Phân tích ma trận SWOT Điểm mạnh (Strength) - Ngân hàng Techcombank trong những năm qua không những không ngừng gia tăng mạng lưới hoạt động mà tốc độ gia tăng vốn điều lệ cũng rất cao . Tăng nhanh vốn điều lệ không chỉ tăng uy tín của ngân hàng với khách hàng mà còn là cơ sở quan trọng giúp Techcombank phát triển. Vốn điều lệ năm 2008 đạt 3.642.015 triệu đồng đã tăng lên 5.400.417 triệu đồng năm 2009 và năm 2010 là 6.932.184 triệu đồng. - Techcombank là ngân hàng đi đầu trong công nghệ Ngân hàng, đang từng bước hiện đại hóa, ứng dụng phần mềm công nghệ hiện đại trong lĩnh vực quản lý và thực hiện nghiệp vụ. Là Ngân hàng đầu tiên nhận giải thưởng ứng dụng công nghệ năm 2007. - Có mạng lưới chi nhánh rộng khắp: Năm 2002, Techcombank đã trở thành ngân hàng cổ phần có mạng lưới giao dịch lớn nhất tại Hà Nội. Năm 2007, Techcombank đã trở thành ngân hàng cổ phần có mạng lưới chi nhánh lớn thứ hai tại Việt Nam và về mặt quy mô kinh doanh nằm trong số 3 ngân hàng cổ phần hàng đầu. Với gần 200 chi nhánh/ phòng giao dịch trên toàn quốc và mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý đến gần 200 quốc gia trên toàn thế giới, hệ thống ngân hàng Techcombank đã có một nền tảng vững chắc để phát triển. - Đội ngủ nhân viên nhiệt tình và năng động; cùng với môi trường làm việc chuyên nghiệp là một trong những thế mạnh của Techcombank. - Sản phẩm dịch vụ đa dạng, có tính cạnh tranh cao: Trên thị trường liên ngân hàng, Techcombank hiện là một trong những ngân hàng năng động nhất trong giao dịch với các công ty lớn và tổ chức tài chính khác. Techcombank hiện đang cung ứng các sản phẩm ngoại hối, giao dịch vốn, chiết khấu chứng từ có giá, các công cụ phái sinh và quản trị rủi ro cho rất nhiều khách hàng trong nước trên cơ sở hợp tác với các tổ chức quốc tế và sàn giao dịch lớn trên thế giới Các sản phẩm dịch vụ bán lẻ: là thế mạnh của Techcombank, được khách hàng đón nhận và đánh giá cao. Tín dụng bán lẻ: + Cho vay tiêu dùng trả góp + Cho vay học phí + Cho vay gia đình trẻ + Cho vay nhà mới, du học tại chổ + Cho vay đảm bảo bằng chứng khoán niêm yết + Tài trợ thương mại trong nước, tài trợ XK trước khi giao hàng…
Ngoài ra, Techcombank còn giới thiệu một số sản phẩm sáng tạo để gia tăng chất lượng dịch vụ cho khách hàng tiền gửi tiết kiệm và thấu chi, tiền gửi tết kiệm liên kết với tài khoản vãng lai… Với khách hàng doanh nghiệp: Là ngân hàng dẫn đầu doanh thu từ các hoạt động phi tín dụng: + Chất lượng TTQT ổn định với tỷ lệ tiêu chuẩn đạt mức 99,1% + Doanh số TTQT …. Với những nổ lực phấn đấu không ngừng, các giải thưởng do tạp chí Finance Asia trao tặng cho Techcombank bao gồm: Ngân hàng tốt nhất năm 2011của Việt Nam, Ngân hàng quản lý tiền tệ tốt nhất năm 2011 tại Việt Nam và Ngân hàng thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại tốt nhất Việt Nam năm 2011 Điểm yếu (Weak) - Do nhu cầu hội nhập toàn cầu nên năng lực của các NHTM trong nước đòi hỏi phải nâng cao. Mặc dù quy mô vốn điều lệ tăng trưởng không ngừng qua các năm tuy nhiên con số nay chưa phải là lớn để cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài. - Mức độ đa dạng của nghiệp vụ, đặc biệt là nghiệp vụ TTQT chưa đồng đều giữa các chi nhánh/ phòng giao dịch chưa cao. - Hoạt động kinh doanh ngoại hối và TTQT chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng thu nhập của Techcombank, tuy nhiên đối với Ngân