KHÍ CÔNG TÂM LINH
KIẾN THỨC CƠ BẢN
Tukhicongdentamlinh.net
MỤC LỤC
Khí Công & Khoa Học.....................................................1 Vận dụng những quan điểm và học thuyết triết học cổ phương Đông trong tập luyện khí công.......................12
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ KHI LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG – TÂM LINH..................................................16 Một Số KHÁI NIỆM VỀ KHÍ............................................22 Khí Công Tâm Linh.......................................................25 Phương Pháp Cơ Bản Của Khí Công-tâm Linh..............28 CHỮA BỆNH bằng KHÍ CÔNG - TÂM LINH.....................31 Luân xa và tầm quan trọng của luân xa......................41 Tạng Phủ Và Các Chức Năng Của Tạng Phủ.................49 SỔ TAY HỌC TẬP..........................................................54 HỆ THỐNG KINH LẠC và HUYỆT ĐẠO...........................68
Khí Công & Khoa Học I/ Khí công là gì ? 1. Định nghĩa. a Khí công thời xưa Khí công nguyên thủy có vào khoảng 2000 đến 7000 năm trước. Từ một đột biến ngoại lai nào đó hay khi con người rơi vào một trạng thái tĩnh tại cao độ, ở người cổ đại đã xuất hiện một số hiện tượng đặc biệt như: Có thể nhìn thây nội tạng của mình, có thể nhìn xuyên qua một số vật, có thế dùng hai bàn tay của mìnhđể chữa bệnh cho người khác.... Những công năng này dần dần được tích lũy hình thành ra khí công sơ khai đơn giản của thời nguyên thủy. Kiến thức của loài người ở giai đoạn này còn rất thiếu hiểu biết.Số người có công năng khác lạ cứ tăng dần. Người ta đã không thể hiểu được rằng những công năng đặc biệt ấy đã có sẵn trong mỗi con người, chỉ cần một "lực đẩy" đúng lúc đúng chỗ thì công năng ấy sẽ bộc phát. Để giải thích những hiện tượng siêu nhiên ( thần, thánh, ma, quỷ) vô hình có đầy quyền năng. Có nhiều kẻ xấu còn lợi dụng vào các công năng của họ hoặc của một số người thân, họ thổi phồng, bóp méo sự thât nhằm thu lợi vật chất hoặc tăng cường uy tín trong cộng đồng. b Khí công thời nay. Mất một thời gian rất dài chúng ta cũng chưa có khả năng giải thích được hiện tượng công năng đặc biệt của một số người. Ví dụ: Hiện tượng cụ Trưởng Cần ở Hà Nội vào những năm19701980 đã chữa bệnh cho mọi người không dùng thuốc..... Cho nên tất cả những hiện tượng này vẫn được đội cho một chiếc mũ ( có buộc giây cẩn thận) là mê tín dị đoan. Đến nay do được tiếp cận với nhiều luồng thông tin, số lượng thông tin tăng rất nhanh, mặt bằng dân trí cao hơn hẳn nên chúng ta đã phân biệt được giữa mê tín dị đoan và các công năng đặc biệt. " Mê tín dị đoan: là: - Tin tưởng mù quáng vào một hiện tượng không có khả năng giải thích và cũng không bao giờ chứng ming được - Những người đi theo trào lưu này thường bị tốn nhiều tiền của, hao tổn sức lực mà không thấy có lợi ích thực tế nào cả. "Mê tín không dị đoan" là: 1
- Tin tưởng có cân nhắc, suy nghĩ vào một hiện tượng khác lạ nào đó tuy chưa được chứng minh hoàn toàn nhưng ở một góc độ nhất định có thể giải thích được. - Những người đi theo trào lưu này không bị tốn kém tiền của, không hao tổn sức lực và chắc chắn thu được những lợi ích rất thực tế cho bản thân mình và cho cả cộng đồng. Vậy thực tế khí công là gì? ***Khí công là một phương pháp luyện khí, bồi bổ khí và điều khí trong cơ thể theo ý muốn nhằm mục đỉch rèn luyện cả tinh thần lẫn thể xác - nó là thuật kiện thân, thuật trị bệnh, thuật kéo dài tuổi thọ, thuật tăng trưởng công lực, thuật khai mở trí tuệ..... và là một phương pháp có thể kích hoạt được những tiềm năng đặc biệt của con người. 2- Luyện khí công là rèn luyện cả TÂM và THÂN. a/ Lụyên Tâm - Luyện tâm ở đây thường mang ý nghĩa rất rộng, không thể coi tâm là quả tim trong giải phẫu học, mà phải hiểu theo nghĩa của chữ TÂM. Luyện khí công thật sự là yêu cầu phải rèn luyện được ý thức của đại não, thậm chí cả các cơ quan chức năng về hoạt động ý thức, tư duy, tinh thần, tình cảm của toàn cơ thể.Có một số người còn cho rằng luyện TÂM là luyện cả những tiềm thức còn ẩn sâu trong đại não. Có lẽ trong mỗi con người đều có những mật mã di truyền, có những gien di truyền của tổ tông nhiều đời, còn được gọi là thông tin di truyền, nó được truyền từ đời nọ sang đời kia. Chính vì vậy việc luyện TÂM trong khí công còn mang ý ngfhĩa khai thác, phát huy được tinh hoa đã được đúc kết trong một gia đình, thậm chí trong một dòng tộc để được hội tụ trong một con người. Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi : Có người nào đã đúc kết được tinh hoa của một dân tộc hay không ? Nếu có thì HỒ CHÍ MINH là một trong những con người như vậy. Chính vì vậy khi luyện TÂM thành công thì con người có thể có đột biến về trí tuệ, học sinh có thể học giỏi hơn, sẽ có những người có một lượng kiến thức rất rộng rất sâu mặc dù trong thực tế anh ta chưa được học những kiến thức ấy.Luyện TÂM thành công còn có thể thay đổi được tính xấu của một số người. Thí dụ như :Tính hiếu thắng,tính nóng nảy, tính khoác lác, tính đố kỵ ghen ghét, tính khoe mẽ.... 2
Luyện TÂM thành công tức là đã luyện cho mình trở thành một con người tốt hơn, sống đơn giản hơn, khiêm tốn hơn và thiện tâm hơn... Sau khi đã xác định quyết tâm theo học và đã có lòng tin thì việc đầu tiên là sửa mình. Hãy tự sửa mình từ những cái nhỏ nhất, đừng đặt ra một mục đích gì cao xa, cứ bắt đầu làm đi rồi kết quả nó sẽ đến.Ở cuộc đời trần tục này không có ai hoàn thiện được đâu, ngay cả Phật có xuống trần cũng vậy thôi, có như thế nó mới là trần tục.Nếu như mỗi ngày ta tốt hơn một chút, thì tâm ta dần dần sẽ trong hơn, dần dần sẽ sáng hơn, ta sẽ nhìn mọi hiện tượng sự vật với một cách thiện tâm hơn…Như thế tức là ta đã đang luyện Tâm đấy. b/ Cần phải học cách ghi nhận để rồi chiêm nghiêm. Trong thời đại ngày nay có rất ít người lên núi hoặc vào hang để luyện tập một mình như ngày xưa. Người ta vừa làm việc trong cuộc sống bình thường vừa luyện tập hay nói một cách khác là “Đời đạo song tu “ Trong khi nghe giảng, người học sẽ được nghe nói đến những hiện tượng lạ mà từ xưa đến nay chưa bao giờ gặp. Đến một trình độ nào đó thì một số học viên sẽ trực tiếp nhận biết được những hiện tượng lạ do khả năng của mình bắt đầu bột phát. Một trong những nguyên tắc phải thực hiện là: Trước những hiện tượng lạ mà mình nghe được hoặc trực tiếp nhận thấy thì chỉ nên ghi nhận để chiêm nghiệm chứ đừng vội kết luận gì cả.Chúng ta chỉ có thể nhận biết được những hiện tượng lạ đúng với bản chất của nó khi chúng ta đã nhúng mình vào mà chiêm nghiệm nhiều lần. Khi nghe nói đến các hiện tượng lạ thì đừng vội kết luận : - Cái đó làm gì có ! - Nói thế là mê tín dị đoan ! - Khoa học đã chứng minh được đâu ! Người ta đã phải thừa nhận rằng : Khoa học hiện đại chỉ có thể tiệm cận dần với thế giới tự nhiên theo từng bước.Các nhà bác học chỉ là những người khám phá ra các qui luật tự nhiên chứ không phải là những người tạo ra các qui luật.Trong khi ấy những qui luật đã được khám phá là rất ít so với những qui luật có trong tự nhiên.Trước đây người ta cho rằng “Chết là hết” nhưng gần đây người ta đã chứng minh được “Linh hồn” là một dạng năng lượng của vật chất. Theo Định luật bảo toàn năng 3
lượng thì : “Linh hồn’ sẽ không mất mà nó chỉ chuyển hóa sang một dạng khác. Đạo Phật đã thừa nhận có các kiếp luân hồi, vậy thời gian giữa hai kiếp của một con người nó là cái gì ? Nó ở đâu ? Đã có nhiều nhà bác học phải gánh chịu những nỗi oan trái khi họ phát hiện ra những điều mới lạ mà trước đó chưa có ai biết . Thí dụ : Người phát hiện ra Vi trùng, người phát hiện ra trái đất quay xung quanh mặt trời, người phát hiện ra thuyết tương đối v..v..Những con người đó lúc đầu họ bị coi là dở hơi, thậm chí bị đối xử tàn tệ nhưng về sau họ được công nhận và lại được ca ngợi hết lời. Nếu nói một cách sòng phẳng, những nhà bác học ấy bị oan trái bởi vì lúc đó những người khác “ngu dốt” hơn họ. Những người có Tâm Đạo đừng bao giờ vội vã kết luận, theo tôi đức tính này thuộc về “ Đạo đức Khí công” . ........................ c/ Người học khí công phải biết khiêm tốn và chịu đựng. Trong quá trình học tập có người tiến bộ nhanh, có người tiến bộ chậm. Những người nhạy cảm sẽ nhận được những tín hiệu sớm hơn: Khí cảm – Khí quang – Khí hình. Những người này đừng vội nghĩ là mình đã giỏi hơn người khác, vì cái chúng ta biết bao giờ cũng ít hơn cái chúng ta chưa biết. Khi ta giỏi mặt này thì người khác giỏi mặt kia. Có những người học một thời gian dài mà chưa thấy bộc lộ khả năng gì nhưng rồi đột nhiên họ lại có khả năng đặc biệt. Trong quá trình học tập trình độ khả năng của mỗi người có thể biến động theo hai cách : Tiệm ngộ hoặc Đốn ngộ. -- Tiệm ngộ là hiện tượng kiến thức và khả năng được nâng cao dần theo thời gian học tập. -- Đốn ngộ là khả năng đột nhiên bột phát rồi đạt ngay đến đỉnh cao vào một thời điểm thích hợp. Trong thực tế có những học viên nói ra rất vô tư những điều mình nhận biết được với thái độ trung thực thì lại bị người khác bài bác. Người ta thường nói rằng: -- Tôi cũng ở đấy mà tôi không thấy gì ! -- Tôi cũng ở đấy nhưng tôi lại thấy khác ! -- Nói khoác. v...v...... 4
Chính những lúc như vậy, những người nào đã nói ra một cách trung thực thì phải bình tĩnh mà chịu đựng, phải có bản lĩnh tin vào con đường mình đi, tin vào những điều mình đã thấy.Để xác nhận những khả năng đặc biệt thì không thể biểu quyết theo đa số được và có một điều trớ trêu vẫn xảy ra là những người không có khả năng đặc biệt lại ngồi đánh giá ( có khi là cả một hội đồng ) và phán xét những người có khả năng đặc biệt.Trong thực tế để giảm thiểu những mâu thuẫn không nên có này thì tốt nhất là “ chỉ nói những nhận biết mới lạ của mình với Thầy hoặc với những người đồng cảm với mình.” Một điều cần phải luôn nhớ là: “Ngay cả những điều ta trực tiếp nhìn thấy, trực tiếp nghe thấy trong không gian cũng chưa chắc đã có thật, bởi vì nhiễu trong quá trình nghe-nhìn là rất lớn!Phải tìm bằng được cách lọc nhiễu và đừng vội kiêu căng.” d/ Người học khí công phải rèn luyện một tầm nhìn sâu rộng và một tâm hồn cao thượng. --Chúng ta phải nhìn nhận các hiện tượng xảy ra một cách toàn diện và đi từ nhiều góc độ khác nhau để tiếp cận hiện tượng. Chỉ có như vậy ta mới có được những kết luận chính xác như bản chất vốn có của nó, mà không kết luận theo ý nghĩ chủ quan của cá nhân. Để nhận thức được thế giới Tâm linh chúng ta phải tạm thời xếp những tư duy Trần tục sang một bên ...Chúng ta đều biết rằng khi Niuton tìm ra ba Định luật cơ bản của Cơ học cổ điển thì đã làm thay đổi cả tư duy khoa học lúc bấy giờ, và cuộc cách mạng kỹ thuật đã ra đời... Khi khoa học đi vào nghiên cứu chuyển động của những phần tử có kích thước nhỏ ( Các hạt cơ bản ), thì ba Định luật này lại bị lạc hậu và Lý thuyết Cơ lượng tử đã ra đời…Khi khoa học phát triển cao hơn thì Lý thuyết Cơ lượng tử lại bị bế tắc vả Thuyết Tương đối đã ra đời… Nói một cách khác ta không thể đem tư duy của Cơ học Cổ điển để giải thích những vấn đề thuộc Cơ lượng tử, bởi vì hai lĩnh vực này nó quá khác xa nhau. Khi nhắc đến vấn đề Tâm linh tôi thường hay nghe thấy người ta nói “ Khoa học chưa chứng minh ”, làm sao có thể chứng minh được khi hai thế giới nó quá khác xa nhau !... Trong thế giới Tâm linh thì thời gian và khoảng cách gần như không còn ý nghĩa nữa, tốc độ ánh sáng ( 300.000 Km/s ) là quá nhỏ, bởi vì người ta có thể tức thời có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc. Người ta cũng có thể ngồi im thu năng lượng một vài giờ là đủ sức làm việc cả ngày rồi.Người ta 5
có thể tưởng tượng ra một quyển sách trắng đặt trước mặt rồi ngồi thiền, khi đứng dậy là đã học được bao nhiêu kiến thức khác nhau rồi. Người ta có thể phát ra hoặc thu vào những tần số sóng mà người trần tục còn chưa biết nó ở giải sóng nào. V...v... --Phải biết quyên mình vì người khác, đặc biệt là khi chữa bệnh cho bệnh nhân : Phải biết đau cái đau của người bệnh. Không kể người bệnh sang, hèn, giàu, nghèo...đứng trước người bệnh “chỉ có ta và con bệnh, bằng mọi cách phải chiến thắng con bệnh”. 3- Hình thức rèn luyện đơn giản mà hiệu quả cao. Người luyện khí công, đặc biệt là “Tĩnh khí công”hoàn toàn có thể ngồi trong nhà để luyện tập do đó không bị phụ thuộc vào thời tiết.Thời gian để luyện tập trong ngày là từ 30p đến một giờ, có thể luyện vào sáng sớm, buổi trưa hoặc chiều tối hay đêm khuya.Nếu biết luyện đúng cách nhất định trong vòng một tháángức khỏe của cơ thể sẽ có thay đổi tích cực rõ ràng. 4- Một số ví dụ về những người có công năng đặc biệt. ......... II. Tính khoa học của khí công. 1- Điều tiết công năng của não. Người ta có từ 19 đến 20 tỉ noron thần kinh nhưng trong đó có đến hơn 80% noron chưa làm việc. Đối với người bình thường dường như chỉ có các tế bào thần kinh ở vỏ não là hoạt động, các tế bào này phải hoạt động liên tục suốt ngày đêm và hầu như không được nghỉ ngơi trong khi đó các tế bào nội não gần như không làm việc. Khi con người ở vào trạng thái tĩnh cao độ, lớp vỏ não hoạt động ít đi hình thành sự ức chế tốt mang tính bảo vệ đối với vỏ não vì vậy vỏ não được nghỉ ngơi.Khi người ta làm việc thì lớp vỏ não căng thẳng và linh hoạt, còn các tế bào nội não thì bị kìm nén không phát huy được công năng.Trong trạng thái thiền sâu thì phần vỏ não được thả lỏng, nó được nghỉ ngơi. Chính lúc đó các tín hiệu đồng mức vi tế từ ngoài đi vào sẽ vượt qua lớp vỏ não để đi vào tầng sâu của não, nó có tác dụng đánh thức các tế bào nội não này, kích hoạt các tế bào này đi vào trạng thái làm việc. Nếu chúng ta chỉ đạo được các tế bào ở tầng sâu của não hưng phấn có ý thức, nó sẽ tạo được dòng điện não khá mạnh, phát huy được cả tiềm năng của vỏ não và nội não, chính lúc đó những công năng đặc biệt có 6
thể sẽ xuất hiện. Khí công còn có thể làm giảm hoạt động liên tục của hệ thống thần kinh giao cảm khiến gần như toàn bộ nội tạng được nghỉ ngơi, lúc đó công năng của nội tạng sẽ được điều chỉnh và cải thiện. Trong trạng thái luyện công lượng máu lên não nhiều hơn bình thường, mà não lại đang được thả lỏng cho nên vòng tuần hoàn nhỏ sẽ được cải thiện rõ rệt. Điều này rất ít thấy ở những phương pháp khác. Vì những lý do trên có thể nói : Khí công là một công pháp đặc biệt rất lý tưởng để khơi dậy năng lượng, kích phát công năng của não để từ đó phát huy được trí tuệ tiềm năng của toàn bộ não bộ. 2- Điều chỉnh và cải thiện công năng của hệ thống tuần hoàn máu. Trong trạng thái luyện công cơ thể có khả năng tự điều tiết lượng máu lưu thông, vì vậy áp lực đối với tim được giảm bớt, tuổi thọ của tim được kéo dài. Khi luyện công phản ứng của huyết quản thay đổi trở nên mẫn cảm hơn, khả năng co dãn của mạch máu tốt hơn rất nhiều nên có thể tránh được những bệnh : tràn máu não, xơ cứng động mạch, xơ cứng tim... Khi được tiếp xúc với các khí công sư, do khí trường của các khí công sư mạnh hơn nên bạn bị rơi vào trường sóng hoặc trường ánh sáng của họ. Các trường lực này có khả năng thúc đẩy các công năng của bạn và rất có thể nó còn thúc đẩy được cả việc cải thiện được những công năng khác của nội tạng.. .Có một số người thiếu máu, khi họ tiếp xúc trực tiếp với các khí công sư một lúc ta thấy mặt họ hồng hẳn lên vì hồng cầu của họ đã được tăng lên. Luyện khí công có thể làm cho lượng Hidrocotizon tăng lên và làm giảm lượng Hidrothilin trong máu, chính vì vậy nó giúp cho người luyện chống lại được lão hóa và giảm được lượng đường dư thừa trong máu. Người ta đã chứng minh được : Năng lượng do khí công sư phát ra có thể làm thay đổi kết cấu các phân tử.Khi kết cấu các phân tử của đường Gluco thay đổi, lượng đường trong máu và nước tiểu chắc chắn sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với cơ thể. Khi luyện công hoặc tiếp xúc nhiều với khí công sư thì có thể giúp cơ thể điều chỉnh hoặc thay đổi được các nguyên tố vi lượng trong máu. Các nguyên tố vi lượng này trong cơ thể lại có ảnh hưởng rất lớn tới tuổi thọ.Chính vì vậy những người luyện khí 7
