đã vận dụng cơ cấu Dịch Lý [Hệ Dịch Trung Thiên] phù hợp thực tế gồm 3 mối quan hệ Tam Âm Tam Dương, Bộ vị của Nhân Thân Khí Hóa và sự sống động của thân người với 4 Bộ Sinh Lý Bệnh Lý và 16 Tạng Tượng : ĐỒ HÌNH 3 MỐI QUAN HỆ TAM ÂM TAM DƯƠNG 1. KHÍ HÓA
Thái Dương
THÁI DƯƠNG
Hàn
HÀN
Thiếu Âm TRUNG KIẾN
Dương Minh THÁI ÂM
KHUYẾT ÂM
THẤP
PHONG
Táo
Thái Âm TRUNG KIẾN
Thiếu Dương TRUNG
KIẾN
Hỏa
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
HỎA
TÁO
NHIỆT THIẾU ÂM
5
Nhiệt
Thấp Khuyết Âm
TRUNG KIẾN
Phong
2. BỘ VỊ THÁI DƯƠNG
Thái Dương
HÀN
Thái Âm
Hàn
TRUNG HIỆP
Dương Minh KHUYẾT ÂM
THIẾU ÂM
PHONG TRUNG
Khuyết Âm
Cơ Nhục
NHIỆT
TRUNG HIỆP
Thiếu Dương
HIỆP
Tấu
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
TẤU
CƠ NHỤC
Bì Phu
Phong Thiếu Âm
TRUNG HIỆP
Nhiệt
BÌ PHU .
THÁI ÂM
3. TRUYỀN KINH THÁI DƯƠNG
THIẾU ÂM
THÁI ÂM
TRUNG
CHUYỂN
THIẾU DƯƠNG
DƯƠNG MINH
KHUYẾT ÂM
.
6
Thái Dương
TRUNG CHUYỂN
Khuyết Âm
Dương Minh TRUNG CHUYỂN
Thiếu Âm
Thiếu Dương TRUNG CHUYỂN
Thái Âm
SƠ ĐỒ
NHÂN THÂN KHÍ HÓA BIỂU
LÝ
BỘ VỊ VÀ KINH LẠC CHỦ BỘ VỊ BÌ PHU
TÚC THÁI ÂM TỲ KINH
THỦ THIẾU DƯƠNG TAM TIÊU KINH
THỦ KHUYẾT ÂM T. BÀO LẠC KINH
TÂM NÃO NHIỆT
TÚC DƯƠNG MINH VỴ KINH
TÂM BÀO LẠC
BÁN
CÁCH VỴ
BIỂU
-
TỲ
HOÀNH TIỂU TRG - THẬN
KHÍ HÓA VÀ KINH LẠC CHỦ KHÍ HÓA HÀN
PHONG
NHIỆT ĐỚI
TÚC TÚC THỦ THIẾU KHUYẾT THÁI DƯƠNG ÂM DƯƠNG ĐỞM CAN TIỂU KINH KINH TRƯỜNG KINH
THỦ THIẾU ÂM TÂM KINH
TAM TIÊU
BÀNG QUANG
ĐẠI TRƯỜNG
.
7
HÀN
TÚC THIẾU ÂM THẬN KINH
HẠ
TÚC THÁI DƯƠNG BÀNG QUANG KINH
TUNG
LÝ
ĐỞM – CAN
PHONG
BÁN
TRUNG
TẤU
KHÍ HÓA
PHẾ
THƯỢNG
THỦ THÁI ÂM PHẾ KINH
TẠNG PHỦ
TẤU BIỂU
TẤU
THỦ DƯƠNG MINH ĐẠI TRƯỜNG KINH
CƠ NHỤC
BỘ VỊ
TỨ BỘ SINH LÝ BỆNH LÝ ĐỐC
ÔN
VỴ
PHONG PHONG THẬN
THƯƠNG HÀN
CAN
HÀN THẤP
PHẾ
TỲ
THẤP THÁI ÂM – THẤP
NHÂM
.
