Tư tưởng xuất phát về bản chất chất vũ trụ: Triết lí Âm Dương -Triết lí Âm Dương: bản chất và khái niệm Mối quan tâm số một của con người nông nghiệp là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người, họ luôn mong sao cho mùa màng bội thu và gia đình đông đúc. Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước, điều này lại càng bội phần hệ trọng. Sở dĩ như vậy là vì nghề lúa nước mang tính thời vụ rất cao, do vậy cần rất nhiều sức người (Đông tay hơn hay làm). Mà sự sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nữ và nam. Còn sự sinh sản của hoa màu thì do đất và trời - cũng hai yếu tố: đất sinh, và trời dưỡng. Nghĩa là hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: Đất được đồng nhất với mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp “mẹ cha" và "đất trời" chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương. Âm dương đối với chúng ta hiện nay là những khái niệm trừu tượng, mơ hồ, nhưng vào thời xa xưa, chúng đã từng là những từ có ý nghĩa rất cụ thể. Ý nghĩa ban đầu của chúng không phải là cái gì khác mà chính là "trời đất / cha mẹ". Chính xác hơn, "âm, dương" trong tiếng Việt ngày nay là những từ vốn được phiên âm theo lối Hán-Việt từ các từ yin, yang của tiếng Hoa. Song, chính tiếng Hoa lại đã vay mượn từ yang (dương) nghĩa là "trời, thần" và từ yin (âm) nghĩa là "mẹ" của các ngôn ngữ phương Nam. Điều này rất rõ nếu so sánh yang (Hoa) với giàng trong tiếng Mường và yang trong hàng loạt ngôn ngữ Tây Nguyên . Tương tự, có thể so sánh yin với các từ chỉ "mẹ" trong các ngôn ngữ Đông Nam Á: yana (tiếng Chàm cổ, ở Huế có đền thờ Thiên lana = Mẹ trời), ina (tiếng Giarai, tiếng Chàm hiện đại), inang (tiếng lnđônêxia), nạ . Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc "nữ - nam (mẹ - cha )" và "đất - trời" này, người xưa đã dần dần suy ra vô số những cặp đối lập phổ biến khác. Đến lượt mình, những cặp này lại trở thành cơ sở để suy ra hàng loạt những cặp mới và những đối lập khá trừu tượng. Chẳng hạn, từ cặp "lạnh (âm) -nóng dương)", có thể suy ra: dưới gần đất lạnh thuộc âm - trên gần trời nóng thuộc dương; mùa đông lạnh thuộc âm - mùa hè nóng thuộc dương; phương Bắc lạnh thuộc âm – phương Nam nóng thuộc dương; màu đen của ban đêm lạnh thuộc âm - màu đỏ của ban ngày nóng thuộc dương. Nguyên lí Âm Dương Mẹ: chậm, mềm dẻo, tình cảm, thụ động, hướng nội, ổn định, số chẵn, hình vuông, tĩnh,VH nông nghiệp Cha: nhanh, cứng rắn, lí trí/võ lực, chủ động, hướng ngoại, phát triển, số lẻ, hình tròn, động, VH du mục Đất: Thấp, Lạnh, Đêm, tối, ẩm, lỏng, dưới, mùa Đông, ph. Bắc, màu đen Trời: cao, nóng, ngày, sáng, khô, đặc, trên, mùa Hạ, ph.Nam, màu đỏ Từ cặp "nữ - nam (đực-cái)", có thể suy ra: tĩnh thuộc âm (nữ chậm) - động thuộc dương (nam nhanh); số chẵn thuộc âm (giống cái có tiềm năng mang thai, gắn bó với con) - số lẻ thuộc dương (giống đực thì không có khả năng ấy) ; hình vuông thuộc âm (khối vuông ổn định, vững chãi) - hình tròn thuộc dương (khối cầu dễ chuyển động) ; văn hóa nông nghiệp và gốc nông nghiệp chứa những đặc trưng âm tính là chủ yếu: sống định cư; hòa hợp với thiên nhiên; quan hệ nặng về tình cảm, trọng văn, trọng phụ nữ; mềm dẻo, bao dung,... còn văn hóa du mục và gốc du mục thì, ngược lại, chứa những đặc trưng dương tính là chủ yếu: tham vọng chinh phục thiên nhiên; dễ dàng thay đổi nơi cư trú, nghề nghiệp, gia đình....; cứng rắn, nặng về lí trí, ưa dùng võ lực... Tuy nhiên, việc xác định bản chất âm/dương của một vật không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được một cách dễ dàng. Chẳng hạn, hình bát giác là âm hay dương? Quyển sách là âm hay dương? Để trả lời được những câu hỏi như thế, phải đi vào tìm hiểu các quy luật về triết lí âm dương. - Hai quy luật của triết lí Âm Dương Tất cả các đặc điểm của nguyên lí âm dương có thể được quy về hai quy luật cơ bản: 1)Quy luật về BẢN CHẤT của của các thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương và trong dương có âm.