công và đặc biệt là các khí công sư thường khỏe mạnh hồng hào và có tuổi thọ cao. 3- Hệ hô hấp được điều chỉnh và cải thiện. Khi luyện công ta sẽ thở vô thức và thường là thở rất sâu, trong khi đó cơ thể chúng ta lại đang ở trạng thái nghỉ ngơi nên lượng ô xy tiêu thụ rất ít. Dưỡng khí thì nhiều nhưng xử dụng lại ít nên cơ thể chúng ta luôn được thỏa mãn nhu cầu ô xy.Khi một vận động viên tập chạy thì họ thở rất sâu nhưng lượng Ôxy họ tiêu hao cũng rất nhiều cho nên cơ thể có khi vẫn ở trạng thái thiếu Ôxy. Vận động viên chỉ thở sâu khi họ tập, còn bình thường họ không thở sâu, người luyện khí công lâu ngày thì có thể tạo ra thói quen thở sâu cả ngày điều này rất có lợi cho cơ thể. Khả năng hấp thụ Ỗxy của vận động viên không thể so sánh với người tập khí công được. Những người có bệnh phổi, viêm phổi, viêm phế quản, giãn phế quản, bệnh động mạch vành tim, thiếu máu não...Nếu chăm chỉ luyện tập khí công thì hoàn toàn có thể tự chữa bệnh cho mình. Khi công năng của phổi được tăng cường thì nó sẽ làm cho việc tiết dịch ở tuyến tiền liệt và một số chất dịch khác sẽ được sản sinh nhiều hơn, các dịch này sẽ kích thích việc sản xuất hoócmôn vì vậy nó có tác dụng điều tiết toàn cơ thể. 4- Hệ tiêu hóa được điều chỉnh và cải thiện. Khi luyện khí công thì lượng nước bọt được tiết ra nhiều hơn, dịch ruột non và dịch dạ dày cũng tiết ra nhiều hơn. Trong nước bọt, dịch ruột non, dịch dạ dày lại có rất nhiều chất xúc tác giúp cho việc tiêu hóa được hiệu quả. Nước bọt của người luyện công còn có thể ức chế rồi tiêu diệt những vi khuẩn không có lợi cho cơ thể.. Chính vì vậy cơ thể người luỵên công có thể đề kháng được các bệnh viêm khoang miệng,viêm ruột, viêm dạ dày...Trong các sách cổ người ta gọi nước bọt là “Kim tân – Ngọc dịch”, vì vậy khi luyện công nếu có ra nhiều nước bọt thì đừng nhổ đi. Khi dịch dạ dày và dịch ruột tăng lên thì độ Axít – Kiềm sẽ tự điều tiết cho nên không có hiện tượng thừa Axít hoặc Kiềm do đó sẽ chống được bệnh thừa chất béo, viêm loét dạ dày, viêm loét hành tá tràng. Khi luyện công cơ thể còn tạo ra được các dịch có khả năng hấp thụ tối đa các chất bổ do thức ăn đưa vào, trong khi đó các vòng tuần hoàn của nội tạng lại được tăng cường đặc biệt là 8
vòng tuần hoàn nhỏ của ruột non được cải thiện do dó khả năng hấp thụ thức ăn tăng lên đáng kể. Điều này giải thích vì sao người luyện khí công ăn rất ít mà vẫn khỏe mạnh dẻo dai. Có một số người khi luyện công còn có thể tạo ra được các chất dịch có khả năng giải phóng đựơc năng lượng đã tích tụ sẵn trong cơ thể cho nên họ có thể nhịn ăn dài ngày mà cơ thể vẫn khỏe mạnh. Một trong những tiêu chuẩn để dánh giá kết quả người luyện công là : Ăn ít, ngủ ít, làm việc nhiều mà cơ thể vẫn mạnh khỏe. 5- Chức năng của hệ nội tiết được cải thiện. Do tác dụng của việc luyện công lượng trao đổi chất Ađrênalin có thể sẽ giảm đi, lượng hoócmôn vỏ não và hoócmôn tăng trưởng cũng sẽ giảm đi, trong khi đó thời gian tiết dich lại kéo dài ra - nguyên nhân này có ảnh hưởng quyết định tới hệ nội tiết. Hệ nội tiết lại có liên quan tới sự sinh trưởng, phát dục và lão hóa của con người tức là nó có vai trò quan trọng đối với sinh mạng con người. Những bệnh như đau khớp, viêm khớp, viêm cơ tim...khi bệnh viện đã xử lý hết cách thì còn biện pháp cuối cùng là truyền hoócmôn, bệnh ung thư cũng như vậy. Rõ ràng chúng ta thấy hoócmôn có vai trò rất lớn đối với cơ thể con người, trong khi đó người luyện khí công lại có thể điều tiết được việc sản xuất các hoócmôn này _ đây chính là điều kỳ diệu của khí công. Khi bệnh viện dùng liệu pháp hoócmôn để điều trị thì một điều nan giải là : Uống bao nhiêu là vừa đủ ? Nếu cơ thể có thể điều tiết hoócmôn thì chắc chắn nó sẽ biết chính xác cần điều tiết như thế nào là thích hợp nhất. Lượng hoócmôn được cung cấp đầy đủ thì có thể kéo dài được tuổi thọ. Thực tế cho thấy khi phụ nữ luyện công thì tuổi mãn kinh sẽ được kéo dài ra, thậm chí có người đã tắt kinh nhưng khi chăm chỉ luyện công thì lại có kinh trở lại, mà phụ nữ càng chậm mãn kinh thì tuổi thọ càng cao. 5.1- Có tác dụng mạnh tới hệ thống cơ xương. Đối với người cao tuổi hệ xương thay đổi nhanh theo chiều hướng xấu, các chất bôi trơn khớp giảm đi, lượng can xi tăng lên tại các khớp xương, tính đàn hồi của xương kém, xương bị giòn...Khi chất xương bị tăng sinh nghiêm trọng sẽ sinh ra các gai xương gây trở ngại cho hoạt động của các khớp xương. Khi 9
khớp có gai thì người bệnh rất khó chịu, đau đớn...như gai đôi cột sống, gai khớp gối, gai khớp vai... Bệnh ở hệ xương khớp thì hầu hết do thận quyết định, tỉ lệ những người mắc bệnh thận rất cao nên những người mắc bệnh xương khớp cũng rất nhiều. Luyện khí công có thể hồi phục được các chức năng của thận, khí công sư giỏi còn có thể phẫu thuật thận để chữa bệnh thận, từ đó làm giảm bệnh xương khớp.Luyện khí công có thể điều tiết dịch bôi trơn ở các khớp xương, điều tiết được lượng Canxi đi đến các khớp xương một cách hợp lý nên hạn chế được bệnh gai xương. Khí công sư có thể phẫu thuật gai đôi cột sống hoặc gai ở những khớp xương khác. Luyện tập khí công thường xuyên hoàn toàn có khả năng tăng tính dẻo dai cho xương, từ đó tránh đựơc bệnh loãng xương và giòn xương ở người già. Chăm chỉ luyện khí công thì hệ thống cơ bắp cũng được cải thiện rất tốt bởi vì khi luyện công các cơ quan như não bộ, thành ruột sẽ sản sinh ra nhiều chất Tafin, khi cơ thể ở dạng hưng phấn khí công thì các bộ phận trong cơ thể rất dễ tiếp nhận các chất ở dạng Moócfin. Những chất này ở người nào cũng có nhưng không có nhiều, với người thường xuyên luyện công thì lượng chất này được sinh ra gấp nhiều lần. Chất Tafin là dạng Moócfin nguyên sinh có trong cơ thể con người, tác dụng giảm đau của nó mạnh hơn Moócfin nhiều lần, đồng thời nó còn có tác dụng làm cho cơ thể lâu mỏi mệt hơn. Khí công giúp cho lực co duỗi, độ căng của cơ tăng lên nhiều lần vì vậy cơ thể ta chịu đựng được thời gian lao động lâu hơn, khi bị mệt thì lại nhanh hồi phục hơn. 5.2- Điều chỉnh được nhiệt độ của da và nhiệt độ của cơ thể. Những người luyện công lâu năm có trình độ cao họ có thể điều tiết được nhiệt độ cơ thể, khi gặp lạnh thì điều tiết để cơ thể nóng ấm lên khi nóng quá thì điều tiết để cơ thể mát đi. Luyện khí công làm cho lớp Vệ khí ở dưới da hoạt động rất sung mãn vì vậy nó có thể chống lại những ngoại tà xâm nhập bảo vệ cho cơ thể chúng ta được bình yên. 5.3- Có thể điều chỉnh và cải thiện công năng miễn dịch của con người. 10
Người luyện công có thể làm tăng số lượng tế bào máu, đồng thời làm cho khả năng thôn tính của bạch cầu tăng lên, khả năng phòng dịch của cơ thể tăng lên vì vậy người luyện công ít khi bị ốm. Luyện công tốt làm cho khả năng sát trùng của bạch cầu tăng lên cho nên khả năng miễn dịch của cơ thể cũng tăng theo. Khả năng miễn dịch lại được điều tiết rất khoa học, khi nào cần nhiều thì nó tăng cường khi nào cần ít thì nó tự động giảm đi. Tác dụng của khí đối với khả năng miễn dịch có tính chất song hướng, vừa có thể giúp cho vi khuẩn tốt sinh trưởng phát triển vừa CÓ KHẢ NĂNG DIỆT CÁC VI KHUẨN KHÔNG CÓ LỢI CHO CƠ THỂ , một loại thuốc bình thường không bao giờ làm được điều này. 5.4- Người luyện công có thể phát phóng được ngoại khí. Khi có đủ nội lực người luyện công có thể phát được khí ( Năng lượng ) của cơ thể đi ra từ tay, từ ấn đường, từ bách hội, thậm chí từ toàn thân. Khí được phát ra có thể đem theo thông tin, có thể đem theo cả khí thuốc để tác động vào các đối tượng nhận khí. Mục đích của việc phát khí này là để : * Kiểm tra những khu vực cần kiểm tra xem ở đó có tà khí hay không, môi trường ở đó ra sao, các mạch đất ở đó có khuyết tật gì hay không... * Tác động vào người để khám bệnh và chữa bệnh. * Tác động vào cây trồng để tăng khả năng sinh trưởng, tăng năng suất... Năng lượng do những khí công sư (có khả năng thật sự) phát đi được rất xa bởi vì năng lượng này bị tổn hao rất ít trên đườg đi, năng lượng này có thể mang thông tin đi và có thể nhận thông tin về. Năng lượng này có thể phẫu thuật cho bệnh nhân và chữa khỏi bệnh từ xa. III KẾT LUẬN 1/ Khí công là một môn khoa học rèn luyện được cả Tâm và Thân. 2/ Khí công là môn học dễ luyện tập, thích hợp cho nhiều đối tượng và có hiệu quả cao. 3/ Khí công có thể rèn luyện nên những con người có phẩm chất tốt, có sức khỏe tốt và đặc biệt là có một trái tim nhân hậu. Tất 11
nhiên là phải do một ông thầy khỏe mạnh tài năng và nhân hậu truyền dạy. 4/ Khí công có thể đào tạo nên những người có khả năng nhìn nhận các hiện tượng tự nhiên chính xác hơn, khoa học hơn : -- Không nhìn nhận sự việc với nhãn quan duy ý trí. -- Không nhìn nhận sự việc với nhãn quan duy tâm. -- Chỉ nhìn nhận sự việc như bản chất vốn có của nó, nó có thế nào thì nói thế ấy, không lấp liếm, không lừa đảo. 5/ Khí công có thể đào tạo nên những con người có khả năng hiểu biết nhiều các quy luật tự nhiên và biết cách vận dụng những qui luật ấy vào cuộc sống thực tế để góp phần làm lợi cho cộng đồng. 6/những điều cần lưu ý khi luyện Tâm a / Phải có lòng tin và bắt đầu từ những cái nhỏ nhất. Chúng ta phải tin vào một thế giới tốt đẹp hơn, phải tin vào mọi việc sẽ tốt đẹp hơn, phải tin vào chính chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Phải tin rằng khi chúng ta thành tâm thì chắc chắn Cha – Ông ta sẽ giúp đỡ dạy bảo chúng ta. Cha –Ông ta nói ở đây là những ai ? Những con người như : Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ,Lý Thái Tổ,Lý Thánh Tông,Trần Thánh Tông,Trần Nhân Tông,Lê Thánh Tông...và Hồ Chí Minh, họ đâu có chết. Những con người đó cũng như toàn bộ nền văn hóa Tâm linh Việt Nam luôn luôn sẵn sàng dang tay đón nhận và dìu dắt chúng ta. Tôi xin chứng minh : Có một người khi về Côn Sơn luyện tập.. + Tại nền nhà cụ Nguyễn Trãi đã được cụ chỉ bảo như sau : Đến hôm nay, đời đã mở sang trang, Thang bậc ấy nhiều điều e sáo trộn. Mọi ham muốn của cuộc đời trần tục, Sự ghét ghen, đố kỵ giữa đời thường… Nếu có nghe, có thấy phải nhún nhường, Như chẳng thấy và chẳng nghe gì cả. Là tấm gương để những người thiên hạ, Khi nhìn vào, không vết ố… Nghe con ! Có bấy nhiêu thôi, hãy giữ trọn lòng, 12
Niềm tin ấy đặt vào con… Nhiều lắm. + Tại đền thờ Thượng tể Cổ trạch, cụ Trần Quốc Chẩn dạy : Quốc phụ ta đây vẫn mỉm cười, Giúp con hành đạo khắp muôn nơi. Con đi hành đạo , ta hành đạo… Cũng bởi nhân duyên tự kiếp nào. + Tại Yên Tử, Sư tổ Huyền Quang dạy : Đời đạo song tu , mấy kiếp người, Gieo niềm hạnh phúc đã bao nơi. Vui mà hành thiện , tâm con thiện, Buồn mà hành thiện, con thiện tâm.
13
Vận dụng những quan điểm và học thuyết triết học cổ phương Đông trong tập luyện khí công. Nền triết học Đông phương cổ đã có hình thành và phát triển từ lâu đời. Nhờ những quan điểm, những học thuyết này chúng ta có thể giải thích các hiện tượng trong vũ trụ biến hóa vô lường, trong cơ thể sống, cũng như áp dụng trong quá trình luyện tập khí công, chữa bệnh bằng khí công. Trong quá trình luyện tập khí công nói chung và KCTL nói riêng, chúng ta đều phải vận dụng các quan điểm, các học thuyết triết học phương Đông này. 1. Các quan điểm thường vận dụng trong luyện tập: a) Thuận theo tự nhiên: Trong cơ thể con người mọi hoạt động đều theo một quy luật, một trật tự nhất định. Nếu ta tôn trọng quy luật, trật tự ấy trong luyện tập, đó là sự thuận tự nhiên ở bên trong cơ thể. Cũng như vậy, mọi hoạt động của vũ trụ cũng đều theo quy luật nhất định. Ta phải tôn trọng những quy luật, trật tự ấy trong quá trình luyện tập. Đó là sự thuận tự nhiên bên ngoài cơ thể. Trong quá trình luyện tập không được gò ép, không được làm trái quy luật. b) Dụng tâm dẫn ý – sinh khí – tạo lực: Tức là dùng ý niệm, mật lệnh nhằm tập trung năng lượng, khi tập trung cao độ sẽ tạo được lực cho năng lượng, dùng ý đưa năng lượng đến nơi cần thiết. Chỉ khi tạo được lực của năng lượng thì mới có giá trị cao để sử dụng năng lượng vào các mục đích khác nhau. Một điều hết sức quan trọng là ý và năng lượng phải đồng bộ với nhau. Không được dùng lực mà phải dùng ý chí trong luyện tập và chữa bệnh. Bởi vì, phương pháp của KCTL là phương pháp tĩnh khí công. Để có thể dụng tâm dẫn ý – sính khí – tạo lực thì người tập khí công phải: - Tự nguyện:
14
Mỗi người phải tự nguyện luyện tập. Nếu luyện tập vì một sự thúc ép nào đó (dù là quyền lực hoặc sự thúc ép về kinh tế) hoặc theo trào lưu, không có một sự hiểu biết nhất định, thường kết quả không được tốt... Trong quá trình luyện tập, tự mỗi người phải tự nguyện khắc phục những khó khăn trở ngại để có thể tập trung ý nghĩ luyện tập cho thật tốt. Chỉ có tự mình luyện tập mới có thể tìm tòi, suy nghĩ nảy sinh sáng kiến giúp cho quá trình luyện tập được tốt hơn. Có như vậy mới có thể tiến bộ và đạt được những kết quả mong muốn, đẩy lùi được bệnh tật hoặc kéo dài được tuổi thọ và có thể đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực Khí công. - Định tâm: Trong khi tập luyện (cũng như khi hành công) người tập phải tập trung tư tưởng, gạt bỏ mọi tạp niệm. Ý nghĩ trong sáng hướng vào mục tiêu tốt đẹp, mục đích rõ ràng. Như vậy sẽ dẫn được ý, tạo được khí và khí tạo ra mới có lực. Việc luyện công và hành công sẽ đạt kết quả cao. Tạp niệm là những suy tư, ý nghĩ đã có sẵn trong trí não của chúng ta. Tạp niệm phát sinh từ tri thức. Bởi vậy, người học nhiều, người hay suy tư thường có nhiều tạp niệm hơn người thật thà chất phác và ít học. Tri thức là căn bệnh lớn nhất của con người. Nó sinh ra phiền não, là đầu mối của tham sân si, là căn nguyên của nhục dục. Muốn gạt bỏ tạp niệm thì chớ nên cố gắng gạt bỏ tạp niệm. Càng cố gắng chừng nào thì tạp niệm càng khởi phát chừng đó. Hãy hiểu ràng: Tâm tư của chúng ta như mặt nước, còn tạp niệm thì như những hạt bụi. Nếu để yên, tự nó theo thời gian sẽ lắng đọng. Tạp niệm đến rồi đi, tự nhiên như gió vào nhà trống. Chúng ta thiền định tốt, dần dần sẽ đạt được khí hòa, thần định, tâm bình. Khi đó tạp niệm cũng tự nhiên biến mất mà không cần gạt bỏ. - Làm chủ: Tức là làm chủ bản thân, làm chủ ý thức… của mình. Càng học cao, càng phải làm chủ ý thức. 2. Vận dụng thuyết âm dương: 15
Thuyết âm dương phát triển phổ biến và bùng phát mạnh vào thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc. Lúc này thuyết âm dương không còn đơn thuần để diễn tả ánh mặt trời và bóng tối nữa. Cổ nhân đã dựa vào các thuộc tính của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và cơ thể để quy nạp vào tính chất của âm, dương. Đồng thời cũng sáng tạo ra cơ sở của hệ thống tư duy cơ bản, đó là hai phạm trù đối lập nhau: Âm và Dương. Thuyết âm dương là một học thuyết triết học về Thế giới quan và Vũ trụ quan. Khi vận dụng vào Đông y, khí công, nó đã trở thành một phương pháp tư duy, suy luận, lý giải và là nền tảng của mọi phép luyện tập, chữa bệnh. Khi người ta sinh ra, bẩm thụ khí của trời đất cho nên thông với thiên khí và cũng là căn bản của sự sống. Âm dương trong cơ thể cũng tùy theo sự vận động của âm dương trong tự nhiên mà biến hóa không ngừng. Nếu cơ thể quân bình âm dương thì khỏe mạnh, vô bệnh vô tật. Cổ nhân đã nói: “bách bệnh giai sinh vu khí” (trăm thứ bệnh đều do khí mà ra). Âm khí và dương khí trong cơ thể mà mất cân bằng sẽ sinh rối loạn và bệnh sẽ phát sinh. Nếu ta dùng khí để lập lại sự cân bằng ấy, bệnh sẽ ổn định rất nhanh. Đây là một lợi thế của khí công chữa bệnh. 3. Học thuyết ngũ hành: Ngũ hành là năm loại vật chất với năm đặc tính vận đông và biến hóa khác nhau: hỏa, thổ, kim, thủy, mộc. Đây là năm yếu tố cấu thành nên thế giới. “Hành” nghĩa là đi, là vận động, biến hóa và các mối quan hệ lẫn nhau của 5 loại vật chất này. Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc trong ngũ hành để giải thích thế giới, xây dựng hệ thống tư duy, giải thích mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, đời sống. Học thuyết ngũ hành giải thích tất cả mọi thứ trong tự nhiên đều do 5 loại nguyên liệu tạo thành là: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tuy theo sự thịnh suy của 5 loại nguyên liệu này và tự nhiên phát sinh các biến hóa chuyển đổi, những biến hóa này không những ảnh hưởng đến sự sống và số phận của loài người mà còn khiến vạn vật trong vũ trụ biến đổi tuần hoàn không dứt. Thuyết ngũ hành đã đi vào lĩnh vực Đông y, vận dụng thuyết ngũ hành để phối thuộc với ngũ tạng trong cơ thể: Phế thuộc 16
Kim, Tỳ thuộc Thổ, Tâm thuộc Hỏa, Thận thuộc Thủy, Can thuộc Mộc. Mối quan hệ của các tạng cũng có mối quan hệ tương sinh, tương khắc như của ngũ hành. Khi vận dụng thuyết ngũ hành vào cơ thể người có thể giải thích rất rõ mối quan hệ giữa các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Trong cơ thể, nếu ngũ hành phân bố cân bằng hoặc hoạt động theo quy luật thì cơ thể có trạng thái sinh lý bình thường, nếu phân bố không cân bằng hoặc hoạt động trái quy luật thì rơi vào trạng thái bệnh lý.
