Nguồn gốc hình thành 14 chính tinh trong tử vi Tháng Tám 8, 2012 bởi Dịch học Từ trước tới nay có nhiều cách lý giải cách thức hình thành các chính tinh, lập ra lá số tử vi, nhưng đều có khuyết điểm là không thể giải thích hoặc giải thích không thỏa đáng các chính tinh từ đâu mà ra, tại sao lại có tính lý như vậy. Tại sao Thiên Cơ lại cơ hội linh hoạt, tại sao Thái Âm chủ phụ nữ và điền sản, tại sao Thiên Đồng chủ phúc, tại sao Cự Môn lại âm ám đa thị phi… Từ việc không rõ nguồn gốc hình thành mà có khi người ta căn cứ trên kinh nghiệm thực tế để tìm tính chất của các sao rồi suy luận ngược lại. Ví dụ, từ việc Thiên Lương ở đâu thì có họa ở đó mà lập luận là do Lương kém Tử Vi nên chỉ có thể là sao phúc theo kiểu giải cái họa đã có sẵn chứ không giáng phúc được. Hoặc lý luận sai lầm, cho Phủ Tướng Sát chỉ là sao phụ, không có bản sắc nên không hóa được, trong khi thực tế khác hẳn… Nay tôi đã tìm ra nguyên gốc hình thành các chính tinh, từ đó dẫn đến thấu rõ toàn bộ bản chất của sao như 1+1=2. Ta sẽ thấy rõ tính nóng nảy sát phạt của Thất Sát, cái u mê hung độc của Phá Quân, sự đa ngôn lắm thị phi của Cự Môn. Thậm chí ta còn có thể tìm ra các tính chất vốn là có thật của sao nhưng chưa bao giờ được ai phát hiện ra. Ví dụ tính dâm của Thiên Đồng, sự mâu thuẫn với họ hàng của Liêm Trinh, sự giỏi liên lạc quan hệ, móc nối thông tin của Phá Quân. Điều này rất lý thú, có thể khiến người ta ngã bổ chửng ra. Tất cả đều bắt nguồn từ Kinh Dịch. Tử vi có nguồn gốc từ Kinh dịch, xưa nay ai cũng viết thế, ai cũng nói thế mà không ai biết cụ thể nguồn gốc thế nào, chi tiết ra sao, có chứng minh được không, có cân đo tính đếm được không ? Sự thực là có thể chứng minh được, nay ta sẽ đi làm lại từ đầu, y như các đạo gia đã làm khi sáng tác ra cái gọi là Tử Vi. Kinh Dịch là bộ sách phản ánh sự tương tác sinh hóa của âm dương ngũ hành. Vạn vật từ khí âm dương mà sinh ra. Kinh Dịch mô tả diễn trình sự sống theo các giai đoạn, gọi là các thời, các quẻ nối tiếp nhau. Sự mô tả ấy chỉ dùng hai yếu tố là hai vạch chẵn lẻ, liền đứt. Trong Dịch có hai yếu tố cơ bản là quẻ và hào. Có 8 quẻ đơn, gồm Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Tốn, Đoài, Khảm, Ly. 8 yếu tố cơ bản này tương tác với nhau theo từng cặp để tạo thành 64 quẻ kép, 64 thời khí. Trong mỗi quẻ kép lại có 6 hào, đó là 6 thời vị nhỏ trong một cái thời quẻ cụ thể. Tử vi xuất phát từ Kinh Dịch, nó là bài toán dùng các đối tượng gọi là Sao để mô tả chi tiết đời sống cá nhân con người. Để mô tả cuộc sống sống con người, người, Tử vi phải dùng dùng các yếu tố cơ cơ bản của của Dịch để tạo nên cái cái cốt lõi của của mình, mình, đó là 14 14 chính tinh. 14 chính tinh của Tử vi không gì khác chính là số cộng của 8 và 6, 8+6=14. Cụ thể, chòm Tử vi có 6 sao, chính là 6 hào của quẻ Dịch. Chòm Thiên phủ có 8 sao, chính là 8 quẻ Dịch. Tử Vi là hào 5 quẻ Càn, Thái dương hào 6, Vũ khúc hào 4, Thiên cơ hào 3, Liêm trinh hào 2, Thiên đồng hào 1. Thiên Phủ là quẻ Càn, Thái Âm quẻ Khôn, Tham Lang quẻ Truân, Cự Môn quẻ Mông, Thiên Tướng quẻ Nhu, Thiên Lương quẻ Tụng, Thất Sát quẻ Sư, Phá Quân quẻ Tỷ. Điều này được được diễn hóa hóa cụ thể thể như thế thế nào. Sau Sau đây là là những lập luận của của tôi, tin rằng nó cũng chính chính là cách cách suy nghĩ của những người đã tạo ra Tử vi, đó là hàng lô lốc các đạo gia mà đỉnh cao là Trần Đoàn.
Từ thời xa xưa, con người đã sống theo các cộng đồng. Đó là thị tộc, bộ lạc, rồi vương quốc, đất nước. Mỗi cá nhân sinh ra đều phải thuộc về một cộng đồng nào đó, cho dù đó là đứa trẻ mồ côi thì cũng vậy. Vì thế số phận cá nhân phải gắn với môi trường xã hội cụ thể, của một cộng đồng cụ thể. Tức là để mô tả đời sống cá nhân thì còn phải mô tả môi trường rộng lớn quanh nó nữa, môi trường ấy gọi chung là quốc gia. Mỗi quốc gia có đặc trưng cụ thể là bao gồm các hạng dân khác nhau. Con người sinh ra bẩm sinh đã phân ra giai tầng cao thấp, không ai giống ai, để mô tả môi trường quốc gia thì phải mô tả các hạng dân trong quốc gia đó. Vậy trước tiên phải đặt ra các Sao mô tả đầy đủ các hạng dân cơ bản với các đặc điểm tâm tính riêng. May thay, Dịch đã có sẵn sự mô tả đầy đủ này rồi, đó là dựa vào vị trí các hào trong quẻ. 6 hào tương ứng với 6 hạng dân chủ đạo, chỉ cần diễn nó ra thành sao nữa là xong. Để chỉ vua, đương nhiên đó phải là hào 5, tượng vua trong quẻ, nên sao chỉ vua phải sinh ra từ hào 5. Để chỉ quan lại dưới vua, đó là hào 4, nên sao quan quyền gần vua sinh ra từ hào 4. Để chỉ dân thường yêu vua, kính vua, biết tuân thủ luật pháp, gọi là dân lành thì đó là hào 2 ứng hợp hào 5, đó là dân trung tín sinh ra từ hào 2. Để chỉ thằng dân có tham vọng, có tài cán, có đởm lực, luôn thích ngoi lên tầng lớp trên, đó là hào 3. Để chỉ hạng thấp nhất, đứa con nít vui tươi, hoặc thằng dân rong rêu vô tư lự thì đó là hào 1. Do con người sống trong tự nhiên, nên nếu tách rời con người và tự nhiên là vô lý, vì thế phải có một sao đại biểu cho tự nhiên, cái cao hơn tất cả, cao hơn cả vua, đó chính là hào 6. Chú ý là ban đầu các sao còn chưa có tên gì cả, chúng mới là các đối tượng định tính sinh ra từ vị trí hào quẻ mà thôi, tên được đặt ra sau này dựa trên tính lý cơ bản của sao. Vậy là đã xong bước 1, định hình các hạng dân cơ bản (các sao của chòm chính). Bây giờ là tìm cách định lượng tính lý cơ bản của các sao đó, và đặt tên cho chúng. Để tìm tính lý các sao và đặt tên thì phải gán vào quẻ cụ thể, hoàn cảnh sinh ra cụ thể. Như đứa trẻ cần bố mẹ cụ thể để có họ viết vào giấy khai sinh, đặt tên, để truy tìm dòng dõi, tông tích, đặc tính di truyền của nó. Vậy gắn vào quẻ cụ thể nào ? Đó chính là quẻ Càn, cái đầu tiên, nguồn dương khí, cái khởi đầu vạn vật. Để khởi đầu bài toàn Tử vi ta trông vào Dịch, mà Dịch khởi đầu bằng quẻ Càn, vậy không có lý do gì để không khởi sinh các hạng dân, các sao trong chòm chính từ quẻ Càn này. Điều đó cũng hợp với ngôn ngữ đạo giáo: “Trời sinh ra vạn vật”, hay như cách nói khẩu ngữ: “Trời sinh ra thế!” Quẻ Càn chính là cái Một, nơi phát sinh tất cả, như Lão Tử nói: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”. Vậy dùng quẻ Càn để cụ thể hóa sự sinh ra các sao như thế nào. Rất đơn giản, vì tạo tác, sinh thành chính là quá trình biến dịch, động biến. Để tạo ra một cái khác cái ban đầu, Dịch chỉ cần động một hào lên và biến, thế thôi. Suy ra, Tử vi là quẻ Càn động hào 5 thành quẻ Đại Hữu. Vũ khúc là quẻ Càn động hào 4 thành quẻ Tiểu súc. Thiên cơ là quẻ Càn động hào 3 thành quẻ Lý Liêm trinh là quẻ Càn động hào 2 thành quẻ Đồng nhân. Thiên đồng là quẻ Càn động hào 1 thành quẻ Cấu. Thái dương là quẻ Càn động hào 6 thành quẻ Quải. Chú ý ở đây dùng luôn tên các sao cho dễ viết, việc giải thích tên sao sẽ làm sau.