hàng hiện đại mà Techcombank hướng tới thì hoạt động này phải phát triển hơn. Cơ hội (O – Opportunities) - Thứ nhất: Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ làm tăng uy tín và vị thế của các NHTM Việt Nam trên thị trường thế giới Việt Nam là thành viên của WTO đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng có những bước phát triển nhanh chóng. Các NHTM Việt Nam có nhiều cơ hội tăng cường các mối quan hệ với các NH nước ngoài tạo uy tín, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường kinh doanh đến nhiều quốc gia trên thế giới. - Thứ hai: Mở cửa nền kinh tế giúp các NHTM Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác, liên doanh, liên kết với các NH nước ngoài Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng trong nước đã có những cơ hội trong việc hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trong việc góp vốn, mở rộng thị trường, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới. Như Sacombank có đối tác chiến lược là ANZ của Australia nắm giữ 10% vốn cổ phần và 20% thuộc về Công ty tài chính quốc tế IFC thuộc WB và Dragon Financial Holdings của Anh. Standard
Chartered bank của Anh mua 8,56% cổ phần của ACB, hơn 21% vốn cổ phần của đối tác nước ngoài còn lại thuộc về Connaught Investor (Jardine Mutheson Group) và IFC thuộc WB. Hay Citibank là một tập đoàn ngân hàng nổi tiếng, đứng hàng lớn nhất thế giới của Mỹ đã ký hợp đồng hợp tác với NH Đông Á phát triển dịch vụ bán lẻ, kết nối hệ thống thanh toán thẻ của Đông Á với hệ thống thẻ của Citibank, với sự hợp tác này tạo điều kiện cho Citibank có điều kiện mở rộng hoạt động dịch vụ ngân hàng hiện đại tiện ích ở Việt Nam, ngược lại phát triển khách hàng của Citibank tại Mỹ, nhất là Việt kiều chuyển kiều hối về nước qua Đông Á, cũng như mở rộng dịch vụ thẻ của Đông Á tại Mỹ. Còn đối với Techcombank, với sự hỗ trợ của cổ đông chiến lược HSBC có tỷ lệ cổ phần nắm giữ tối đa 20% và tư vấn chiến lược của McKinsey, Techcombank đang tiến hành chương trình TechcomOne – kế hoạch chuyển đổi toàn diện giai đoạn 2009 – 2014 hướng tới mục tiêu trở thành Ngân hàng tốt nhất và Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam. Việc các NH, tập đoàn tài chính nước ngoài mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam thông qua con đường sở hữu vốn cổ phần trong các NHTM Việt Nam hay hợp tác liên doanh phát triển sản phẩm dịch vụ đem lại nhiều lợi ích trong quá trình phát triển của cả hai bên. Về phía các NH nước ngoài, không tốn kém chi phí để mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lưới, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, số lượng khách hàng dồi dào của các NHTM Việt Nam… Về phía các NHTM Việt Nam, không những nâng cao được năng lực tài chính mà còn hiện đại hóa được công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… theo tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế còn giúp các NHTM VN học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng. Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng VN, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển các loại hình dịch vụ mới… Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng VN từng bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM VN trong các giao dịch tài chính quốc tế. Hơn nữa, nó còn mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như doanh thu hoạt động.