8
THẤP
TIÊU ÂM
XUNG
TRÚNG PHONG
THIẾU ÂM –NHIỆT
TÂM
ĐỞM
TAM TIÊU
TIỂU TRƯỜNG BÀNG QUANG HÀN THÁI DƯƠNG- HÀN
ĐÁI
BẢN HÀN
ÔN PHONG
ĐẠI TRƯỜNG
BÀO LẠC
BỆNH
ÔN
BẢN NHIỆT
DƯƠNG MINH -TÁO
TIÊU DƯƠNG
1. Kinh Dương Nhiệt : Mạch Đốc : Kinh Dương Nhiệt Khí Dương Nhiệt [thuần Dương Nhiệt]. Phủ Đởm : Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Hàn. Phủ Vỵ : Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Nhiệt. Phủ Đại Trường : Kinh Dương Nhiệt Khí Dương Hàn. 2. Kinh Dương Hàn : Mạch Đái : Kinh Dương Hàn Khí Dương Hàn [thuần Dương Hàn]. Phủ Tam Tiêu : Kinh Dương Hàn Khí Âm Nhiệt. Phủ Bàng Quang : Kinh Dương Hàn Khí Âm Hàn. Phủ Tiểu Trường : Kinh Dương Hàn Khí Dương Nhiệt. 3. Kinh Âm Nhiệt : Mạch Xung : Kinh Âm Nhiệt Khí Âm Nhiệt [thuần Âm Nhiệt]. Tạng Tâm Bào Lạc : Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Hàn. Tạng Tâm : Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Nhiệt. Tạng Thận : Kinh Âm Nhiệt Khí Âm Hàn. 4. Kinh Âm Hàn : Mạch Nhâm : Kinh Âm Hàn Khí Âm Hàn [thuần Âm Hàn]. Tạng Can : Kinh Âm Hàn Khí Dương Nhiệt. Tạng Phế : Kinh Âm Hàn Khí Dương Hàn. Tạng Tỳ : Kinh Âm Hàn Khí Âm Nhiệt.
.
9
TỨ BỘ SINH LÝ: Tứ Kỳ Kinh : Đốc – Đái – Xung – Nhâm. Tứ Kinh Trung Hiện : Đởm – Can – Tam Tiêu – Tâm Bào Lạc. Tứ Kinh Tiên Thiên : Bàng Quang – Tâm – Tiểu Trường – Thận. Tứ Kinh Hậu Thiên : Phế - Vỵ - Tỳ - Đại Trường. TỨ BỘ BỆNH LÝ : Đơn bệnh tại Tứ Kinh : Ôn – Thấp – Hàn – Phong. Phối bệnh bởi Tứ Khí : Ôn Bệnh – Phong Ôn – Hàn Thấp – Phong Thấp. -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thử xét theo Y Dịch :
Dùng tượng Bát Quái (quẻ 3 hào) để nói Phủ Tiểu Trường và Tạng Tâm đồng Hành Hỏa vì chúng cùng có tượng Ly ; không rõ bằng dùng Tạng Tượng (quẻ 4 hào) nói Tiểu Trường là Kinh Dương Hàn – Khí Dương Nhiệt, Tâm là Kinh Âm Nhiệt – Khí Dương Nhiệt, Phủ Tạng có Kinh khác nhau vì chúng có ngọn hiện tượng là Âm Dương đối lập nhưng Tiểu Trường Tiêu Dương và Tâm Bản Nhiệt lại cùng có Khí Dương Nhiệt vì chúng đồng có gốc bản chất là Âm Dương thống nhất do đó đồng thuộc Hành Hỏa. Phân tích thêm lại thấy tượng quẻ 4 hào của Tiểu Trường có quẻ Hổ là Thiên Phong Cấu Hỏa Gia Nhân
, Tiểu Trường có tượng Càn
, tượng Tâm có quẻ Hổ là Phong , Tâm có tượng Ly
là Tiên
Hậu Nhiệt Hỏa của Ly. Tiểu Trường và Tâm đồng có tượng Tốn là Phong xác minh Thời Thủy Hỏa giao tế [Thủy được Hỏa hóa Khí thành Phong].
Dùng tượng Bát Quái (quẻ 3 hào) để nói Phủ Bàng Quang và Tạng Thận đồng hành Thủy vì chúng cùng có tượng Khảm ; không rõ bằng dùng Tạng Tượng (quẻ 4 hào) nói Bàng Quang là Kinh Dương Hàn – Khí Âm Hàn, Thận là Kinh Âm Nhiệt – Khí Âm Hàn, Phủ Tạng có Kinh khác nhau vì chúng có ngọn hiện tượng là Âm Dương đối lập nhưng Bàng Quang Bản Hàn và Thận Tiêu Âm lại cùng có 10
Khí Âm Hàn vì chúng đồng có gốc bản chất là Âm Dương thống nhất do đó đồng thuộc Hành Thủy. Phân tích thêm lại thấy tượng quẻ 4 hào của Bàng Quang có quẻ Hổ là Lôi Thủy Giải Quang có tượng Khảm
, tượng Thận có quẻ Hổ là Địa Lôi Phục
, Bàng
, Thận có tượng Khôn
là Tiên Hậu Hàn Thủy của
Khảm. Bàng Quang và Thận đồng có tượng Chấn Thủy giao tế [Hỏa nhờ Thủy biến điện thành Lôi].