http://tieulun.hopto.org - Trang 1
Từ đây suy ra hai hệ quả phục vụ cho việc xác định tính chất âm dương của một đối tượng. a- Muốn xác định tính chất âm dương của một đối tượng, trước hết phải xác định đối tượng so sánh: Vd: màu trắng so với màu đen là dương, nhưng so với màu đỏ lại là âm; hình ngũ giác so với hình vuông là dương nhưng so với hình tròn lại là âm.... Tuy nhiên, không phải cứ xác định được đối tượng so sánh rồi là có thể xác định được tính chất âm dương của chúng. b- Để xác định tính chất âm dương của một đối tượng, sau khi đã xác định được đối tượng so sánh, còn phải xác định cơ sở so sánh. vd: một người phụ nữ so với một người nam giới xét về sinh lí là âm nhưng xét về tính cách có thể lại là dương; nước so với đất, xét về độ cứng thì là âm, nhưng nếu xét về tính động thì lại là dương... 2) Quy luật về QUAN HỆ giữa các yếu tố: Âm và dương luôn gắn bó mật thiết, vận động và chuyển hóa cho nhau: âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Chẳng hạn, ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, mùa nóng và mùa lạnh, v.v. luôn đổi chỗ cho nhau. Ở xứ nóng (dương) phát triển các loài thực vật và nghề trồng trọt (âm); ngược lại, ở xứ lạnh (âm) phát triển các loài động vật và nghề chăn nuôi (dương).... -Biểu tượng âm dương phản ánh đầy đủ hai quy luật về bản chất hòa quyện và quan hệ chuyển hóa của triết lí âm dương. -Nguồn gốc của triết lý Âm Dương và tính cách người Việt? Ở trên đã nói rằng tư tưởng âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hai đối tượng quan trọng là hoa màu và con người. Bởi vậy mà các thuật ngữ “âm dương” (yin - yang trong tiếng Hán) đã bắt nguồn từ ina-yang của tiếng Đông Nam Á cổ đại với nghĩa gốc là "mẹ (cha), (đất) trời". Đây là một triết lí hình thành rất sớm tại vùng nông nghiệp Nam-Á, từ khi chưa có chữ viết. Biểu tượng âm dương dùng phổ biến hiện nay mới được đặt ra trong Đạo giáo từ đầu công nguyên. Trong khi đó thì người Việt vẫn giữ được một biểu tượng âm dương có truyền thống lâu đời hơn - biểu tượng Vuông Tròn. Có vuông có tròn, tức là có âm có dương; nói “vuông tròn" là nói đến sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu: Mẹ tròn con vuông. Ca dao thì có: -Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu... -Lạy trời cho đặng vuông tròn... Trăm năm cho trọn lòng son với chàng! Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du viết: -Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? -Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông. Một điều rất lí thú là, gần đây chúng tôi đã phát hiện ra rằng ở rìa ngoài mặt trống đồng thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) và trống Yên Bồng (Lạc Thủy, Hòa Bình) có các hình biểu tượng âm dương tròn-vuông và vuông-tròn lồng vào nhau. Tiền đồng cổ Việt Nam qua các thời đại với lỗ vuông ở giữa chính là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm dương này. Trên cái nền rộng như thế mới hiểu được rằng cách giải thích quan niệm “Trời tròn đất vuông" theo lối dân gian trong truyền thuyết Bánh chưng bánh dày ("trời như cái bát úp, đất như cái mâm vuông”) chỉ là môt cách lí giải ngây thơ; thực ra "Trời tròn đất vuông" là một cách phát biểu cô đúc của triết lí âm dương: Sở dĩ trời tròn vì trời là dương, mà biểu tượng của dương là tròn; đất vuông vì đất là âm, mà biểu tượng của âm là vuông. Cũng do phát sinh từ nền văn hóa Nam-Á - Bách Việt, triết lí âm dương đã trở thành cơ sở nhuần nhuyễn cho việc hình thành tính cách của người Việt sau này. Tính cách đó, đến lượt mình, trở thành những bằng chứng quan trọng về
http://tieulun.hopto.org - Trang 2