Quy luật Ngũ hành sinh khắc 4. Thuyết Thiên – Địa – Nhân hợp nhất: Theo “Nội kinh Hoàng đế”, Y học truyền thống phương Đông với triết học phương Đông đều từ một nguồn gốc sinh ra, có ảnh hưởng lẫn nhau. Thuyết “Thiên Địa Nhân hợp nhất” là do Nho gia và quan điểm “Ngũ hành” của Đạo gia đã thấm nhuần và xuyên suốt toàn bộ lý luận của Đông y. Trời, đất và người mỗi thứ là một vũ trụ, không có sự phân biệt, chỉ khác ở quy mô lớn nhỏ… con người tương ứng với trời, đất. “Thiên chân”, “chân khí”, “chân nhân” là những cái thuần khiết xác thực nhất của tự 17
nhiên. Khi tập luyện dưỡng sinh, khí công điều quan trọng nhất là sự hòa hợp thống nhất giữa con người và tự nhiên. Để đạt được những thành tựu trong luyện tập khí công, nhất thiết chúng ta phải vận dụng triệt để các quan điểm và học thuyết cố phương Đông ở trên.
18
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ KHI LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG – TÂM LINH I.
Bạn hiểu gì về môn Khí công – Tâm linh.
1/ Đặc thù của môn học : + Dùng Thiền định là phương pháp cơ bản trong suốt quá trình. + Dùng Linh pháp kết hợp với Thực pháp để tạo được hiệu quả luyện tập cao nhất. + Có thể đào tạo về nhiều lĩnh vực thuộc Thế Giới Vô Hình. + Có thể khai mở Thiên nhãn , Thiên nhĩ cho một số người “có duyên” + Đào tạo được các thầy dùng khí công để chữa bệnh. + Có thể kích phát được những tiềm năng đặc biệt của con người, nhằm phục vụ cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống thực tại. 2/ Tính Logic của môn học : + Cơ thể có được khai mở Huyệt đạo, Khai mở hệ thống Luân xa…thì mới có khả năng giải tỏa được năng lượng xấu và tiếp nhận được năng lượng mới tốt hơn. + Cơ thể có được khai thông tất cả Kinh mạch, Lạc mạch, hệ thống đường ống dẫn năng lượng… thì mới tao điều kiện để năng lượng được lưu thông và chuyển hóa tốt nhất. + Cơ thể có hết bệnh thì mới bàn đến chuyện khai mở Thiên nhãn, Thiên nhĩ và kích phát các tiềm năng khác của con người. + Con người có cơ thể Vật lý và cơ thể năng lượng. Bệnh tật của người ta biểu hiện trên cả hai cơ thể vật lý và năng lượng, có những mầm bệnh đã xuất hiện trên cơ thể năng lượng nhưng chưa xuất hiện trên cơ thể vật lý. Chữa bệnh bằng Khí công là phương pháp chữa bệnh chủ yếu trên cơ thể năng lượng, khi cơ thể năng lượng khỏi bệnh thì tùy thuộc vào cơ chế chuyển hóa năng lượng của mỗi người mà cơ thể vật lý sẽ khỏi bệnh nhanh hay chậm. + Trước hết phải trở thành một NGƯỜI tốt, sau đó hãy bàn đến chuyện Giải thoát và tu luyện lên các tầng cao hơn. 19
3/ Khả năng ứng dụng có hiệu quả vào đời sống. + Người luyện tập được nâng cao sức khỏe một cách rõ rệt, một số bệnh thông thường sẽ không bị mắc phải. Bệnh nghiệp kiếp sẽ dần bộc lộ và sẽ được giải quyết. + Người chăm chỉ luyện tập sẽ có một trường năng lượng mạnh, trường năng lượng này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới mọi người trong gia đình. Nếu bố mẹ hoặc ông bà có trường năng lượng mạnh thì sẽ rất tốt cho các cháu nhỏ, trong môi trường ấy các cháu nhỏ ít bị ốm đau hoặc sẽ nhanh chóng khỏi bệnh hơn những trẻ khác. + Luyện tập chăm chỉ và có hiệu quả thì không chỉ thay đổi về thể chất mà tính nết cũng sẽ thay đổi theo. Con người sẽ minh mẫn hơn, bình tĩnh sáng suốt hơn, nhân hậu hơn, yêu đời hơn và tình thương rộng lớn hơn. + Luyện tập đạt đến trình độ cao thì có thể chữa được nhiều loại bệnh cho người khác, trong đó có một số bệnh nan y mà bệnh nhân đã bị bệnh viện trả về. II . Phương pháp luyện tập 1/ Tuân thủ nghiêm ngặt phương pháp luyện tập của môn học. Phương pháp luyện tập cơ bản của môn Khí công – Tâm linh là thiền định, cho nên chúng ta phải hiểu và biết cách thiền cho đúng. + Thiền là biện pháp giảm thiểu những suy nghĩ không cần thiết, để đưa cơ thể vào trạng thái mơ mơ màng màng và từng bước đưa cơ thể vào trạng thái nhập định. + Nhập định là trạng thái thiền bậc cao mà trong trạng thái đó thì não bộ gần như không còn suy nghĩ gì cả. Trong trạng thái này việc đầu tiên là cơ thể sẽ được làm sạch, não bộ sẽ dễ dàng tiếp nhận được các thông tin từ không gian, bệnh tật sẽ được chữa, sẽ thu nhận được rất nhiều kiến thức khoa học mới lạ ở nhiều lĩnh vực khác nhau mà cuộc sống trần tục không có được …Năng lượng của cơ thể được tăng cường và năng lượng tiềm năng của con người sẽ được giải phóng từ đó kích phát được những khả năng đặc biệt mà người bình thường không có. 20
+ Thiền có thể được thực hiện ở ba trạng thái : Hành thiền (đi thiền), Tọa thiền (ngồi thiền) , Ngọa thiền (nằm thiền). Hành thiền, thường chỉ những người tu chuyên nghiệp mới có điều kiện để thực hiện. Tọa thiền, được nhiều người học thiền sử dụng nhất. Tư thế ngồi và yêu cầu cần có đối với người ngồi thiền được thể hiện qua bài thơ sau:
Đường Tu Ngửa hai tay tay thu khí trời vô tận. Nhắm mắt, thẳng lưng, miệng ngậm, tâm trong. Thả hồn vào cõi vĩnh hằng, An vui, hạnh phúc, san bằng khổ đau. * Việc thứ nhất làm mau buông bỏ, Việc thứ hai sáng tỏ tâm mê. Việc thứ ba trí tuệ thu về, Một trang trắng mở ra chờ đợi. * Muốn thiền, thiền phải có duyên, Muốn tu, muốn luyện, phải chuyên tâm này. Tâm thẳng, không cần ăn chay, Mặc dù ăn mặn, tâm này vẫn trong. * Người ta lễ Bắc, lễ Đông, Tôi không đi được, tu Tâm tại nhà. Thứ nhất là tu tại gia, Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. * Đường tu vạn tám, ngàn tư. Thiền là rời bỏ ưu tư đời trần. Tu vì vạn vật chúng sinh, Con đường ngắn nhất tới gần Lương tri.
21
Như vậy yêu cầu quan trọng nhất đối với người thiền định là phải buông bỏ, nói cụ thể hơn là khi ngồi thiền phải đưa được tất cả mọi hoạt động của con người “về không”, “một trang trắng mở ra chờ đợi”. Nhắm mắt lại một cách nhẹ nhàng để bắt đầu buông bỏ, ngồi thẳng lưng, hai bàn tay ngửa ra đặt lên đùi chỗ gần hai đầu gối, ngón cái và ngón trỏ bấm nhẹ vào nhau, kết “vô minh ấn” để dễ nhập thiền. Hai chân có thể ngồi kiết già là tốt nhất, nếu không kiết già được thì ngồi bán già, bằng không thì ngồi xếp bằng cũng được. Để có thể buông bỏ được mọi việc, kể cả suy nghĩ của mình thì biện pháp thả lỏng cơ thể là hữu hiệu nhất. Đầu tiên là thả lỏng tay, thả lỏng đến mức ta phải nghĩ rằng hai tay ta không còn lực nữa, nó giống như người bị liệt, nếu có ai nhấc tay ta lên rồi bỏ ra thì nó sẽ rơi xuống tự do. Sau đó tiếp tục thả lỏng các cơ khác trong toàn cơ thể, sao cho khi ta ngồi thì toàn bộ trọng lượng cơ thể dồn xuống hai mông và chỉ ở đấy mới có cảm giác còn những chỗ khác cảm giác gần như bằng không. Sau khi thả lỏng cơ rồi thì ta thả lỏng não, các ý nghĩ nó luôn luôn đổ xô vào não một cách tùy tiện nhất, ta phải tìm cách gạt nó ra, cố gắng đưa não về trạng thái không nghĩ gì cả. Suy nghĩ trong não chỉ có thể về không trong giây lát thì các ý nghĩ khác nó lại dồn dập xô vào !...!...Ta phải kiên trì luyện dần rồi sẽ thành thói quen. Một trong những biện pháp giảm thiểu suy nghĩ trong não rất tốt đó là “Chỉ chú ý vào hơi thở của mình mà không nghĩ đến những cái khác”. Chỉ tập trung quán sát hơi thở khi ta hít vào, chỉ khi hít vào thôi còn khi thở ra thì không cần quan tâm…Cứ quán sát hơi thở vào như thế liên tục, liên tục và đều đặn cho đến khi cơ thể chúng ta rơi vào trạng thái “mơ mơ màng màng”. Ngọa thiền tưởng rằng dễ nhưng thực ra còn khó hơn tọa thiền. Ngọa thiền là phải nằm thả lỏng cơ thể và bất động hàng giờ. Nằm bất động để đưa cơ thể vào trạng thái thiền định mơ mơ màng màng nhưng lại không được ngủ. Nói một cách khác là : “ Ngọa thiền là trạng thái không ngủ mà như ngủ, ngủ mà như không ngủ”. 2/ Những hiện tượng thường xảy ra khi ngồi thiền. Có nhiều người nói rằng khi thiền phải hoàn toàn vô thức, sự thật thì điều đó không dễ làm được đâu, sự vô thức thực sự chỉ 22
xảy ra trong một thời gian rất ngắn mà thôi. Trạng thái “mơ mơ màng màng” là trạng thái : Ta ngồi đây mà không rõ có phải ngồi đây hay không ? Ta vẫn nghe được tiếng động phát ra ở xung quanh nhưng nó cứ văng vẳng, như xa như gần, lúc rất rõ, lúc lại thoảng qua… Những âm thanh mà ta nghe được lúc đó, nó đập vào não ta xong rồi cứ như nó trôi tuột đi đâu mất chứ không đọng lại được. Người tự dưng ngả ra sau hoặc cúi về phía trước, vẫn biết là như vậy nhưng không chống lại được…Người tự dưng rung lắc, có lúc nhẹ nhàng nhưng cũng có lúc rất mạnh, muốn dừng lại mà không dừng được… Có lúc tay tuột xuống không còn đặt trên đầu gối nữa nhưng không thể đặt nó trở lại được, thậm chí không biết nó rơi lúc nào. Có lúc cảm thấy người mình như bay lên không còn ngồi dưới đất nữa, có lúc thoáng nhìn thấy mây bay hoặc nhìn thấy một cánh rừng nào đó. Có lúc như được đi vào một khoảng không vắng lặng hoàn toàn, ở đó không có gì cả. Một buổi thiền có được những hiện tượng trên là một buổi thiền có kết quả tốt.
23
3/ Thiền trong môn Khí công – Tâm linh. Đặc điểm của thiền trong Khí công – Tâm linh là thiền có lời dẫn luyện. Trong phần Linh pháp thì mỗi bài luyện là một trận khí, khi trận khí xuất hiện thì nó sẽ tạo ra một môi trường thiền định rất tốt, vì vậy người luyện dễ nhập thiền hơn. Cho nên ngoài những cảm nhận chung giống như những môn thiền khác thì khi thiền theo Khí công – Tâm linh còn có những cảm nhận riêng của nó. a/ Giai đoạn luyện tập ban đầu của KCTL. Giai đoạn này chủ yếu là dùng Linh pháp với mục đích: Khai mở Luân xa, huyệt đạo…Khai thông Trục sinh lực, khai thông hệ thống đường ống dẫn năng lượng trong toàn cơ thể, khai thông kinh mạch …Thanh lọc cơ thể và chữa bệnh. Ở giai đoạn này chưa yêu cầu người tập phải vận khí, người tập chỉ ngồi thiền thụ động và luyện khả năng cảm nhận để nhận biết được sự biến động và lưu chuyển của khí trong cơ thể mình. Nếu người luyện chăm chỉ thì sẽ nhận biết được các hiện tượng về khí trong cơ thể như sau : + Đỉnh đầu Bách hội thấy tê buồn như có gió nhẹ thổi làm rung tóc ở đỉnh đầu, vì Bách hội đang được khai mở. + Đầu ngón tay thấy tê buồn vì khí độc khí bệnh thoát theo đường kinh để đi ra khỏi cơ thể. + Ấn đường thấy nhột nhột vì đang được khai mở. + Cơ thể có thể bị rung lắc, một số vùng trên cơ thể có thể bị đau do việc giải bỏ khí độc và chữa bệnh đang được triển khai tại những khu vực ứ đọng đó. Tùy theo cơ thể người bệnh bị mắc bệnh nặng hay nhẹ mà mức độ rung lắc hay đau có khác nhau. + Sau thời gian luyện tập liên tục từ 15 ngày đến hai tháng thì người bệnh cảm thấy cơ thể thanh thoát nhẹ nhàng hơn, khí sắc sẽ tốt hơn, một số bệnh thông thường sẽ giảm hẳn và có thể khỏi hẳn. b/ Giai đoạn luyện tập nâng cao Giai đoạn này bắt buộc phải được Thầy hướng dẫn trực tiếp. Các bài luyện là các trận khí phức tạp có uy lực mạnh để tăng cường khả năng khai mở và bước đầu kích phát tiềm năng con người. 24
Học trò bắt đầu tập thở 4 thì để khai mở Đan điền, kích phát Đan điền phát sinh Chân khí nhằm tăng cường nội lực. Khi cơ thể đã sạch, khí bệnh và các dạng năng lượng xấu khác được giải tỏa, hệ thống Luân xa được khai mở ổn định, nội lực tương đối đầy đủ thì tiềm năng của người luyện bắt đầu hiển lộ. Các bệnh về nghiệp kiếp sẽ bộc lộ dần và được giải theo từng kiếp. Trong giai đoạn này có thể có người đã được mở thiên nhãn, thiên nhĩ, có người thì nhìn hoặc nghe thấy loáng thoáng, có ít người nhìn và nghe rõ. Khả năng cảm nhận của hầu hết học trò là tốt. Tiếp xúc với môi trường năng lượng xấu có thể nhận biết khá rõ, một số người đã học được cách giải tỏa năng lượng xấu và biết trấn đất. Nhiều học trò đã nhận biết được mình đang xuất vía đi vào không gian khác. Nhiều người đã chữa được bệnh cho người khác. c/ Giai đoạn học chuyên luyện Giai đoạn này Học trò được học về: Trận pháp, chữa bệnh nâng cao, phương pháp tiếp cận và làm việc trong không gian. V…v… 4/ Ghi chép, suy nghĩ học hỏi để tích lũy và bổ xung kiến thức. a/ Ghi chép, tích lũy, bổ xung. Hầu hết các bài tập là các trận pháp vì vậy năng lượng mang thông tin mà nó đem đến cho người tập là rất lớn. Có người tập đến mức thuộc lòng tất cả các lời dẫn trong bài rồi nhưng lâu ngày giở bài đó ra tập lại thì vẫn tìm thấy kiến thức mới ở trong đó. Nếu thật sự đam mê môn học này thì cần phải luyện tập hết sức nghiêm túc, chăm chú lắng nghe, học hỏi và đào sâu suy nghĩ. Hãy lắng nghe cơ thể mình vì những thông tin từ trong đó sẽ giúp ta trả lời được rất nhiều câu hỏi tưởng rằng không có câu trả lời. Nên có sổ tay để ghi chép những kiến thức cơ bản, ghi chép những cảm nhận và hiện tượng lạ mà ta gặp trong quá trình luyện tập. Nên tự đặt ra câu hỏi, tự tìm lấy câu trả lời hoặc nhờ bạn nhờ Thầy trả lời để bổ sung kiến thức. 25
Hãy làm quen và tập dần một phương pháp tư duy mới, tư duy phi trần tục. b/ Thực hành để kiểm định kết quả học tập. Đưa những kiến thức học được trong thiền định vào cuộc sống thực tế để kiểm định lại tính thực tiễn và tính khoa học của nó trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống trần tục. Chỉ những lý thuyết nào được thực tiễn chứng minh thì mới có giá trị thật sự. Chỉ người nào biết uống rượu và sành rượu thì mới có thể phân biệt được rượu nào ngon hơn rượu nào.
26
Một Số KHÁI NIỆM VỀ KHÍ A/ Khí là gì ? Khí của con người ta, theo nguồn gốc của nó được chia làm hai loại: Khí Hậu thiên & Khí Tiên thiên. - Khí Tiên thiên được cha mẹ truyền cho từ trong bụng mẹ nó được gọi là Nguyên khí. - Khí Hậu thiên do con người tự sản xuất ra sau khi lọt lòng mẹ. Khí Hậu thiên bao gồm ba loại khí: Tông khí, Dinh khí và Vệ khí. Ở đây chúng ta chỉ bàn đến khí Hậu thiên. B/ Khí Hậu thiên. Khí Hậu thiên gồm có ba loại: 1/ Tông khí. 1.1/ Nguồn gốc của Tông khí. * Tông khí là thứ khí hợp thành từ khí trời và tinh khí từ đồ ăn thức uống (khí đất). Khí trời được hít qua mũi vào Phế, tinh khí của đồ ăn thức uống được Tỳ vận chuyển lên Phế. Hai thứ khí này kết hợp với nhau và tụ ở Đản trung trước ngực tạo nên Tông khí. 1.2/ Công dụng của Tông khí. Công dụng chủ yếu của Tông khí là đi lên mũi để quản lý hơi thở, đi lên họng để quản lý tiếng nói, đi vào Tâm mạch để thúc đẩy sự vận hành của khí huyết. Nếu Tông khí từ Phế không đi xuống được thì Huyết ở trong mạch sẽ bị ngừng lại không vận hành được. Sự mạnh yếu của hô hấp, thanh âm, ngôn ngữ, sự vận hành của khí huyết cho đến sự nóng lạnh và sức hoạt động của cơ thể có quan hệ mật thiết với Tông khí. 2/ Dinh khí 2.1/ Nguồn gốc của Dinh khí. * Dinh khí là tinh khí (âm khí) trong đồ ăn thức uống, bắt nguồn từ Tỳ, Vị ở Trung tiêu. 2.2/ Công dụng của Dinh khí. 27
Công dụng chủ yếu của Dinh khí là hóa sinh huyết dịch để dinh dưỡng cho toàn thân. Dinh khí từ Trung tiêu đi ra, dồn lên Phế mạch gặp khí trời và biến hóa làm cho Huyết có sắc đỏ. Sau khi Dinh khí đã đi vào huyết, nó chảy vào trong thì dinh dưỡng cho lục phủ ngũ tạng, khi tản ra ngoài thì nó làm tươi nhuận cho gân, xương, da, lông. 2.3/ Đường vận hành của Dinh khí Dinh khí xuất phát ở Trung tiêu đi ở trong mạch theo trình tự các đường kinh: Thái âm Phế, Dương minh Đại trường, Dương minh Vị, Thái âm Tỳ, Thiếu âm Tâm, Thái dương Tiểu trường, Thái dương Bàng quang, Thiếu âm Thận, Quyết âm Tâm bào, Thiếu dương Tam tiêu, Thiếu dương Đởm, Quyết âm Can, mạch Đốc, mach Nhâm rồi trở lại Thái âm Phế…Dinh khí cứ tuần hành như vậy, với mỗi một ngày đêm nó tuần hoàn được 50 chu kỳ trong cơ thể. Dinh khí có tác dụng chuyển hóa thành huyết để nuôi dưỡng cơ thể và thúc đẩy sự tuần hoàn của huyết dịch. Nếu Dinh khí không đủ thì cơ thể sẽ không được nuôi dưỡng tốt. 3/ Vệ khí. 3.1/ Nguồn gốc của Vệ khí. * Vệ khí là thứ khí bảo vệ cơ thể, giúp cho cơ thể có một màng lưới để chống ngoại tà xâm nhập. Vệ khí là thứ khí nhanh mạnh (dương khí) trong đồ ăn uống bắt nguồn từ Thượng tiêu. Vệ khí có tính linh hoạt cương cường, thích dong duổi xuyên thâu, nó đi ở ngoài mạch. Bên trong thì Vệ khí có tác dụng sưởi ấm vùng màng lưới để ôn dưỡng cho ngũ Tạng, lục Phủ; bên ngoài thì luồn trong tầng da thớ thịt để ôn dưỡng cho cơ nhục, da dẻ và điều lý việc mở đóng các lỗ chân lông. Vệ khí chẳng những ôn dưỡng được cho tất cả các tạng phủ trong ngoài mà còn có công năng bảo vệ tầng biểu bì để chống khí ngoại tà xâm nhập. 3.2/ Đường vận hành của Vệ khí. * Ban ngày Vệ khí đi thành hai đường: Một đường đi từ đầu xuống hai cánh tay rồi tán ra ở hai bàn tay. 28
Một đường đi từ đầu xuống hai chân qua kinh Thận vào mạch Kiểu, trở về mắt và tiếp tục tuần hoàn như vậy. Nhiệm vụ của Vệ khí là: Làm ấm, nhu nhuận, làm khỏe cơ phu, bảo vệ phần ngoài của cơ thể và mở đóng các lỗ chân lông. * Ban đêm Vệ khí đi từ Thận lên Tâm qua Phế xuống Can sang Tỳ xuống Thận rồi lại lên Tâm …Có nhiệm vụ làm ấm, nhu nhuận và bảo vệ nội tạng để con người có giấc ngủ yên. Ban ngày Vệ khí đi 25 chu kỳ, ban đêm Vệ khí cũng đi 25 chu kỳ, như vậy một ngày đêm Vệ khí cũng tuần hoàn 50 chu kỳ. Nếu Vệ khí yếu thì các tổ chức trong cơ thể sẽ ít ấm hơn có lúc còn bị lạnh, sức chống đỡ của cơ thể sẽ yếu đi làm cho khí xấu, khí bệnh dễ xâm nhập. C/Kết Luận: * Tông khí là khí hợp thành từ khí trời và tinh khí từ đồ ăn thức uống (khí đất), nó là khí Hậu thiên. * Nguyên khí là thứ khí do tinh cha huyết mẹ truyền cho con từ ở trong bào thai, nó là khí Tiên thiên. * Chân khí là thứ khí được tạo nên nhờ sự kết hợp từ Tông khí là một thứ khí Hậu thiên ở ngực và Nguyên khí là một thứ khí Tiên thiên ở Thận. * Chỉ có Chân khí mới có tác dụng nuôi dưỡng cho toàn thân. *** Chính vì vậy người luyện công luôn luôn phải tạo ra một Chân khí dồi dào để từ đó có một năng lượng bản thể đầy đủ, vững mạnh.