là Lôi xác minh Thời Hỏa
Tiên sanh Việt Nhân Lưu Thủy đề xướng chấn hưng Đông Y bằng cách học tập Bản Nghĩa hai sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận có nhấn mạnh ‘học tập Đông Y phải học Kinh Lạc ’ là một ưu tư xác đáng giúp Y giới xứng danh kết hợp Đông Tây Y thành một ngành Y học toàn cầu. 07/2013 - Huỳnh Hiếu Hữu
. 11
Hành Y mà không rõ tổ chức Khí Hóa nơi thân người thì không thể chẩn trị quyết định. Cụ Việt Nhân Lưu Thủy thuật Bản Nghĩa 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận cho thấy Đức Trọng Cảnh đã thừa kế tuyệt vời Dịch học, áp dụng Thời Loại Dịch Trung Thiên với 4 Bộ Kinh Khí và 16 Tạng Tượng như sau : A. TỨ BỘ KỲ KINH : ĐỐC
ĐÁI
XUNG
4 KỲ KINH
CHỦ LỰC
THỰC CHỨNG
HƯ CHỨNG
ĐỐC
DƯƠNG
NHIỆT THẬM
NGOẠI HÀN
NHÂM
ÂM
HÀN ĐA
NỘI NHIỆT
ĐÁI
GIÁNG
HẠ TRỌNG
ĐOẢN KHÍ
XUNG
THĂNG
THƯỢNG XUNG
THIỂU HUYẾT
NHÂM
B. 12 CHÍNH KINH [cũng là 12 Tạng Phủ]. Tứ Kinh Tiên Thiên
Tứ Kinh Trung Thiên
Tứ Kinh Hậu Thiên
6 Thủ Kinh
Tâm
Thận
Tiểu Trường
Bàng Quang
Tâm Bào
Tam Tiêu
Can
Đởm
6 Túc Kinh 12
Phế
ĐạiTrường
Tỳ
Vỵ
a) Tứ Kinh Tiên Thiên :
Tâm-Tiểu Trường (hàng ngang trên) đồng là Thủ Kinh, đồng Hành Hỏa, 1 cặp Kinh Âm Dương – Tạng Phủ - Biểu Lý, đồng Khí Dương Nhiệt vì Tâm thuộc Bản Nhiệt, Tiểu Trường thuộc Tiêu Dương. Thiếu Âm Tâm-----------Thủ Kinh
đồng Hành Hỏa – chủ Vinh Thái Dương Tiểu Trường
Thận-Bàng Quang (hàng ngang dưới) đồng là Túc Kinh, đồng Hành Thủy,1 cặp Kinh Âm Dương – Tạng Phủ- Biểu Lý, đồng Khí Âm Hàn do Bàng Quang thuộc Bản Hàn, Thận thuộc Tiêu Âm. Thiếu Âm Thận ---------Túc Kinh
đồng Hành Thủy – chủ Vệ Thái Dương Bàng Quang
Tâm-Thận (hàng dọc trái) thống nhất là Kinh Thiếu Âm [Âm Nhiệt] nhưng phân Thủ Túc có 2 Khí đối lập Dương Nhiệt – Âm Hàn. Thủ - Tâm Hỏa---Thiếu Âm
đồng Hệ Tiên Thiên Túc – Thận Thủy
Tiểu Trường-Bàng Quang (hàng dọc phải) thống nhất là Kinh Thái Dương [Dương Hàn] nhưng phân Thủ Túc có 2 Khí đối lập Dương Nhiệt - Âm Hàn. Thủ - Tiểu Trường Hỏa Thái Dương
đồng Hệ Tiên Thiên Túc – Bàng Quang Thủy
o Tâm-Bàng Quang liên kết bởi 1 đường chéo của hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Tạng Phủ đối lập Bản Hàn-Bản Nhiệt. o Thận-Tiểu Trường liên kết bởi 1 đường chéo hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Tạng Phủ đối lập Tiêu Âm-Tiêu Dương. . 13
b) Tứ Kinh Trung Thiên:
Tâm Bào-Tam Tiêu (hàng ngang trên) đồng là Thủ Kinh, nhưng lại phân 2 Kinh Khí khác nhau (Kinh Âm Nhiệt-Khí Dương Hàn đối lập với Kinh Dương Hàn Khí Âm Nhiệt), chúng là cặp Tạng Phủ Âm Dương chủ Bộ Vị Tấu có nhiệm vụ điều hành Thủy Hỏa-Khí Huyết toàn thân. Khuyết Âm Tâm Bào Hỏa----Thủ Kinh
đối lập Thủy Hỏa Thiếu Dương Tam Tiêu Thủy