nguồn gốc của tư tưởng triết lý âm dương: 1- Người Việt Nam, từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại, khắp nơi đều thấy toát lên tính cách quân bình âm dương như một đặc trưng chung nhất: Trong khi trên thế giới, vật tổ của các dân tộc thường là một loài động vật cụ thể (chim ưng, phượng hoàng, chó sói, bò,...) thì người Việt Nam có vật tổ là một cặp đôi trừu tượng Tiên-Rồng, dấu vết còn vang vọng của tư duy âm dương thời xa xưa. Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài hoà: Ông Đồng bà Cốt, đồng Cô đồng Cậu, đồng Đức Ông đồng Đức Bà,… Ở Việt Nam, khái niệm “âm dương” có thể gặp trong mọi lĩnh vực: xin âm dương( xin keo, tung hai đồng tiền sao cho một sấp một ngửa), (chợ âm dương (chợ họp vào chập tối, lúc giao thời giữa ngày và đêm), ngói âm dương (ngói lợp nhà kiểu viên xấp viên ngửa), gỗ ghép âm dương (tấm gỗ này có gờ lồi ra khớp với tấm gỗ kia có rãnh lõm vào),v.v. Ngay cả những khái niệm vay mượn đơn độc, khi nhập vào Việt Nam, chúng cũng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối chỉ là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được biến thành ông Tơ bà Nguyệt; ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thì vào Việt Nam xuất hiện Phật Ông Phật Bà (người Mường ở một số nơi gọi là Bụt đực, Bụt cái),… 2- Nhờ thấm nhuần sâu sắc tư tưởng triết lí âm dương mà người Việt Nam nắm rất vững hai quy luật của nó: a) Theo quy luật "trong âm có dương, trong dương có âm", người Việt Nam, hơn ai hết, hiểu rõ rằng: Trong rủi có may, trong dở có hay, Trong hoạ có phúc… b) Theo quy luật âm dương chuyển hóa (âm sinh dương, dương sinh âm), người Việt Nam luôn nhớ rằng: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau; Tham thì thâm; Bĩ cực thái lai,… 3-Chính nhờ có lối tư duy mang đậm tính cách âm dương từ trong máu thịt: nhờ nắm vững quy luật "trong âm có dương, trong dương có âm" và quy luật âm dương chuyển hóa tạo nên vũ trụ hài hòa mà người nông nghiệp Việt Nam có được triết lý sống quân bình. Triết lý quân bình âm dương được thể hiện rất rõ ngay cả trong việc tổ chức những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hoá) có niên đại vào TK III tr.CN. Mộ được gióng theo hướng Nam-Bắc; trong mộ, các đồ vật bằng gỗ(dương tính) được đặt ở phía Bắc (âm tính) và ngược lại, các vật bằng gốm (âm tính) được đặt ở phía Nam (dương tính) để tạo ra sự quân bình theo nguyên tắc âm sinh dương, dương sinh âm. Chính triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt một khả năng thính nghi cao với mọi hoàn cảnh sống (lối sống linh hoạt), dù khó khăn đến đâu vẫn không chán nản. Người Việt Nam là dân tộc sống bằng tương lai (tinh thần lạc quan). Bây giờ khổ thì tin sau này sẽ sướng, suốt đời khổ thì tin đời con mình sẽ sướng: -Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời; -Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ -Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa. 3-Tuy lối sống của người Việt Nam mang tính cách quân bình âm dương, nhưng đó không phảỉ là sự quân bình tuyệt đối, mà là sự quân bình trên cơ sở thiên về âm tính, bởi lẽ bản thân văn hóa nông nghiệp trọng tĩnh đã mang âm tính rồi. Không phải ngẫu nhiên mà tên gọi âm dương đặt theo trật tự "âm" trước "dương” sau - chính là vì triết lí âm dương là do văn hóa nông nghiệp lập ra, mà nông nghiệp thì trọng âm hơn dương. Tương tự như vậy, tên gọi các đối lập cơ bản, thiết yếu (cũng tức là xuất hiện trước nhất) đều tuân theo thứ tự ưu tiên âm trước dương sau: âm dương, vợ chồng, chẵn lẻ, vuông tròn... (Tên gọi các đối lập không cơ bản như cha mẹ, ông bà, v.v. xuất hiện muộn hơn và do vậy đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng gốc du mục trọng nam, trọng dương tính ). Trong ngôn ngữ các dân lộc ít người, nơi ít ảnh hưởng bởi chất văn hoá du mục, mọi cặp quan hệ thân tộc đều vẫn giữ được trật tự âm trước dương sau nguyên thuỷ: Trong tiếng K’ho (Lâm Đồng) ta có me vap (mẹ cha), mộ pàng (bà ông), oh mih (chị anh), ur klau (gái trai); trong tiếng Hrê (Quảng Ngãi) ta có mi fa (mẹ cha), za vok (bà ông), mai ong (vợ chồng), rụ klo (gái trai),.... Hai hướng phát triển của triết lí Âm Dương Cùng tiếp thu và xuất phát từ nguyên lí âm dương, tư duy phương Bắc và phương Nam đi theo hai ngả khác nhau. Văn hóa phương Bắc dương tính (trọng động) sinh ra lối tư duy âm tính - tư duy thiên về phân tích và siêu hình - gọi