29
Khí Công Tâm Linh I.Mấy lời tâm huyết. Tôi là người mang một căn bệnh rất nặng, đi chữa khắp nơi không khỏi, thậm chí không có thầy thuốc nào biết được căn nguyên của bệnh. May quá gặp được môn khí công, đi học được một thời gian rồi sau đó là tự luyện tập. Đến nay tôi đã tự biết được bản chất của căn bệnh lạ này và cơ bản là bệnh đã khỏi. Trong quá trình luyện tập cũng có thu lượm được một số kiến thức...trong đó có cả những kiến thức thuộc "Thế giới vô hình". Tôi có mong muốn đem những kiến thức mà mình học hỏi được để chia sẻ với những người có cùng hoàn cảnh hoặc sở thích và đặc biệt là những người đang khát khao đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi: - Ngoài thế giới trần tục, có còn thế giới nào khác hay không ? - Liệu có thể đem những điều tốt đẹp từ TGVH về thế giới trần tục cho dân mình hay không ? - Có phương pháp nào chữa được các căn bệnh hiểm nghèo như ung thư,viêm gan…hay không? Nếu chúng ta thật sự tâm huyết,có một nhãn quan đúng và một phương pháp hợp lý thì tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho những câu hỏi trên. Người tâm huyết phải là những người toàn tâm toàn ý đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên,và còn phải có “duyên” nữa.Người có nhãn quan đúng là những người phải có cách nhìn sự vật như bản chất vốn có của nó.Không để bị phụ thuộc vào những quan điểm cũ trước đây, không lấy một lý thuyết cũ để cố giải thích một hiện tượng mới,có thể có những hiện tượng tự nhiên nằm ngoài khả năng giải thích của những lý thuyết đã có.Phương pháp hợp lý trong lĩnh vực này chính là ngồi thiền. II.Môn học khí công. 1/ Định nghĩa Khí công là phương pháp luyện khí,bồi bổ khí và điều khí trong cơ thể lưu thông theo ý muốn nhằm mục đích nâng cao sức khỏe,phòng và chữa một số bệnh.Tạo điều kiện để kích phát những tiềm năng đặc biệt cho một số người,tất nhiên những người có khả năng đặc biệt sẽ làm được những việc đặc biệt mà những người khác không thể làm được. 30
2/ Quan niệm về Khí trong Khí công Theo quan điểm Y học phương Đông: Trong cơ thể con người có hai thành phần quyết định sự sống đó là Khí và Huyết. Khí và huyết có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.Khí là thống soái của huyết,huyết là mẹ của khí,khí hành thì huyết hành,huyết hành thì khí hành. Khí trong cơ thể con người không chỉ thuần túy là khí của sự hô hấp (hơi thở) mà còn là một dạng vật chất vi tế cực kỳ nhỏ bé và rất linh hoạt.Khí vi tế ấy hoạt động trong tất cả kinh mạch,huyết mạch,nội tạng,cơ xương,thần kinh và ở khắp cơ thể.khí vi tế ấy chính là khí bức xạ sinh học.Có rất nhiều loại khí như: khí Tiên thiên,khí Hậu thiên,nội khí, ngoại khí,thiên khí, địa khí,sinh khí,thực khí,nguyên khí, chân khí,khí tạng và hào quang khí.v..v.. III. Đặc điểm của môn Khí công Tâm linh. Kết hợp tinh hoa của Thiền phái trúc lâm Việt Nam và sự chỉ dẫn giúp đỡ trực tiếp của các lực lượng trong thế giới tâm linh. a/ Tinh hoa của Thiền phái trúc lâm Việt nam. Tư tưởng của thiền phái trúc lâm do tam tổ trúc lâm: - Đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng trần Nhân Tông - Đệ nhị tổ Thiền sư Pháp Loa Đồng Kiên Cương - Đệ tam tổ Thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái đề xướng. với chủ trương “Cư trần mà lạc Đạo”, cứ ở cõi đời mà vui đạo và hoàn toàn có thể tu luyện tốt trong khi chúng ta vẫn phải lo toan những công việc trần tục. Đây là một quan điểm tôn giáo sâu sắc và rất tiến bộ “Đời-Đạo song tu”.Việc đầu tiên của tu đạo theo quan điểm này là hãy làm một người tốt,một người thẳng thắn trung thực biết hạn chế lợi ích của cá nhân vì lợi ích của cộng đồng của dân tộc.Hãy tìm phật ở chính Tâm của mình và hãy sử dụng ngay sức mạnh ấy, nguồn năng lượng vô tận ấy để cải tạo cuộc đời trần tục này.Tu luyện để làm cho cuộc sống trần tục của chúng ta tốt đẹp hơn lên. Tinh hoa của thiền phái trúc lâm đã được hội tụ trong chính con người của Điều Ngự Giác Hoàng Trúc lâm Sư tổ: “ Dạy dân tu thiền giáo, yêu đạo yêu đời. Dẹp giặc độ chúng sinh,làm Vua – làm Phật” 31
“Đạo Phật cấm sát sinh song giết giặc cứu dân không có gì trái đạo…,ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối, ở đâu tu cũng được lúc nào tu cũng được,tu thì lâu cạo đầu mấy chốc,thứ nhất tu tại gia thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa.” Chúng ta đang đi theo đường đạo của một nhà ngoại giao lớn, một tướng tài, một nhà thơ, một thiền sư, một người anh hùng dân tộc, một vị Vua anh minh và một đức Phật. Phương pháp tu luyện của thiền phái trúc lâm là “Tĩnh công ý thức”, đó là quá trình : luyện Tinh sinh Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, luyện Hư hợp Đạo. Dùng cách tĩnh tọa,dụng tâm ý để phát động nội khí vận hành thuận tự nhiên, điều chỉnh sự cân bằng nội ngoại sao cho nhịp sinh học của con người hài hòa với thời sinh học của thiên nhiên vũ trụ.Tìm hiểu bản chất của khí,làm chủ khí để chủ động điều tiết hoạt động của khí trong cơ thể nhằm duy trì nâng cao sức khỏe và từng bước khám phá phát huy tiềm năng trong mỗi con người. Trong khi luyện tập yêu cầu phải tuân theo một số nguyên lý nhất định trong đó có nguyên lý cơ bản: “Dụng Tâm dẫn Ý,sinh Khí tạo Lực”. b/ Lực lượng vô hình sẽ hỗ trợ và có thể trực tiếp chỉ đạo thông qua nội dung mỗi bài luyện. Trong quá trình luyện tập của bất cứ môn thiền định nào cũng có hai phần “Thực pháp và Linh pháp”.hai phần này có thể tách ra một cách tương đối để luyện tập nhưng nói chung là chúng hòa quyện vào nhau.Trong quá trình luyện tập mà dùng nhiều linh pháp thì dễ kích phát được tiềm năng hơn vì vậy có nhiều học trò có khả năng tiếp cận được với TGVH,học trò tuy ở xa thầy nhưng vẫn luyện tập có kết quả tốt.Tất nhiên linh pháp là phương pháp khó sử dụng,rất may là tinh hoa của thiền phái Trúc lâm Việt Nam ( Cái mà người ta hay gọi làY-Bát) đã được Sư tổ giao cho NNTT đó chính là sách “Định Pháp Vô Minh”.
32
Phương Pháp Cơ Bản Của Khí Công-tâm Linh Dùng cách tĩnh tọa, dụng tâm ý để phát động nội khí vận hành thuận tự nhiên, điều chỉnh sự cân bằng nội ngoại sao cho nhịp sinh học của con người hài hòa với thời sinh học của vũ trụ. Tìm hiểu bản chất của khí, làm chủ khí để chủ động điều tiết hoạt động của khí trong cơ thể nhằm duy trì nâng cao sức khỏe và từng bước phát huy khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người. Trong khi luyện tập yêu cầu phải tuân theo một số nguyên lý nhất định, trong đó nguyên lý quan trọng nhất là: “ Dụng tâm dẫn ý, sinh khí tạo lực.” Điều này có nghĩa là phải dụng tâm mới dẫn được Ý, có chỉ huy được ý thì mới có khả năng sinh ra Khí, có sinh được khí thì mới tạo được Lực ( hay còn gọi là năng lượng của khí ).Có đạt được yêu cầu này thì mới điều được khí để ứng dụng vào những mục đích mà mình đang hướng tới. I - Những yêu cầu bắt buộc trong khi luyện tập 1/ Tư thế luyện tập Đã là pháp luyện tĩnh khí công thì yếu tố quan trọng đầu tiên là tĩnh Tâm, nhưng cũng cần một thời gian luyện tập dài mới có được kết quả như mong muốn.Mỗi lần tập luyện sẽ tĩnh tâm thêm một chút chứ chẳng có ai buổi đầu tu tập đã tĩnh tâm ngay được, không những thế việc tĩnh tâm cũng phải cố gắng thường xuyên đều đặn thì mới có kết quả tốt.Có tĩnh được Tâm thì mới định được Ý, có định được Ý thì mới tập trung để chỉ huy được Khí.Đầu tiên là chỉ huy được nội khí tức là chỉ huy được khí trong cơ thể, sau đó là chỉ huy được ngoại khí tức là chỉ huy được khí ở bên ngoài cơ thể và nếu có được quyền năng cao sẽ chỉ huy được cả khí trong vũ trụ.Muốn tĩnh Tâm tốt nhất thì thông thường là phải tĩnh tọa,tức là ngồi thiền. Tư thế ngồi thiền tốt nhất là kiết già, nếu chưa ngồi được kiết già thì có thể ngồi bán già, cũng có thể ngồi xếp bằng, trường hợp người già hoặc người bệnh tật thì có thể ngồi trên ghế.Nói như thế không có nghĩa là dễ giãi mà ta cần thống nhất quan điểm là tuy tư thế ngồi thiền chưa thật đúng nhưng có ngồi thiền vẫn hơn là không ngồi thiền.Lưng luôn giữ cho thẳng để giữ cho trục sinh lực luôn thẳng, toàn thân thả lỏng, đầu lưỡi đặt lên chân răng hàm trên để nối mạch nhâm-đốc,nhắm mắt 33
bế ngũ quan để đễ tập trung tư tưởng,hai bàn tay đặt ngửa trên đầu gối. Tư tưởng tập trung dụng Tâm dẫn Ý, điều hòa hơi thở, ổn định nhịp tim, tập trung tâm ý vào lời dẫn luyện của Thầy. Trong quá trình luyện tập các tạp ý luôn luôn xâm nhập vào não bộ của người tập, chúng ta phải cố gắng gạt bỏ nó ra và cứ dần dần như vậy chúng ta sẽ có được trạng thái vô thức.Trong những ngày đầu tu luyện trạng thái vô thức chỉ xuất hiện trong một thời gian rất ngắn thậm chí chỉ tính bằng giây nhưng những giây ban đầu đó là vô cùng quí giá.Có những người đã định nghĩa: * Thiền là quá trình giảm thiểu những suy nghĩ không cần thiết để tiến dần tới trạng thái không suy nghĩ. * Thiền là trạng thái mơ… mơ… màng… màng. Trong khi ngồi thiền nếu chân tê quá thì có thể duỗi chân ra cho đỡ tê, việc duỗi chân có thể ảnh hưởng tới quá trình thiền một chút nhưng vẫn còn hơn rất nhiều nếu suốt buổi thiền mà chỉ nghĩ đến cái chân tê thì sẽ không thể thu lượm được kết quả gì cả. 2/ Ba yếu tố chính trong kỹ thuật luyện tập a/ Hơi thở khí công Thở khí công phải thở bằng mũi,yêu cầu của hơi thở phải sâuđều-nhẹ-chậm. Thở phải sâu để đảm bảo cho hơi thở đem được nhiệt hỏa từ trái tim xuống đan điền như thế mới có thể cất chưng được Chân khí. Thở phải đều cốt để ổn định nhịp tim như thế thì khí không rối loạn và cơ thể sẽ được điều hòa một cách tự nhiên. Thở phải chậm để cho khí thực hiện được đầy đủ quá trình khí hóa,việc trao đổi chất trong cơ thể sẽ xảy ra một cách nhịp nhàng. Thở phải nhẹ thì khí sẽ không bị trầm,việc dẫn lưu khí sẽ thuận lợi. b/ Sự Quán-Tưởng QUÁN khí là sự quan tâm theo dõi, tập trung cao độ vào diễn biến của một vùng khí hoặc một đường đi của khí, có như vậy thì mới điều động được khí theo ý định của mình. 34
TƯỞNG là cố gắng hình dung,tưởng tượng như là đang nhìn thấy hình ảnh của vùng khí hoặc đường khí mà mình đang cần theo dõi.Lúc đầu là “hình như có thật” rồi tiếp theo ta sẽ thấy “có lẽ đúng như thế” khi đã quen dần ta sẽ nhận ra rằng “nó đúng là như vậy”. TƯỞNG cũng chính là phương pháp “tự kỷ ám thị” để tạo điều kiện hưng phấn cho hệ thần kinh, làm cho hệ thần kinh chúng ta quen dần với những cảm giác tuy rằng hoàn toàn có thật nhưng từ trước tới nay chúng ta chưa bao giờ gặp. c/ Mật lệnh Quá trình từ lúc khí vào cơ thể đến lúc khí ra khỏi cơ thể phải trải qua các bước: Khai-Thu-Tụ-Hành-Xả. Khai là mở cửa ( một huyệt đạo nào đó ) để đón khí vào cơ thể. Thu là dẫn khí qua cửa để đưa vào cơ thể. Tụ là dẫn khí về một vùng nào đó trong cơ thể theo yêu cầu của bài luyện. Hành là dẫn khí từ điểm khí tụ đi đến những nơi mà ta muốn dẫn khí đến để thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu mà chúng ta đặt ra. Xả là biện pháp và vị trí đưa khí ra khỏi cơ thể,ở đây chủ yếu là việc đẩy khí xấu ra khỏi cơ thể. Để thực hiện được quá trình trên thì chúng ta phải dụng tâmdẫn khí tức là phải chỉ huy khí làm việc theo ý định của mình.Muốn chỉ huy được khí thì ta phải ra lệnh cho nó, trong lúc đang luyện tập ta không nên ra lệnh bằng lời mà phải ra lệnh cho khí bằng ý nghĩ (nói nôm na là bí mật ra lệnh), những lệnh đó gọi là Mật lệnh. VÍ dụ: - Muốn đưa khí vào Bách hội thì ta nhẩm thầm mật lệnh “Khí xoáy mạnh vào Bách hội” - Muốn dẫn khí tới đan điền thì ta nhẩm thầm mật lệnh: “Khí dồn theo mạch Nhâm, tụ vào đan điền” Ngửa hai tay thu khí trời vô tận, Nhắm mắt,thẳng lưng,miệng ngậm,tâm trong. Thả hồn vào cõi Vĩnh hằng, An vui hạnh phúc san bằng khổ đau. Việc thứ nhất làm mau: Buông bỏ… 35
Việc thứ hai: Sáng tỏ tâm mê Việc thứ ba: Trí tuệ thu về, Một trang trắng mở ra chờ đợi. Muốn thiền,thiền phải có duyên, Muốn tu muốn luyện phải chuyên tâm này. II. Một số khái niệm mới 1/ Thiên cung : Là vùng không gian ngay phía trên đỉnh đầu 2/ Địa cung : Là vùng không gian ngay phía dưới chỗ ngồi 3/ Chiều khí thiên chuyển là chiều khí quay từ trên cao xuống và xoáy thẳng vào đỉnh đầu Bách hội theo chiều vặn nút chai vào đỉnh đầu. 4/ Chiều khí địa chuyển là chiều khí quay từ lòng đất đi lên và xoáy thẳng vào chỗ ngồi theo chiều vặn nút chai vào chỗ ngồi hướng từ dưới lên. 5/ Huyệt Bách hội là một huyệt đạo lớn nơi hội tụ của các đường kinh dương, nằm ở chính giữa đỉnh đầu 6/ Huyệt Hội âm là một huyệt đạo lớn nơi hội tụ của các đường kinh âm, nằm ở giữa bộ phận sinh dục và hậu môn 7/ Trục sinh lực là một đường ống nằm chính giữa cơ thể nối huyệt Bách hội với huyệt Hội âm.