Can-Đởm (hàng ngang dưới) đồng là Túc Kinh, nhưng lại phân 2 Kinh Khí khác nhau (Kinh Âm Hàn-Khí Dương Nhiệt đối lập Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Hàn), chúng là cặp Tạng Phủ Âm Dương thuộc Bộ Vị Tấu có nhiệm vụ điều hành Thủy Hỏa -Khí Huyết toàn thân. Khuyết Âm Can – Huyết Túc Kinh
đồng Hành Mộc Thiếu Dương Đởm - Khí
Tâm Bào-Can (hàng dọc trái) đồng Kinh Khuyết Âm, 1 cặp Kinh Âm Trung Thiên có Kinh Khí đều là Hàn Nhiệt đối lập (Kinh Âm Nhiệt Khí Dương Hàn đối lập Kinh Âm Hàn Khí Dương Nhiệt). Thủ Tâm Bào – Hỏa Khuyết Âm
đồng Hệ Trung Thiên Túc Can – Huyết---
Tam Tiêu-Đởm (hàng dọc phải) đồng Kinh Thiếu Dương, 1 cặp Kinh Dương Trung Thiên có Kinh Khí đều là Hàn Nhiệt đối lập (Kinh Dương Hàn Khí Âm Nhiệt đối lập Kinh Dương Nhiệt Khí Âm Hàn). Thủ Tam Tiêu – Thủy Thiếu Dương
đồng Hệ Trung Thiên Túc Đởm – Khí-------
. 14
o Tâm Bào-Đởm liên kết bởi 1 đường chéo của hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Kinh điều hành Hỏa Khí. o Can-Tam Tiêu liên kết bởi 1 đường chéo của hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Kinh điều hành Thủy Huyết. c) Tứ Kinh Hậu Thiên:
Phế- Đại Trường (hàng ngang trên) đồng là Thủ Kinh, đồng Hành Táo Kim, 1 cặp Kinh Âm Dương-Tạng Phủ-Biểu Lý-Tiêu Bản đồng Khí Dương Hàn. Thái Âm Phế---------------Thủ Kinh
đồng Hành Táo Kim -nuôi dưỡng Khí Dương Minh Đại Trường
Tỳ-Vỵ (hàng ngang dưới) đồng là Túc Kinh, đồng Hành Thấp Thổ, 1 cặp Kinh Âm Dương Tạng Phủ-Biểu Lý-Tiêu Bản đồng Khí Âm Nhiệt. Thái Âm Tỳ------Túc Kinh
đồng Hành Thấp Thổ -sinh dưỡng Huyết Dương Minh Vỵ
Phế-Tỳ (hàng dọc trái) đồng Kinh Thái Âm [Âm Hàn] nhưng có Khí đối lập [Dương Hàn đối lập Âm Nhiệt]. Thủ - Phế Táo Kim-dưỡng Khí--Thái Âm
đồng Hệ Hậu Thiên Túc – Tỳ Thấp Thổ-thống Huyết
Đại Trường-Vỵ (hàng dọc phải) đồng Kinh Dương Minh [Dương Nhiệt] nhưng có Khí đối lập [Dương Hàn đối lập Âm Nhiệt]. Thủ - Đại Trường Táo Kim Dương Minh
đồng Hệ Hậu Thiên Túc – Vỵ Thấp Thổ---------
15
o Phế-Vỵ liên kết bởi 1 đường chéo của hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Âm Dương-Tạng Phủ, Bản Hàn-Bản Nhiệt đối lập. o Tỳ-Đại Trường liên kết bởi 1 đường chéo của hình vuông tứ bộ, là 1 cặp Âm Dương-Tạng Phủ, Tiêu Âm-Tiêu Dương đối lập. C. CHỨC NĂNG CỦA 16 TẠNG TƯỢNG & 4 BỘ KINH KHÍ: 4 Kinh Tiên Thiên có chức năng sinh tồn, 4 Kinh Hậu Thiên có chức năng nuôi dưỡng, 4 Kinh Trung Thiên có chức năng điều hành ; 12 Chính Kinh gắn liền với 12 Phủ Tạng chỉ huy mọi cơ năng dưới sự lãnh đạo của 4 Bộ Kỳ Kinh tạo thành một guồng máy sinh sống nơi thân người ; đó là chức năng tổng quát của 16 Tạng Tượng & 4 bộ Kinh Khí. Người biết thừa kế và phát huy quan niệm truyền thống này ắt sẽ đạt được thành quả rực rỡ trong Y giới tương lai. D. NHẬN ĐỊNH : 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận (Kim quỹ yếu lược) đã được Y giới Đông Phương xếp vào Tứ bộ cổ thư[Nội-Nạn-Thương-Kim], lại nữa Tạng Tượng cũng đã