Châm cứu bấm huyệt
Châm cứu bấm huyệt (23/08/2011) Xoa bóp bấm huyệt là biện pháp phòng và chữa bệnh đơn giản. Đặc điểm là dùng bàn tay, ngón tay là chính để tác động lên huyệt, da thịt, gân khớp của người bệnh. Nếu được thực hiện đúng kỹ thuật, đúng chỉ định, xoa bóp bấm huyệt có thể mang lại những hiệu quả rất tốt. Xoa bóp bấm huyệt là một kích thích vật lý, trực tiếp tác động vào da thịt, thần kinh, mạch máu và các cơ quan cảm thụ gây nên những thay đổi về thần kinh, thể dịch, nội tiết qua đó nâng cao năng lực hoạt động của hệ thần kinh, nâng cao quá trình dinh dưỡng của cơ thể. Xoa bóp làm giãn mạch máu, tăng tuần hoàn tại chỗ. Tăng tuần hoàn, góp phần chống viêm, giảm phù nề. Luồng máu tới sẽ tăng cường trao đổi chất, mang ôxy tới cho tế bào và mang đi các chất thải cặn bã.
Đối với cơ xương khớp, xoa bóp làm giãn cơ, đặc biệt là những nhóm cơ đã bị co cứng trước đó. Trong các bệnh khớp, gân, dây chằng bao giờ cũng có hiện tượng co cứng các nhóm cơ xung quanh khớp, từ đó gây đau, hạn chế vận động. Xoa bóp có thể cải thiện các tình trạng trên. Xoa bóp thường xuyên làm tăng tính linh hoạt của khớp và làm giảm khả năng bị chấn thương, cải thiện tư thế. Ngoài ra, xoa bóp còn kích thích hệ thống lympho, làm tăng miễn dịch và cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ thể. Xoa bóp tác động trực tiếp lên các thụ cảm thần kinh dày đặc ở dưới da tạo ra các đáp ứng phản xạ thần kinh từ đó gây nên tác dụng điều hòa quá trình hưng phấn hay ức chế thần kinh trung ương, làm thư giãn thần kinh, giảm căng thẳng, tăng khả năng tập trung, giảm đau, giãn cơ, và điều hòa chức năng nội tạng, tăng cường nhu động của dạ dày, ruột và cải thiện chức năng tiêu hoá, tăng dinh dưỡng của da làm da bóng đẹp, có tác dụng tốt đối với chức năng bảo vệ của da. Xoa bóp còn có nhiều tác dụng khác góp phần phục hồi sức khỏe.
CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CHÂM CỨU (09/08/2012)
Châm cứu là một phương pháp chữa bệnh có nhiều kết quả, phạm vi ứng dụng rộng rãi, ngày một phát triển dưới những hình thức vô cùng phong phú. Đã từ lâu, lý luận về cơ học tác dụng của phương pháp châm cứu dựa trên những nguyên lý của các học thuyết cơ bản của y học dân tộc cổ truyền (âm dương, ngũ hành, tạng tượng, kinh lạc, thiên nhân hợp nhất…). Trong những năm gần đây, ở rất nhiều nước, phương pháp chữa bệnh bằng cách tác động lệ “huyệt” nằm trên cơ thể con người và động vật đã được một sự quan tâm đặc biệt, và việc tìm hiểu cơ chế tác dụng của nó (châm cứu) trên cơ sở khoa học đã và đang gây nên những tranh luận vô cùng sôi nổi. Qua các công trình nghiên cứu trên lâm sàng và thực nghiệm, thật khó mà nói một cách chính xác khoa học về cơ chế tác dụng của phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu. Có rất nhiều giả thuyết về cơ chế tác dụng của châm cứu được bàn đến.
Cơ chế thể dịch: Miarbe (Pháp), Tokieda (Nhật) Cơ chế thay đổi trình diện sinh vật: Delafuje, Niboyet (Pháp), Patsibiskin (Liên Xô), Okamoto (Nhật). Cơ chế thay đổi các chất trung gian hoá học đặc biệt là Histamine Maritiny (Pháp) Cơ chế thần kinh phản xạ: Chu Liễn (Trung Quốc), Vogralic (Liên Xô), Felix Mann (Anh), Kassin (Liên Xô), J. Bossy (Pháp) Cơ chế “cửa kiểm soát”: Melzach (1965)
Cơ chế thần minh thể dịch nội tiết đặc biệt là b. Endorphine (Giải thưởng Nobel về y học năm 1977): Bruce Pomeranz (Canada).
I – CƠ CHẾ CỦA CHÂM CỨU THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN DÂN TỘC 1. Sự mất thăng bằng về âm dương dẫn tới sự phát sinh ra bệnh tật và cơ chế tác dụng của châm cứu cơ bản là điều hoà âm dương. Theo y học cổ truyền, âm dương là thuộc tính của mỗi vật trong vũ trụ. Hai mặt âm dương luôn có quan hệ đối lập (mâu thuẫn) nhưng luôn thống nhất với nhau. Âm dương trong cơ thể bao giờ cũng thăng bằng (bình hành) nương tựa vào nhau (hỗ can) để hoạt động giúp cho cơ thể luôn luôn thích ứng với hoàn cảnh xã hội, thiên nhiên. Bệnh tật phát sinh ra là do sự mất cân bằng của âm dương. Sự mất cân bằng đó gây nên bởi các tác nhân gây bệnh bên ngoài (Tà khí của lục dâm) hoặc do thể trạng suy yếu, sức đề kháng kém (chính khí hư) hoặc do sự biến đổi bất thường về mặt tình cảm, tinh thần (nội nhân), hoặc cũng có khi do những nguyên nhân khác như thể chất của người bệnh quá kém, sự ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt không điều độ… Trên lâm sàng, bệnh lý biểu hiện hoặc hàn hoặc nhiệt, hoặc hư hoặc thực (hư hàn thuộc về âm, thực nhiệt thuộc về dương), nhiều khi bệnh tật rất phức tạp, các dấu hiệu thuộc về hàn nhiệt rất khó phân biệt (kiêm chứng)… Nguyên tắc điều trị chung là điều hoà (lập lại) mối cân bằng của âm dương. Cụ thể trong điều trị bằng châm cứu, muốn đánh đuổi tà khí, nâng cao chính khí (sức đề kháng của cơ thể) phải tùy thuộc vào vị trí nông sâu của bệnh, trạng thái hàn nhiệt, hư thực của người bệnh để vận dụng thích đáng dùng châm hay cứu, dùng thủ thuật hay bổ như nhiệt thì châm, hàn thì cứu, hư thì bổ, thực thì tả vv… 2. Bệnh tật phát sinh ra làm rối loạn hoạt động bình thường của hệ kinh lạc và cơ chế tác dụng của châm cứu cơ bản là điều chỉnh cơ năng hoạt động của hệ kinh lạc. Theo y học cổ truyền, hệ kinh lạc bao gồm những đường kinh (thẳng) và những đường lạc (đường ngang) nối liền các tạng phủ ra ngoài da và tứ chi, khớp ngũ quan, và nối liền các tạng phủ, kinh lạc với nhau. Hệ thống kinh lạc chằng chịt khắp cơ thể, Thông suốt ở mọi chỗ (trên, dưới, trong , ngoài), làm cơ thể tạo thành một khối thống nhất, thích nghi được với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội. Trong kinh lạc có kinh