http://tieulun.hopto.org - Trang 3
âm dương là lưỡng nghi và bằng phép phân đôi thuần túy, đã sản sinh ra những mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn (âm tính): 2 sinh 4 (Tứ tượng), 4 sinh 8 (bát quái),.... (ss. nguyên lí của Kinh Dịch: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hoá vô cùng) Ở phương Nam, thiên nhiên dương tính (xứ nóng) sinh ra nền văn hóa nông nghiệp âm tính (trọng tĩnh); nền văn hóa nông nghiệp âm tính này, đến lượt mình, lại dẫn đến phong cách ứng xử linh hoạt, năng động, với lối tư duy tổng hợp và biện chứng (dương tính), tạo nên những mô hình vũ trụ bí ẩn với số lượng thành tố lẻ (dương tính): 2 sinh 3 (Tam tài), 3 sinh 5 (Ngũ hành) (ss. câu của Lão Tử - nhà triết học của người Bách Việt phương Nam: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Sự phát triển của triết lý Âm Dương Hỗn Mang - Thái Cực Âm Dương - Lưỡng Nghi Tam Tài - Tứ Tượng Ngũ Hành - Bát Quái Sản phẩm của văn hoá phương Nam- Sản phẩm của văn hoá phương Bắc. Người phương Bắc thích dùng những cách nói khái quát với những con số chẵn. Tứ hàng ( 4 bên hàng xóm); tứ đại (4 đời); tứ đức (4 đức của người phụ nữ theo Nho giáo); tứ hải( 4 biển); tư mã (xe 4 ngựa); tứ phối (4 người được thờ chung với Khổng Tử trong Văn Miếu); tứ thanh (4 giọng trong tiếng Trung Hoa), tứ trụ (4 vị quan to nhất trong triều đình);... Lục nghệ (6 môn học ở Trung Hoa thời xưa: lễ, nhạc, xạ, ngự, Thư, số); lục súc (6 loài vật nuôi trong nhà: ngựa, bò, dê, gà, chó, lợn); lục thư (6 cách đặt chữ Hán); lục bộ (6 bộ trong triều đình); lục vị (6 vị thuốc quý );… Tư duy số lẻ là nét đặc thù của văn hoá nông nghiệp trọng tĩnh phương Nam. Trong thành ngữ, tục ngữ, người Việt Nam rất thích dùng những cách nói với các con số lẻ 3, 5, 7, 9. So sánh: 1 lời nói dối, sám hối 7 ngày - 3 hồn 7 vía -3 bò 9 trâu 1câu nhịn, 9 câu lành - 3 dãy 7 tòa - Túm 5 tụm 3 1 miệng thì kín, 9 miệng thì hở - 3 lo 7 liệu - 5 cha 3 mẹ 3 mặt 1 lời - 3 vành 7 vẻ - 5 bè 7 mối 3 sương 1 nắng - 3 vợ 7 nàng hầu - 5 lần 7 lượt 3 xôi nhồi 1 chõ - 3 vuông 7 tròn - 5 lừa 7 lọc 3 thưng cũng vào 1 đấu - Tam sao thất bản - 5 thê 7 thiếp Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng - 3 chìm 7 nổi 9 lênh đênh - 5 liệu 7 lo 3 bè 7 mối - 3 hồn 9 vía Các số 18 (18 đời Hùng Vương, 18 ụ hoả công ở thành Cổ Loa, 18 con chim bay khắc trên mặt trống sông Đà, 18 thôn Vườn Trầu), 27 (đại tang 3 năm thực ra chỉ có 27 tháng); 36 (36 con chim bay khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ; Hà Nội 36 phố phường; 36 chước, chước chuồn là hơn; 36 cái nõ nường…),v.v., thực chất đều là những bội số của các con số 3 và 9: (9x2, 9x3, 9x4). Người Việt thích số lẻ, nhưng đồng thời cũng sợ số lẻ (tâm lý con người vẫn vậy, cái gì càng thích bao nhiêu, càng sợ bấy nhiêu), nên rất kiêng các số 3,7,5 và các số thành của 5 là 14 (1+4) và 23 (2+3)2: Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3; Mồng năm, mười bốn, hai ba, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn. Số 5 và hai cặp số thành của nó ám ảnh người ta tới mức hình thành nên hàng loạt biến thể của câu ca dao này: Mồng năm, mười bốn, hai ba, Lấy vợ thì tránh, làm nhà thì kiêng; Mồng năm, mười bốn, hai ba, Trồng cây cây đổ, làm nhà nhà xiêu…
TRẦN NGỌC THÊM - CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM
http://tieulun.hopto.org - Trang 4