được Nội Kinh nhắc đến ; cớ sao ngày nay tránh né đọc sách Thương Hàn và xao lãng học Kinh Lạc đến nỗi không thừa kế được truyền thống này và phát huy nó để xứng danh kết hợp với Tây Y, xây dựng 1 nền Y học toàn cầu ? Trước thực tế đó nhà Đạo học cần đón nhận Khoa học, đối lại nhà Khoa học nên tiếp thu Đạo học để chung sức vun đắp một ngành Y được bổ sung và có lợi ích hơn. Ngày 30/10 -31/10/2013 Huỳnh Hiếu Hữu
. 16
Kính tặng các ông : Trần văn Tích Bs, tác giả ‘Đông Y Cybernetic’ .
Đỗ Đức Ngọc, chủ trương Khí Công Y Đạo Việt Nam.
Bùi Quốc Châu, sáng lập môn Diện Chẩn Điều Khiển Liệu Pháp.
Nền tảng Đạo học Khí Hóa của Đông Y truyền thống là Kinh Lạc, vấn đề này đã được khẳng định rất sớm tại sách ‘Nội Kinh Linh Khu’ [sách này đã được Giáo sư Huỳnh Minh Đức Việt dịch và NXB Đồng Nai ấn hành trong thập niên 1980]. Đây là vấn đề rất lớn e rằng một cá nhân tài hèn trí mọn như tôi không đủ sức đóng góp, nhưng nhìn quanh bốn bên Y giới vắng ngắt, tôi đành thuận ý người xưa ‘không chó bắt mèo thay thế… ’ , miễn cưỡng góp vài thiển ý. Tam Tài (Trời Người Đất) trong vũ trụ nhân sinh là nhận định tự nhiên của loài người truyền tải suốt xưa nay, khắp Đông Tây. Sở trường của Đông Y là Khí hóa, sở trường của Tây Y là Thực nghiệm ; cả hai cùng chú trọng đến năng lực sinh hoạt nơi thân người mà nền tảng đó Đông Y gọi là Kinh Lạc, Tây Y gọi là Thần Kinh ; Đông Tây đều dùng chữ Kinh [thuộc Người], phải chăng là chỉ tận gốc bản chất hổ căn của Âm Dương thống nhất ; Tây Y dùng chữ Thần [thuộc Trời] trước chữ Kinh, Đông Y dùng chữ Lạc [thuộc Đất] sau chữ Kinh, phải chăng là cho thấy ngọn hiện tượng khác nhau của Âm Dương đối lập. Tôi học Đông Y từ những năm đầu của thập niên 1960, khi học với thầy Trác Lâm (Nguyễn Nho Lâm) được biết Bác sĩ Trần văn Tích thỉnh thoảng cũng có đến tham khảo về Đông Y , lúc đó tôi đã tham gia Nam Dương Học Phái và tuy không có duyên tiếp xúc với Bác sĩ Tích nhưng tôi rất hâm mộ ông khi đọc tác phẩm ‘Tư Tưởng Lão Trang trong Y Thuật Đông Phương’. Đầu thập niên 1980 khi cải tạo về tôi lại hân hạnh đọc được luận ‘Đông Y Cybernetic’ ; song song đó tôi tích cực ủng hộ ông Bùi Quốc Châu với sáng kiến Diện Châm và kết hợp với lòng hâm mộ ‘Điều Khiển học’, chúng tôi bước đầu hình thành môn Diện Chẩn - Điều Khiển Liệu Pháp. Tôi rất mong được trao đổi với Bác sĩ Tích, tiếc rằng chưa gặp thì ông đã định cư tại Tây Đức. 17