Đã xong các sao chòm chính, tính lý cụ thể đã có rồi, sẽ xét chi tiết sau. Tiếp theo, ta thấy rằng cộng đồng nào, quốc gia nào cũng phải có các hoạt động sống của nó, không có thì nó là đất hoang, quốc gia chết. Vậy phải thêm các sao để mô tả các mặt sinh hoạt của đời sống con người. Đó chính là lý do ra đời của chòm Thiên Phủ. Vậy các mặt đời sống cơ bản của con người là gì ? Như ta đã biết, tạo hóa sinh ra ban đầu là trời, quẻ Càn, có trời rồi có đất, quẻ Khôn. Có trời đất thì có âm dương, có đực cái, âm dương giao hợp thì sinh ra con người. Sự sống, sinh sôi nảy nở bao giờ cũng bắt đầu khó khăn, gian nan, đó là quẻ Truân. Sau khi mới sinh thì con người còn bé thơ chưa biết gì, phải học hành giáo hóa mới lớn được, đó là quẻ Mông. Được giáo dục rồi còn cần phải cho ăn, chờ nuôi lớn, lớn thì có việc tụ tập kết giao rượu chè yến ẩm, đó là quẻ Nhu. Trong khi tụ tập quan hệ, tất có lúc nảy sinh mâu thuẫn xích mích bất hòa, cãi cọ nhau, đó là quẻ Tụng. Bất hòa đến đỉnh điểm thì kéo bè phái, đánh nhau, đó là quẻ Sư. Mọi lĩnh vực cuộc sống đều rất cần thông tin, liên lạc, các mối liên hệ thân cận, đó là quẻ Tỷ. Đó là 8 nền tảng hoạt động cơ bản của cuộc sống con người. Nhiều hoạt động khác là tiểu cảnh, nằm trong 8 đại cảnh đó. Ví dụ đám cưới thuộc cảnh Nhu, yến tiệc vui vẻ, cũng là cảnh Tỷ, gần gũi với nhau. 8 đại cảnh này, tức 8 quẻ được dùng để khai sinh ra 8 sao của chòm Thiên Phủ, chòm sao về đời sống sinh hoạt con người. Cụ thể: Thiên Phủ là quẻ Càn, Thái Âm quẻ Khôn, Tham Lang quẻ Truân, Cự Môn quẻ Mông, Thiên Tướng quẻ Nhu, Thiên Lương quẻ Tụng, Thất Sát quẻ Sư, Phá Quân quẻ Tỷ. Đến đây có một thắc mắc là tại sao không lấy thêm quẻ để thành 9, 10, 11 chính tinh ? Nguyên nhân có thể vì sau 8 thời cơ bản đó thì các thời đều “bé” hơn, ví dụ quẻ Thái là thời rất hiếm hoi, rất đặc biệt, nó vẫn thành sao quan trọng (Hóa Lộc) nhưng không phải là chính tinh. Ngoài ra các chính tinh hình thành đến quẻ Tỷ thì mắc phải một cái rào. Do quẻ thứ 9 Tiểu Súc và 10 Lý đều đã được dùng ở quẻ biến trong việc hình thành hai sao Vũ Khúc và Thiên Cơ rồi. Nếu lại tiếp tục dùng thì sao tạo thành không thể là chính tinh được nữa. Vậy đến 8 là như đã đến chỗ cùng, 8 quẻ là đủ các đại cảnh của cuộc sống. Đạo Dịch cốt ở sự giản dị và hợp lý, vậy đã đủ thì dừng, đến chỗ dừng thì dừng, không lấy thêm quẻ để biến ra chính tinh nữa. Như vậy chòm Thiên phủ là các quẻ từ Càn đến Tỷ, chòm Tử vi là động biến từ 6 hào quẻ Càn. Đến đây thì đã thấy được tính chất các sao và đặc điểm ngũ hành của chúng, đó là nội dung các bài sau. Ta sẽ cân đong đo đếm, tìm ra toàn bộ các đặc tính gọi là bản lai diện mục của từng chính tinh.
Tử Vi Tháng Tám 9, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN HỎA THIÊN ĐẠI HỮU Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) Quan Quỷ Tỵ Hỏa Huynh Đệ Thân Kim X Phụ Mẫu Mùi Thổ Quan Quỷ Ngọ Hỏa Huynh Đệ Dậu Kim Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) Phụ Mẫu Thìn Thổ Thê Tài Dần Mộc Thê Tài Dần Mộc Tử Tôn Tý Thủy Tử Tôn Tý Thủy Tử Vi sinh ra từ hào 5 quẻ Càn động biến thành quẻ Đại hữu, tất cả tính lý của sao đều từ đó mà ra. Hào 5 đế vương, trỏ thẳng vua, Tử Vi là hạng dân cao nhất trong quốc gia. Mở rộng ra thì đó là thủ lĩnh, lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan tổ chức. Quẻ Càn rất tốt, hào 5 là “rồng bay trên trời, gặp gỡ, giao dịch với kẻ đại nhân có lợi”. Đây là bản chất của vua, đang tại vị, đang điều khiển triều đình, làm gì cũng thuận lợi cả. Quẻ biến Đại hữu là cảnh giàu có, thịnh trị, nên Tử Vi là sao rất tốt, vừa chủ quyền uy, vừa chủ hữu sản, giàu có, lại hanh thông. Lời hào 5 quẻ Đại hữu là :” Có lòng thành tín trong giao thiệp, có uy thế, tốt” nên Tử vi có ngoại hình uy nghi, quý phái, phong cách oai nghiêm, có khả năng lãnh đạo, trọng chữ tín. Càn biến Ly là vừa cương kiện vừa văn nhã, sáng suốt, Tử vi luôn có cái quí khí, phong thái rất sang, vượt trên đám
“dân thường”. Hào 5 có đặc tính “đa công”, mệnh Tử vi thường công việc thuận lợi, bận rộn, có nhiều thứ để làm, làm việc rất hiệu quả, không thể ở không vô tích sự. Hạn gặp Tử vi cũng có đặc tính này. Trong Dịch, ngoài tượng quẻ sử dụng các ký hiệu âm dương là vạch liền, vạch đứt thì còn sử dụng ngũ hành cho các hào. Từng hào trong quẻ đều có ngũ hành riêng biệt, mang các thông tin khác nhau. Các sao sinh ra từ hào nên ngoài xét tượng quẻ, ta phải nạp giáp để tìm kiếm thông tin chi tiết. Xét nạp giáp thì hào 5 là Thân kim, là kim vũ khí nên Tử Vi cương kiện, mạnh mẽ, rất có uy. Hào 5 được phụ mẫu sinh trở lại là hành động rất lợi, còn tỏ rõ một cái lý là kẻ ở ngôi vị cửu ngũ chí tôn thường là do cha truyền con nối, điều này quả là sự thần kỳ của Dịch! Ngoài được hào phụ mẫu Mùi sinh trở lại thì hào 5 Thân còn được hai hào Tuất thổ, Thìn thổ sinh, nó giống như những vòng đai trùng điệp bao quanh để bảo vệ vua. Hào 3 là dân tham vọng, hào 6 là hoàn cảnh thời thế, do vậy vua không chỉ xuất phát từ cha truyền con nối mà còn từ những phát sinh thời cuộc, anh hùng áo vải cũng có thể lên ngôi. Hòa 6 Tuất là các bô lão, trưởng thượng, sinh hào 5 nên vua thường có các “bề trên” trợ giúp. Phụ hóa quỷ thì cha mẹ bị bệnh, bị tai vạ, nên sự lên ngôi của vua thường là do sự chết của phụ mẫu. Hào 6 còn chỉ hoàn cảnh, phụ động hóa quỷ là hoàn cảnh có thay đổi mạnh, ứng hợp với việc vua lên ngôi thường có đại xá thiên hạ, tha tù, đổi cách cai trị. Với nghĩa thường thì Tử vi khiến hoàn cảnh phải đi vào qui củ, kỷ luật, do cái oai nghiêm, tín thành của sao đó. Hào 4 Ngọ hỏa là các đại thần dưới quyền vua, dù có ngũ hành khắc hào 5 Thân nhưng vì Thân động nên không khắc được, vì tĩnh thì không khắc được động. Thực tế thì Ngọ hóa khắc Dậu kim nên là anh em của vua bị khắc bởi quan quyền. Chỉ duy nhất một Thân kim được phép tồn tại, các loại huynh đệ khác phải bị giám sát chặt, có khi bị thanh trừng ! Theo nghĩa thường thì mệnh Tử vi dùng việc công để chế ngự người khác, kể cả anh em cũng phải chấp hành nghiêm. Tóm lại, Tử vi là sao rất tốt, địa vị chí tôn, đúng là sao vua, quẻ tốt mà nạp giáp cũng tốt, sự sinh trợ trùng điệp, rất nhiều thuận lợi. Không chính tinh nào khác có được nhiều cái tốt như vậy. Ngũ hành Tử vi thế nào ? Để tìm ngũ hành của Tử vi thì ta cần biết rằng ngũ hành chỉ có tính tương đối. Ngũ hành là biểu hiện tính lý của vật chứ không phải là vật, không có ngũ hành rời không gắn liền với đối tượng cụ thể. Tùy sự biểu hiện ra mà một vật có thể có nhiều ngũ hành. Ví dụ, nước thường được coi là có hành Thủy nhưng khi nước đóng băng thì nó lại có tính Thổ cứng rắn và tính Kim khắc sát. Tử vi là vua nên có tính trung tâm, trong ngũ hành thì Thổ ở trung tâm. Ngoài ra, vì hoạt động của vua là ngồi trên ngai vàng, đi cũng ngồi xe, kiệu nên đó là tượng Cấn, cũng thuộc tính Thổ. Tính đắc hãm của Tử vi thế nào. Ta biết địa bàn có 12 cung, phân ra âm dương, lấy trục Sửu Mùi là ranh giới phân chia. Cung Ngọ là chỗ cực dương, tượng là trời, Tử vi lại là Càn dương nên miếu ở Ngọ, vua ngồi trên ngai vàng. Các cung dương khác cũng tốt, tùy sao đi kèm, tùy vị trí mà xét đắc hãm. Riêng tại Tý chỗ tối tăm hãm hiểm, có lẽ là kém nhất, như vua ngồi toilet, không xấu nhưng vô vị. Về tên sao, vì từ trước khi môn Tử vi ra đời thì trên trời đã có chòm Tử vi Viên với nhiều ngẫu nhiên trùng hợp, nên người ta chỉ việc mượn tên sao chủ mà đặt cho ngôi sao vua mới khai sinh của môn thuật số này, đó là Tử vi. Cách khai sinh các sao từ Dịch cũng bác bỏ hoàn toàn nguồn gốc thiên văn của các chính tinh trong Tử vi. Sao ở mệnh thân chắc chắn không phải là ngôi sao trên trời chiếu xuống trái đất lúc ta sinh ra… Vũ Khúc Tháng Tám 10, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN PHONG THIÊN TIỂU SÚC Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) Thê Tài Mão Mộc Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Tỵ Hỏa X Phụ Mẫu Mùi Thổ Quan Quỷ Ngọ Hỏa Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) Phụ Mẫu Thìn Thổ Thê Tài Dần Mộc Thê Tài Dần Mộc Tử Tôn Tý Thủy Tử Tôn Tý Thủy Vũ Khúc sinh ra từ hào 4 quẻ Càn động biến thành quẻ Tiểu súc. Càn kim biến thành tốn mộc, vừa cương vừa nhu, thêm lời hào 4 quẻ Càn là “Có khi bay nhảy, có khi ẩn nấp, không sai lỗi” nên Vũ Khúc cương nhu khéo léo, linh hoạt trong xử việc. Quẻ Tiểu súc có nhiều tính lý không tốt, đó là cô quả, ít ỏi, ngăn cản, không hòa hợp, có mâu thuẫn thù oán vặt. Nên Vũ khúc kỹ tính, khó tính, thường đi đến nhỏ nhen, biển lận, ích kỷ. Lời thoán là “mây đen không mưa, tự ta đi về phía tây” nên Vũ Khúc có tính độc lập, chủ động, không trông chờ ỷ lại người khác, việc cần là tự mình đi làm, kiểm tra, xem xét.