khí (Thenergy of life) vận hành để điều hoà KHÍ HUYẾT làm cơ thể luôn khoẻ mạnh, chống được các tác nhân gây bệnh. Hệ kinh lạc cũng là nơi biểu hiện các trạng thái bệnh lý của cơ thể, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận các hình thức kích thích (dùng châm, cứu, xoa bóp, ấn huyệt giác…) thông qua các “huyệt” để chữa bệnh. Bệnh tật sinh ra do nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân – tà khí) hoặc nguyên nhân bên trong (chính khí hư) đưa đến sự bế tắc vận hành kinh khí trong đường kinh. Nếu có tà khí thực thì phải loại bỏ tà khí ra ngoài (dùng phương pháp tả), nếu do chính khí hư thì phải bồi bổ cho chính khí đầy đủ (dùng phương pháp bổ). Mỗi đường kinh mang tên một tạng hoặc một phủ nhất định. Khi tạng phủ có bệnh thường có những biểu hiện thay đổi quan biểu lí với nó (Chẩn đoán dựa vào phương pháp chẩn đoán chung, kết hợp với phương pháp chẩn đoán trên kinh lạc, dò kinh lạc…). Khi châm cứu, người ta tác dụng vào các huyệt trên các kinh mạch đó để điều chỉnh các rối loạn chức năng (bế tắc) của kinh mạch. Trên cơ sở học thuyết kinh lạc, tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh, tình trạng của cơ thể, người ta chú trọng đặc biệt đến các vấn đề sau:
Châm kim phải đắc khí Hư thì bổ, thực thì tả Dựa vào sự liên quan giữa tạng phủ và đường kinh, người ta phối hợp sử dụng các huyệt tại chỗ với các huyệt ở xa (thường ở tay, chân)… II – CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA CHÂM CỨU THEO HỌC THUYẾT THẦN KINH - NỘI TIÊT - THỂ DỊCH 1. Một số vấn đề của hoạt động thần kinh có liên quan tới việc giải thích cơ chế tác dụng của châm cứu. a) Châm cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới Châm là một kích thích cơ giới, cứu là một kích thích về nhiệt gây nên kích thích tại da, cơ. Tại nơi châm, cứu có những biến đổi, tổ chức tại nơi châm bị tổn thương sẽ tiết Histamin, axetylcholin, cathecolamin… nhiệt độ ở da thay đổi, bạch cầu tập trung, phù nề tại chỗ, các phản xạ đột trục làm co giãn mạch máu… Tất cả những kích thích trên tạo thành một kích thích chung của châm cứu. Các luồng xung động của các kích thích được truyền vào tủy lên não, từ não xung động chuyển tới các cơ quan đáp ứng hình thành một cung phản xạ mới. b) Hiện tượng chiếm ưu thế Utomski Theo nguyên lý của hiện tượng chiếm ưu thế của Utomski thì trong cùng một thời gian, ở một nơi nào đó của hệ thần kinh trung ương (vỏ não), nếu có hai luồng xung động của hai kích thích khác nhau đưa tới, kích thích nào có cường độ mạnh hơn và liên tục hơn sẽ có tác dụng kéo các xung động của kích thích kia tới nó và kìm hãm, tiến tới dập tắt kích thích kia. Như trên đã trình bày, châm hay cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới, nếu cường độ kích thích được đầy đủ sẽ ức chế ở hưng phấn do tổn thương bệnh lí gây ra, tiến tới làm mất hoặc phá vỡ cung phản xạ bệnh lí. Trên thực tế lâm sàng, người ta thấy hiệu quả nhanh chóng của châm cứu (đặc biệt là dùng châm điện trong việc làm giảm cơn đau của một số bệnh cấp tính như cơn đau dạ dày, giun chui ống mật, đau các dây thần kinh ngoại biên gẫy xương, viêm khớp, đau răng …) và tác dụng làm chết cảm giác lạnh, sợ lạnh của phương pháp cứu trong điều trị cấp cứu các trường hợp trụy tim mạch vv… Tác dụng của châm cứu có thể làm thay đổi hoặc đi tới làm mất phản xạ đau và nhiều bệnh. Khi châm cứu để đảm bảo kết quả điều trị, để kích thích tác động lên huyệt phải đạt đến ngưỡng (seuil d’excitation) mà y học cổ truyền gọi là đắc khí và phải tăng (hoặc giảm) cường độ kích thích khi cần thiết để nâng cao thêm hiệu quả chữa bệnh mà y học cổ truyền gọi là thủ thuật bổ tả. c) Sự phân chia tiết đoạn thần kinh và sự liên quan giữa các tạng phủ đối với các vùng cơ thể do tiết đoạn chi phối. Thần kinh tủy sống có 31 đôi dây, mỗi đôi dây chia ra làm hai ngành trước và sau chi phối vận động và cảm giác một vùng cơ thể gọi là một tiết đoạn. Sự cấu tạo thần kinh này gọi là sự cấu tạo tiết đoạn Ví dụ: vùng da ở các tiết đoạn ngực D5, D6, D9 và tiết đoạn cổ C2, C3, C4 tương ứng với dạ dày (hình 2)
Khi nội tạng có bệnh, người ta thấy có sự tăng cường cảm giác vùng da cùng tiết với nó như cảm giác đau, thay đổi điện sinh vật vv… Hiện tượng này xảy ra do những sợi thần kinh giao cảm bị kích thích, xung động dẫn truyền vào tủy, lan toả vào các tế bào cảm giác sừng sau tủy sống gây ra những thay đổi về cảm giác ở vùng da. Mặt khác những kích thích giao cảm làm co mạch, sự cung cấp máu ở vùng da ít đi và làm điện trở ở da giảm xuống gây ra những thay đổi về điện sinh vật. Trên cơ sở này Zakharin (Liên Xô) và Head (Anh) đã thiết lập được một giản đồ về sự liên quan giữa vùng da và nội tạng, và đây cũng là nguyên lý chế tạo các máy đo điện trở vùng da và máy dò kinh lạc … Bảng đối chiếu sự liên quan giữa các nội tạng và tiết đoạn thần kinh
Nội tạng
Tiết đoạn
Tim
D1-D2 (D4-D6)
Phổi
D2-D3 (D4-D6)
Thực quản
D7-D8
Dạ dày
D5-D9 (C2-C5)
Ruột
D9-D12
Trực tràng
S2-S4
Gan, Mật
D7-D9
Thận, niệu quản
D10-D12, L1-L2
Bàng quang
D11-D12, L1, S1-S4
Tiền liệt tuyến
D10-D11, L5-S1-S2S3
Tử cung
D10-L1L2, S1-S4
Tuyến vú
D4-D5