36
CHỮA BỆNH bằng KHÍ CÔNG - TÂM LINH Phương pháp NNTT I. Khái niệm dùng khí công chữa bệnh Từ trước đến nay có rất nhiều người chỉ biết, có các phương pháp chữa bệnh sau : Tây Y, Đông Y, Nam y, Vật lý trị liệu, Châm cứu, Bấm huyệt, Diện chẩn,… Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập…người ta đã dùng Khí công để chữa bệnh từ rất lâu rồi. Khí công chữa bệnh có hai loại. 1/ Khí công Dưỡng sinh tự chữa bệnh Người bệnh được thầy khí công hướng dẫn cách luyện tập khí công (Có thể là Động công hoặc Tĩnh công), sau đó họ tự luyện tập để tăng cường sức khỏe và tự chữa bệnh cho chính mình. Những người này chỉ tự giải quyết được các bệnh nhẹ, thông thường. 2/ Khí công chữa bệnh a/ Khí công sư chữa bệnh cho bệnh nhân Người bệnh được thầy khí công trực tiếp chữa bệnh, có nghĩa là thầy khí công căn cứ vào tính chất bệnh lý của người bệnh để từ đó có phác đồ điều trị thích hợp. Khi thực hiện phác đồ điều trị cũng có hai cách: (1) Thầy đặt tay trực tiếp lên cơ thể bệnh nhân để dùng thực pháp kết hợp với linh pháp mà chữa. (2) Thầy phát khí từ xa để dùng linh pháp mà chữa. Trong quá trình chữa, thầy phải theo dõi diễn biến của bệnh để khi cần thì phải thay đổi phác đồ điều trị cho thích hợp. b/ Đối với những người có công năng tu luyện Khí công sư hướng dẫn học trò luyện tập, kiểm tra theo dõi mọi diễn biến trong cơ thể học trò trong suốt quá trình luyện tập, 37
phát hiện mọi loại bệnh trên cơ thể của học trò, trực tiếp chữa cho học trò và hướng dẫn học trò cách chữa bệnh. Học trò còn được Thầy trực tiếp chữa bệnh nghiệp kiếp hoặc hướng dẫn, giúp đỡ cho trò tự giải trừ nghiệp kiếp của mình khi những bệnh đó bộc lộ. Bệnh nghiệp kiếp là những bệnh nặng đặc biệt của những kiếp trước được phản ảnh lại trên cơ thể ở kiếp này, nếu không được chữa trị thì thường để lại những hậu quả rất nặng nề và lâu dài, thậm chí là kéo từ kiếp này sang kiếp khác. Bệnh nghiệp kiếp là bệnh mà tất cả các phương pháp thông thường khác đều không chữa được. Hiện nay cũng chỉ có rất ít thầy khí công có khả năng chữa được bệnh nghiệp kiếp. II. Cấu tạo của cơ thể theo quan điểm của người luyện khí Cơ thể chúng ta được cấu tạo rất đặc biệt, nó được coi là một cỗ máy hoàn chỉnh nhất, tinh vi nhất. Theo giải phẫu cơ thể người, chúng ta biết được con người có Não bộ là cơ quan chỉ huy mọi hoạt động của cơ thể, có các Tạng là Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, có các Phủ là Tiểu trường, Đởm, Vị, Đại trường, Bàng quang, có Cơ, Xương, Gân, Da, dây Thần kinh, đường ống dẫn Dịch,… Thực tế cơ thể con người không chỉ có cấu tạo như Giải phẫu cơ thể học đã cho biết. Cơ thể người còn được cấu tạo bởi những bộ phận mà mắt thường và giải phẫu học không nhận biết được. Trong cơ thể người có một hệ thống Kinh mạch, Lạc mạch có nhiệm vụ dẫn khí (năng lượng) lưu thông trong cơ thể. Dưới con mắt của người học Khí công thì cơ thể người có 3 Đan điền: Đan điền hạ ở vùng bụng, Đan điền trung ở vùng ngực và Đan điền thượng ở vùng đầu. Ba Đan điền này là ba trung tâm năng lượng của cơ thể, hay còn gọi là ba kho chứa năng lượng của cơ thể. Chính giữa cơ thể có một đường ống được gọi là Trục sinh lực, đường ống này nối ba trung tâm năng lượng với nhau, đầu trên của đường ống này là huyệt Bách hội, đầu dưới của đường ống là huyệt Hội âm. Từ trục sinh lực có một hệ thống đường ống dẫn năng lượng đi tới tất cả các bộ phận khác trong khắp cơ thể. Trên đường di chuyển của mình năng lượng có thể "giao hội" tại nhiều điểm khác nhau để thực hiện việc chuyển hóa và giao lưu năng lượng. Tập hợp tất cả những điểm đó tạo nên hệ 38
thống các huyệt đạo dày đặc trên khắp cơ thể. Những Huyệt đạo lớn (Đại huyệt) hình thành nên hệ thống Luân xa của cơ thể. Hệ thống Luân xa của cơ thể gồm Bách hội, Ấn đường Ngọc chẩm, Thiên đột - Đại chùy, Đản trung - Linh đài, Khí hải Mệnh môn, Khúc cốt - Trường cường, Hội âm, Luân xa Tỳ, Luân xa Tâm và các Luân xa phụ khác. Hệ thống Luân xa của cơ thể có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động năng lượng của cơ thể. Hình dáng, vị trí, tốc độ quay, chiều quay, màu sắc… của các Luân xa cho ta biết tình trạng của hệ thống năng lượng trong cơ thể đang hoạt động như thế nào. Năng lượng trong cơ thể con người (và của mọi sinh vật khác) tạo ra một trường năng lượng bao quanh cơ thể ấy, trường năng lượng này có tên gọi là Trường Sinh học. Trường Sinh học được “biểu hiện cụ thể” dưới dạng các lớp hào quang bao quanh cơ thể, lớp hào quang này là một loại ánh sáng mà mắt thường không nhìn thấy được, nhưng đã có nhiều thiết bị khoa học hiện đại có thể chụp ảnh được. Người đã được khai mở Ấn đường, hoặc đã được khai mở nhãn thần thì sẽ nhìn được lớp hào quang này rất rõ. Hào quang của mỗi một người có những tính chất và đặc thù rất khác nhau: Với người tu luyện cao thì hào quang của họ rất dày, đậm đặc, rất sáng, màu sắc thường đồng nhất, đó là hào quang sạch, những loại hào quang như vậy có khả năng ngăn chặn được khí xấu từ môi trường xâm nhập vào cơ thể; Người không tu luyện và có sức khỏe bình thường thì hào quang mỏng, loãng, có nhiều màu sắc khác nhau, hào quang này không sạch, dễ bị khí xấu xâm nhập; Người bệnh, đặc biệt là bệnh nặng thì hào quang bẩn, màu xỉn hoặc mờ tối, hào quang có thể rất loãng trông như hết sinh khí, cũng có thể đậm đặc nhưng lại là sự đậm đặc của khí đen, khí bệnh. Cũng như các trường năng lượng khác: Trường Điện, Trường Từ, Trường Điện Từ…Trường Sinh học cũng có khả năng tương tác với các trường năng lượng xung quanh, đặc biệt là với những trường năng lượng sinh học khác. Trường Sinh học của người tu luyện cao có một Sinh lực mạnh, Sinh lực này khi tương tác với một Trường Sinh học khác có thể làm thay đổi tính chất của trường mà nó tương tác. 39
Ta có thể lấy thí dụ về Trường từ cho dễ hiểu : Khi đặt một kim nam châm nhỏ gần một thanh nam châm lớn thì thanh nam châm lớn sẽ tác động một từ lực rất mạnh lên kim nam châm và làm cho kim này quay, hướng về phía thanh nam châm. Nếu ta di chuyển thanh nam châm quanh kim nam châm thì kim nam châm sẽ quay theo. Nếu để một chiếc kim bằng sắt non cạnh một nam châm thì chỉ một thời gian ngắn sau kim sắt non này sẽ bị từ hóa và nó cũng trở thành một kim nam châm yếu. Trong cuộc sống thường nhật, khi một người tu luyện cao cấp thường tạo ra được một trường năng lượng mạnh, chính trường năng lượng này đã tạo ra cho họ một thế mạnh khi giao tiếp với những người khác, hiện tượng này trong dân gian gọi là “át vía”. Một người bị bệnh chỉ cần ngồi gần khí công sư, hay nói một cách khác là họ được đặt trong vùng tác dụng của một trường Sinh học mạnh thì bệnh của họ đã được thuyên giảm. Như vậy là Sinh lực của trường mạnh đã tác dụng một lực vào trường yếu hơn để tạo ra một trạng thái cân bằng mới cho trường yếu, đồng nghĩa với trạng thái cân bằng mới này là Sinh lực của trường yếu đã được củng cố mạnh hơn trước. Nói cụ thể hơn là năng lượng từ cơ thể của người Thầy đã tự nhiên đã tác động một lực sang cơ thể bệnh nhân có thể để khai mở huyệt đạo, khai thông kinh mạch… và đẩy một phần khí xấu, khí bệnh, khí độc ra khỏi cơ thể bệnh nhân. Khi những khí xấu bị đẩy bớt ra khỏi cơ thể thì một trạng thái cân bằng mới (thường là cân bằng âm dương) của cơ thể bệnh nhân đã được xác lập, ít nhất là người bệnh cũng cảm nhận được một trạng thái thanh thoát nhẹ nhàng dễ chịu hơn trước. Còn đối với học trò (hoặc những người tu luyện cùng môn phái) khi tiếp xúc trong một thời gian đủ dài với người Thầy có năng lượng cao thì trường năng lượng của họ được củng cố theo chiều hướng mạnh hơn và bền vững hơn, cho nên những người cùng môn phái rất thích được quây quần bên nhau và đặc biệt là quây quần bên Thầy của họ. Người ta nói “đồng thanh thì tương ứng, đồng khí mới tương cầu”. Sau một thời gian luyện tập, các đồng môn sẽ có trường năng lượng dễ tương thích với nhau. Nói cách khác, những 40
người đồng môn dễ đồng cảm với nhau, thường có tư duy cùng mạch, và mạch tư duy này chịu tác động không nhỏ từ tư duy của người Thầy. Cũng vì nguyên nhân đó mà những đồng môn dễ trở nên thân thiết, thậm chí còn yêu quí nhau hơn cả người ruột thịt. Trường năng lượng của các vía cũng có thể tương tác được với nhau, có những người khi vừa gặp nhau họ đã cảm thấy thân thiết lắm rồi, cảm thấy như đã gặp nhau nhiều lần rồi nhưng không thể nhớ được là gặp nhau ở đâu và bao giờ. Phải chăng những người này đã từng sống cùng với nhau ở một kiếp nào đó, hay là các vía của họ đã gặp nhau và quen nhau từ lâu rồi? Ký ức năng lượng của những kiếp trước còn được lưu giữ lại hay là năng lượng giữa các vía đã tương thích hoặc giao thoa với nhau rồi? Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ thể năng lượng của con người đó là Bản nguyên thần của họ. Nếu bản nguyên thần có một vị trí cao trong không gian thì người này có điều kiện thuận lợi để có được một trường năng lượng lớn. Đối với một nhóm người, nếu bản nguyên thần đã quen biết nhau, đã từng cùng làm việc với nhau, hoặc đã cùng học một Thầy ở trong không gian, thì những người này khi gặp nhau trường năng lượng của họ rất dễ tương thích với nhau, họ rất dễ thân thiện với nhau. Như vậy con người ta có hai cơ thể : Phần thân xác gọi là “Thực thể”, còn phần linh hồn, vía, năng lượng (hay phần Linh) của họ tạm gọi là “Cơ thể năng lượng”. Giữa Cơ thể năng lượng và Thực thể có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Khi Thực thể có thay đổi thì lập tức trường năng lượng của người đó thay đổi ngay, từ đó dẫn đến Cơ thể năng lượng thay đổi. Khi Cơ thể năng lượng bị thay đổi thì sau một thời gian chuyển hóa, năng lượng này sẽ ảnh hưởng tới thực thể và làm cho thực thể bị thay đổi theo. Một người bị bệnh nặng thì trường năng lượng của họ yếu, trường hào quang của người này có màu xám đen và luân xa thì méo mó…Một người khỏe có trường năng lượng mạnh, hào quang sáng…Khi người khỏe ngồi gần người bị bệnh nặng sắp chết hoặc đi vào một vùng năng lượng xấu thì trường năng lượng của họ bị thay đổi và nó sẽ tác động vào thực thể tạo ra một cảm giác khó chịu và người này chỉ muốn đi ra khỏi khu vực năng lượng xấu ấy. Một người 41
bị bệnh thì lại rất thích ngồi gần người có trường năng lượng mạnh vì họ cảm thấy dễ chịu hơn. Các trường năng lượng của con người luôn tương tác với nhau nhưng không phải ai cũng nhận biết được, những người nhậy cảm và đặc biệt là người có công tu luyện thì dễ nhận biết được sự tác động này hơn những người khác. III . Phương pháp chữa bệnh bằng khí công. 1/ Phương pháp dùng năng lượng để chữa bệnh. Định nghĩa: “Dùng năng lượng chữa bệnh là phương pháp dùng một nguồn năng lượng từ bên ngoài tác động lên trường năng lượng của người bệnh với mục đích hiệu chỉnh lại trường năng lượng đang bị bệnh để cải thiện nó và từng bước đưa nó trở lại trạng thái không bị bệnh ban đầu.” Hiện nay có nhiều môn phái dùng năng lượng để chữa bệnh như Nhân điện, Năng lượng sinh học, Tâm năng dưỡng sinh, Tâm thể dưỡng sinh, Khí công… Khả năng chữa bệnh của mỗi môn phái và cụ thể là của mỗi ông thầy có thể khác nhau rất xa. Sự khác nhau này phụ thuộc vào trường năng lượng mà mỗi ông thầy có thể tạo ra. Sự khác nhau này còn phụ thuộc vào trình độ Y thuật và khả năng sử dụng “thuốc vô hình” của mỗi một người thầy. Chúng ta biết rằng vật chất có thể tồn tại dưới một số trạng thái nhất định, trong đó có 4 trạng thái cơ bản là: Thể khí, Thể lỏng, Thể rắn và Plasma. Nếu Thầy nào có khả năng dùng được khí thuốc trong chữa bệnh và đặc biệt là ai có khả năng sản xuất đồng thời khí hóa được nhiều loại thuốc khác nhau thì hiệu quả chữa bệnh của người đó sẽ hơn hẳn. Hiệu quả của việc dùng năng lượng chữa bệnh còn phụ thuộc vào một yếu tố hết sức quan trọng đó là lòng tin của người bệnh. Khi người bệnh có lòng tin vào môn pháp, lòng tin vào thầy chữa họ sẽ “mở cửa trường năng lượng” của họ và sẵn sàng tiếp nhận năng lượng từ người thầy tác động vào. Nếu người bệnh không tin vào phương pháp chữa bệnh của thầy thì trường năng lượng của họ sẽ không mở, thậm chí còn tạo ra 42
một hàng rào phòng vệ, hàng rào này sẽ ngăn cản những tác động bằng năng lượng của thầy, không cho xâm nhập vào cơ thể. Muốn dùng năng lượng để chữa bệnh thì phải tạo được trạng thái hòa đồng năng lượng giữa người thầy và người bệnh, nói cách khác là hai trường năng lượng của thầy thuốc và bệnh nhân phải tương thích và giao thoa được với nhau. Có thể hiểu việc giao lưu năng lượng giữa thầy thuốc và bệnh nhân được ví như sự tương tác của đài phát và đài thu sóng. Khi đài phát phát chương trình rất hay mà đài thu không mở máy để thu chương trình , hoặc khi đài thu có nhu cầu thu tín hiệu mà đài phát lại không phát sóng thì việc giao lưu năng lượng giữa hai bên không thể thực hiện. 2/ Nguyên tắc và Phương pháp chữa bệnh của Khí công Tâm linh. a/ Nguyên tắc cơ bản Khí công Tâm linh đã quán triệt quan điểm “Thông thì bất thống. Thống bởi bất thông” của Đông Y để chữa bệnh, và thực hiện việc chữa bệnh theo qui trình sau: - Khai mở Huyệt đạo, đặc biệt là các huyệt đạo ở đầu và cuối các đường kinh, khai thông toàn bộ hệ thống Kinh mạch, Lạc mạch, Huyết mạch, Thần kinh, hệ thống đường dẫn các chất dịch trên khắp cơ thể. Khai mở hiệu chỉnh cân bằng ổn định hoạt động của toàn bộ hệ thống Luân xa của cơ thể, các Luân xa phải nằm đúng vị trí, có độ mở và chiều quay thích hợp, quay đúng tần xuất phù hợp với nhịp sinh học của cơ thể. Khai thông trục Sinh lực, hiệu chỉnh cân bằng ổn định hoạt động của trục Sinh lực. Trục Sinh lực phải thật thẳng, thật sạch, thật trong, thật sáng. Khai thông toàn bộ hệ thống đường ống dẫn năng lượng từ trục Sinh lực đi tới tất cả các bộ phận khác trong cơ thể. - Phát năng lượng vào vùng bệnh, phá vỡ kết cấu vùng bệnh – phá vỡ kết cấu vùng bệnh. - Đẩy độc khí, bệnh khí, kết tụ khí xấu, năng lượng xấu ra khỏi vùng bệnh, dồn mạnh lên Bách hội, dồn mạnh ra hai tay, dồn 43
mạnh xuống hai chân thoát ra khỏi cơ thể, thoát hết ra khỏi cơ thể. - Đưa khí thuốc vào vùng bệnh theo yêu cầu “bệnh nào thuốc ấy”. - Cùng với thuốc, tùy theo từng loại bệnh có thể dùng các liệu pháp Y học khác như : “thay thế tế bào”, “liệu pháp Gien”, v.v… để hoàn thiện những khuyết tật do bệnh tật để lại trong thực thể. Từng bước đưa cơ thể bệnh nhân trở lại trạng thái trước khi bị bệnh. b/ Phương pháp chữa bệnh Khí công Tâm linh sử dụng ba phương pháp chữa bệnh chính đó là: Thực pháp, Linh pháp và Thực pháp kết hợp với Linh pháp. b1. Thực pháp là dùng thực công của người Thầy tác động vào trường năng lượng của người bệnh làm thay đổi kết cấu trường năng lượng của người bệnh theo hướng đẩy độc khí, bệnh khí ra khỏi cơ thể người bệnh. Qua hai bàn tay, căn cứ vào bệnh lý của bệnh nhân, phát khí thuốc vào cơ thể người bệnh. b2. Linh pháp là dùng tha lực hay nói cách khác là dùng sức mạnh của thế giới vô hình để tác động vào trường năng lượng của người bệnh và làm thay đổi kết cấu trường năng lượng của người bệnh theo hướng phá vỡ kết cấu vùng bệnh rồi đẩy độc khí và bệnh khí ra khỏi người bệnh. Thông qua những người của thế giới vô hình để đưa khí thuốc vào người bệnh. b3. Thực pháp kết hợp với Linh pháp là kết hợp giữa sức mạnh của thế giới vô hình và thực công của người thầy, dùng các công cụ vô hình để khai thông, khai mở và phá vỡ kết cấu vùng bệnh sau đó dùng thực công để đẩy khí độc khí bệnh ra khỏi cơ thể bệnh nhân, có nghĩa là phần linh và phần thực cùng phối hợp để làm việc. Đưa khí thuốc vào cơ thể bệnh nhân và dùng những liệu pháp Y học đặc biệt để hoàn thiện những khuyết tật do bệnh tật để lại trong cơ thể. 44
Khí công Tâm linh thực hiện các phương pháp trên theo ba hình thức chữa bệnh sau: - Chữa bệnh trực tiếp: Là hình thức mà người Thầy và bệnh nhân tiếp xúc trực tiếp với nhau. Người thầy chữa có thể sử dụng “Vọng, Văn, Vấn” đối với bệnh nhân, căn cứ cơ địa bệnh lý của bệnh nhân để xác định phác đồ điều trị và phát khí cách không hoặc phát khí trực tiếp để khai mở, khai thông, phá vỡ kết cấu vùng bệnh và giải tỏa khí độc khí bệnh ra khỏi cơ thể người bệnh. Phát hoặc xin phát khí thuốc vào cơ thể bệnh nhân để chữa bệnh và dùng các liệu pháp Y học cần thiết để hoàn thiện thực thể. Chữa bệnh theo cách này người Thầy có điều kiện theo dõi diễn biến của bệnh tật từ đó việc điều chỉnh phác đồ điều trị sẽ nhanh và hiệu quả hơn. - Chữa bệnh trực tuyến: Là hình thức chữa bệnh thông qua mạng Intenet. Người Thầy và người bệnh có thể trao đổi thông tin trực tuyến qua mạng, người Thầy vẫn nhận biết trực tiếp được sắc thái, nguyện vọng và biết được quá trình diễn biến bệnh tật của bệnh nhân. Trên cơ sở những thông tin nhận được người Thầy sẽ phát công từ xa để chữa bệnh và đưa khí thuốc vào cơ thể bệnh nhân. Hình thức này chúng tôi đã áp dụng thành công khi từ Hà Nội chữa cho bệnh nhân ở Sài Gòn, bệnh nhân ở Bình Định và bệnh nhân ở Kbang-Gia Lai. - Chữa bệnh từ xa và không nhìn thấy bệnh nhân Hình thức chữa bệnh này có hai trường hợp: + Bệnh nhân là người quen biết: Đây là trường hợp Thầy đã biết rõ mặt bệnh nhân và cả nơi mà bệnh nhân đang ở. Có thể bệnh nhân trực tiếp gọi điện thoại cho Thầy, hoặc một người thứ ba gọi điện báo rằng có bệnh nhân bị bệnh, đang cần thầy chữa trị. Người Thầy phải hỏi xem bệnh nhân đang bị bệnh gì, nhớ lại khuôn mặt hình dáng của bệnh nhân, định vị được chỗ ở của bệnh nhân, sau đó có thể sử dụng một trong ba cách sau: Phát công từ xa để chữa bệnh, gọi vía của bệnh nhân về hoặc Xuất vía đến gặp bệnh nhân để 45