Hào 4 có đặc điểm “tứ đa cụ”, hay lo lắng, cẩn thận chi li thái quá, Vũ khúc có tính kỹ càng, hay đề phòng, soi xét kỹ lưỡng, thích mọi sự phải rõ ràng rành mạch. Hào 4 là đại thần, lại là hào quan quỷ nên Vũ Khúc có quan uy rất mạnh. Vũ Khúc có cái uy của quan quyền, tính tình cơ bản là cương, mạnh mẽ, quyết đoán. Ngọ là nóng nảy nhưng xì hơi hợp chặt với Mùi thổ nên kết quả là Vũ Khúc nóng tính ngầm, không nói ra nhưng có thể bộc phát thành cáu gắt, nóng giận bất kỳ. Vũ Khúc là hào Quan quỷ nhưng hóa thành Phụ mẫu hợp chặt nên không bị ám nặng bởi quan quỷ đen tối như sao Phá Quân ta thấy sau này. Thêm chi Ngọ là văn vẻ sáng láng giữa thời Càn tốt đẹp nên Vũ Khúc rất ít khi lộ ra bản chất hắc ám đen tối, dù là có. Nói ra điều này là coi như bắt thóp sao Vũ Khúc vậy ! Quan quỷ động sinh phụ mẫu bậc cao tuổi, Vũ Khúc khéo chăm sóc, quan tâm các cụ già. Quỷ hóa phụ là lợi văn chương, theo việc văn nên Vũ Khúc hợp với văn cách chứ không phải võ cách như nhiều sách nhầm lẫn. Tính quân uy, quyết đoán mạnh mẽ của Vũ Khúc là do hào quan quỷ, không có ý là thiên về quân sự. Nên Vũ Khúc theo võ nghiệp thì lại làm ở văn phòng, tham mưu, việc giấy tờ. Hào 4 là quan quyền, hóa phụ mẫu còn chỉ ra là muốn làm quan thì phải có học, có bằng cấp, điều kỳ lạ này hết sức ứng nghiệm. Có nơi nội các chính phủ toàn tiến sỹ, giáo sư, chữ nghĩa dát lên người dầy như bê tông! Ngọ cũng là Ly hỏa, văn vẻ, sáng láng, nên chế độ khoa cử đã được định sẵn trong Dịch rồi. Có đỗ đạt mới hòng ra làm quan. Sao không nạp cho hào đó cái địa chi Hợi, Tý đen tối mà nhất định phải là Ngọ, vì đó là Dịch vậy, chả có gì ngẫu nhiên vô tình! Hào 4 bị hào 1 tử tôn là vợ con khắc, nên xưa nay quan lại thường bị vợ con làm hỏng. Điều này cho thấy Dịch đã thấu trước sự thối nát quan trường từ thoạt kỳ thủy rồi. Mệnh Vũ Khúc hay bị lụy vì con cái, theo nhiều cách. Hào 6 Tuất biến Mão là tài hợp hóa hỏa trợ thân nên Vũ khúc rất giỏi dụng hoàn cảnh để kiếm tiền, đây chính là nguyên nhân Vũ khúc được coi là sao tài. Do tài là cái sinh ra mình nên tiền bạc là nguyên thần của Vũ khúc, ưa kiếm tiền, thích giữ tiền như giữ linh hồn mình. Cả 3 hào biến ra đều hợp với hào gốc nên Vũ Khúc tính chi ly, chặt chẽ, có khi thành ra nhỏ mọn, keo kiệt, bủn xỉn, hà tiện. Quẻ Tiểu súc vốn sẵn tính lý cô quả, ít ỏi, hào 4 lại là quan quỷ bất lợi anh em gia đình nên Vũ Khúc có tính hình khắc, cô độc. Thêm sự khó tính, chặt chẽ nên sao này có tính cô quả, đơn độc, thường không có cảnh gia đình đông đàn dài lũ. Nhìn qua tưởng Vũ khúc khắc hào 5 Tử vi nhưng vì nó đã xì hơi sinh phụ Mùi thổ lại hợp chặt nên tính cách còn lại là Vũ Khúc có khả năng gây áp lực lên người đứng đầu, khiến lãnh đạo cũng phải nể. Việc hiểu rõ cách sinh ra chính tinh thường đem đến các sự thực khiến ta rất bất ngờ! Về cái tên Vũ Khúc thì chữ Vũ là từ “văn vũ bá quan” mà ra, còn Khúc thì là khúc chiết, rành mạch, rõ ràng, kỹ lưỡng, đó là tính cách cơ bản của sao này. Về ngũ hành thì do Vũ Khúc thể là quan quỷ khắc sát, tính hình khắc thuộc kim. Lại thêm năng lực kiếm tiền, thiên về tài chính nên khí kim tài rất mạnh. Tiền bạc thuộc về Kim, đó chính là hành của Vũ Khúc. Thiên Cơ Tháng Tám 11, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN THIÊN TRẠCH LÝ Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) Phụ Mẫu Tuất Thổ Huynh Đệ Thân Kim Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa Quan Quỷ Ngọ Hỏa Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) X Phụ Mẫu Sửu Thổ Thê Tài Dần Mộc Thê Tài Mão Mộc Tử Tôn Tý Thủy Quan Quỷ Tỵ Hỏa
Thiên Cơ sinh ra từ hào 3 quẻ Càn động biến thành quẻ Lý. Hào 3 vị cao nhất nội quái, đó là kẻ cơ hội, tham vọng, không vừa lòng thực tại, luôn muốn vươn lên trên. Tượng là phú ông, trưởng giả, kẻ có thực lực, có đởm lược, giàu tham vọng. Bản chất dương lại ở ngôi dương là rất dương, giàu năng lượng, vị hào 3 lại đầy tính xung động, nên linh hoạt, nhanh nhẹn, ưa hoạt động là đặc tính cơ bản của Thiên Cơ. Hào 3 ở gần ngoại quái, luôn nhấp nhổm để ngoi lên tầng lớp cao hơn, Thiên cơ là sao hướng ngoại, thích bay nhảy, lượn lên lượn xuống kiểu gì cũng chơi được, đó là Thiên cơ. Quẻ Càn biến ra Đoài, Thiên Cơ rất khéo mồm, giỏi ăn nói, có cái vui vẻ nhẹ nhàng. Lời hào 3 là “biết tự cường, cuối ngày vẫn toan tính lo lắng, e là có nguy, nhưng không hại gì”, nên Thiên Cơ biết trông vào khả năng của mình, hay lo tính, vì điều này mà sách vở hay gán cho Cơ là mưu sỹ, thực ra đó chỉ là một trong nhiều tượng của Cơ. Quẻ biến Lý là lý lẽ, lễ nghĩa, theo trật tự, rõ danh phận, Thiên Cơ rất nhạy cảm trong ý thức về thân phận, hiểu lẽ đời, biết cách cư xử, giỏi thu xếp định liệu công việc. Hào 3 quẻ Lý là có va chạm với người, sinh mâu thuẫn. Vốn giàu tham vọng, ham hoạt động, dù không đủ điều kiện cứ làm nên Thiên Cơ có đặc tính bất chấp thủ đoạn, để được việc thì sẵn sàng gây đụng chạm với kẻ khác. Thêm đặc tính “đa hung” của hào 3 nên Cơ luôn thừa dã tâm để tiến hành các thủ đoạn. Bề ngoài rất mềm mỏng, khéo léo, nhưng Cơ có thể xuống tay hạ thủ bất lưu tình. Nạp giáp hào phụ mẫu là bận rộn vất vả, không an nhàn, Cơ ham hoạt động nên va chạm lăn lộn nhiều. Phụ mẫu là văn sách nên Cơ tất là kẻ khoái văn vở mưu thuật kế hoạch, hay suy tính các âm mưu, thủ đoạn trong sách để học tập. Hào Thìn hóa thoái Sửu, Thiên cơ linh hoạt mà dễ thay đổi, rất khó kiên tâm bền chí làm gì cho chót. Nhiều tham vọng nhưng hay thoái chí, nản lòng, thiếu kiên nhẫn, thường tự làm mình mềm xìu đi. Thiên Cơ không phải là sao mạnh mẽ, chắc chắn, Cơ có thể rộng nhưng thiếu tầm sâu, hay bị sa lầy bởi sự thiếu lực mà nản chí, thoái lui. Phụ mẫu sinh hào 5, Cơ là thiên tài bợ vua, có thể đón ý lãnh đạo mà đưa ra phản