(Trong đó C = cổ; L = thắt lưng; S = cùng) Nếu nội tạng tổn thương, dùng châm cứu hay các phương pháp vật lý trị liệu khác tác động vào các vùng dạ dày trên cùng một tiết đoạn với nội tạng sẽ chữa được các bệnh ở nội tạng. d) Nguyên lý về cơ năng sinh lý linh hoạt của hệ thần kinh của Widekski Theo nguyên lý này, trong trường hợp thần kinh ở trạng thái yên tĩnh, một kích thích nhẹ thường hay gây ra một phản ứng hưng phấn nhẹ, kích thích mạnh thường gây ra một phản ứng hưng phấn mạnh, nhưng nếu thần kinh ở trạng thái bị hưng phấn do bệnh kích thích mạnh chẳng những không gây ra mạnh mà trái lại nó làm cho hoạt động thần kinh chuyển sang quá trình ức chế nên bớt đau. e) Lý thuyết về đau của Melzak và Wall (cửa kiểm soát - 1965) Trong trạng thái bình thường các cảm thụ bản thể đi vào sừng sau tủy sống, ở các lớp thứ ba, thứ tư (gồm các tế bào của các chất keo và các tế bào chuyển tiếp) làm cảm giác đau (hoặc không đau) được dẫn truyền. Tế bào như cánh cửa kiểm soát, quyết định cho cảm giác nào đi qua. Ở trạng thái bình thường luôn có những xung động, những xung động này phát huy ức chế, qua tế bào chuyển tiếp và đi lên với kích thích vừa phải. Xung động được tăng cường đến làm hưng phấn tế bào chất tạo keo làm khử cực dẫn truyền và đi lên. Trên cơ sở lý thuyết cửa kiểm soát của Melzak và Wall, năm 1971, Shealy chế tạo được một máy luôn kích thích cột sau tủy sống để làm giảm đau trong các bệnh ung thư. h) Vai trò thể dịch, nội tiết và các chất trung gian thần kinh Từ năm 1973, nhiều thực nghiệm đã chứng minh được trong châm cứu và đỉnh cao của nó là châm tê, ngoài vai trò của thần kinh ra còn có vai trò của thể định tham gia trong quá trình làm giảm đau (trong châm cứu chữa bệnh) và nâng cao ngưỡng chịu đau (trong châm tê phẫu thuật). Có nhiều thảo luận về các chất này. Có thể là: Axetycholin, các chất Mono-min (Cathecolamin, 5 Hydroxyplamin, các chất peptit, các chất monoaxit, mocphine-like) (quan trọng là Endorphine) chất gây đau p (Subtice P) Mocphinelike - những năm 1976, Guillemin (người gốc Pháp, quốc tịch Hoa Kỳ) Chor HaoLi (người Hoa, quốc tịch Hoa Kỳ) đã phân tích được tuyến yên của lạc đà, lợn, cừu… chất mocphine-like (gồm, Endorphine và …) trong đó chất Endophine có tác dụng tương đương 200 lần mocphin (trên ống nghiệm). Cùng năm 1976, Mayer và cộng sự đã chứng minh tác dụng châm tê bị huỷ do tiêm vào động vật thực nghiệm chất Naloxone (chất đối lập với số thực nghiệm về châm tê): Bruce Pomeranz (Trường đại học Toronto Canada); năm 1976 đã thành công trong một số thực nghiệm về châm tê: Tiêm Naloxone vào mèo được châm tê thấy sự phóng điện của các tế bào ở lớp V sừng sau tủy sống mèo không bị ức chế nữa. Cắt bỏ tuyến yên mèo rồi châm tê, không thu được kết quả tê. Người ta đã xác định được công thức hôạhc của chất morphine-like là những chất tiết của não chủ yếu do hậu yên tiết ra, ngoài ra còn thấy ở trên ruột và nhiều cơ quan khác. Nó là một polypeptid gồm 91 axit amin từ số 61 đến số 91 có tác dụng morphine nhiều nhất, mạnh gấp 200 lần mocphine. 2. Cơ chế tác dụng của châm cứu
Như đã trình bày: châm cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý có thể xuất hiện ngay tức thì sau khi châm kim và tác động vào huyệt, nhưng cũng nhiều khi phải lưu kim lâu và điều trị nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhiều liệu trình mới thu được kết quả. Ngoài vai trò của thần kinh ra còn có vai trò của nội tiết, thể dịch tham gia trong việc phá vỡ cung phản xạ bệnh lý. Vogralic, Kassin (Liên Xô), Chu Liễn (và nhiều tác giả Trung Quốc), Vũ Xuân Lãng, Lê Khánh Đồng (Việt Nam), Mai Văn Nghệm, Jean-Bossy (Pháp), vv… Căn cứ vào vị trí tác dụng của nơi châm cứu đề ra 3 loại phản ứng cơ thể, trên cơ sở này để giải thích cơ chế tác dụng và hướng dẫn phương pháp học tập và sử dụng châm cứu cho dễ dàng (xem hình 4 về cơ chế tác dụng của châm cứu). a) Phản ứng tại chỗ: Châm hay cứu vào huyệt là một kích thích gây một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý: như làm giảm cơn đau, giải phóng sự co cơ, vv… Những phản xạ đột trục của hệ thần kinh thực vật làm ảnh hưởng đến sự vận mạch, nhiệt, sự tập trung bạch cầu, vv… làm thay đổi tính chất của tổn thương, giảm xung huyết, bớt nóng, giảm đau. Phản ứng tại chỗ có ý nghĩa thực tiễn lâm sàng khá lớn là cơ sở của phương pháp điều trị tại chỗ hay xung quanh nơi có thương tổn mà châm cứu dùng các huyệt gọi là A thị huyệt (thống điểm, thiên ứng huyệt). b) Phản ứng tiết đoạn Khi nội tạng có tổn thương bệnh lý thì có những thay đổi cảm giác vùng da ở cùng một tiết đoạn với nó, ngược lại những kích thích từ vùng da của một tiết đoạn nào đó sẽ có ảnh hưởng đến nội tạng cùng trên tiết đoạn đó (xem sơ đồ Zakhazin - Head) Việc sử dụng các huyệt ở một vùng da để chữa bệnh của các nội tạng cùng tiết đoạn với vùng này sẽ gây ra một phản ứng tiết đoạn, gây ra các luồng xung động thần kinh hướng tâm. Những luồng này sẽ truyền nhịp vào sừng sau tủy sống rổi chuyển qua sừng trước từ đó bắt đầu cung phản xạ ly tâm, một là theo các sợi vận động trở về bộ phận cơ của tiết đoạn được châm, hai là theo các sợi thực vật đến mạch máu và đến các cơ quan, nội tạng tương ứng, làm điều hoà mọi cơ năng sinh lý như phân tiết dinh dưỡng… Việc sử dụng phản ứng tiết đoạn có nhiều ý nghĩa thực tiễn lớn vì nó có thể giúp cho người thầy thuốc châm cứu chọn những vùng và huyệt ở một tiết đoạn thần kinh tương ứng với một cơ quan, nội tạng bị bệnh. Việc thành lập công thức châm cứu điều trị một số bệnh thuộc từng vùng được tiện lợi và dễ ứng dụng hơn. Mặt khác theo quan niệm của phản ứng tiết đoạn giúp người học và ứng dụng châm cứu hiểu và giải thích được phương pháp dùng các du huyệt (ở lưng), mô huyệt (ở ngực, bụng) và các huyệt ở xa (tay, chân) để châm cứu làm giảm đau một số bệnh thuộc nội tạng có cùng tiết đoạn thần kinh chi phối, đặc biệt là dùng các huyệt sát cột sống (Hoa Đà giáp tích) và các bối du huyệt trong châm gây tê để phẫu thuật. c) Phản ứng toàn thân Qua thực tế lâm sàng chữa bệnh bằng châm cứu người xưa đã đúc kết ra được rất nhiều cách dùng huyệt. Một huyệt có thể dùng để chữa nhiều bệnh, một bệnh cũng có thể dùng nhiều công thức huyệt khác nhau và cũng là một loại bệnh trên cùng một bệnh nhân,nhưng tùy theo thời gian bị bệnh (mùa xuân, hạm thu và đông) và thời gian đến điều trị (sáng, trưa, chiều, tối) mà thầy thuốc châm cứu dùng các huyệt khác nhau (xem thêm tỳ ngọ lưu chú - thời châm cứu học). Việc sử dụng các huyệt theo các cách dùng huyệt kể trên nhiều khi không nằm tại chỗ cơ quan bị bệnh và cũng có khi không nằm trên các tiết đoạn có liên quan với nơi bị bệnh. Các nhà nghiên cứu châm cứu hiện đại cho