chữa bệnh. + Bệnh nhân là người ở xa và chưa bao giờ gặp mặt: Những bệnh nhân này thường do học trò hoặc người thân giới thiệu và thường là những bệnh có tính cấp cứu. Học trò hoặc người thân của bệnh nhân gọi điện cho Thầy báo rằng có một người bị cấp cứu do nguyên nhân A hiện đang nằm ở địa điểm B . Đề nghị Thầy chữa gấp. Những trường hợp này Thầy phải thông qua vía của học trò hoặc vía của người giới thiệu để tìm cách định vị được bệnh nhân rồi sau đó phát công từ xa để chữa bệnh và hầu hết phải dùng Linh pháp để giải quyết những trường hợp cấp cứu này. III. Những điều cần lưu ý khi dùng Khí công để chữa bệnh Học trò Khí công Tâm linh khi chữa bệnh cho bệnh nhân nên lưu ý những điểm sau: 1/ Chỉ nên chữa trực tiếp cho bệnh nhân. Vì công năng và quyền năng chưa đủ, nên học trò chỉ nên chữa trực tiếp cho bệnh nhân. Khi gặp trực tiếp bệnh nhân thì mình biết rõ hiện tượng và tính chất của bệnh hơn, thông qua lời kể và sắc thái của bệnh nhân ta dễ có được phác đồ điều trị thích hợp. Sau một thời gian nhất định đã quen với việc dùng năng lượng để chữa bệnh, học trò có thể tập chữa bệnh từ xa. 2/ Những điều cần thực hiện khi chữa bệnh Sau khi nắm rõ bệnh tình của bệnh nhân, việc đầu tiên là xin LB, có như vậy thì mới yên tâm để tránh được những sai sót không đáng xảy ra. - Đặt tay trực tiếp vào vùng bệnh như đầu, vai, tay, chân, họng, Gan, Tỳ…Nếu vùng bệnh không xác định được rõ thì đặt hai bàn tay vào phía sau lưng, chỗ hai phổi. Tiếp theo là đọc mật lệnh (hoặc nghĩ thầm) xin được: Khai mở Huyệt đạo, đặc biệt là các huyệt đạo ở đầu và cuối các đường kinh, khai thông toàn bộ hệ thống Kinh mạch, Lạc mạch, Huyết mạch, Thần kinh, hệ thống 46
đường dẫn các chất dịch trên khắp cơ thể. Khai mở hiệu chỉnh cân bằng ổn định hoạt động của toàn bộ hệ thống Luân xa của cơ thể, các Luân xa phải nằm đúng vị trí, có độ mở và chiều quay thích hợp, quay đúng tần xuất phù hợp với nhịp sinh học của cơ thể. Khai thông trục Sinh lực, hiệu chỉnh cân bằng ổn định hoạt động của trục Sinh lực. Trục Sinh lực phải thật thẳng, thật sạch, thật trong, thật sáng. Khai thông toàn bộ hệ thống đường ống dẫn năng lượng từ trục Sinh lực đi tới tất cả các bộ phận khác trong cơ thể. - Phát năng lượng vào vùng bệnh, phá vỡ kết cấu vùng bệnh – phá vỡ kết cấu vùng bệnh. - Đẩy độc khí, bệnh khí, kết tụ khí xấu, năng lượng xấu ra khỏi vùng bệnh, dồn mạnh lên Bách hội, dồn mạnh ra hai tay, dồn mạnh xuống hai chân thoát ra khỏi cơ thể, thoát hết ra khỏi cơ thể. - Đưa khí thuốc vào vùng bệnh theo yêu cầu “bệnh nào thuốc ấy”. [B]Lưu ý: [/B 1. Với những học trò chưa được khai mở con mắt thứ ba, thì chưa nhìn được vùng bệnh, chưa giao tiếp được với thế giới vô hình nên khi đọc mật lệnh không nên có những lệnh mang tính quyết đoán. Với những người chưa có kinh nghiệm chữa bệnh thì cũng nên như vậy. Nếu ra lệnh có tính quyết đoán mà lệnh đó lại chưa đúng thì việc chữa bệnh sẽ không có hiệu quả. Khi chưa biết rõ thì ta chỉ nên nói chung chung, thí dụ: + Xin …khám và cho phác đồ điều trị để chữa bệnh cho bệnh nhân. + Xin… hướng dẫn con chữa bệnh cho bệnh nhân. + Xin… giúp con cho bệnh nhân thuốc. + Xin …về giúp con chữa bệnh cho bệnh nhân. 2. Với những học trò đã khai mở được con mắt thứ ba, hoặc đã có kinh nghiệm chữa bệnh cũng như đã biết sử dụng khí cụ vô hình thì vẫn phải bình tĩnh sáng suốt để sử dụng Pháp bảo cho 47
chính xác. Tốt nhất là nên hỏi “ý kiến phần linh” trước khi quyết định. Trong thời gian chữa bệnh khoảng 30 phút thì luôn phải tập trung tư tưởng để cảm nhận được sự biến động năng lượng thể hiện ngay trên hai bàn tay hoặc trong cơ thể của mình. Có thể hỏi bệnh nhân xem có thấy khí thoát ra ở Bách hội, thoát ra ở tay nhất là đầu ngón tay và khí thoát ra ở chân của bệnh nhân hay không ? Nếu trong cơ thể bệnh nhân có động khí và khí độc, khí bệnh có thoát ra tức là việc chữa bệnh của chúng ta đã có kết quả. Muốn chữa bệnh có hiệu quả thì phải yêu cầu bệnh nhân tập luyện, cụ thể là phải tập được bài Thanh khí Khai tâm. Bệnh nhân có luyện tập thì các đường ống dẫn năng lượng trong cơ thể của họ mới được khai thông, trường năng lượng của họ sẽ dễ dàng mở cửa và chấp nhận sự tương tác năng lượng giữa họ với người Thầy. Nếu động viên được bệnh nhân chăm chỉ luyện tập thì việc chữa bệnh sẽ có kết quả tốt hơn hẳn S CHÚ Ý: [B]Sổ tay học tập ghi lại những kiến thức quan trọng mà một người học KCTL cần phải đọc thường xuyên. Các bạn có thể in ra để học tập.[/B Đây là đoạn video mô tả quá trình thở 4 chu kì (Đan điền công), đoạn video này có thể giúp các bạn tưởng tượng tốt hơn khi tập luyện bài ĐĐC. Các bạn chú ý: Đoạn video này chỉ mô phỏng quá trình vận khí thu-xả bằng mũi, khác với thu và xả khí ĐĐC (Bách Hội, ấn đường). Chúng ta xem đoạn Video này để hiểu và học cách thở 4 thì, từ đó áp dụng vào bài ĐĐC cho tốt. (Cảm ơn bạn Nguyễn thành Công)
48
Luân xa và tầm quan trọng của luân xa Tại sao luân xa lại quan trọng đối với những người tập các môn “năng lượng”? Tất cả các trường phái luyện tập các môn “năng lượng” như yoga, khí công, hoặc các môn thiền định khác v.v. khi đạt đến một mức độ nhất định đều hướng tới việc con người có khả năng : “Thu nhận năng lượng vũ trụ và chuyển hóa thành năng lượng của cơ thể và kiểm soát được sự thu nhận, chuyển hóa năng lượng đó”. Có những người tập yoga nhiều năm trời có khả năng nhịn ăn nhiều ngày mà cơ thể vẫn khỏe mạnh. Có những vị chân sư thiền định liên tục, chỉ uống nước lọc mà không hề bị ốm yếu, bệnh tật hay mệt mỏi. Có những người học võ công có khả năng biểu diễn những pha mạo hiểm như: Chọc mũi giáo vào cổ họng, đi trên than hồng, dùng răng kéo ô tô v.v. Có những khí công sư có khả năng ngồi từ xa phát năng lượng chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Những trường hợp trên làm được như vậy chính là bởi thông qua luyên tập, họ có khả năng thu nhận năng lượng từ vũ trụ, chuyển hóa năng lượng đó thành năng lượng của bản thân cơ thể, từ đó kích hoạt được những khả năng đặc biệt của con người nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau của họ. Vậy làm thế nào mà năng lượng vũ trụ đi vào được cơ thể con người được ? Phải có những “cửa” để năng lượng đó ra và vào chứ ? Những “cửa” đó chính là các LUÂN XA trên cơ thể của con người. 1. Khái niệm Những người tập yoga gọi luân xa là các chakras Những người tập khí công hay thầy thuốc châm cứu đông y thì gọi các đại huyệt là Luân xa. Một số môn học khác thì gọi luân xa là các cửa hút, cửa đẩy. Dù tên gọi là thế nào đi nữa thì bản chất của luân xa cũng vẫn như nhau. Chúng tôi đưa ra khái niệm đơn giản về luân xa như sau: 49
“Luân xa là những vị trí quan trọng trên cơ thể con người mà tại đó năng lượng của môi trường bên ngoài (vũ trụ) và năng lượng của bản thân con người được trao đổi nhằm luân chuyển, bổ sung, nâng cấp, tích trữ năng lượng cho toàn bộ cơ thể”. 2. Chức năng, vị trí và hình dạng của luân xa: a. Chức năng Từ khái niệm trên về luân xa, có thể thấy luân xa như một cái “cửa” để năng lượng (khí) có thể ra và vào cơ thể. Đã coi là “cửa” thì mục đích cũng rất rõ ràng là có khả năng mở và đóng. Có thể mở để cho phép những nguồn năng lượng tốt đi vào cơ thể. Có thể đóng để những nguồn năng lượng xấu không thâm nhập được vào cơ thể. Độ mở của “cửa” cũng được người “chủ nhà” điều chỉnh để cho phù hợp với bản thân “ngôi nhà”. Như vậy, chức năng của Luân xa là đảm bảo cho năng lượng đi vào và đi ra cơ thể được phù hợp theo ý muốn của não bộ con người. b. Vị trí Trong cơ thể con người có rất nhiều luân xa được bố trí tại một số điểm trên cơ thể. Chúng tôi xin trích dẫn một đoạn nội dung trong cuốn sách “Bàn tay ánh sáng” của Barbara Ann Brenanai như sau: “Bác sỹ David Tanseley, chuyên viên về bức xạ học, trong cuốn sách của mình nhan đề: Bức xạ học và các cơ thể tinh tế của con người, nói rằng bảy (7) luân xa chính được hình thành tại những điểm mà ở đó các vạch ánh sáng thẳng đứng giao nhau 21 lần. Hai mươi mốt (21) luân xa phụ khu trú tại những điểm mà ở đó các thành phần năng lượng giao nhau 14 lần. Chúng khu trú lần lượt như sau: 2 trước tai, 2 trên vú, 1 tại nơi hai xương đòn gặp nhau, 2 trong lòng bàn tay, 2 ở gót chân, 2 ở ngay phía sau mắt, 2 liên hệ với cơ quan sinh dục, 1 cạnh gan, 1 liên kết với dạ dày, 2 liên kết với lách, 2 ở khoeo chân (sau đầu gối), 1 cạnh tuyến ức và 1 cạnh đám rối thái dương” . c. Hình dạng Khi hoạt động, luân xa hiện ra như một cuộn xoáy chất 50
lỏng trong nước hoặc cuộn xoáy khí trong không khí, như: Xoáy nước, khí xoáy tụ, cột nước, bão. Mũi nhọn hay đỉnh của luân xa, cũng được gọi là rễ hoặc tâm của LX chính là nơi chúng liên kết với cơ thể năng lượng của con người.
51
52
53
d. Bảy (7) luân xa chính Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến bảy (7) luân xa chính có chức năng rất quan trọng trên cơ thể con người bao gồm: LX Bách Hội (LX 7, huyệt bách hội) LX Ấn đường (LX 6A, huyệt ấn đường) LX Ngọc chẩm (LX 6B, huyệt ngọc chẩm - Huyệt Sinh Tử huyền quan ) LX Thiên đột (LX 5A, huyệt thiên đột) LX Đại chùy (LX 5B, huyệt đại chùy) LX Đản trung (LX 4A, huyệt đản trung) LX Linh đài (LX 4B, huyệt linh đài) LX Khí hải (LX 3A, huyệt khí hải) LX Mệnh môn (LX 3B, huyệt mệnh môn) LX Khúc cốt (LX 2A, huyệt khúc cốt) LX Trường cường (LX 2B, huyệt trường cường) LX Hội âm (LX 1, huyệt hội âm ) Các vùng thân thể ứng với bảy luân xa chính. Khi bị bệnh ở một bộ phận nào thì tương ứng chúng ta cần thanh lọc và đẩy khí xấu (bệnh khí, trược khí, kết dính khí, tụ khí hoặc tà khí) ở luân xa phụ trách bộ phận đó LX 7: Phụ trách Tuyến tùng, Não trên, Mắt phải Liên quan đến các bệnh: Đau đầu, loạn sắc, đau mắt, rụng tóc, kinh phong, tê liệt thần kinh, động kinh, tai biến mạch máu não, di chuyển khó khăn do rối loạn thông tin não, dị ứng da, các bệnh tim mạch. LX 6: Phụ trách Tuyến yên, Não dưới, Mắt trái, Tai, Mũi,Hệ thần kinh Liên quan đến các bệnh: Cảm cúm, nhức đầu, viêm mũi, tê liệt thần kinh mặt, các bệnh về mắt, cổ, hầu họng, rối loạn sinh lý, tinh thần do thiếu hormone (mãn kinh). LX 5: Phụ trách Tuyến giáp, Mũi Họng, Phế quản và cơ quan phát âm, Phổi, Ống tiêu hóa Liên quan đến các bệnh: ở hầu họng (amiđan, bướu, nóng rát cổ họng, tắc tiếng, khan tiếng), tuyến giáp, phó giáp, các bịnh 54
về phổi (hen suyễn, ho, ung thư, đau nhức bả vai, lồng ngực), dị ứng thời tiết, cảm cúm. LX 4: Phụ trách Tim, Tuyến ức, Máu, Hệ tuần hoàn Liên quan đến các bệnh: tim mạch, tuần hoàn huyết dịch, u bướu ngực, ung thư vú, ung thư phổi, cao huyết áp. LX 3: Phụ trách Tuyến tụy, Dạ dày, Gan, Túi mật Liên quan đến các bệnh: Rối loạn tiêu hoá, đau bao tử, viêm loét bao tử, đường ruột, tiểu đường, ruột dư, ngộ độc, căng thẳng, trùng khuẩn (sên, lãi), táo bón. LX 2: Phụ trách Tuyến sinh dục, Hệ sinh sản Liên quan đến các bệnh: Rối loạn sinh lý, liệt dương, lãnh cảm, vô sinh, rối loạn bài tiết, đau lưng, suyễn, dị ứng, viêm nhiễm nấm, u bướu (tử cung, buồng trứng, tiền liệt tuyến). LX 1: Phụ trách Tuyến thượng thận, Cột sống. Liên quan đến các bệnh: Táo bón, đau TK toạ, đau nhức lưng, gối, lừ đừ mệt mỏi không có sức, lạnh 2 tay 2 chân, tê liệt toàn thân, chi dưới, trĩ.
3. Khai mở luân xa, tầm quan trọng, và những trường hợp điển hình a. Tầm quan trọng Đối với những người học các môn năng lượng như yoga, thiền định, khí công...Việc khai mở luân xa là việc hết sức quan trọng. Sở dĩ chúng tôi nói đó là việc hết sức quan trọng bởi vì nếu khai mở không đúng cách thì chức năng, hình dạng của luân xa sẽ bị biến dạng và gây ảnh hưởng xấu khó lường tới sức khỏe của người tập luyện. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc khai mở luân xa không đúng cách: - Năng lượng của người thầy là không đủ mạnh, phương pháp khai mở không hợp lý chưa thích ứng với cơ địa của từng học viên… dẫn đến các LX được khai mở không đồng bộ……….. - Khi đã khai mở được LX thì người học lại không có sự tập luyện đúng cách, điều này thường cũng do năng lực và kinh nghiệm 55
của người thầy có hạn nên không hướng cho người học đến nơi đến chốn; - Sự chủ quan của bản thân người học, khi đã được khai mở, học được một thời gian lại đi vào tự luyện tập mà không cần sự hướng dẫn của thầy, hoặc cùng một lúc tập nhiều bộ môn khác nhau. - Sự vô trách nhiệm của một số người ở một số trung tâm luyện tập, họ có một số khả năng nhất định, có thể khai mở LX cho người khác nhưng vì mục đích kinh tế, lại do nhu cầu quá đông của những người chưa hiểu biết về thế giới tâm linh (gọi hồn, tìm mộ, áp vong v.v.) nên họ sẵn sàng phá vỡ luân xa để các vong có thể dễ nhập vào người nhà của những người có nhu cầu. Tuy nhiên, khi LX đã bị phá vỡ thì như “nhà” không có “cửa”, vong cũng rất dễ dàng ra và vào. Người đã bị phá vỡ LX ( Ngọc chẩm ) thì khó có thể khôi phục lại và thường xuyên bị vong nhập vào.
Hình: Các luân xa bị biến dạng b. Những trường hợp điển hình của việc khai mở không đúng 56
cách Tukhicongdentamlinh.net đã từng gặp và chữa trị cho nhiều người vì nhiều lí do khác nhau mà hệ thống luân xa bị xáo trộn, rối loạn thậm chí bị phá vỡ hỏng. Họ đã phải gánh chịu một hậu quả….quá mệt mỏi ! - Bạn …T… (ở SG), là sinh viên 23 tuổi, đã từng theo học môn … SH 6-7 năm. Tuy nhiên, việc khai mở LX ban đầu của bạn …T.. lại rất sơ sài, chỉ nhờ một người đi trước khai mở, kết hợp với việc luyện tập không bài bản, chỉ học qua sách mà không có thầy hướng dẫn. Dần dần, hệ thống LX trong cơ thể bạn …T… bị rối loạn, bản thân bạn không kiểm soát được năng lượng ra và vào cơ thể. Nhiều khi bạn …T… cảm thấy bị thất thoát năng lượng rất mạnh mà không làm gì được. Có những lần bạn ngủ 15-16 tiếng/ngày mà vẫn cảm thấy rất mệt mỏi, mắt lờ đờ, không còn sức lực. Rồi có những lúc bạn …T…. lại chủ quan để những luồng năng lượng xấu xâm nhập vào cơ thể chỉ vì tò mò. Nhưng sau đó, những luồng năng lượng xấu lại xâm nhập với tần suất nhiều lên và bạn không thể kiểm soát được nữa. Khi đến với Tukhicongdentamlinh.net là lúc bạn …T… đã rất hoang mang và hoàn toàn bất lực, bạn sẽ không biết làm thế nào nếu tình trạng thất thoát năng lượng tiếp tục xảy ra. Hiện nay, Tukhicongdentamlinh.net đã tiến hành chữa trị cho bạn …T…và bước đầu bạn …T… đã có những cải thiện rất đáng kể về sức khỏe. - Anh …nh (ở Từ liêm, HN), là giáo viên đại học, 36 tuổi, đã từng đi gọi hồn tại trung tâm …A và được áp vong. Lần đó gọi được hồn và vong người nhà nhập vào anh …nh. Những thời gian sau, mỗi khi đi đến những vùng đất hoặc khu vực có nhiều vong, anh …nh lại bị vong nhập. Mỗi lần như vậy, người anh rất mệt mỏi, da xạm đi, ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống và công việc. Sau khi tìm đến với Tukhicongdentamlinh.net, anh … nh mới biết được rằng khi đi gọi hồn, áp vong lần đó, trung tâm …A đã phá vỡ LX ngọc chẩm (LX 6B), hay còn gọi là huyệt Sinh Tử Huyền Quan của anh. Huyệt (LX) này chính là “cửa” để cho phép vong và linh hồn có thể nhập vào cơ thể con người. Sau đó, Tukhicongdentamlinh.net đã khôi phục lại LX Ngọc chẩm cho anh …nh và hiện nay cuộc sống của anh …nh đã trở lại bình thường ổn định. Anh không còn bị vong nhập một cách tùy tiện không theo ý muốn nữa. 57
- Bạn …m (ở Định công, Hà nội), là một sinh viên, 22 tuổi, đã từng học luyện tập môn ….yoga. Khi đến với Tukhicongdentamlinh.net, bạn …m đã có biểu hiện của bệnh ảo giác, luôn nghĩ mình có khả năng cao siêu trong tu luyện, đầu óc thỉnh thoảng lại múa may quay cuồng. Trong quá trình tập luyện môn ….yoga, bạn …m đã từng nghĩ rằng mình có thể điều khiển được Hỏa xà (Kundalini) nhưng thực ra là do các LX của bạn …m bị xáo trộn vì không được tập luyện bài bản và đúng cách nên năng lượng xấu đã xâm nhập vào cơ thể rất nhiều, từ đó gây nên hoang tưởng trong luyện tập. Tukhicongdentamlinh.net cũng đã chữa khỏi cho bạn …m và hiện nay cuộc sống và việc học tập của bạn …m đã bình thường trở lại, sức khỏe ngày càng được cải thiện. 4. Tukhicongdentamlinh.net – Phương pháp khai mở luân xa Tukhicongdentamlinh.net luôn đặt vấn đề an toàn trong việc luyện tập của người học lên hàng đầu. Chính vì vậy, việc khai mở luân xa cũng được thực hiện dựa trên những cơ sở logic khoa học đảm bảo độ an toàn cho người tập luyện. Một cơ thể muốn khai mở các LX được tốt trước hết cơ thể đó phải thật “sạch”. Chúng tôi sẽ chưa thực hiện việc khai mở LX khi cơ thể người tập vẫn còn yếu, còn nhiều bệnh tật, hay nói cách khác khi mà mức năng lượng của người đó không đủ để chống đỡ những tác động của năng lượng xấu bên ngoài môi trường vào cơ thể. Bởi vậy, việc đầu tiên là đánh giá mức năng lượng trong cơ thể như thế nào, bệnh tật của cơ thể ra làm sao. Từ đó có các bài tập phù hợp để loại bỏ dần các khí xấu trong cơ thể, thanh lọc cho cơ thể sạch và sáng dần lên. Khi cơ thể đã tương đối sạch, tùy từng cấp độ mà chúng tôi đưa ra các bài tập nâng cao phù hợp với từng người, bắt đầu từng bước khai mở các LX và để họ cảm nhận sự thay đổi trong cơ thể mình khi các LX được khai mở, từ đó có thể hiệu chỉnh kịp thời khi có những biến đổi bất hợp lý. Mục tiêu cuối cùng khi các LX được khai mở là người học có thể tự kiểm soát được các luồng năng lượng ra và vào cơ thể mình. Biết chủ động mở “cửa” để thu các luồng năng lượng tốt từ bên ngoài theo các LX phù hợp phục vụ cho việc thanh lọc cơ thể, chữa bệnh cho mình và cho người khác. Biết tự đóng “cửa” các 58
LX khi đi tới những khu vực, những vùng có khí xấu, năng lượng xấu để những luồng năng lượng xấu này không xâm nhập được vào cơ thể gây nên bệnh tật. Hay nói cách khác, mục tiêu của việc khai mở LX chính là việc bản thân người tập chủ động tạo được một trường năng lượng sạch trong và xung quanh cơ thể, từ đó giúp đỡ cho bản thân mình và những người xung quanh chữa bệnh, nâng cao sức khỏe, bước đầu khám phá những tiềm năng đang còn ẩn náu trong con người (khả năng tiếp xúc được với thế giới tâm linh). Hy vọng rằng tôi đã đóng góp được một phần nào đó trong việc trả lời được câu hỏi : Tại sao vai trò của luân xa lại vô cùng quan trọng đối với người luyện tập các môn “năng lượng”.