Khí Công Y Đạo Việt Nam chủ xướng xây dựng ngành Y học bổ sung và song song đó Diện Chẩn Bùi Quốc Châu cũng tự gọi là Việt Y Đạo và phương pháp Y học bổ sung. Giữa lúc Đông và Tây Y chưa kết hợp, phải chăng nền Y học hiện đại cần được bổ sung về kiến thức tương quan giữa Kinh Lạc cổ truyền và Hệ Thần Kinh hiện đại. Có người ca tụng Diện Chẩn – Điều Khiển Liệu Pháp không phải là Tây Y, cũng không phải là Đông Y ; tôi thiết nghĩ đó là tư tưởng cực đoan vì Khí Công và Diện Chẩn đều có nền tảng là Kinh Lạc thì làm sao các môn này tách rời các quan niệm đã có của Đông - Tây ? Hiện nay lý thuyết Đông Y còn thiếu mất truyền thống Khí hóa và Tây Y mặc dù giữ vai trò lãnh đạo ngành Y tế toàn cầu nhưng việc thực nghiệm của họ kém hiệu quả vì không chịu kết hợp và thừa kế phát huy Đông Y hợp lý. Quan niệm toàn cầu hiện nay rất phù hợp với thuyết Tam Tài và nhận định về Tam Cực với học thuyết Âm Dương gồm 2 cực Âm Dương Đối lập và 1 cực Âm Dương Thống nhất. Y Đạo không thể vượt ngoài Tự nhiên (Tam Tài, Tam Cực) cho nên đề cao Âm Dương mà cố chấp sự vật chỉ có hiện tượng là Âm Dương Đối lập trái lại bỏ quên bản chất của nó là Âm Dương Thống nhất thì rất thiếu sót. Kinh Dịch mô tả hướng diễn dịch là ‘Nhất Bản tán vạn thù’ và hướng qui nạp là ‘Vạn Thù qui nhất bản’; chỉ một đường mà có 2 hướng ra vào (Dương hướng Tâm, Âm ly Tâm), con đường này gọi là Đạo nối liền giữa hai cực Âm Dương là Nhất Bản và Vạn Thù, gọi đầy đủ hơn là TRUNG ĐẠO. Nho giáo dựa theo đó gọi Nhất Bản [tại Tâm] là Trung, gọi Vạn Thù [nơi vòng tròn] là Dung. Phật giáo cũng không khác gọi Vạn Pháp là Viên, gọi Nhất Tâm là Trung. Khí Công Y Đạo và Diện Chẩn - Điều Khiển Liệu Pháp đồng chủ trương là ‘ Y học bổ sung’ chứng tỏ Khí [năng lực chuyển hóa] được KCYĐ dùng làm cơ sở luyện tập ; các thuyết Phản chiếu, Đồng ứng của DCĐKLP cũng không ra ngoài Tây Y, Đông Y truyền thống. Tam Tài là Trời Người Đất ứng với 3 vật chất trong thân là Thần Khí Tinh, 3 thể của Kinh Lạc là Khí – Kinh - Lạc. Cái hộp đen mà Điều Khiển học nói các tín hiệu chẩn đoán và điều trị bệnh ra vào có phải chăng là mạng lưới giao lưu của thể Khí trong vũ trụ và con người mà người xưa gọi chung nó là Hệ Kinh Lạc.
Cơ sở chuyển hóa của Khí công giúp cho người bệnh trở thành người lành nhờ công phu luyện tập tất yếu là Hệ Kinh Lạc. 18
Con đường truyền chuyển từ ngoài vào trong và ngược lại từ trong ra ngoài mà DC- ĐKLP gọi là Đồng Ứng và Phản Chiếu cũng không ra ngoài Kinh Lạc và Thần Kinh do Đông Tây Y đã chủ trương. Như vậy, mọi chuyển hóa trong vũ trụ cũng như trong mỗi người đều bằng năng lực gọi là Khí và con đường truyền chuyển nó gọi là Kinh [theo chức năng gọi là KINH KHÍ, theo thể chất gọi là KINH LẠC ]. Kinh Lạc là đường tương quan, phân hiệp, thu phát mọi năng lực Âm Dương tạo ra sinh hoạt nơi thân người. Sở dĩ Y học toàn cầu hiện nay cần được bổ sung bởi vì đã trải qua việc thiếu mất truyền thống và sự kết hợp thừa kế chưa hợp lý, căn bản đó chính là KINH LẠC, màn lưới Khí hóa phân Âm Dương ra Đối lập và hiệp Âm Dương vào Thống nhất của vũ trụ vạn vật cho thấy gốc bản chất và ngọn hiện tượng của chúng là một thể không rời. 07/2013 - Huỳnh Hiếu Hữu.