rằng tác dụng điều trị của châm cứu trong các trường hợp kể trên là thông qua tác dụng gây ra phản ứng toàn thân. Thực chất, bất kỳ một kích thích nào đối với cơ thể cũng đều có liên quan tới hoạt động của vỏ não, nghĩa là có tính chất toàn thân. Như vậy, sự phân chia ra phản ứng cục bộ tại chỗ, phản ứng tiết đoạn chỉ có giá trị về sự liên quan cục bộ từng phần cơ thể thông qua hoạt động của tủy. Khi nói tới phản ứng toàn thân, chúng ta cần nhắc lại nguyên lý về hiện tượng chiếm ưu thế vỏ não của Utomski, về cơ năng linh hoạt của hệ thần kinh của Wedensky, về các kích tố (hormon), và các chất trung gian hoá học thần kinh (hisamin, axetylcholin, mocphin-like…) Điểm quan trọng của phản ứng toàn thân là tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương và thông qua hệ này và hệ thần kinh thực vật mà ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng và mọi tổ chức của cơ thể. Sau khi châm, từng luồng xung động thần kinh không ngừng được diễn truyền vào tủy sống (Dẫn truyền xung động thần kinh là do các chất axetylcho line…) từ đó dẫn truyền qua bó tủy lên hành não và lên não. Vogralic, Kassin (và nhiều tác giả) nghiên cứu điện não đồ trong khi châm cứu thì thấy điện thế có những biến đổi lan toả, toàn diện và đối xứng toàn thân thường thấy làn sóng delta và têla chậm hơn, có nhiều ca làn sóng không đều nhịp… Tình trạng tinh thần luôn luôn căng thẳng gây ra các rối loạn tinh thần làm cho quá trình hưng phấn và ức chế của hoạt động thần kinh cao cấp bị rối loạn. Châm cứu có tác dụng điều chỉnh các trạng thái rối loạn đó vì sau một đợt điều trị triệu chứng lâm sàng tốt hơn và điện não đồ biến đổi. Một điểm quan trọng nữa của phản ứng toàn thân là các biến đổi về thể dịch và nội tiết. Thường thường trong khi châm và sau một đợt điều trị bằng châm cứu, các thể dịch như sympatine, adrenaline, histamine, axetycholin, mocphine-like (đặc biệt là bEndorphine) cũng có những biến đổi, ảnh hưởng đến các hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết, và sự chuyển hoá các chất. Nhiều tác giả nghiên cứu hoạt động của tuyến yên và thượng thận sau châm thấy rõ tuyến yên tạo ra một kích tố (hormonotrope) làm tăng hoạt động của một số tuyến nội tiết như: tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục… Người ta đã chứng minh được rằng: châm làm cho bạch cầu ái toan giảm. 70-80% các trường hợp, châm làm lớp vỏ thượng thận bài tiết ra kích tố corlicosteroid cũng tương tự như tiêm vào cơ thể 20 đơn vị ACTH để kích thích tuyến thượng thận bài tiết chất này. Châm các huyệt Đại chuỳ (XIII 14) và Thuy đột (V 10) và cứu giữa các đốt sống lưng có thể làm cho tuyến giáp trạng tạm thời ngừng hút iốt… 3. Những ưu điểm và nhược điểm khi vận dụng học thuyết thần kinh - thể dịch để giải thích cơ chế tác dụng của châm cứu: Cơ chế tác dụng của châm cứu giải thích theo thuyết học thần kinh - thể dịch cho quá trình học tập và sử dụng châm cứu dễ dàng, có thể vận dụng để giải thích được hầu hết các trường hợp bệnh lý cơ năng được chỉ định điều trị bằng phương pháp châm cứu. Về mặt học tập, chia các huyệt theo từng vùng tiết đoạn cơ thể, số lượng huyệt sử dụng trong điều trị chừng 80-100 huyệt thông thường (mà không cần thiết phải nhớ tất cả 365 huyệt) để điều trị các chứng bệnh thường gặp, giúp các thầy thuốc đa khoa có cơ sở cơ bản để kết hợp tốt hai nền y học – y học hiện đại và y học cổ truyền – trong điều trị bệnh. Huyệt ở vùng ngực lưng: chữa các bệnh về tuần hoàn, hô hấp, viêm tuyến vú, tắc tia sữa, đau thần kinh liên sườn …
Huyệt vùng hạ vị - thắt lưng cùng: chữa bệnh đường tiết niệu, sinh dục Về toàn thân cần nắm một số huyệt có tác dụng đặc hiệu, có tác dụng toàn thân để phối hợp điều trị với các huyệt từng vùng. Cơ chế châm cứu giải thích theo học thuyết thần kinh thể dịch chưa giải thích được những điều đã nêu trong các sách châm cứu cổ điển như hệ kinh lạc, phương pháp bổ tả… không giải thích được các quy luật vận dụng các huyệt toàn thân nhất là bệnh lý các tạng phủ, các quy luật lấy huyệt theo thời gian (châm cứu theo giờ, theo mùa…) III - KẾT LUẬN Vấn đề điều chỉnh cơ năng của cơ thể qua cách tác động lên huyệt – châm cứu đã có một lịch sử khá lâu đời, song để tìm ra những vấn đề cụ thể của nó trên cơ sở khoa học, có thể nói mới chỉ được bắt đầu. Nắm vững được hệ thống lí luận của y học cổ truyền kết hợp với các kiến thức của y học hiện đại, cùng với việc nghiên cứu và áp dụng châm cứu một cách rộng rãi và nghiêm túc của các nhà khoa học trong nước và trên thế giới chắc chắn rằng trong tương lai không xa, cơ chế tác dụng của châm cứu sẽ được sáng tỏ hơn. Sưu tầm
NGUYÊN TẮC HÌNH THÀNH CÔNG THỨC CHÂM CỨU (09/08/2012) Như đã trình bày, muốn điều trị tốt phải chẩn đoán tốt, đó là điều cốt yếu trong trị liệu. Nhưng cũng có khi chẩn đoán tốt mà điều trị cũng không công hiệu thường là do mấy nguyên nhân sau:
Chẩn đoán nhận định không đúng
Chẩn đoán đúng bệnh, áp dụng đúng huyệt nhưng châm chưa đúng huyệt.