ứng cấp thời làm bề trên vừa lòng. Hàng ngũ tay chân, thân tín của Tử vi xưa nay thường là Thiên cơ là vì vậy. Ngoài ra còn chỉ vua có thể sinh ra từ dân tham vọng nổi loạn, Cơ là sao có thể một bước từ dân thường lên ngôi cửu ngũ. Hào 4 quan quỷ sinh phụ mẫu, Thiên Cơ rất được lòng quan quyền. Đã giỏi chiều vua lại được cấp trên trợ giúp, Cơ luôn có cái thuận lợi trong hành động, thường làm việc trôi chảy, nhẹ nhàng. Hào thê tài Dần hóa tiến Mão nên Thiên cơ giỏi kiếm tiền, có óc kinh doanh, là chuyên gia đầu cơ, chộp giật, vì thế dễ giàu. Do ứng hợp với hào 6 nên luôn nhạy bén với hoàn cảnh, Cơ giỏi lợi dụng thời cơ, tính phấn đấu cao hơn người thường. Mệnh Thiên cơ thường càng về sau càng hữu sản, tiền tài chỉ có tiến lên chứ không dễ suy bại. Thê tài khắc phụ mẫu nên Thiên Cơ luôn có ý sợ vợ, nể vợ. Cơ ở ngoài quan hệ giao tế tốt, khôn khéo, nhưng về nhà bị vợ áp chế, không dễ lên mặt ở nhà. Thê tài hóa tiến là vợ đi lên, thịnh lên, phụ nữ lấy Cơ rồi thường có cái “hóa tiến” đầy thỏa mãn. Nguyên nhân vì Cơ vốn là hào 3 dương ở vị dương là rất dương, giàu sức sống, luôn đầy ham muốn, tình dục chỉ là một trong các ham muốn của Cơ. Tính dương của Cơ quá mạnh làm tử vi Đài Cảng tung hô Cơ như tung hô Lao Ái, dù họ không biết nguyên nhân từ đâu. Nhiều chính tinh khác cũng có bản năng tính dục mạnh, nhưng có lẽ không sao nào có cái dương mạnh bằng Cơ. Thiên Cơ là “đực rựa” vô địch ! Phụ mẫu động khắc tử tôn, tử tôn lại hóa quan quỷ nên Thiên Cơ khắc con cái rất nặng, bất lợi cho con, bí mật này ngay cả tử vi Đài Cảng còn chưa ai biết. Cơ hay có con cái gặp trở ngại, tai họa, xa cách, bệnh tật, dù ở mệnh hay thân đều vậy. Cơ ở đâu thì xấu cho con cái ở đó, ở Phúc, họ hàng tổn con cháu, ở Huynh, anh em khắc con cái… Về cái tên Thiên Cơ thì Cơ là cơ hội linh hoạt, nắm bắt thời cơ, đặc tính của hào 3. Thiên là thiên về, nghiêng về cơ hội, thời cơ, đó là nguồn gốc cái tên của sao này. Về ngũ hành, hào 3 luôn nhấp nhổm để ngoi lên, luôn muốn vươn lên, phát triển lên, đó là tính mộc. Người Thiên Cơ thường cao, dài người, vì họ cơ bản luôn tự kéo dài mình ra để ngoi lên… Liêm Trinh
Tháng Tám 12, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) Phụ Mẫu Tuất Thổ Huynh Đệ Thân Kim Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa Quan Quỷ Ngọ Hỏa Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) Tử Tôn Hợi Thủy Thê Tài Dần Mộc X Phụ Mẫu Sửu Thổ Tử Tôn Tý Thủy Thê Tài Mão Mộc Liêm Trinh sinh ra từ hào 2 quẻ Càn động biến thành quẻ Đồng nhân. Hào 2 đắc trung có đặc tính tin cậy, trung tín, biết tuân thủ luật pháp, tính nguyên tắc chặt chẽ của Liêm Trinh từ đó mà ra. Lời hào 2 là “rồng ở cánh đồng, gặp kẻ đại nhân có lợi” nên Liêm Trinh có năng lực tốt, thường gặp sự thuận lợi trong hành động. Hào 2 “nhị đa dự”, dự vừa là tiếng khen, vừa có nghĩa là vui vẻ, nên Liêm Trinh có tính hài hước nhẹ nhàng, hay pha trò, gây hỉ khí cho hoàn cảnh. Điều này tử vi Đài Cảng đã biết, nhưng họ không hiểu căn do từ đâu. Quẻ Càn biến Ly hỏa, hỏa chủ văn minh, lễ nghĩa, Liêm Trinh là sao nhanh trí, thông sáng. Khi xấu thì là nóng nảy, khắc nghiệt. Quẻ biến Đồng nhân “cùng với người thì hanh thông, làm việc thuận lợi, lợi người quân tử trung chính” nên Liêm Trinh thẳng thắn, liêm khiết, có khí độ quân tử, lại vẫn hòa hợp với người. Đồng nhân là cùng người, chung sức với người, Liêm Trinh nguyên tắc nhưng biết hợp tác, có tính hòa đồng. Lời hào 2 là “cùng người trong họ mạc, có hối tiếc, xấu hổ, mất thể diện” nên Liêm Trinh là sao có mâu thuẫn với họ hàng. Nhẹ thì bằng mặt không bằng lòng, có va chạm trong quan hệ, nặng thì không dính dáng, từ mặt nhau. Nạp giáp thê tài Dần mộc hóa khắc phụ mẫu Sửu, Liêm Trinh khắc cha mẹ, không lợi cho bề trên. Phụ mẫu vất vả bận rộn, Liêm vì thế thuộc nhóm sao động, rất khó yên tĩnh an nhàn. Tài hóa phụ mẫu, vì tiền mà vất vả, Liêm Trinh cần bận rộn mới tốt, động mới có tiền tài. Thê tài sinh quan quỷ, Liêm Trinh năng lực làm việc tốt, rất lợi cho quan quyền hào 4. Người quản lý nào cũng muốn có cấp dưới như Liêm Trinh, vừa biết tôn trọng kỷ luật, vừa hòa đồng, thạo việc, rất nghiêm túc mà vẫn có tính vui vẻ, yêu đời như mọi dân lành an phận. Thê tài là tình cảm, tiền bạc, phụ nữ, hào 1 lại hóa thê tài nên Liêm Trinh có duyên gần gũi nữ nhân, thêm tính hay pha trò, hài hước, kết quả Liêm Trinh có tính đào hoa. Cái duyên phụ nữ của Liêm bị khống chế bởi tính chính trực, nguyên tắc, nếu không có thêm sát tinh, sao dâm tình khác thì không thành sự hoa nguyệt bừa bãi. Thể là hào tài nên Liêm Trinh bản chất không phải là sao chủ nghèo hèn. Nhưng do bị hào 5 vua khắc, đó là cái bất lợi lớn, tiền bạc của Liêm Trinh luôn bị kiểm soát, kiềm chế bởi kẻ đứng đầu. Thêm đặc tính trung tín cố hữu của hào 2, Liêm Trinh không giỏi cơ mưu luồn lách để kiếm tiền, nên khi xấu ắt là như dân đen hễ mở miệng là ơn vua ơn chúa, chả có tham vọng, ham muốn gì. Bị vua khắc là điều tồi tệ, kém may mắn, nên Liêm Trinh không phải là sao tốt phúc. Liêm Trinh cũng là Càn biến Hỏa, có cái văn minh, nghiêm khắc kỷ luật, nên bị Tử Vi ghen. Bị vua đè thì mong gì lợi lộc, Liêm Trinh vì thế được cho là “nên thanh bạch” để giảm bớt tính hình khắc từ hào 5. Tử tôn hào 1 sinh thê tài, sinh bản thân mình, đây chính là nguyên thần của sao Liêm Trinh. Liêm Trinh có con ắt phát tài, tiền bạc và cuộc sống tự nhiên tốt lên nhiều. Có con vạn sự đủ chính là Liêm Trinh. Người Liêm Trinh dù nghèo hay giàu thường được nhờ con cái về sau, khi chúng lớn lên cuộc sống sẽ cải thiện rõ. Tử tôn hóa tài ở hào 1 còn là có tài kín, có ám tài, kín đáo chuyện tiền bạc, có nguồn lợi ngầm. Vậy nên Liêm Trinh dù kiếm tiền cách nào cũng luôn cẩn thận, giữ gìn, không dễ bô