.
19
Y-HỌC TỰ NHIÊN Sau khi học tập Bản Nghĩa các sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận tôi mới thấy Đông Y vốn có truyền thống đúng như Đạo Đức Kinh, chương 25 có nói ‘Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự Nhiên ‘ . Đức Trọng Cảnh thuật bộ Bệnh Lý học kể trên với 4 Bộ Sinh Lý Bệnh Lý và 16 Tạng Tượng là pháp Đạo Vuông Tròn ; Lục Khí Lục Kinh, Lục Phủ Lục Tạng, Tam Âm Tam Dương là pháp Đạo Tam Cực : ĐẠO TAM CỰC
ĐẠO VUÔNG TRÒN
+ NHIỆT
DƯƠNG
HÀN
=
Y HỌC-
4 Bộ Sinh lý Bệnh lý và 16 Tạng Tượng
4 Khí 4 Kinh : Dương Nhiệt – Dương Hàn – Âm Nhiệt – Âm Hàn. 16 Tạng Tượng : 4 Kỳ Kinh : Đốc – Đái – Xung – Nhâm. 4 Kinh Tạng Phủ Trung Hiện : Đởm – Can – Tam Tiêu – Tâm Bào. 4 Kinh Tạng Phủ Tiên Thiên:Tâm- Bàng Quang -Thận- Tiểu Trường. 4 Kinh Tạng Phủ Hậu Thiên : Phế - Vỵ - Tỳ - Đại Trường.
20
ÂM
TÂM THỨC & NHÂN QUẢ
TÂM Ý
NHÂN DUYÊN
THỨC QUẢ
NHO HỌC -
Ngũ bộ :
Học
Tam Cực :
Dương
PHẬT HỌC - Ngũ Uẩn :
Vấn Tư Biện
Hành
Trung
Âm
Sắc
Thọ Tưởng Hành
Thức
Nhân Quả :
Nhân
Duyên
Quả
Tam Tâm :
Tâm
Ý
Thức
Quá khứ
Hiện tại
Vị lai
Y học phương Đông cũng như hầu hết các tôn giáo lớn đều thuận tự nhiên để thiết lập và phát triển. Ngày nay nhiều nhà khoa học đã thấy được tác hại (tác dụng phụ) của thuốc hóa chất và những bất cập của thực nghiệm do không thể nhận định toàn diện nên đã đề xướng xu hướng thuận tự nhiên như xưa gọi là “Y học tự nhiên”, như vậy vấn đề kết luận Đông Y là khoa học tự nhiên rất là xứng đáng. 05/2013 - 10/2013 . Huỳnh Hiếu Hữu
.