Ấn đúng huyệt mà thủ thuật không đúng, chưa bảo đảm đắc khí.
Châm đúng đắc khí nhưng chưa vận dụng phương pháp bổ tả đúng cách.
Vì vậy, muốn đạt kết quả phải chú ý vào áp dụng theo hai phương thức dưới đây:
Định bệnh thủ huyệt
Định bệnh trị liệu
I ĐỊNH BỆNH THỦ HUYỆT: 1. Lấy huyệt theo cục bộ: a) Đau đâu châm đấy: Thí dụ: đau mắt trị mắt: tình minh Đau lưng trị lưng: thận du Đau khớp trị khớp: á thị b) Đối chứng trị liệu: Không trực tiếp chữa các huyệt tại bộ phận bị bệnh mà chẩn theo đối chứng, thí dụ: đau ngực chân Phế du, đau dạ dày châm Vị du. c) Lấy huyệt xung quanh bộ phận bị bệnh. Thí dụ: đau mắt dùng Dương Bạch, Thái dương. Đau ngực dùng huyệt Tạng phủ, Cự khuyết… 2. Theo kinh lấy huyệt: a) Bán kinh lấy huyệt: kinh nào bị bệnh thì lấy huyệt kinh đó. b) Đối trắc thủ huyệt, tay trái thì châm tay phải, ngược lại… c) Phối hợp kinh lấy huyệt
Trái phải phối hợp. Thí dụ: Đau đầu: châm thái dương 2 bên Đau dạ dày: châm Túc tam lý 2 bên
Tiền hậu tương phối: vừa phối hợp cục bộ và toàn thân
Âm dương tương phối: phối hợp giữa kinh âm và kinh dương Thí dụ: Túc tam lý và Tam âm giao
Phối hợp giữa huyệt gần và huyệt xa Thí dụ: phối hợp Hợp cốc và thiên đột điều trị bệnh xuyễn
Phối hợp giữa trên và dưới: Thí dụ: điều trị dạ dày, nội quan, công tôn
Phối hợp theo chẩn đoán của y học cổ truyền tất nhiên đây là 1 số phương pháp cơ bản, còn 1 số cách nữa.
II ĐỊNH BỆNH ĐIỀU TRỊ Phương pháp châm và cứu phải phân biệt được hàn nhiệt, bệnh lý, hư thực, âm dương sau đây:
Về biến chứng châm nông và không cứu
Lý nhiệt châm sâu
Hư châm bổ và cứu
Thực chứng phần biểu thực – châm nông và tê
Lý nhiệt châm sâu tả pháp.
Hàn chứng châm sâu, lừu kim dùng bổ gia cứu. Ngoài ra muốn châm có kết quả cần phải chú ý phương pháp bổ tả.
Một số chứng bệnh áp dụng phép cứu dưỡng sinh:
Phàm các bệnh do trúng phong bị co giật, liệt yếu, bán thân bất toại, ký ức kém, khí hư, thoát giang, mê man, động kinh … cứu: Bách hội, Đại chùy, Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc, Túc tam lý, Thủ tam lý.
Phàm chứng đầu thống mắt hoa, chảy nước mắt, nước mũi, cứu: Thần đình
Phàm chứng hầu phong, trướng thống, suyễn gấp, nghẹn, ho có đàm nhớt, trường mình, khí ngắn… cứu: Phong long, Chiên trung, Khí hải, Thiên đột.
Phàm các chứng Tâm và bụng lạnh, đau, hồi hộp, đàm thực, tích uất, phục lương kết khối như cái mâm úp xuống, tích tụ, trưng hà, phúc trướng, trường mịn ăn uống không tiêu, cứu: Thượng hoãn, Trung hoãn, Chiên trung, Túc Tam lý.
Phàm các chứng phúc trướng, khí suyễn, tích thực, từng khối, sắc mặt vàng, phản vị, hay ôi, ăn không được, trường phích, tiêu chảy, đau bụng, xích bạch ly, nên cứu: Trung hoãn, Khí hải, Thần khuyết, Thiên xu, Túc Tam lý.
Phàm con trai bị chứng Dương nuy, di tinh hoặc tảo tinh, hư tốn làm cho dưới rún bị lạnh, hoặc tiểu tiện nhiều lần, ngũ lâm, bạch trọc, sán khí, dái teo, hoặc đàn bà kinh nguyệt không đều, khí trệ huyết ngưng phúc thống khí suyễn, mặt đỏ gay, da thịt gầy còm, tay chân lạnh về lực, thắt lưng bị đau, chân nhức, hoặc trẻ con đái dầm đêm…, cứu: Phế du, Cao hoang, Quản nguyên, Khí hải, Trung cực, Tam âm giao.
Phàm mặt bị mây che mở, hoặc đau dưới hông sườn, cứu: Dương Lăng tuyến, Túc Lâm khớp, Hợp cốc, Quang minh.
Phàm các chứng đau dữ dội ở đầu và trán, miệng mắt bị giật lệch, răng cán chặt, bị câm thình lình, nói không ra tiếng, nên cứu: Khách chủ nhân, Giáp xa, Địa thương, Hợp cốc.