59
Tạng Phủ Và Các Chức Năng Của Tạng Phủ Kiến thức về Tạng-Phủ là những kiến thức rất cần thiết cho người học khí công. Biết được vị trí của tạng phủ để ta dẫn khí đến đúng vị trí,biết được chức năng của tạng phủ để chúng ta hiểu được các hoạt động sống của cơ thể từ đó có các biện pháp điều khí để tăng cường sức khỏe hoặc để có phác đồ chữa bệnh cho hợp lý.Những kiến thức này lại đặc biệt quan trọng đối với những người nào có khả năng dùng khí công để chữa bệnh cho người khác.Nếu không xác định chính xác được vùng bệnh,nếu không biết được nguồn gốc của căn bệnh thì làm sao Thầy có được phác đồ điều trị cho có hiệu qủa. Cơ thể con người ta theo quan điểm Đông y chia làm hai phần: Phần ngoài gọi là biểu, phần trong gọi là lý.Các Tạng-Phủ của chúng ta nằm ở phần Lý, nó được thông với bên ngoài bằng các cơ quan gọi là Khiếu. Cơ thể chúng ta có 6 tạng đó là: tạng Tâm, tạng Can, Tạng Tỳ, tạng Phế, tạng Thận và tạng Tâm bào, Cơ thể chúng ta có 6 phủ đó là: phủ Tiểu trường, phủ Đởm, phủ Vị, phủ Đại trường, phủ Bàng quang và phủ Tam tiêu. Kinh là đường dẫn khí tới tạng-phủ nên mỗi phủ - tạng có một đường kinh riêng. “ Kinh là cái quyết định sự sống chết và qua đó hàng trăm bệnh có thể được điều trị” (Nội kinh). I. Lục Tạng 1.Tạng Tâm Tâm là cơ quan quan trọng nhất, trung tâm của những hoạt động sống của cơ thể,Tâm duy trì và lan tỏa nhiệt lực. Tâm nằm trong lồng ngực có Tâm bào bảo vệ,Tâm thuộc Hỏa. Tâm chủ huyết mạch,nó có tác dụng chỉ đạo và cộng đồng với huyết mạch để đưa huyết đi nuôi cơ thể. Tâm tàng Thần tức là tâm chủ về các hoạt động của tinh thần,hay còn nói “tâm chủ thần minh”.Tâm chi phối thất tình bởi vậy mới có câu tâm sắt đá, tâm cởi mở,tâm ác, tâm thiện. Giống như sức nóng của ngọn lửa,khí của tâm có chiều hướng bốc lên.Cảm giác này có thể nhận thấy khi luyện khí, tập trung tư tưởng vào huyệt Đản trung và tưởng tượng Tâm như ngọn lửa đang bùng cháy. 60
Điều Tâm chính là làm dịu Thất tình,điều Tâm tốt xẽ xóa bỏ được tạp niệm.Khi bình được tâm sẽ tạo nên nụ cười ở bên trong.Trong cuộc sống và đặc biệt là trong luyện tập khí công phải cố gắng bình được tâm mà trước hết là phải giữ cho nét mặt thật thanh thản. Tâm khí được sinh ra khi chân khí đi vào tạng tâm.Tâm khí hoạt hóa chủ yếu ở Tâm kinh và Tiểu trường kinh,hai mạch này khép kín thành vòng cho Tâm khí.Tâm khí phát động cơ năng và chức năng của tạng tâm, để sinh chân hỏa cho huyết và làm chủ hệ mạch. Tâm dịch chính là huyết tương trong máu.Nồng độ huyết tương giảm sẽ làm cho máu bị loãng, giảm bớt khả năng truyền tải năng lượng.Nồng độ huyết tương đậm đặc sẽ làm ảnh hưởng đến tốc độ lưu thông máu trong huyết quản,từ đó có thể sinh ra nhiều chứng bệnh về máu. Tâm chủ hệ huyết có tính Hỏa,hành hỏa,có sắc khí màu đỏ,có vị khí đắng,mùi khét, dịch thoát là mồ hôi. Tâm khai khiếu ra lưỡi,lấy cửa ngõ ở mặt,chính vì vậy nét mặt sẽ phản ánh tình trạng của Tâm. Tâm tàng thần.Phủ có quan hệ biểu lý với tạng Tâm là phủ Tiểu trường. 2.Tạng Can Gan nằm ở hạ sườn bên phải,nó trông coi sự phân bố dương khí của toàn thân.Gan thuộc Mộc tương ứng với khí sinh phát của mùa Xuân.Tính can đảm hay mhút nhát là do Gan quyết định. Gan chủ sơ tiết.Gan có nhiệm vụ khơi thông giúp cho sự vận hành khí huyết các tạng phủ dễ dàng thông suốt,thăng giáng được điều hòa.Gan còn có chức năng thanh lọc các độc tố trong cơ thể. Gan tàng huyết,Gan là kho dự trữ máu và điều tiết lượng máu trong toàn cơ thể.Khi cơ thể đang hoạt động cần một lượng máu lớn thì máu được dẫn lưu trong khắp cơ thể,khi ta nghỉ ngơi nhất là khi ngủ cơ thể cần sử dụng ít máu hơn,phần máu dư tạm thời đó sẽ đi vào gan để cất giữ ở gan.Với chức năng điều tiết máu gan cũng sẽ điều hòa luôn khí trong toàn cơ thể.Nếu gan khí bình thường thì khí huyết được điều hòa,cơ thể cảm thấy thoải mái.Nếu gan khí bị uất kết sẽ làm cho tinh thần người ta căng thẳng dễ sinh cáu gắt hoặc mệt mỏi buồn rầu.Khí 61
gan vượng sẽ làm tâm sinh hỏa ( can mộc sinh tâm hỏa ) và khí nóng bốc lên đầu gây đau đầu khó chịu.Trong khí công nếu ta luôn thanh gan tốt giữ cho khí gan được quân bình thì không những làm cho con người luôn thoải mái vui vẻ mà nó còn có tác dụng thúc đẩy việc tiêu hóa có hiệu quả. Gân cơ khớp là những bộ phận phụ trách vận động của cơ thể.Nếu huyết ở gan được đầy đủ thì gân được nuôi dưỡng tốt giúp cho việc vận động được linh hoạt.Nếu gân yếu thì chân tay dễ bị co quắp, khi vận động sẽ rất nhanh mỏi mệt.Móng tay móng chân là phần cuối của gân, nhìn hình dáng màu sắc của móng tay móng chân ta biết được tình trạng của gân và từ đó biết được tình trạng của Gan. Gan khí sinh ra khi Chân khí đi vào tạng Gan, gan khí hoạt hóa chủ yếu ở Can kinh và Đởm kinh,hai mạch này khép kín thành vòng cho Can khí.Can khí phát động cơ năng và chức năng của tạng gan để sinh tân dịch và làm chủ hệ gân.Gan dịch còn gọi là cân dịch, nó giúp cho hoạt động của toàn bộ hệ thống gân được dẻo dai săn chắc.Cân dịch bị rối loạn sẽ làm cho toàn bộ hệ gân bị rối loạn.Trong cơ thể con người song song với hệ Kinh lạc là hệ Kinh cân.Sự hoạt động của hệ Kinh cân sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hệ Kinh lạc (hay còn gọi là hệ Kinh khí ).Hệ kinh cân hoạt động tốt sẽ làm cho hệ kinh khí hoạt động thông suốt. Gan chủ hệ Cân, khí có tính phong,hành Mộc,có sắc khí màu xanh,có vị khí chua,mùi hôi,dịch thoát là nước mắt.Gan khai khiếu ra mắt vinh nhuận ra móng tay móng châ.Bệnh của Gan biểu hiện ra mắt, khi gan sơ tiết kém,gan huyết không đủ dẫn đến mắt vàng,khô sáp.Khí Can quá vượng làm cho mắt đỏ lên đó là biểu hiện của nộ khí hoặc huyết áp cao.Can tàng hồn.Tạng can có quan hệ biểu lý với phủ Đởm. 3.Tạng Tỳ Tỳ nằm ở hạ sườn bên trái,nó là một trong những bộ phận quan trọng của kho tàng thủy cốc, là chỗ sản sinh ra dưỡng khí.Tỳ có khả năng thu hút được tinh hoa của thủy cốc để tạo nguồn sinh ra huyết. Tỳ chủ về thứ khí hậu thiên là thứ khí sinh ra từ thủy cốc(đồ ăn thức uống)
62
Tỳ chủ về vận hóa,Tỳ có khả năng làm nhừ thức ăn nhờ vào việc lấy hỏa từ Mệnh môn lên.Tỳ có khả năng chuyển hóa và vận chuyển tân dịch đi các nơi (bao gồm cả khí và thủy dịch). Tỳ thống nhiếp huyết,Tỳ là nguồn sinh ra huyết. Tỳ khí có hướng đi lên khi thở ra.Tỳ khí vượng làm cho người ta ăn thấy ngon và chóng đói,Tỳ khí suy thì ăn không thấy ngon và người gầy yếu mệt mỏi. Ăn no quá thì làm tổn thương đến Tỳ. Tỳ,Vị có thể ví như quân lương,quân lương khô cạn thì quân binh tức khắc tan rã. “Con người lấy Tỳ,Vị làm gốc là then chốt của sinh hóa trong hậu thiên,có nó thì sống không có nó thì chết.” Tỳ khí sinh ra khi Chân khí đi vào tạng tỳ,tỳ khí hoạt hóa chủ yếu ở Tỳ kinh và Vị kinh,hai mạch này khép kín thành vòng cho Tỳ khí.Tỳ khí phát động cơ năng và chức năng của tạng Tỳ để sinh ra dịch vị và làm chủ hệ cơ nhục. Tỳ dịch còn gọi là Cơ dịch,nó có tác dụng làm trơn các cơ bắp,nó giúp cho cơ bắp hoạt động mềm mại dẻo dai.Tỳ chủ về cơ nhục chân tay,có tác dụng làm cho cơ bắp bền chắc linh động. Tỳ khí có tính thấp,hành Thổ,có sắc khí màu vàng,có vị khí ngọt,mùi thơm,dịch thoát là nước bọt.Tỳ biểu hiện ra môi miệng cho nên nhìn sắc môi miệng sẽ biết được Tỳ đang hoạt động như thế nào. Tỳ tàng Vía.Tạng Tỳ có quan hệ biểu lý với phủ Vị. 4.Tạng Phế Phế là tạng nằm ở bên trong lồng ngực,Phế chủ về hô hấp và thông với da lông.Phế hư, lỗ chân lông hở dễ mắc bệnh cảm cúm,Phế hư yếu làm cho hơi thở ngắn gây ra táo bón. Phế chủ khí của toàn thân,nó có nhiệm vụ kiểm tra toàn bộ khí,thanh lọc Dinh khí do ẩm thực đem lại và xuất khí xấu ra theo đường thở hoặc qua bề mặt da. Phế chủ điều tiết giúp cho Tâm.Tâm chủ huyết,Phế chủ khí,khí là soái của huyết-huyết là mẹ của khí,khí là cơ sở vật chấthuyết là công năng.Khí huyết có lưu thông thì cơ thể mới khỏe mạnh.
63
Phế chủ đưa khí xuống dưới để giúp cho việc bài tiết dễ dàng,nếu phế khí không thông xuống dưới thì cơ thể có thể bị phù nề. Để chữa bệnh phù nề trước tiên phải thông phế khí Phế chủ thanh,phế tốt thì tiếng nói tốt. Phế khí sinh ra khi Chân khí đi vào tạng phế.Phế khí hoạt hóa chủ yếu trong Phế kinh và Đại trường kinh,hai mạch này khép kín tạo thành vòng cho phế khí.Phế khí phát động cơ năng và chức năng của phế,sinh ra dưỡng khí và làm chủ hệ da lông. Phế dịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình hô hấp,nó là dịch chất trên các niêm mạc của nang phổi,có tác dụng giúp cho quá trình hô hấp trao đối chất trong cơ thể. Phế dịch sinh ra quá nhiều hoặc quá ít đều làm mất đi sự cân bằng âm dương trong hoạt động của phổi.Nếu Phế dịch khô quá sẽ gây ra tình trạng “dương thịnh âm suy” của phổi, từ đó sinh ra háo nước và tụ nhiệt dẫn đến viêm phổi.Nếu phế dịch nhiều quá đó là tình trạng “âm thịnh dương suy” của phổi có thể dẫn đến tràn dịch màng phổi. Phế chủ da lông,phế vượng thì da dẻ hồng hào chống được ngoại tà xâm nhập,phế suy thì lỗ chân lông mở rộng nên ngoại tà dễ xâm nhập. Phế có tính táo,hành Kim,sắc khí màu trắng,vị khí cay,mùi khí tanh,dịch thoát là nước mũi.Phế khai khiếu ở mũi cho nên bệnh phế hay biểu hiện ở mũi họng. Phế tàng Phách.Tạng Phế có quan hệ biểu lý với phủ Đại trường (ruột già ). 5.Tạng Thận Thận là tạng nằm ở phía lưng,thẳng từ rốn sang.Thận là chỗ tiềm tàng của sự sinh trưởng là nơi ẩn nấp của chân dương,là gốc của sự bế tàng,là chỗ trữ tàng tinh khí của ngũ tạng lục phủ.Thận quyết định thể tạng và thần kinh của con người. Thận chủ tiên thiên,Tiên thiên khí là thứ khí do tinh huyết cả cha mẹ kết hợp lại mà thành,nó có tác dụng thúc đẩy sự sinh trưởng. Thận chủ tàng tinh,tinh khí của các tạng phủ do ăn uống mà có.Khi ăn uống vào do có hệ tiêu hóa hoạt động mà chất dinh dưỡng được tàng tích ở lục phủ ngũ tạng, phần dư thừa sẽ được tàng tích ở thận lúc cần thiết sẽ cung cấp đi. 64
Thận tàng Tinh và Trí ( an thể ).Tạng Thận có quan hệ biểu lý với phủ Bàng quang. 6. Tạng danh Tâm bào Tâm bào là màng bao tim.Khi tâm khí ngấm ra ngoài mà chân hỏa hóa thực nhiệt lúc đó sẽ tạo ra nhiệt tâm khí.Nhiệt tâm khí hoạt hóa trong vòng Tâm bào kinh,nhiệt tâm khí có nhiệm vụ sinh nhiệt cho cơ thể và nội tạng.Nhiệt tâm khí còn có chức năng di nhiệt hỏa xuống để “đốt Tinh-sinh Khí” đồng thời ngấu nhừ thủy cốc ở hệ tràng vị. II. Phủ Tương ứng với 6 Tạng cũng có 6 Phủ 1. Phủ Đại trường (ruột già) có quan hệ biểu lý với tạng Phế 2. Phủ Vị (dạ dày) có quan hệ biểu lý với tạng Tỳ 3. Phủ Tiểu trường (ruột non) có quan hệ biểu lý với tạng Tâm 4. Phủ Bàng quang (bọng đái) có quan hệ biểu lý với tạng Thận 5. Phủ Tam tiêu ( là những màng mỡ bao quanh và liên kết một số Phủ-Tạng với nhau) có quan hệ biểu lý với tạng danh Tâm bào 6. Phủ Đởm (mật) có quan hệ biểu lý với tạng Gan. ** Tam tiêu là Phủ chúng ta cần lưu ý vì có những đặc điểm không bình thường.Tam tiêu là phủ của tạng danh Tâm bào,nó chia làm 3 phần: Thượng tiêu,Trung tiêu và Hạ tiêu.Tam tiêu có chức năng duy trì thân nhiệt,làm nhừ thủy cốc,thải bỏ cặn bã thực ra khỏi cơ thể.Tam tiêu là đường đi của khí và thủy đạo,tam tiêu bị ách tắc ở đâu thì sinh phù ở đấy. Thượng tiêu là màng mỡ bao bọc,chằng giữ liên kết ở khu vực Tâm và Phế. Trung tiêu là màng mỡ bao bọc chằng giữ liên kết ở khu vực Can, Đởm,Tỳ,Vị và tuyến Tụy. Hạ tiêu là màng mỡ bao bọc chằng giữ liên kết ở khu vực Thận,Bàng quang, Đại tràng,Tiểu tràng và bộ máy sinh dục.
65
SỔ TAY HỌC TẬP I/. Hình dạng, vị trí các tạng
Tạng Phế: Tạng Phế nằm ở bên trong lồng ngực, phế khí có màu trắng, hành kim.
66
67
Tạng Tỳ: Tạng Tỳ nằm ở hạ sườn bên trái, tỳ khí có màu vàng, hành thổ
Tạng Tâm: Tạng Tâm nằm ở trong lồng ngực, được tâm bào bảo vệ, tâm khí có màu đỏ, hành hỏa.
68
Tạng Thận: Tạng Thận nằm ở phía lưng, thẳng từ rốn sang, thận khí có màu đen, hành thủy.
69
Tạng Tâm bào: Tạng tâm bào là màng bao tim, tâm bào khí có màu tím
70
71
Tạng Can: Tạng Can nằm ở hạ sườn bên phải, can khí có màu xanh, hành mộc II. Mạch Nhâm, Mạch Đốc, Đan điền hạ, Các huyệt quan trọng 1. Mạch nhâm: Khởi đầu từ huyệt Thừa tương (bên dưới môi dưới), đi xuống qua Thiên đột (hõm cổ), Đản trung (giữa ngực), Khí hải, Khúc cốt và kết thúc ở huyệt Hội âm (nằm giữa bộ phận sinh dục và Hậu môn). Mạch Nhâm có nhiệm vụ tổng quản tất cả các đường kinh âm phía trước bụng,có nhiệm vụ chăm sóc Bào cung và hệ sinh dục. 2. Mạch đốc: Khởi đầu từ huyệt Trường cường ở mô xốp xương cùng cột sống theo cột sống đi lên qua các huyệt Mệnh môn, Linh đài, Ngọc chẩm, qua Bách hội đến Ấn đường và kết thúc ở Ngân giao (chân răng hàm trên). Mạch Đốc có nhiệm vụ tổng quản tất cả các đường kinh dương ở sau lưng, đưa Dương khí đến nuôi dưỡng vùng đầu não.