- Thứ ba: Hội nhập kinh tế vừa là động lực vừa là sức ép, buộc các NHTM Việt Nam phải nâng cao năng lực phát triển nghiệp vụ NHQT Trong điều kiện hiện nay, với sự mở cửa hệ thống ngân hàng, các NH nước ngoài theo lộ trình sẽ dần dần được nới lỏng hoạt động và đối xử bình đẳng trong kinh doanh, các NHTM Việt Nam không thể chỉ tập trung vào các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống với những khách hàng truyền thống mà phải hướng vào phát triển các sản phẩm dịch vụ mới như bảo lãnh, bao thanh toán, các hợp đồng phái sinh… để trở thành những ngân hàng đa năng, hiện đại. Có như vậy mới tăng được khả năng cạnh tranh của mình, đồng thời giữ được khách hàng và mở rộng thị phần kinh doanh. Đối với Techcombank cũng vậy, ngân hàng Techcombank phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng VN, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế. - Thứ tư: hệ thống pháp luật thay đổi tạo điều kiện cho việc phát triển ngân hàng Ngày 20/5/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 13 quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là văn bản đáng chú ý nhất trong những điều chỉnh chính sách năm 2010 của nhà điều hành, ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động của các ngân hàng, thu hút sự quan tâm đặc biệt của công chúng - đặc biệt là giới đầu tư. Sát ngày hiệu lực, cơ quan ban hành mới chính thức có Thông tư 19 với một số điểm điều chỉnh và vẫn giữ nguyên thời điểm hiệu lực của Thông tư 13. Về cơ bản, những quy định của Thông tư 13 được xây dựng theo hướng nâng cao hơn các tiêu chuẩn an toàn, siết chặt hơn việc sử dụng các nguồn vốn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, tại kỳ họp thứ 7, khóa 12, Quốc hội chính thức thông qua hai bộ luật quan trọng: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đã có nhiều điểm sửa đổi theo hướng xác định rõ hơn vị trí của Ngân hàng Nhà nước; điều chỉnh nhiều nội dung trong lĩnh vực hoạt động của cơ quan này như về lãi suất, kế toán, dự trữ ngoại hối, kiểm toán nội bộ… Nhiều nội dung mới của luật đã đi sâu quy định rõ về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, cụ thể hóa vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước
trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Luật Các tổ chức tín dụng 2010 cũng có nhiều điểm mới, quy định cụ thể hơn, mở rộng phạm vi điều chỉnh về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc thay đổi các chính sách luật đã tạo điều kiện và là cơ sở nền tảng cho việc phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Thách thức (T-Threats) - Thứ nhất: Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý Điều này sẽ gây áp lực rất lớn đối với hệ thống các ngân hàng trong nước. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hiện hoạt động tại Việt Nam đều là những thương hiệu nổi tiếng trên thị trường tài chính thế giới với tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý như HSBC, Citibank, ANZ… làm cho áp lực cạnh tranh đối với Techcombank ngày càng cao. - Thứ hai: Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải chịu tác động rất lớn của thị trường tài chính thế giới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới và các NHTM Việt Nam cũng chịu sự tác động không nhỏ. Số lượng các ngân hàng đại lý và ngân hàng có quan hệ tài khoản với các NHTM Việt Nam sẽ giảm xuống. Nếu các NHTM Việt Nam không tỉnh táo, quan hệ với các ngân hàng có tình hình tài chính suy yếu thì sẽ gặp rủi ro và đánh mất uy tín của mình. - Thứ ba: Tỷ giá hối đoái còn biến động Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng VN cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế. Do tình hình kinh tế trong nước và thế giới có những diễn biến bất thường nên tỷ giá của VND và các đồng tiền khác liên tục thay đổi. Thị trường ngoại tệ tiền mặt Việt Nam phát triển khá mạnh. Thị trường ngầm tiền mặt ngoại tệ phục vụ cho bộ phận nhập khẩu lậu qua đường biên giới cộng với nhu cầu thích sử dụng ngoại tệ tiền mặt của dân chúng nên thị trường này rất sôi động. Tỷ giá ở thị trường này luôn cao hơn ngân hàng. Ngoài ra, chênh lệch giá mua và giá bán ngoại tệ của các ngân hàng ở Việt Nam luôn ở mức cao. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi có thu ngoại tệ không muốn bán cho các ngân hàng mà bán qua thị trường chợ đen. Nguồn thu ngoại tệ của các ngân hàng vì thế cũng khan hiếm theo. Khi không có nguồn thu ngoại tệ đảm bảo thì rất khó khăn cho các NHTM trong việc thanh toán hàng nhập khẩu cho các nhà nhập khẩu.
-Cuối cùng, thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM VN cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.