21
TIẾP NỐI ĐỀ XƯỚNG CỦA CỤ VIỆT NHÂN LƯU THỦY
Đức Trọng Cảnh thuật 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận là một Bộ Âm Dương Bệnh Lý học, đến khi Cụ Việt Nhân Lưu Thủy làm Bản Nghĩa 2 sách này đã gần 2 ngàn năm chưa thấy có người thấu hiểu. Chúng tôi tiếp nối học tập 2 sách trên với Bản Nghĩa của Cụ Lưu Thủy và đúc kết thành luận ‘Đông Y với truyền thống Đạo học Khí Hóa’. So sánh Đông Y truyền thống với Đông Y hiện nay có nhiều khác biệt cho thấy đề xướng chấn hưng của Cụ là chính đáng : Đông Y hiện nay đề cao lý thuyết với luận cơ bản là ‘Âm Dương Ngũ Hành’ nhưng đã có giải thích giới hạn theo tương đối và kết quả thực hành không thuyết phục đối với Y học hiện đại. Đông Y truyền thống có lý thuyết phù hợp với khoa học tự nhiên được diễn tả từ Kinh Dịch, nổi bật là Hệ Kinh Lạc cơ sở Khí Hóa nơi thân người. Âm Dương được Đông Y hiện nay huấn luyện bằng giáo trình tuy đầy đủ 4 đặc tính cơ bản là đối lập, hổ căn, bình hành, tiêu trưởng nhưng hầu hết giải thích theo hiện tượng tương đối. Y như vậy, Ngũ Hành cũng được chứng minh theo tương quan vòng tròn là hễ có cái sinh ta thì có cái khắc ta, ví dụ ta là hành Mộc thì sinh ta là hành Thủy, khắc ta là hành Kim ; bỏ qua tánh đặc biệt của Ngũ Hành là thuộc Âm chất chủ Bộ vị, ví dụ hành Thổ tại trung ương và tương đối với Ngũ Hành chủ Vị là Lục Khí chủ Thời. Đông Y truyền thống tuân thủ đúng với Nội Kinh gồm đủ Linh Khu và Tố Vấn ; Âm Dương của sự vật chẳng những được luận theo hiện tượng đối lập, mà còn theo bản chất thống nhất [Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận] ; ngoài ra luận rõ hơn là Âm Dương sở dĩ biến hóa, phân, hiệp là nhờ Kinh Lạc gắn liền với Phủ Tạng. Cụ Lưu Thủy khẳng định học hành Đông Y thì phải học Kinh Lạc. Chẳng những nó giúp chúng ta thấy rõ nơi thân người có 3 Bộ vị Khí Hóa là Biểu [Dương], Lý [Âm] và Tấu [hệ phân hiệp Âm Dương].
22
Đông Y hiện nay thờ Tổ là Hải Thượng Lãn Ông nhưng người lại tuyên bố “Lĩnh Nam không có Thương Hàn”, do đó giới Đông Y không học Thương Hàn Luận là sách Bệnh Lý học có liên hệ mật thiết đến sinh mạng. Kinh Lạc là nền tảng của Khí Hóa, sự sống nơi thân người, gắn liền với Tạng Phủ cho nên xem trọng Nội Tạng mà không nắm được Kinh Lạc thì tất nhiên có thiếu sót lớn. Đông Y hiện nay không tương xứng kết hợp với Tây Y để xây dựng một nền Y học toàn cầu ; không được thừa kế tận nguồn [Y giới chỉ chú trọng phân tích cây thuốc trong Dược khoa, và công năng của từng huyệt trong điều trị không dùng thuốc] ; cũng không được phát huy thành hiện đại [chỉ phát triển có hình thức về lượng mà không về phẩm] ; bỏ qua đặc tính độc đáo của truyền thống là Lý Pháp đã được trình bày đầy đủ nơi 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận. Chấn hưng Đông Y có yêu cầu thiết yếu nhưng đã vướng phải những trở ngại đáng kể, cho thấy công việc này cần lâu dài và phải kiên trì :
Trước hết là trình độ của người muốn tiếp nối đề xướng của Cụ Lưu Thủy, phải học tập Bản Nghĩa và hiểu 2 sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Đức Trọng Cảnh, từ đó thấy được vai trò của Kinh Lạc, Tứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt và chức năng của Phủ Tạng nơi thân người. Nếu thiếu trình độ mà còn dễ nản lòng thì sẽ bỏ cuộc ngã theo Tây Y.
Tiếp đến là phải vượt được trở ngại do chống đối của giới Đông Y hiện nay với chủ trương bảo thủ lý luận cơ bản đã có và tuân thủ lời của vị Tổ mà họ đã tôn thờ.
Sau nữa là phải vượt được trở ngại do chống đối của giới Y học hiện đại với tham vọng lãnh đạo ngành Y toàn cầu, thừa kế không tận gốc và phát triển Đông Y không đúng mức, khiến nó không còn tương xứng kết hợp với Tây Y.
Chấn hưng Đông Y, tiếp nối đề xướng của Cụ Việt Nhân Lưu Thủy là một cách mạng lớn trong Y giới tất nhiên gặp phải nhiều chống đối và cần nhiều người có trình độ cổ truyền cũng như khoa học ; trách nhiệm không của riêng ai, mà là của nhiều thế hệ nối tiếp liên tục mới có thể khắc phục khó khăn dẫn đến thành công. Tôi đang góp công sức nhỏ bé của cá nhân và mong đợi thế hệ tương lai. Ngày 22/06/2013 - Huỳnh Hiếu Hữu 23