72
3. Đan điền: a/ Đan điền hạ Đan điền hạ nằm trong vùng bụng dưới là nơi sinh ra chân khí – tức là nơi Hỏa luyện Tinh thành Khí. Tâm của Đan điền hạ là nơi giao nhau giữ đường nối Khí hải với Mệnh môn và Trục Sinh lực. Đan điền có dạng Thái cực. b/ Đan điền trung Đan điền trung nằm trong vùng ngực, là nơi tích trữ những năng lượng tinh khiết được chuyển từ Đan điền hạ lên. Tâm của Đan điền trung là nơi giao nhau giữa đường nối Đản trung và Linh đài với Trục Sinh lực. Đan điền có dạng Thái cực. Đan điền trung chỉ được khai mở khi Đan điền hạ đã tương đối hoàn thiện. c/ Đan điền thượng. 73
Đan điền thượng nằm ở vùng đầu, là nơi chứa những năng lượng rất tinh khiết được chuyển từ Đan điền trung lên. Tâm của Đan điền thượng chính là Hạch tùng, là nơi giao nhau giữ trục Chẩm-Ấn và trục Sinh lực. Đan điền có dạng Thái cực. Đan điền thượng chỉ được khai mở đối với những người có tố chất đặc biệt. Năng lượng hoạt động của Thiên nhãn (mắt thần) do Đan điền thượng cung cấp. 4. Các huyệt đạo quan trọng: - Bách hội. Là điểm giao nhau giữa 2 đường nối hai đỉnh tai và đường đi chính giữa nơi sống mũi đi lên. Đây là nơi giao hội của mạch Đốc với 6 đường kinh dương. Là nơi giao lưu Nhân khí – Thiên khí. - Tứ thần thông : Từ Bách hội ra phải,trái,trước,sau,1 thốn, dùng để khai mở Thiên nhãn,Thiên nhĩ. Nói cách khác : Nếu ta coi Bách hội là tâm của một hình vuông có mỗi cạnh dài 2 thốn (một thốn bằng chiều ngang của ngón tay), bốn huyệt Tứ thần thông nằm ở 4 góc của hình vuông ấy, hai huyệt phía trước liên quan đến Thiên nhãn, hai huyệt phía sau liên quan đến Thiên nhĩ. - Ấn đường: Là điểm giữa của đường nổi hai đầu lông mày, là nơi điều khiển màn hình, là nơi giao lưu nội ngoại khí. Là một con mắt để nhìn vào những không gian khác. - Thiên đột: Hõm cổ. Là nơi kích hoạt Thiên nhĩ - Đản Trung: Điểm giữa đường nối hai núm vú,là nhánh giao lưu Âm khí nội ngoại - Khí hải: Từ rốn thẳng xuống 1,5 thốn là cửa vào Đan điền, bể thận. - Khúc cốt: Dưới rốn 5 thốn. - Hội âm: Nằm giữa đường nối hậu môn và bộ phận sinh dục.Đây là nơi giao hội của mạch Nhâm với 6 đường kinh âm,là xung huyệt của Nhâm và Đốc. Là cửa xả Âm khí. - Trường cường: Cuối đốt sống cùng.Là nguồn sinh Dương khí – Chân hỏa. - Mệnh môn: Đối diện với Khí hải sang.Là cửa ra của Đan điền, quan hệ với Thận hỏa. - Linh đài: Đối diện với Đản trung sang là nhánh giao lưu Dương khí nội ngoại 74
- Đại chùy: Đối diện với Thiên đột sang. - Ngọc chẩm: ở sau gáy, điểm tiếp giáp giữa hộp sọ và đốt sống cổ số 1, nó là huyệt Sinh Tử huyền quan.
- Lao cung: Huyệt ở trên đường văn tim của gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và ngón áp út chạm vào đường văn này; hoặc gấp các ngón tay vào lòng bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đường nếp gấp giữa lòng bàn tay (đường tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt. - Dũng tuyền: Dưới lòng bàn chân, huyệt ở điểm nối 2/5 trước với 3/5 sau của đoạn đầu ngón chân thứ 2 và giữa bờ sau gót chân, lỗ hõm dưới bàn chân. 5. Các du huyệt quan trọng: - Phế du: Dưới gai đốt sống lưng 3, đo ngang ra 1, 5 thốn. Huyệt có tác dụng đưa kinh khí vào (du) tạng Phế, vì vậy gọi là Phế Du. Huyệt thứ 13 của kinh Bàng Quang. - Tỳ du: Dưới gai sống lưng 11, đo ngang ra 1, 5 thốn. Huyệt có tác dụng đưa kinh khí vào (du) tạng Tỳ, vì vậy gọi là Tỳ Du. Huyệt thứ 20 của kinh Bàng Quang. - Tâm du: Dưới gai sống lưng 5, đo ngang ra 1, 5 thốn. Huyệt có tác dụng đưa kinh khí vào (du) tạng Tâm, vì vậy gọi là Tâm Du. Huyệt thứ 15 của kinh Bàng Quang. 75
- Thận du: Dưới gai sống thắt lưng 2, đo ngang ra 1, 5 thốn, ngang huyệt Mệnh Môn. Huyệt có tác dụng rót (du) kinh khí vào tạng Thận, vì vậy gọi là Thận Du. Huyệt thứ 23 của kinh Bàng Quang. - Can du: Dưới gai sống lưng 9, đo ngang ra 1, 5 thốn. Huyệt có tác dụng đưa kinh khí vào (du) tạng Can, vì vậy gọi là Can Du. Huyệt thứ 18 của kinh Bàng Quang.
76
III. Các huyệt đầu/cuối của mười hai đường kinh chính:
Huyệt đầu/cuối của các đường kinh Thủ (Tay)
Huyệt đầu/cuối của các đường kinh Túc (Chân) 77
IV. Hệ thống luân xa “Luân xa là những Huyệt đạo có vị trí quan trọng trên cơ thể con người mà tại đó năng lượng của môi trường bên ngoài (vũ trụ) và năng lượng của bản thân con người được trao đổi nhằm luân chuyển, bổ sung, nâng cấp, tích trữ năng lượng cho toàn bộ cơ thể”.
Bảy luân xa chính: LX Bách Hội (LX 7, huyệt bách hội) LX Ấn đường (LX 6A, huyệt ấn đường) LX Ngọc chẩm (LX 6B, huyệt ngọc chẩm - Huyệt Sinh Tử huyền quan ) LX Thiên đột (LX 5A, huyệt thiên đột) LX Đại chùy (LX 5B, huyệt đại chùy) LX Đản trung (LX 4A, huyệt đản trung) LX Linh đài (LX 4B, huyệt linh đài) LX Khí hải (LX 3A, huyệt khí hải) LX Mệnh môn (LX 3B, huyệt mệnh môn) 78
LX Khúc cốt (LX 2A, huyệt khúc cốt) LX Trường cường (LX 2B, huyệt trường cường) LX Hội âm (LX 1, huyệt hội âm )
79
V. Xả bỏ khí độc theo đường ngắn nhất - Hư tạng khí là khí xấu của tạng, nằm trong tạng, gây hại cho tạng, làm giảm chức năng hoạt hóa của tạng. Quá trình phát sinh tạng khí làm cho chính khí ở tạng đó mạnh lên, từ đó loại bỏ dần các hư khí, bệnh khí (tà khí) của tạng. - Xả hư tạng khí theo đường đi ngắn nhất từ tạng ra ngoài cơ thể để thanh hóa tạng nhanh nhất. Các đường xả hư khí gần nhất với từng tạng: + Hư phế khí đi theo hai cánh tay xả mạnh ra hai lòng bàn tay. + Hư tỳ khí đi theo chân trái xả mạnh ra lòng bàn chân trái. + Hư tâm khí đi theo tay trái xả mạnh ra lòng bàn tay trái. + Hư thận khí đi theo hai chân xả mạnh ra hai lòng bàn chân. + Hư tâm bào khí đi theo cánh tay phải xả mạnh ra hai lòng bàn tay + Hư can khí đi theo chân phải xả mạnh ra lòng bàn chân phải
80
HỆ THỐNG KINH LẠC và HUYỆT ĐẠO I. Định nghĩa Kinh lạc là những đường vận hành khí huyết trong cơ thể con người.Kinh là những đường ống chạy dọc theo cơ thể thông suốt khắp nơi,Lạc là rất nhiều những đường ống nhỏ hơn chạy ngang nối các Kinh với nhau. Kinh mạch và Lạc mạch làm thành một hệ thống thống nhất hoàn chỉnh trong cơ thể con người và được goị là hệ Kinh Lạc. II. Tác dụng của Kinh Lạc Mười hai đường kinh mạch chính trong cơ thể liên hệ với Ngũ tạng,Lục phủ ở bên trong,với tứ chi-gân-khớp-da-lông ở bên ngoài thành một hệ thống thống nhất.Khí huyết trong cơ thể con người tuần hoàn không ngừng để duy trì sự cân bằng ÂmDương,nuôi dưỡng gân,cốt,da,thịt bảo vệ sức khỏe con người chống lại ngoại tà xâm nhập.Sự tuần hoàn khí huyết có được phát huy đầy đủ hay không là nhờ chủ yếu vào hệ Kinh Lạc. III. Những đường kinh cơ bản Dinh khí bắt đầu từ Phế ở Trung tiêu theo kinh thủ Thái âm Phế đổ vào kinh Dương minh đại trường,đi tiếp theo 11 đường kinh tới kinh Quyết âm Can.Từ kinh Can đi lên đỉnh đầu đổ vào mạch Đốc,tiếp sang mạch Nhâm qua Khuyết bồn rồi trở về kinh Phế.Vòng tuần hoàn cứ như vậy. Trong các đường kinh,có kinh Dương và kinh Âm.Khí vận hành theo vòng Đại chu thiên,giờ thịnh xuy theo thời sinh học,biến vi hoạt dụng theo Âm-Dương của Ngũ hành. Dương khí mới phát sinh gọi là Thiếu dương. Âm khí mới phát sinh gọi là Thiếu âm. Dương khí cực thịnh gọi là Dương minh. Âm khí tràn đầy gọi là Quyết âm. Dương khí đại thịnh (tỏa rộng) gọi là Thái dương. Âm khí đại thịnh (tỏa rộng) gọi là Thái âm. A/ Mười hai đường kinh chính Các tạng : Tâm-Tâm bào-Can-Tỳ-Phế-Thận có chức năng chứa các tinh khí vật chất của cơ thể,nó có thuộc tính Âm.Các đường kinh tương ứng với nó là các đường kinh Âm. Các phủ : Tiểu trường-Tamtiêu-Đởm-Vị-Đại trường-Bàng quang có chức năng hoạt động về tiêu hóa,truyền dẫn bài tiết,nó có thuộc tính Dương.
81
1/ Kinh thủ Thái âm Phế Bắt đầu đi từ Trung tiêu...huyệt Trung phủ (01) đi ra ở huyệt Thiếu thương (11) đầu ngón tay cái. Kinh thủ Thái âm Phế mà tuyệt thì sẽ làm mất Phế khí,da lông không được nuôi dưỡng vì thiếu tân dịch.Da và lông sẽ bị tổn thương làm cho da khô,lông gãy rụng.Lông mày mà rụng là báo hiệu da lông đang chết trước. http://farm5.static.flickr.com/4060/...84a045fb_b.jpg
82
2/ Kinh thủ Dương minh Đại trường Bắt đầu đi từ huyệt Thương dương ( 1 ) ở đầu ngón tay trỏ…về đến huyệt nghinh hương (20). http://farm2.static.flickr.com/1019/...280692d4_b.jpg
83
3/ Kinh thủ Thiếu âm Tâm Bắt đầu từ Thượng tiêu…huyệt Cực tuyền (1) đi ra đầu ngón tay út huyệt Thiếu xung (9). Kinh thủ Thiếu âm Tâm mà tuyệt nó sẽ làm mất Tâm khí,huyết mạch không thông,dịch huyết không lưu hành khắp cơ thể,làm cho sắc da mất tươi nhuận.Sự biểu hiện ra ở mặt,sắc mặt mà vàng ải đen sạm là báo hiệu huyết đã chết trước. http://farm2.static.flickr.com/1146/...de443f3d_b.jpg
84
4/ Kinh thủ Thái dương Tiểu trường Bắt đầu từ huyệt Thiếu trạch (1) ở đầu ngón tay út…về đến huyệt Thính cung (19). http://farm2.static.flickr.com/1433/...66ea286d_b.jpg
85
5/ Kinh túc Thái âm Tỳ Bắt đầu từ huyệt Ẩn bạch (1) ở đầu ngón chân cái…về đến huyệt Đại bao (21). Kinh túc Thái âm Tỳ mà tuyệt thì nó làm mất Tỳ khí,biểu hiện ra ở miệng môi.Tỳ chủ về cơ nhục nên màu sắc ở miệng môi biểu thị cho thịt tươi hay khô.Khi cơ nhục không còn trơn nhuận thì thịt trướng da căng ở thể cấp,khi môi quăn ngược lên là báo hiệu thịt đã chết trước. http://farm2.static.flickr.com/1227/...14e3f5f7_b.jpg
86
6/ Kinh túc Dương minh Vị Bắt đầu từ huyệt Thừa khấp (1) …đi ra huyệt Lệ đoài (45) ở đầu ngón chân trỏ. http://farm2.static.flickr.com/1289/...c817285e_b.jpg
87
7/ Kinh túc Thiếu âm Thận Bắt đầu từ huyệt Dũng tuyền (1) lòng bàn chân…đi lên đến huyệt Du phủ (27). Kinh túc thiếu âm Thận mà tuyệt thì sẽ làm mất Thận khí,xương không được sưởi ấm nữa nên xương khô.Xương không được Thận khí ôn dưỡng nên thịt không gắn chặt vào xương ( Cốt nhục bất kết ) làm cho bắp thịt mềm nhũn.Thịt mềm làm cho khí ở xương thoát ra ngoài,gây nên hiện tượng răng lồi tóc khô.Tóc không còn bóng mượt là báo hiệu xương đang chết trước. http://farm2.static.flickr.com/1377/...8b5ea1a8_b.jpg
88
8/ Kinh túc Thái dương Bàng quang. Bắt đầu từ huyệt Tinh minh (1) đi dọc theo hai bên cột sống và đi ra ở ngón chân út tại huyệt Chí âm (67) Trên đường kinh Bàng quang có tất cả các du huyệt nên đường kinh này có vị trí đặc biệt. http://farm5.static.flickr.com/4062/...b064426e_b.jpg
89
9/ Kinh túc Quyết âm Can. Bắt đầu từ ngón chân cái,huyệt Đại đôn (1) …đi về đến huyệt Kỳ môn (14). Kinh túc Quyết âm Can mà tuyệt sẽ làm mất Can khí,gân mạch sẽ bị co thu lại.Vì kinh túc Quyết âm Can liên quan đến hệ Gân,phần nhiều hội tụ ở phần âm bộ và vùng cuống lưỡi.Khi Can khí tuyệt sẽ làm cho lưỡi thụt vào,hòn dái thun lên,nó báo hiệu rằng Gân đã chết trước ở bên trong. http://farm5.static.flickr.com/4022/...c4b611a5_b.jpg
90
10/ Kinh túc Thiếu dương Đởm. Bắt đầu từ đuôi mắt ngoài,huyệt Đồng tử liêu (1) …đi ra ngón chân áp út huyệt Túc khiếu âm (44). http://farm2.static.flickr.com/1131/...97b6ee38_b.jpg
91
11/ Kinh thủ Quyết âm Tâm bào Bắt đầu từ Thượng tiêu ( Tâm bào lạc ) huyệt Thiên trì (1) …đi ra đầu ngón tay giữa,huyệt Trung xung (9) http://farm2.static.flickr.com/1328/...7e9d20bf_b.jpg
92
12/ Kinh thủ Thiếu dương Tam tiêu. Bắt đầu từ ngón tay đeo nhẫn,huyệt Quan xung (1) …đi về đến huyệt Ty trúc không (23). http://farm2.static.flickr.com/1440/...0a2df5d4_b.jpg
93
B/ Bát Mạch Kỳ Kinh Tám mạch Kinh này đi riêng lẻ độc lập với 12 đường Kinh chính. 1/ Mạch Đốc Khởi đầu từ huyệt Trường cường (1) ở mô xốp xương cùng cột sống theo cột sống đi lên qua các huyệt Mệnh môn,Linh đài,Ngọc chẩm, Ấn đường và kết thúc ở Ngân giao (28). Mạch Đốc có nhiệm vụ tổng quản tất cả các đường kinh dương ở sau lưng, đưa Dương khí đến nuôi dưỡng vùng đầu não. http://farm5.static.flickr.com/4008/...fa759551_b.jpg
94
2/ Mạch Nhâm Khởi đầu từ huyệt Hội âm (1) phía trước hậu môn, đi ở phía bụng lên qua huyệt Khí hải (Đan điền), Đản trung,Thiên đột và kết thúc ở huyệt Thừa tương (24). Mạch Nhâm có nhiệm vụ tổng quản tất cả các đường kinh âm phía trước bụng,có nhiệm vụ chăm sóc Bào cung và hệ sinh dục. http://farm2.static.flickr.com/1368/...e258ca6a_b.jpg
95
3/ Mạch Xung Dùng để điều tiết khí huyết trong cơ thể đồng thời làm bể chứa khí và huyết thừa trong kinh mạch.Nó khởi đầu từ huyệt Hoành cốt (1) và kết thúc ở môi. http://farm5.static.flickr.com/4038/...2e3f69ec_b.jpg
4/ Mạch Đới. Mạch Đới liên kết 3 đường kinh Dương,3 đường kinh Âm ở hai 96
chân với 2 mạch Nhâm - Đốc.Nó chạy vòng quanh bao bọc cho Đan điền để hỗ trợ cho việc phát sinh Chân khí, để giằng giữ cho các kinh Âm-Dương không bị rối loạn. http://farm4.static.flickr.com/3340/...33989ba1_b.jpg
97
5/ Mạch Dương kiểu. Là mạch liên hệ với 3 kinh Dương ở chân,quản lý kinh Dương toàn thân.Dương kiểu đi vào Âm thì làm cho nhắm mắt buồn ngủ. Bắt đầu từ huyệt Thân mạch ở dưới mắt cá ngoài đi lên đến khóe mắt trong,hợp với Âm kiểu để cùng đi lên não rồi lại quay xuống khóe mắt ngoài. http://farm5.static.flickr.com/4005/...8ddafb15_b.jpg
98
6/ Mạch Âm kiểu. Là mạch liên hệ với 3 kinh Âm ở 2 chân,quản lý kinh Âm toàn thân. Âm kiểu đi vào Dương thì làm cho mở mắt,không buồn ngủ. Bắt đầu từ huyệt Chiếu hải (1) ở dưới mắt cá trong đi lên đến khóe mắt trong,hợp với Dương kiểu cùng đi lên não rồi lại quay xuống khóe mắt ngoài. http://farm5.static.flickr.com/4068/...9012f79d_b.jpg
99
7/ Mạch Dương duy. Là mạch liên hệ với các kinh Dương ở tay và mạch Đốc.Nó ràng buộc các kinh Dương,có chức năng điều hòa Âm-Dương để giữ thăng bằng cho cơ thể ở bên ngoài. Bắt đầu từ huyệt Kinh môn (1) ở mặt ngoài gót chân đi lên và kết thúc ở huyệt Dương bạch (15). http://farm4.static.flickr.com/3328/...1eb6414c_b.jpg
100
8/ Mạch Âm duy. Là mạch liên hệ với 3 kinh Âm ở 2 chân và mạch Nhâm. Nó ràng buộc các kinh Âm,có chức năng điều hòa Âm-Dương để giữ thăng bằng cho cơ thể ở bên trong. Bắt đầu từ huyệt Trúc tân (1) ở mặt trong cẳng chân đi lên và kết thúc ở huyệt Liêm tuyền (8) http://farm2.static.flickr.com/1267/...a3dea371_b.jpg
101
Huyệt đạo quan trọng http://farm2.static.flickr.com/1382/...84a12631_b.jpg Vị trí các huyệt đạo quan trọng:
102
Huyệt vị là các vị trí có cấu tạo đặc biệt, nằm trên các đường kinh Huyệt là điểm ra vào của khí, huyệt là nơi tàng trữ khí, là điểm nhạy cảm nhất để kích thích sự hoạt động của hệ kinh lạc,kích thích điều chỉnh hoạt động của Tạng, Phủ. Do các đặc điểm đó nên Huyệt đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc luyện tập khí công.. 1. Bách hội. Là điểm giao nhau giữa 2 đường nối hai đỉnh tai và đường đi chính giữa nơi sống mũi đi lên. Đây là nơi giao hội của mạch Đốc với 6 đường kinh dương. Là nơi giao lưu Nhân khí – Thiên khí. * Tứ thần thông : Từ Bách hội ra phải,trái,trước,sau,1 thốn,dùng để khai mở Thiên nhãn,Thiên nhĩ. 2. Ấn đường: Là điểm giữa của đường nổi hai đầu lông mày, là nơi điều khiển màn hình, giao lưu nội ngoại khí. 3. Thiên đột: Hõm cổ. Là nơi kích hoạt Thiên nhĩ 4. Đản Trung: Điểm giữa đường nối hai núm vú,là nhánh giao lưu Âm khí nội ngoại 5. Khí hải: Từ rốn thẳng xuống 1,5 thốn là cửa vào Đan điền, bể thận. 6. Khúc cốt: Dưới rốn 5 thốn. 7.Hội âm: Nằm giữa đường nối hậu môn và bộ phận sinh dục.Đây là nơi giao hội của mạch Nhâm với 6 đường kinh âm,là xung huyệt của Nhâm và Đốc. Là cửa xả Âm khí. 8. Trường cường: Cuối đốt sống cùng.Là nguồn sinh Dương khí – Chân hỏa. 9. Mệnh môn: Đối diện với Khí hải sang.Là cửa ra của Đan điền, quan hệ với Thận hỏa. 10. Linh đài: Đối diện với Đản trung sang là nhánh giao lưu Dương khí nội ngoại 11. Đại chùy: Đối diện với Thiên đột sang. 12. Ngọc chẩm: ở sau gáy, điểm tiếp giáp giữa hộp sọ và đốt sống cổ số 1, nó là huyệt Sinh Tử huyền quan.
103