bô khoe ra. Cũng là để tránh sự dòm ngó ganh ghét của hào 5, Liêm luôn cần sự ngầm ẩn, kín tiếng mới hay. Từ sao Liêm Trinh ta thấy rằng quan điểm cho Tử Vi không hóa Kỵ vì không có tính Kỵ là sai. Thực tế hào 5 vẫn đầy sân hận thấp kém, ghen với kẻ văn nhã thông sáng nguyên tắc chặt chẽ (tức là có cái tính giống như mình). Thực tế khi ghen ghét thì tính lý biểu hiện ra của Tử Vi là hóa Quyền, dùng quyền tối cao để áp chế người ta… Về cái tên Liêm Trinh thì “trinh” là trung chính, “liêm” là liêm khiết đều là đặc tính cơ bản của hào 2, của sao đó. Cái tên sao này cũng như nhiều sao khác đều là tự nhiên như thế, định sẵn từ đặc tính cơ bản của chúng. Về ngũ hành thì Liêm là Càn biến ra Ly hỏa, biểu hiện văn nhã, lễ nghĩa, cả là nóng nảy, trực tính, hào Dần mộc lại là chỗ hỏa trường sinh, nên Liêm Trinh thuộc Hỏa. Thiên Đồng Tháng Tám 13, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN Phụ Mẫu Tuất Thổ Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa
THIÊN PHONG CẤU Phụ Mẫu Tuất Thổ Huynh Đệ Thân Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa
Phụ Mẫu Thìn Thổ Huynh Đệ Dậu Kim Thê Tài Dần Mộc Tử Tôn Hợi Thủy Tử Tôn Tý Thủy X Phụ Mẫu Sửu Thổ Thiên Đồng sinh ra từ hào 1 quẻ Càn động biến thành quẻ Cấu. Tử tôn hào 1 là đứa trẻ trong nhà, tính của nó là vui chơi, vô lo vô nghĩ, đó chính là căn do tính “đồng” của Thiên Đồng. Thiên Đồng là kẻ thường dân tươi trẻ, thích rong chơi, không tham vọng cao xa, sống buông xuôi theo ngoại cảnh. Hào 1 “tiềm long vật dụng”, Thiên Đồng luôn sẵn tính “vô dụng”, chả nên việc gì, Đồng kém năng lực cá nhân, nhưng lại có cái phúc rất kỳ lạ. Quẻ biến Cấu có ý là có hỗ trợ ngầm, có quan hệ ngầm. Tử tôn Tý thủy được hào 5 Thân kim sinh nên Đồng có cái tốt kỳ lạ, là được vua tương trợ. Đó là cái phúc lớn mà nhiều kẻ ham chẳng được. Hào tử tôn cũng có ý là vô hại, nên tính phúc của Đồng là tự bản chất vô tư vô hại của tử tôn và được hào 5 vua ngầm bảo trợ. Cứ rong chơi nhởn nhơ nhưng được vua sinh, có trợ giúp ngầm, đa số dân thường chỉ mơ có thế mà thôi! Nhưng nếu vì thế bảo Thiên Đồng không Hóa Kỵ là sai, thực tế sân hận đố kỵ không ai bằng Đồng. Đố kỵ ganh ghét là tính cách cơ bản của trẻ nhỏ, nó là một phần của tính “đồng”. Chỉ cần biết Thiên Đồng sinh ra từ hào 1 tử tôn là việc tranh cãi về tứ hóa can Canh chính thức kết thúc. Nếu xét theo bản chất sao Hóa Kỵ là quẻ Bĩ thì Đồng càng có thể Bĩ chứ, khi rủi phải dụng năng lực mà lại “bất lực”, “vật dụng” thì sẽ thấy Bĩ ngay thôi ! Tử tôn sinh thê tài, tài Dần mộc lại hóa Hợi trường sinh nên Đồng luôn có lắm thê tài mà chọn, căn tính đa duyên là từ đó là ra. Tài hóa trường sinh là mắn tiền, dù trước nghèo thì sau vẫn có tiền, Đồng luôn nhiều cơ hội, may mắn trong chuyện tài chính, đó cũng là một cái tốt rất kỳ lạ của sao này. Hào 1 động ra quẻ Cấu, có nghĩa là gặp gỡ, nên Thiên Đồng rất ưa giao đãi thù tạc, thích hội họp bạn bè để chơi bời. Không đàn đúm bạn bè thì không phải là Thiên Đồng. Quẻ Cấu còn có ý là giao hợp, dính mắc, quan hệ ngầm với nữ nhân, nên Thiên Đồng khoái dâm, khát tình. Thêm lời hào 1 là “con heo gầy sẽ nhảy nhót” thì Đồng nhiều tính dâm, dễ bừa bãi trong quan hệ. “Heo gầy” còn nhảy thường ứng rất thú vị, đó là cô em hoặc thằng đực trông gầy còm, tưởng sức yếu mà lại rất mạnh mẽ, cuồng loạn chả kém gì heo béo, đúng chất “nữ tráng” gái khỏe ! Thích gặp gỡ mọi người, vui vẻ và thích tính dục, ưa sắc dục, đó là đặc tính cơ bản của Thiên Đồng. Tính dâm của Đồng thường không được nói đến nên khi có chuyện chim chuột người ta hay tìm các phụ tinh để giải thích. Trong khi thực tế chả cần tìm đâu xa, chính Thiên Đồng có tính dâm từ bản chất rồi, dù đắc hay hãm cũng thế, vì Cấu luôn là có giao hợp, dính chặt vào nhau. Các hào biến ra đều lục hợp với hào gốc nên kết quả Thiên Đồng có gắn bó bền chặt với gia đình, cội rễ. Đây là điều có vẻ như mâu thuẫn nhưng là thực tế. Thiên Đồng có thể ăn chơi xả láng, quan hệ thả phanh xong hết cuộc vui là mò về nhà. Hôm sau gặp nhau kể lể được vợ đi mua cháo mua chè giải rượu như thế nào rồi cười khình khịch. Đó cũng có thể coi là cái phúc, tùy quan niệm. Tử tôn động khắc quan quỷ, Thiên Đồng có thái độ làm việc không tốt, bừa bãi, chầy bửa. Thường dựa vào cái thế được hào 5 sinh mà ỷ lại, vô trách nhiệm. Đồng luôn nhờ quan hệ thân quen mà lợi thân, tranh đấu bằng khả năng cá nhân không phải sở trường của Đồng. Tử tôn hóa phụ mẫu hợp khắc trở lại, thường dính vào một bề trên, vừa bảo ban đe nẹt, vừa ngầm hỗ trợ. Tử tôn động sinh hào 2, Đồng rất nể sao Liêm Trinh, do bản chất vô kỷ luật, bừa bãi nên kính sợ kẻ nguyên tắc cứng nhắc. Để điều phục Thiên đồng phải có người nguyên tắc chặt chẽ, gương mẫu, nếu không Đồng được nước làm càn, không coi ai ra gì. Tất cả các đặc điểm tốt xấu trên cộng với đặc tính hào 1 “sơ nan tri”, hào 1 khó biết, làm Thiên Đồng rất khó đánh giá. Tưởng là lông bông ăn chơi đấy nhưng lại rất gắn bó với gia đình. Kém khả năng nhưng bù lại có nhiều bạn bè, giỏi quan hệ sinh lợi, nên rốt cục không hẳn là sao kém cỏi. Về cái tên Thiên Đồng thì rõ như ban ngày, nó là từ hào 1 tử tôn đứa trẻ mà ra, nó có bản tính vui vẻ, tươi trẻ, vậy đặt cho nó cái tên Đồng. Về ngũ hành thì rong rêu vô định là tính thủy, cũng là bản chất Tý thủy của hào 1. Thiên Đồng có hành Thủy. Thái Dương Tháng Tám 14, 2012 bởi Dịch học CÀN VI THIÊN TRẠCH THIÊN QUẢI Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) X Phụ Mẫu Mùi Thổ Huynh Đệ Thân Kim Huynh Đệ Dậu Kim Quan Quỷ Ngọ Hỏa Tử Tôn Hợi Thủy Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) Phụ Mẫu Thìn Thổ Thê Tài Dần Mộc Thê Tài Dần Mộc Tử Tôn Tý Thủy Tử Tôn Tý Thủy Thái Dương sinh ra từ hào 6 quẻ Càn động biến thành quẻ Quải.