Phàm thương hàn truyền kinh không giải được, hoặc ngực bị kết thành bĩ khối, ho ra đàm, bụng bị trướng, hoặc Can khí bị uất kết, hoặc đàn bà bị nhiệt nhập huyết thất, hàn nhiệt vãng lai, lòng bàn tay và bàn chân bị phát nhiệt, đầu choáng váng, Tâm bị bứt rứt, nếu bị nặng có thể nói sàm… cứu: Kỳ môn, Tam Âm giao.
Phàm các chứng Phong thấp, tý (tê), tê mất cảm giác, thiên khô bất toại (nửa thân bị bất toại), tay vô lực, chu thân đau chạy khắp nơi, da bị tróc, Ẩn chấn (bệnh sởi do kinh Thiếu âm hữu du), Phong chẩn (bệnh giống lên sởi mà ngứa)… cứu: Khúc trì, Hợp cốc, Phong thị, Huyết hải, Hoàn khiêu.
Các chứng kinh phong của trẻ con, khí suyễn, ho, ói ra đàm nhớt, cứu Xích trạch, Trung hoãn, Chiên trung.
Trẻ con bụng bị trướng, ăn cơm vào không hoá xôn tiết, trường minh, đi tiểu vô độ, cứu: Tỳ du, Trung hoãn, Thần Khuyết, Thiên xu, Khí hải, Túc Tam lý.
Phàm trúng phong bị co giật, thắt lưng và gối bị cứng, cúi ngửa bất tiện, đau lan đến hông sườn, chuyển minh khó khăn, hoặc do Phong Hàn Thấp Tý, cứu: Hoàn khiêu, Phong thi, Dương Lăng tuyền, Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc, Túc Tam lý, Tuyệt cốt.
Phàm ho nhỏ ra đàm, đàm thực làm cho khí bị ngăn, bụng trướng, ruột sôi. Vị thông, hung cách bị bứt rứt, đau, hoặc gối bị đau buốt, tay chân bị mềm nhũn ra khó đi đứng, cứu: Phế du, Cao hoang, Trung hoãn, Khí hải, Cách du, Túc Tam lý, Tam âm giao.
Phàm các chứng phù thũng, bụng trướng, dùng tay ấn lên thấy như cái trống, tứ chi quyết nghịch, trướng mãn, đau nhức, nên cứu: Thủy phân, Đơn điền, Thiên xu, Tiểu trường du, Tỳ du, Tam Âm giao.
Các chứng sán khí, xệ dái, trứng dái sưng to bộ phận sinh dục teo co vào trong bụng, cứu: Quan nguyên, Khúc tuyền, Tam Âm giao, Đại đôn.
Các chứng thuộc về huyết, thổ huyết, chảy máu cam, tiêu ra máu, cho đến khí huyết bất hoà, phản Vị thổ ra thức ăn, tự hạn, đạo hạn, cứu: Cách du, Can du, Tỳ du, Huyết hải, Hợp cốc, Phục lưu.
Phàm chứng bệnh bứt rứt, dễ nổi giận, khí uất ho nghịch, mắt hoa đầu choáng váng, buồn khóc thất thường, cứu: Can du, Kỳ môn, Chương môn, Khí hải, Hành gian.
34 CÔNG THỨC CHÂM CỨU ( Phần 1) (09/08/2012) NHÓM THỨ 1
a) Phối huyệt: bách hội, đại chùy, khúc trì, hợp cốc b) Hiệu năng: sơ phong, giải biểu, điều hoà doanh c) Chủ trị: Các chứng ngoại cảm Phong hàn như: lục dâm tà khí còn ở tại biểu như phát nhiệt ố hàn, đầu thống, cổ chứng, lưng lạnh, thắt lưng đau, cột sống cứng, đau nhức toàn thân, không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn; lại như chứng ngoại cảm Phong nhiệt như: phát nhiệt mà không ố hàn, đầu thống tự hạn, miệng khát muốn uống nước, rêu lưỡi màu vàng nhạt hoặc sẫm, mạch phù sác. Các chứng trên đây nên dùng nhóm huyệt trên rồi tùy nghi gia giảm để trị. d) Phép châm và cứu: Trước hết châm bách hội, đến đại chùy, phong trì, sau đó “tả” khúc trì, hợp cốc. Châm bách hội sâu 2 phân, đại chùy sâu 5 phân, (tả). Phong trì đều sâu 5 phân, bổ nhiều tả ít. Sau khi châm nếu là thuộc Phong hàn thì nên cứu 3 đến 5 tráng, lưu kim 15 phút, nếu là thuộc Phong nhiệt đều dùng phép tả, không cứu. Ngoài ra chúng ta còn phải biện chứng cho rõ hư thực. Nếu là thể hư thì tiên bổ hậu tả, hoặc tà khí, nếu là thể thực thì tiên tả hậu bổ hoặc bình bổ bình tả, đuổi tà không làm cho chính khí bị thương, tà khí ra đi thì chính khí bình phục. e) Phép gia giảm: sự biến hoá của bệnh ngoại cảm rất phiên tạp, chứng lại nhiều, vì thế nên trị theo phép kiêm, tức là gia giảm.
Nếu đầu thống cổ cứng khá nặng, gia: phong phủ sâu 3 phân, tiên bổ hậu tả.
Nếu Tâm bị phiền, nước tiểu vàng hoặc đỏ, gia Nội quan, sâu 5 phân, dùng phép tả.
Nếu thêm chứng cuồng ngôn, sàm ngữ, đại tiện khô táo, đó là chứng thực của kinh Dương minh, gia Phong long, Túc Tam lý, Dương Lăng tuyền, sâu từ 5 đến 8 phân, dùng phép tả.
Nếu kèm theo chứng đau hông sườn, ói mửa, gia Dương Lăng tuyền sâu 1 thốn, Chi câu sâu 5 phân, tất cả đều dùng phép tả.
Nếu kiêm chứng ho, đàm màu vàng, ngực bị bức rức, khí suyễn, gia Xích trạch, sâu 5 phân, tả.