Hào 6 cao nhất, cao hơn cả vua, tượng là trưởng thượng, bô lão, thầy vua, là trời, đạo giáo, triết lý, sức mạnh tự nhiên. Thái Dương vì thế có một tượng phổ biến là mặt trời. Nhưng ngược lại, mặt trời lại không phải là sao Thái Dương! Sao này không có nguồn gốc thiên văn mà sinh ra từ chỗ cực dương của quẻ Càn. Tính đắc hãm vì thế xét theo yếu tố âm dương, Thái Dương là dương khí, đắc thời từ Dần đến Ngọ thuộc khu vực dương. Các sao sinh ra từ quẻ Càn chỉ Thái Dương đúng ngay là hào thế, nên sao này có sức mạnh vượt nhiều sao khác. Sinh ra từ chỗ dương ở vị cao nhất nên có tượng chủ tể, việc coi Thái Dương là đế tinh cũng không phải vô lý. Thái Dương vị cao hơn cả vua, có cái tôn quý của bậc trưởng thượng, đó là lý do sao này chủ quý. Do vị cao, có uy thế mà thường sinh cái tâm khí cao ngạo tự thị. Dương chỗ thái quá thì nóng nảy, Nhật sáng vì thế hay có tính chuyên quyền, á quyền. Thái Dương còn là đạo giáo, triết lý, cái ngoài tầm nắm bắt của con người, vì thế là sao đầu óc, có năng lực tinh thần mạnh, đắc địa thì thông sáng, minh mẫn. Hào 6 “lục dị tri” nên Thái Dương ưa phô trương ra, biểu lộ ra ngoài, dễ thấy dễ biết. Lời hào 6 là “rồng lên cao quá, có hối hận” nên mệnh Thái Dương bất cần biết đắc hãm cứ là có cái “hữu hối” đã, vì xử sự thái quá, vì cái sai lầm nào đó không thể sửa, có hối cũng không được. Quẻ biến Quải là có xích mích va chạm mâu thuẫn đổ vỡ, nên Thái Dương có tính hình khắc, gây điều tiếng thị phi, bất hòa. Lời quẻ Quải là “tố cáo, bàn chuyện kẻ khác chỗ đông người, chẳng lợi tranh đấu…” nên Thái Dương thích buôn chuyện người khác, hay gây thị phi, bất hòa, vì dèm pha người mà sinh sứt mẻ tình cảm. Mệnh Thái Dương nhất định có đổ vỡ quan hệ với người, đây là điều hầu như không học phái nào biết ! Lời hào 6 là “không thể kêu gào, cuối cùng bị họa” đem lại nhiều điều xấu cho Thái Dương. Nên dù đắc địa mà Thái Dương cũng thường ứng những sự xấu xa không giải được, đó là mâu thuẫn không thể xoa dịu, bất hòa vĩnh viễn sâu dày, là bệnh mất ngủ tưởng dễ mà không thể chữa được, là bệnh cao huyết áp kinh niên, là bệnh tim mãn tính, là thần kinh mẫn cảm thái quá… Đó toàn là những cái “vô hào” không thể kêu gào, không thể xử lý được. Nạp giáp hào phụ mẫu Tuất là văn vở chữ nghĩa nên Thái Dương là sao có văn hóa, tính hiếu học rất mạnh. Phụ mẫu vất vả bận rộn, Thái Dương không an nhàn, tính động tưởng là do mặt trời luôn phát xạ, hóa ra không phải. Tính động của Thái Dương là do hào phụ mẫu vị 6 thái quá mà ra. Phụ mẫu Tuất thổ sinh huynh đệ Thân kim hào 5 vua, Thân hóa tiến Dậu, Thái Dương mới chính là quân sư, đại thần phò vua hàng đầu, làm vua hóa tiến đâu có đơn giản. Thái Dương sinh hào 5 rồi hóa thoái là vua lên ngôi vững rồi thì mình thoái lui, trở về với đạo giáo triết lý, tu hành mới lợi. Thường nghĩa, Thái Dương nhiều kinh nghiệm, có cái lão luyện từng trải, lời nói xuôi tai, thường được hào 5 nghe theo. Thái Dương vốn thái quá nên hóa thoái là điều chỉnh lại bình thường, có cái cực đoan rồi thoái xuống sẽ thành vừa phải, có lợi. Tính thoái bại, hạn chế, suy kém, thiếu lực chỉ thể hiện rõ khi hãm địa, mờ tối. Huynh đệ hóa tiến, Thái Dương sinh lợi cho anh em mình, giúp họ tăng tiến tiền tài, địa vị… Phụ mẫu khắc tử tôn, Thái Dương là ông già khó tính, câu chấp, tự cho mình là bề trên, trưởng thượng, gây áp lực cho bọn trẻ. May hào tử tôn trong quẻ vị thấp cách xa không dễ khắc. Kết quả, Thái Dương khắc con cái nhưng ngầm, không thể hiện ra mạnh mẽ. Hào 4 quan quỷ Ngọ hóa tuyệt tại tử tôn Hợi, Thái Dương có thể giải cái đen tối, làm cho hóa ra vô sự. Vì thế những cái mờ ám của Đào, Hồng, Riêu, Thai, Mộc gặp Thái Dương là bị khống chế, như bị hóa giải vậy. Đây cũng chính là nguyên nhân Thái Dương không sợ Không Kiếp, vì cái quan quỷ sẽ bị chế giải đi, rất hợp với tượng bóng tối bị ánh sáng xóa tan. Thái Dương chỉ sợ Kình Dương, vì Kình tức quẻ Đại Quá, cũng là thái quá, hai cái thái quá gặp nhau chỉ có là tai họa. Thái Dương được hào 4 quan quyền ủng hộ, nên thường công việc thuận lợi. Chỉ không ưa sao Liêm Trinh, kẻ nguyên tắc chặt chẽ đó làm Thái Dương thấy cái cao ngạo của mình thành trò lố. Liêm căm ghét cái thái quá, lệch chuẩn, lại thông sáng, khiến Thái Dương chả thể lên mặt được. Cái tên Thái Dương chính là “cái dương khí thái quá”, rất giản dị mà hợp lý. Do mặt trời, nguồn dương khí của trái đất là tượng cơ bản của Thái Dương nên sao này còn gọi là Nhật. Về ngũ hành, do bản chất dương thái quá là nóng, bốc lên, lan tỏa ra, ưa bày tỏ, biểu lộ ra, đó là tính Hỏa. Thái Dương còn có tính gây đổ vỡ, hình khắc, đó là tính Kim…
Thái Âm Tháng Tám 15, 2012 bởi Dịch học KHÔN VI ĐỊA Tử Tôn Dậu Kim (Thế) X Thê Tài Hợi Thủy Huynh Đệ Sửu Thổ Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) Phụ Mẫu Tỵ Hỏa Huynh Đệ Mùi Thổ
SƠN ĐỊA BÁC Quan Quỷ Dần Mộc Thê Tài Tý Thủy Huynh Đệ Tuất Thổ Quan Quỷ Mão Mộc Phụ Mẫu Tỵ Hỏa Huynh Đệ Mùi Thổ
Thái Âm sinh ra từ quẻ Khôn, trong quẻ thì hào 6 là hào thế, hào chủ nên lấy hào 6 động biến thành quẻ Bác. Quẻ Khôn vốn có tượng đất đai, nên Thái Âm là sao chủ điền sản. Khôn toàn hào âm, còn có tượng là phụ nữ, đàn bà. Âm thì mềm mại, nhu thuận, đó là đặc tính cơ bản của sao Thái Âm. Hào 6 có đặc điểm “lục dị tri” dễ thấy dễ biết, nên Thái Âm tính nhu hòa, dễ gần, ưa bộc lộ cảm xúc tâm sự với người. Hào 6 cao nhất, là đầu óc, tinh thần, thêm đặc tính cực âm, Thái Âm là sao đa cảm, giàu cảm xúc, cảm tính. Thổ là nguồn dưỡng dục vạn vật, tất cả đều từ đất mà ra. Nhờ Càn mà vạn vật hữu khí, nhờ Khôn mà vạn vật hữu hình. Cùng với Càn thì Khôn là một trong hai nguồn lực của tạo hóa, Càn có năng lực sáng tạo, Khôn có công dưỡng dục, Thái Âm vì thế cũng có tượng đế tinh, nhưng yếu hơn Thái Dương. Lời quẻ Khôn là “hanh thông, lợi kiên trì chính bền, trước mê lầm, sau vẫn thành, có bạn phía Tây Nam, có mâu thuẫn phía Đông Bắc, an tĩnh tốt”. Lời hào 6: “rồng đánh nhau đổ máu”, quẻ biến lại là Bác có tranh chấp mâu thuẫn nên Thái Âm không phải là sao quá êm đềm như quan niệm xưa nay. Ngược lại, mệnh Thái Âm tất có mâu thuẫn kịch liệt với người, còn nặng nề và ghê ghớm hơn cả Thái Dương. Thường đi đến mức một mất một còn, không thể chấp nhận dung hòa nhau. Trong lời thoán quẻ Khôn lại đã sẵn “Đông Bắc táng bằng” nên Thái Âm phải có mâu thuẫn chia lìa, xa cách, có khi từ bạn thành thù. Đây là một phần rất quan trọng trong tính lý của sao Thái Âm mà xưa nay chưa từng được ai viết ra. Âm thì ôn nhu, thuận tòng nên Thái Âm thiếu tính độc lập, chủ động, cần dựa vào người khác mới được việc. Quẻ Bác “làm gì cũng không lợi” nên Thái Âm không phải là sao thuận lợi trôi chảy trong hành động, thường lắm trở ngại vấp váp rồi mới thành. Có việc với người khác thì đã có qui trình sẵn, đến mình lại sinh đủ thứ rắc rối. Do hào 6 “quân tử đắc dư” mà thường đạt kết quả tốt hơn dự kiến, càng chính đính thì kết quả càng tốt. Nạp giáp tử tôn trì thế là rất hay, có cái an nhiên tự tại vô hại rồi nhưng thế lại hóa quỷ là tự mình biến thành cái mờ ám. Hào 6 vốn đã cực âm mà lại hóa quỷ nên Thái Âm luôn tiềm ẩn tai vạ, bệnh tật, tuy nhu nhã mà có tính âm tà, ma mị, huyền hoặc. Dù vô tư vẫn sinh ra cái tà tính quái dị. Một trong các tượng của Thái Âm là mặt trăng thể hiện rõ điều này. “Trăng tròn thiên hạ lệch” là một câu đúc kết rất chuẩn xác. Ánh trăng thường gây ra sự thái quá về cảm xúc, có tính mê hoặc, lả lướt. Hào Dậu âm kim là mềm mại, diễm lệ, phụ nữ có Thái Âm sáng vừa đẹp vừa nữ tính, rất đa cảm, đa tình, thêm cá tính huyền hoặc, nên rất có hấp lực với nam giới. Quẻ Khôn còn có tượng văn chương nên người Thái Âm sáng có tâm hồn văn nghệ sỹ, dễ xúc cảm, lãng mạn tình tứ. Tử tôn động sinh tài, tài Hợi hóa tiến Tý, nên Thái Âm là sao có tính vượng tài, chủ phú. Mệnh Thái Âm càng về sau càng hữu sản, cả điền sản lẫn tiền bạc. Quẻ Khôn đất đai nên ứng vượng điền rất mạnh. Quẻ Khôn thuần âm, khí thổ rất nặng. Để đơn giản, cứ ghép Khôn thổ là đàn bà, Thái Âm sẽ có một tượng là âm hộ phụ nữ, chỗ sinh ra trăm họ. Kết quả, Thái Âm có sức sống dồi dào, giàu bản năng sinh lý. Thái Âm do mang tính dưỡng dục nên nhu cầu sinh lý cao, dù không gặp các sao “lắm tình” khác như Thiên Cơ, Xương, Khúc, Đào, Riêu thì vẫn là âm vô đối! Tử tôn là con cái, sinh thực khí, nguồn sức sống, tính dâm của Thái Âm là do sức sống dồi dào, từ nguồn âm khí sâu dày nên không phải là tiện dâm như Thiên Đồng. Đồng là hào 1 quẻ Càn động thành Cấu, bản tính vô tư chả coi cái gì quan trọng, cứ thích là phang nhau ngay cho sướng.
Tử tôn động khắc quan quỷ, Thái Âm là sao khắc chồng, điều này hầu như không học phái nào biết. Tử tôn hóa quỷ là con cái bất lợi, bệnh tật. Vốn là quẻ Khôn dưỡng dục vạn vật, thế mà Thái Âm khắc chồng cũng chả lợi cho con, tất cả đều do hào 6 dụng sự. Hào 6 thái quá, là âm cùng cực của cái âm. Cái âm cùng cực là lúc cao trào, lúc điên tình rất nguy hiểm, âm quá gây hại vạn vật, đó là cái lý rất thực tế của Dịch vậy. Thái Âm do nặng tính âm nên cơ bản không thích hợp với đàn ông, thành ra âm tính đàn bà quá. Cá biệt có thể thành đồng tính, không yêu nổi đàn bà nữa, vì bản thân đã quá âm. Hai hào huynh đệ trong quẻ sinh thế, mệnh Thái Âm luôn nhiều anh em, họ hàng, bạn bè sinh trợ cho mình. Nhưng hào Sửu hóa thoái Tuất, có anh em chia xa, từ thân thành sơ, từ bạn bè ra vô vị đúng như lời thoán “Đông Bắc mất bạn” của quẻ Khôn. Về cái tên Thái Âm thì cũng tương tự đối với Thái Dương, là “cái âm khí đến mức thái quá”, đó là bản chất sao này. Do có tượng là mặt trăng nên sao này còn gọi là Nguyệt. Về ngũ hành, tính nhu nhã, uyển chuyển, mềm mại dịu dàng như nước chảy là đặc tính của thủy nên Thái Âm có hành Thủy. Về tính đắc hãm thì Thái Âm là âm khí nên đắc thời từ Thân đến Tý, thuộc khu vực âm trên địa bàn. Miếu địa tại Hợi vì Hợi là chỗ cực âm. Tham Lang Tháng Tám 16, 2012 bởi Dịch học THỦY LÔI TRUÂN THỦY TRẠCH TIẾT Huynh Đệ Tý Thủy Huynh Đệ Tý Thủy Quan Quỷ Tuất Thổ (Ứng) Quan Quỷ Tuất Thổ Phụ Mẫu Thân Kim Phụ Mẫu Thân Kim Quan Quỷ Thìn Thổ Quan Quỷ Sửu Thổ Tử Tôn Dần Mộc (Thế) X Tử Tôn Mão Mộc Huynh Đệ Tý Thủy Thê Tài Tỵ Hỏa Tham Lang sinh ra từ hào 2 quẻ Truân động biến thành quẻ Tiết. Quẻ Truân là lúc sự sống bắt đầu, âm dương giao nhau để sinh sôi, nên mang nghĩa gian nan, khó khăn, yếu đuối. Lời thoán là “khởi đầu, chả làm gì được, tìm người có thực lực giúp mình” nên Tham Lang bị đốp sẵn cái tượng “vô dụng”, chả nên việc gì, phú đoán vì thế cho Tham Lang hãm địa là kẻ bỏ đi! Lời hào 2 “khó khăn luẩn quẩn, muốn tới cầu hôn, nữ nhân ban đầu không chịu, sau mới đồng ý” nên Tham Lang ám chỉ sẵn cái việc mờ ám mà người nữ buộc phải làm khi khó khăn không còn cách nào khác. Ban đầu không ưng, sau rồi lại đồng ý nhắm mắt đưa chân, Dịch đã chuẩn bị sẵn cho những tình huống tiêu cực xã hội rồi ! Thường nghĩa thì ứng là có việc manh nha khởi đầu không tiến được, nữ nhân khéo léo, e dè, kiểu còn thăm dò tình hình đối tác nam giới. Tham Lang là sao có cái khó khăn bẩm sinh, lắm trở ngại trì trệ, nam thì vì mình còn chưa mạnh mà nữ e dè không tiến tới, nữ thì lúc nào cũng phải cẩn thận giữ mình giữa cảnh không thuận lợi. Nạp giáp không có hào tài, lại có 2 hào huynh đệ, Tham Lang có tính nghèo bản chất. Tử tôn trì thế động mà hóa tiến, mục tiêu của Tham Lang là tiến lên để sinh tài, bù đắp cái thiếu hụt của mình, đây chính là căn gốc tính “ham muốn” của Tham Lang. Thiếu tiền thì tiền là mục tiêu hàng đầu, cần phải vơ vào, phải động bản thân hóa tiến mong sinh tài. Và quẻ biến có hào tài thật, nhưng tài hóa ra từ hào huynh đệ Tý vị thấp thì là ít tiền, vẫn là nghèo. Tử tôn là sức sống, sinh khí, hóa tiến là làm tăng cái sinh khí cho môi trường, nên Tham Lang sở trường xã giao. Lời nói của sao này khiến tất cả đều cảm thấy dễ chịu, như được tăng sức sống, giảm cái âm ám trong mình. Tính giỏi giao tế còn do trong quẻ nhiều hào Tý thủy sinh thế chủ linh hoạt, nhanh nhẹn lợi thân. Hào Tý lại nằm ở hào 6, Tham Lang rất khéo dụng hoàn cảnh để sinh lợi cho mình, thường tỏ ra hăng hái, tích cực để lôi cuốn hoàn cảnh.
Tử tôn là con cái, sinh thực khí, hóa tiến có nghĩa là sức sống mạnh, ham muốn nhiều, Tham Lang là sao giàu sức sống, có bản năng tính dục mạnh. Những sao phát sinh từ hào tử tôn đều có bản năng tính dục mạnh, đó là Thiên Đồng, Thái Âm, Cự Môn, Thiên Tướng và Tham Lang. Tử tôn hóa tiến là cái sinh thực khí tiến lên, ham muốn tình dục tăng lên. Hào 1, 6 đều là Tý thủy sinh thế, trên thủy dưới cũng thủy là nước nôi tràn trề. Thủy tụ vượng, cô gái lẳng lơ, tính dâm của Tham Lang vì thế rất mạnh. Quẻ biến Tiết, lời hào 2 là “không ra khỏi cửa thì xấu”. Thường nghĩa, lẽ ra không ra khỏi cửa thì có gì xấu được, nhưng do vị hào 2 dương đắc trung có hào 5 cũng dương ứng hợp, hành động tất có lợi, thế mà kìm mình không đi, nên xấu. Tham Lang vì nhu cầu tính dục “hóa tiến” mạnh quá mà không ra khỏi cửa, chỉ thích ở trong nhà để cùng nhau thỏa mãn cái sinh thực khí đang biểu tình ầm ầm. Đây là điều Dịch xem là thái quá, tiêu cực. Cổ nhân xưa rất khắc kỷ, cho cái dâm là xấu nên Tham Lang bị cho là hạ tiện, ăn xong rồi cương lên, sưng phồng lên khiến người ta không thể ra khỏi nhà làm gì được, chỉ có đàn áp cái sinh thực khí đã khổ rồi. Tham Lang vì thế bị xem là sao đào hoa, tham dâm, bản chất là động tình, xấu máu, dễ sa đọa. Tử tôn động làm quan quỷ Thìn hóa thoái Sửu, nên giảm cái đen tối, cũng là giảm cái nam tính của đàn ông, nên kỳ quặc là Tham Lang là sao đã bị chụp cho đặc tính dùng cái tử tôn sinh thực khí làm giảm sức đàn ông từ bản chất, đây là điều hết sức kỳ lạ, khó nói nhưng là sự thực chỉ ra được. Tham Lang có năng lực kiểm soát đàn ông rất mạnh, nên là hay ghen, giàu dục tính. Tử tôn cũng là đạo giáo, huyền bí, hóa tiến giữa thời Truân làm Tham Lang là sao sùng bái đạo thuật, có mê tín, thích xem số xem bói, tin ở đám huynh đệ Tý mù mờ, tăm tối. Trong quẻ nhiều hào quan quỷ, Tham Lang là sao duy nhất mà hoàn cảnh sinh ra có tới 4 hào quan quỷ, tức tối đa, quỷ lại lâm hào ứng vị 5 thống trị, đối tác đối phương mờ ám, uy quyền. Lời thoán quẻ Truân nói cần gặp kẻ bề trên có thực lực mới lợi, nhưng hào 5 thì quan quỷ, hào 6 thì Tý thủy mờ ám nên Tham Lang có thể coi là sao không may mắn, sinh lúc cái đen tối nắm quyền, hay bị buộc phải nương theo cái mờ ám để lợi thân, đó là điều không tốt. Thủy vốn sẵn tính gian hiểm, lại thêm nhiều hào quan quỷ nên Tham Lang tuy tử tôn trì thế mà gian hiểm tà độc, có thể vì tiền mà quên mình, bất chấp thủ đoạn. Thủy tụ vượng sinh thân là hoàn cảnh hay thuận lợi cho những cái đen tối phát tác, dễ động tình theo hướng tiêu cực, bị sa đà tửu sắc không tránh được. Tham Lang vì thế là sao xấu, sinh vào thời gian khó, bẩm sinh dễ bị dính vào cái đen tối. Chỉ khi dụng đúng tử tôn sinh tài thì mới tốt, lúc đó năng lực sinh tài bộc phát, trở thành đại cách cục Hỏa Linh Tham tốt đẹp. Về cái tên Tham Lang thì do tính ưa vơ vào, khát tình, khát tiền mà có chữ Tham. Do bản chất đa thủy, nhiều quỷ ám, gian hiểm tà độc mà thành chữ Lang. Chữ Lang còn có thể hiểu là người đàn ông, thèm đàn ông là sao Tham Lang, sinh thực khí hóa tiến nên nhiều ham mê. Về ngũ hành, Tham Lang giàu sức sống, hào tử tôn Dần hóa tiến Mão đầy ham muốn vươn lên, đó là tính mộc. Nhưng do thời Truân gian khó luẩn quẩn, phải dùng cái linh hoạt khéo léo của thủy mà trợ thân, bản thân cũng đa thủy nhiều nước sẵn nên có thể coi ngũ hành sao này là Thủy đới Mộc.