Nếu kiêm chứng nghẹt mũi, chảy nước mũi trong gia Thương tinh, sâu 5 phân, Ngư tê sâu 3 phân, dùng phép bổ, Nghênh hương sâu 3 phân, dùng phép tả.
f) Giải phương: Bách hội đứng đầu các Dương khí, là nơi hội huyệt của Đốc mạnh và Thủ Túc Tam Dương, thuộc Thuần Dương, chủ biểu, châm huyệt này nhằm thăng Dương ích khí, phù chính khí, đuổi tà khí; Đại chùy là hôi huyệt của Đốc mạch và Thủ Túc Tam Dương, dùng để giải biểu, sơ tà, dùng phép tả có hàn khí; Phong trì là giao hội huyệt của Thiếu dương kinh và Dương duy mạch, mạch Dương duy chủ Dương khí tại biểu, dùng nó để tăng cường sức giả biểu; Khúc trì là huyệt Hợp của kinh Thủ Dương minh Đại trường, có khả năng đi ra biểu vào lý, nó có đặc tính là chỉ có “đi” chứ không có khả năng gìn giữ, vì thế chúng ta dùng nó để dẫn tà khí xuất ra ngoài; Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh Đại trường, đóng vai trò thăng giáng cho khí Âm lẫn Dương, là yếu huyệt thuộc những bệnh nằm ở bán thân trở lên 5 huyệt này phối với nhau có vai trò sơ Phong, tán tà, điều hòa doanh vệ. Huyệt gia thêm Phong phủ làm sơ, giải tà khí ở não phủ, làm tiết đi hoả khí, làm cho bớt đau. Nội quan làm cho thanh Tâm, tả nhiệt; huyệt Phong long Túc Tam lý theo với Âm Dương để làm nhuận cho bên dưới, có khả năng làm sơ thông Trường Vị; huyệt Dương lăng tuyền làm sơ can lý khí, giáng nghịch chân đứng chứng ói; huyệt Xích trạch, Ngư tế tả được hoả tà ở Phế kinh để bình được chứng ho suyễn, huyệt Thương tinh, Nghênh hương làm thanh não, lợi khiếu làm dứt chảy nước mũi. g) Ghi chú: Nhóm huyệt này cũng thích hợp cho trường hợp tà khí ở tại bán biểu bán lý của kinh Thiếu dương. Trong chứng sốt rét, tuy rằng phải phân biệt Âm Dương biểu lý rõ ràng, nhưng vấn đề hàn nhiệt vãng lai thì chỉ có 1 mà thôi. Tất cả chỉ lất việc điều hoà doanh vệ, phù chính đuổi tà là chủ. Nếu chúng ta tùy chứng mà gia giảm thì kết quả cũng rất khả quan.
NHÓM THỨ 2
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Khúc trì, Ngoại quan
b) Hiệu năng: thanh nhiệt tán Phong, tuyên thông Thượng tiêu c) Chủ trị: đầu thống, hàm má bị sưng đau nhức, tai kêu, tai điếc, thổ huyết, chảy máu cam không ngừng, cánh tay và các lóng tay bị nhức, đau ngực… d) Phép châm và cứu: Hợp cốc, Khúc trì sâu 5 phân; Ngoại quan sâu 3 phân, tất cả đều theo phép tả, lưu kim 5 phút, không cứu. i) Phép gia giảm: nhóm huyệt này đi lên trên, ra biểu vào lý, nghĩa là đi khắp nơi không có nơi nào cố định. nếu muốn đạt đến nơi bệnh chúng ta còn phải thủ 1 số huyệt tương ứng với kinh nào đó nhằm hướng dẫn, như vậy kết quả mới nhanh.
Nếu đầu thống, đầu choáng váng, gia thêm Bách hội, Phong phủ, Đầu duy, châm cạn 3 phân, theo phép bình bổ bình tả.
Nếu mắt bị đỏ, bị mây che, gia thêm Tình minh, Toán trúc, Ty trúc không, tất cả sâu 1 phân, dùng phép tả, châm xuất huyết huyệt Thái dương.
Nếu bị Ty uyên, Ty dưỡng (ngứa, chảy nước mũi), gia thêm Phương tinh, Nghênh hương, Hoà liêu, đều sâu 3 phân, tiên bổ hậu tả.
Tai kêu, tai điếc, gia thêm Ế phong, Nhĩ môn, Thính cung, đều sâu từ 3 5 phân, tiền bổ hậu tả, lưu kim 10 phút.
Miệng hôi, mặt lưỡi bị nứt, gia thêm Thủy câu, Lao cung, đều sâu 3 phân, đắc khí thì rút kim, bình bổ bình tả.
Yết hầu bị sưng đau, miệng hôi, lưỡi nứt, gia thêm Ngư tế, Giáp xa, Xích trạch, đều sâu 3 phân, dùng phép tả, châm thêm Thiếu thương xuất huyết, châm Lao cung, sâu 2 phân, tả.
Nếu răng sưng, răng nhức, gia thêm Hạ quan, Thửa tương, sâu 3 phân, dùng phép tả.
Mắt và miệng bị méo, gia thêm Địa thương, Giáp xa, Quyền liêu, méo về phải châm trái, méo về trái châm phải, sâu 5 phân, cứu 3 tráng.
f) Giải phương: huyệt Khúc trì chỉ có chạy đi mà không giữ một chố, Hơp cốc có thể thăng và có thể tán, huyệt Ngoại quan là huyệt lạc của kinh Thủ Thiếu dương, là 1 trong bát mạch giao hội, nó lại thông với Dương
duy mạch, cùng làm biểu lý, có thể làm thanh nhiệt, tán tà. Phối cả 3 huyệt này có thể làm thanh Thương tiêu, khai khiếu. Phàm khi nào ta bẩm thu được khí thanh Dương, nó đều đi lên đến các khiếu trên đầu và mặt. Nếu một ngày nào đó bị cảm bởi tà khí của Phong Hàn Thử Thấp, các không khiếu bị uất trệ bế tắc, kinh khí bị trở ngại thì các chứng bệnh sẽ xảy ra. Vì thế khi châm huyệt Khúc trì, Hợp cốc thì khí sẽ lên trên, châm Ngoại quan thì thông kinh lạc, đạt biểu lý, khí sẽ thông lên đến Thượng tiểu và các không khiếu trên đầu và mặt, nó sẽ làm thanh Phong, tán Nhiệt, quét sạch mọi tà khí. Khi châm thêm huyệt Bách hội, Phong phủ, Đầu duy là nhằm làm cho thanh tĩnh, thần khí, tiết tả Hỏa khí, đuổi Phong khí, dứt đau nhức; châm thêm huyệt Tình minh, Toàn trục, Ty trúc không có thể đuổi Phong, tiết tả Hoả khí, làm cho mắt được sáng; châm huyệt Thái dương xuất huyết sẽ làm tăng thêm việc thanh Nhiệt, sáng mắt; châm thêm Thượng tinh, Nghênh hương, Hoà liêu sẽ làm thanh Nhiệt, khai khiếu, thông mũi, làm ngưng chảy nước mũi, châm thêm huyệt Ù phong, Thính hội, Nhĩ môn, Thính cung, có thể làm sơ thông được khí, đuổi Phong Hỏa, thượng khiếu được khai, tai được thông; châm thêm huyệt Lao cung, Thủy câu là làm thanh được Tâm Hoả, tiêu được nội nhiệt, an được thần khí, hoà được vị khí; châm thêm huyệt Ngư tế, Giáp xa, Xích trạch sẽ làm tiết tà được phế khí giáng được nghịch khí, thông yết hầu; châm thêm huyệt Thiếu thương sẽ làm sơ tả được khí xung nghịch Hoả độc của 12 kinh, thanh Phế, thông cổ họng; châm thêm huyệt Hạ quan, Thừa tương là tả được Hoả khí của Đởm và Vị, làm sơ thông Phong tà và tiêu được việc sưng thũng; châm thêm huyệt Địa thương, Giáp xa, Quyền liêu sẽ đuổi Phong, lợi khí, khai được quan tiết, thông được lạc mạch, làm cho miệng và mắt được ngay trở lại. g) Ghi chú: nhóm huyệt này nhằm trị đầu và mặt, trị những chứng: “thực” thuộc ngũ quan rất hay.