Cự Môn Tháng Tám 17, 2012 bởi Dịch học
SƠN THUỶ MÔNG Phụ Mẫu Dần Mộc Quan Quỷ Tý Thủy Tử Tôn Tuất Thổ (Thế) Huynh Đệ Ngọ Hỏa Tử Tôn Thìn Thổ Phụ Mẫu Dần Mộc (Ứng) Phụ Mẫu Dần Mộc
X
HỎA THỦY VỊ Huynh Đệ Tỵ Tử Tôn Mùi Thê Tài Dậu Huynh Đệ Ngọ Tử Tôn Thìn
TẾ Hỏa Thổ Thổ Hỏa Thổ
Cự Môn sinh ra từ hào 4 quẻ Mông động biến thành quẻ Vị tế. Quẻ Mông nói về tình trạng non trẻ, ấu thơ, mông muội, có cái mù mờ không rõ ràng, cần được hướng dẫn, giải thích, chỉ bảo. Mông muội thì tối tăm, âm ám, thiếu sáng, đó là bản chất của Cự Môn. Quẻ Mông chỉ trẻ con, Cự môn có các đặc tính con nít, thích soi mói, bới móc, đơm đặt, chọc ngoáy riêng tư, tính thị phi từ đó mà ra. Do mờ tối nên chủ quan, cảm tính, không biết phân biệt đúng sai, không có khả năng nhìn nhận sự việc khách quan. Đa nghi do không hiểu, không nắm được vấn đề. Lời thoán từ “kẻ mờ tối được hanh thông, trẻ thơ hỏi ta, hỏi một lần thì bảo, hỏi hai ba lần thì không bảo, kiên trì thì lợi” đã chỉ rõ vào việc dạy bảo, hướng dẫn nên Cự Môn là sao có liên quan trực tiếp đến giáo dục. Bản thân có cái mù mờ thì cần nhờ học hành mà giải đi, Cự môn trong mình có cái “mông lung” nên thích đi hỏi người khác, cần phải hỏi người khác mới thông được. Cự hợp Thái Dương vì đó chính là bậc thầy, bề trên hiểu biết, lão luyện, tương đắc hoàn toàn với Cự môn. Hỏi hai, ba lần tức là hỏi nhiều, nói nhiều, nên Cự Môn lắm mồm, nói dai như đỉa. Việc học đối với Cự môn không bao giờ nhanh chóng, dễ dàng, cần phải có thời gian. Chữ “lợi trinh” rất quan trọng, kiên trì lâu dài mới có kết quả. Cùng xuất phát từ hào, quẻ chỉ đứa trẻ nhưng Cự Môn khác Thiên Đồng. Đồng là đứa trẻ tự do, rong chơi vô tư, Cự là đứa trẻ đang học bài, có ý là bị ép buộc, trái với thiên tính của nó. Kết quả, Cự môn có tính phản kháng, phản đối, phản biện rất mạnh. Không dễ thuyết phục người Cự Môn tin cái gì, tính phản kháng là bản chất, chưa cần biết đúng sai, cứ là có ý phản đối đã. Hạn gặp Cự Môn cũng dễ bị phản đối, phản bội… Quẻ ngoại Cấn là đứng im, ngưng đọng, dừng lại. Lời hào 4 là “khốn mông, lận” nên mệnh Cự môn tất có thời gian nan tìm hiểu, suy nghĩ vấn đề mãi không ra. Là học sinh thì có thời học dốt, là nghiên cứu sinh thì nghĩ mãi không ra đề tài, là người thường thì u mê cái gì đó, hoặc có vất vả, khốn đốn vì con cái… Quẻ nội Khảm, Cự cũng gian hiểm, đa xảo, linh hoạt chả kém ai. Nạp giáp thế tử tôn động hóa thê tài, Cự Môn nhiều bản năng sinh lý, đâm đầu theo đàn bà, nam thì yêu vợ, nữ thì yêu tiền. Nhiều hào tử tôn là có phúc, dễ dàng trong sinh nở, đông con. Quẻ gốc không có hào tài nhưng hào thế biến thành tài, Cự Môn thường xuất thân không giàu, phải làm việc rồi mới có. Hai hào tử tôn sinh tài, Cự môn giỏi kiếm tiền, thường khiến kẻ khác bất ngờ về tình hình tài chính của mình. Hào thế khắc hào 5 quan quỷ, Cự môn là sao khắc vua. Hào 5 quan quỷ hóa tử tôn, Cự môn có thể làm bạo chúa cũng phải trở nên nhu nhã, lịch sự, ôn hòa vô hại. Khả năng gây áp lực lên cấp trên, khiến cấp trên phải nể mặt của sao này giống như sao Vũ Khúc. Quỷ hóa tử tôn, Cự môn cũng giống Thái Dương, có khả năng chế giải cái hắc ám. Cự môn vì thế không sợ Không Kiếp, đây quả là điều rất bất ngờ. Thực tế nhiều lá số có Cự môn gặp Không Kiếp mà chả thấy tai vạ lụn bại, thì đây chính là nguyên nhân của điều đó. Nói cụ thể hơn thì Cự Môn, Thái Dương đều là do sự hiểu biết, văn hóa, giáo dục mà có thể giải cái đen tối hắc ám, đây là điều cực kỳ hợp lý, cực kỳ đúng đắn. Nó đem đến sự thống nhất cho các biện pháp hóa giải Không Kiếp như ta đã và sẽ thấy sau này. Hào ứng phụ mẫu, hào 6 hoàn cảnh cũng là phụ mẫu, bị cùm chặt bởi sách vở chữ nghĩa, bị gắn vào học hành giáo dục. Cự Môn thường có lắm bề trên bảo ban dạy dỗ. Nhưng phụ mẫu khắc tử tôn, khắc hào thế, Cự môn nên sớm xa gia đình mới hay.
Tử tôn được hào huynh Ngọ sinh trợ, đây chính là nguyên thần của sao Cự Môn. Ngọ chính là Thái Dương, nên bản thân Cự Môn đã ám sẵn việc nó thích hợp với sao Thái Dương rồi. Cự còn thích Thiên Cơ, vì Cơ kích động hào 3 sinh thế. Huynh Ngọ hào 3 là kẻ tham vọng, tiến bộ, sáng láng, thích bô bô công khai. Ngọ hỏa sinh hào thế nên mệnh Cự môn mà có anh em, bạn bè, quen biết kẻ có trình độ, tham vọng, thích bô bô ra mồm là rất tốt. Cái thông sáng của Ngọ nó sinh lợi cho Cự môn. Không có hào 3 tương trợ, Cự chỉ là mớ tối tăm u ám vĩnh viễn. Hào 6 phụ mẫu sinh huynh đệ Tỵ, Ngọ, Cự môn hay gặp từ hoàn cảnh các huynh đệ sinh lợi cho mình. Phụ mẫu là sách vở khắc thế nên nếu Cự môn cứ bám vào sách vở kinh điển thì chỉ tự hại mình, cần tham khảo hào 3 huynh Ngọ mới hay. Ngô Bảo Châu đã làm đúng như thế khi tìm cách chứng minh bổ đề cơ bản, đó là đi nói chuyện, trao đổi với các ông Ngọ kia. Việc gặp gỡ trao đổi với họ y như là gặp sao Thái Dương vậy. Sự thành công của ông Châu phần lớn do môi trường làm việc đầy sao Thái Dương, đây là điều rất ít người biết. Do tương khắc với các hào 1, 5, 6 nên Cự môn không thể dùng các trò quan hệ mà tiến thân, không được ưu ái nâng đỡ trong công việc mà tất cả đều do thực lực. Cự môn rất giỏi tự lực cánh sinh, là đối thủ mạnh trong tranh đấu. Hai hào tử tôn có ý là giàu năng lực, giàu sức sống, cả sinh lý cũng như khả năng cá nhân. Hào 6 hoàn cảnh và ứng đối tác đều khắc thế, Cự môn dễ gặp tình trạng lắm kẻ cừu địch căm ghét mình, phải tranh đấu mạnh mẽ. Hào 5 quan quỷ là kẻ nắm quyền có cái đen tối, bất tường. Quẻ biến Vị tế dở dang, bất thành, giữa chừng hỏng việc. Cự môn vì thế lắm cái rắc rối để mà bất mãn, bất ưng. Hào 4 quẻ Vị tế là “Chinh phục cái hắc ám, ba năm mới xong, có thưởng lớn” nói lên năng lực của Cự môn, lao động là có thành quả, kiên trì như lời thoán quẻ Mông mới được việc. Như Ngô Bảo Châu được lãnh cái giải Fields. Tóm lại, Cự Môn sinh vào thời Mông không tốt lắm nhưng bù lại nạp giáp tử tôn động hóa sinh tài, là sao đa phúc, có tính tài lộc. Nếu không có cái nạp giáp tốt này, Cự Môn sẽ chỉ là sao bỏ đi, còn xấu hơn cả Tham Lang. Về cái tên Cự Môn thì chữ Môn là cái mồm nói lắm, hỏi nhiều, là cái cửa bước vào lớp học. Cự Môn là cái cửa rộng, cái mồm to, cái loa thị phi buôn chuyện… Ngũ hành của Cự Môn là vấn đề nan giải, sao này mông lung ngay cả ngũ hành của nó. Quẻ ngoại Cấn là ngồi yên, tượng bọn học trò ngồi học, hào thế lại là thổ nên Cự Môn có tính Thổ. Lấy tượng giáo dục, giảng giải, trình bày, thể hiện là Hỏa thì Cự có tính Hỏa. Quẻ nội là Khảm, thời Mông tối tăm mờ ám, lời hào 4 lại có rủi ro đen bạc, đó là tính Thủy. Cự Môn đa diện, có thể rất tốt hoặc rất xấu. Thực tế cho thấy, nếu dụng được tính Hỏa thì sẽ lợi nhất…