NHÓM THỨ 3
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Phục lưu b) Hiệu năng: điều hoà doanh vệ, ôn Dương cổ biểu c) Chủ trị: tự hạn, đạo hạn (mồ hôi trộm), ra nhiều mồ hôi, bị vong Dương; Bụng bị trướng, thủy thũng, ruột sôi, thân thể nhiệt mà không mồ hôi, 6 mạch đều vi tế hoặc mạch phục khó ứng tới đầu ngón tay.
d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc làm ngưng mồ hôi, sâu 8 phân, châm tả, hoặc làm ra mồ hôi, sâu 5 phân, châm bổ, cứu 3 tráng. Châm Phục lưu làm ngưng mồ hôi sâu 3 phân, châm bổ, hoặc làm ra mồ hôi sâu 5 phân, châm tả. e) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh, có thể thăng, có thể giáng, làm điều hoà Âm Dương. Phục lưu là huyệt Kinh của kinh Túc Thiếu âm, có thể làm sơ thông và điều hoà huyền phủ (lổ mồ hôi), tư Âm cho Thận và đuổi được Thấp tà. Hai huyệt này phối nhau sẽ làm cho doanh vệ được hoà làm dứt được tư hạn, làm cho Âm Dương điều hoà và dứt được đạo hạn. Nếu tà khí xâm nhập vào khí doanh vệ, đến nỗi là cho khí doanh vệ bị thực, tấu lý không khai để rồi uất bế phát nhiệt làm cho không ra được mồ hôi và đuổi được tà. Nói tóm lại, 2 huyệt này có khả năng làm sơ thông lại có thể làm dừng lại đối với mồ hôi ta gọi đây là phép “dị bệnh đông trị”. f) Phụ lục: những người thầy châm cứu đều biết rằng đối với việc dùng châm cứu để trị mồ hôi là đã được người xưa nói rất nhiều. Tuy nhiên, trong khi dùng 2 huyệt Phục lưu và Hợp cốc trong việc vừa làm ngưng vừa làm chảy mồ hôi ít được giải thích cặn kẽ. Do đó, qua thực tiễn lâm sàng, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nay xin trình bày như dưới đây: Hạn là chất “dịch” của Tâm, trong lúc đó Thận chủ về ngũ dịch, đó là cái lý thông thương ai cũng biết. Một vấn đề được đặt ra: tại sao Phục lưu thuộc Thận kinh, Hợp cốc thuộc Đại trường kinh, cả 2 lại có thể làm ngưng mồ hôi lại có thể làm chảy mồ hôi? Nói 1 cách tổng quát thì:
Tự hạn phần lớn là do Dương khí bị hư tổn, không giữ bên ngoài được vững chắc, doanh vệ bị mất đi sự điều hoà.
Đạo hạn phần lớn do ở Âm hư nội nhiệt, mất đi khả năng liễm tàng mà ra.
Hạn bị bế phần lớn do tà khí của Phong Hàn làm bế tắc, trở ngại các mao Thiếu mà ra. Chúng ta có thể cùng sử dụng 2 huyệt để vừa làm ngưng mồ hội, vừa làm chảy mồ hôi
h) Chỉ hãn (làm ngưng mồ hôi): châm bổ Phục lưu và châm tả Hợp cốc. Phục lưu làm ôn và bổ Thận Dương. Thận Dương là nơi lãnh đạo chung Dương khí của toàn thân con người, nó đóng vai trò bảo vệ bên ngoài để ngăn chặn tà khí. Thận và bàng quang cũng làm biểu lý nhau, bàng quang thuộc Thái dương Hàn Thuỷ, khi Thận Dương sung túc, nó sẽ làm ấm và chưng cất Hàn Thuỷ làm cho khí của Bàng quang hoá lên,
thăng lên trên, đạt ra đến khắp chu thân, làm Tỳ Thổ vận hành rất “kiện”, đưa khí “tinh vi” lên để phụng Tâm để hoá thành huyết. Như vậy là Tâm thần được “phụng dưỡng”, tân dịch sẽ được làm tròn vai trò của mình. Chúng ta lại châm tả Hợp cốc, huyệt Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Điều trường, có thể làm “thanh” được nhiệt khí của Dương minh được “thanh sướng”. Vả lại, Phế và Đại trường cùng làm biểu lý cho nhau, Phế chủ bì mao, chủ về “khí” trong toàn thân. Vậy, khi nào khí của phủ (Đại trường) của nó được điều hoà thì Phế tự nhiên được thanh và giáng xuống, trăm mạch được hoà sướng, doanh vệ được điều hoà, tấu lý sẽ được vững và kín, tà khí không tấn công được nữa, mồ hôi làm sao không dứt? Đây là trường hợp Dương hư mà thành chứng tự hạn. Riêng huyệt Phục lưu nếu châm mà thêm cứu nữa đó là bổ Thận Dương, còn nếu châm mà không cứu đó là “tư” Thận Âm, Thận Âm được sung túc, nó sẽ làm công việc tư Âm giáng hoả. Khi hư Hoả bị hạ và đó là “tư Thận Âm”, Thận Âm được sung túc, nó sẽ “tư Âm giáng Hoả”. Khi hư Hoả bị hạ và khi phù Dương đã quy về căn, đương nhiên hoả ở Tâm sẽ được an. Châm Hợp cốc với vai trò “tả”, đó là làm cho khí Dương minh được sơ sướng, do đó mà Hoả cũng giáng xuống theo. Nội kinh nói: “Âm bình Dương bí, tinh thần được an”. Trên là cái lý giải thích tại sao châm Phục lưu và Hợp cốc mà ngưng được đạo hạn. i) Phát hạn (làm cho ra mồ hôi): châm tả Phục lưu và châm bổ Hợp cốc. Khi châm bổ Hợp cốc vừa có thể điều hoà bên trong lại vừa có thể khai mở được bên ngoài. Bên trong nó làm khai thông kinh khí của Dương minh, Phế khí được tiêu giáng, Tam tiêu được thông sướng, tân dịch vận hành, như vậy là Vị khí được hoà, bên trong sẽ được an và tà khí bị đuổi đi... Đối với bên ngoài, huyệt Hợp cốc thiên về Dương, mà khí Dương thì nhẹ, trong, đi lên và đi ra ngoài, nó sẽ làm tán được tà khí đang làm uất ở phần vệ. Trong khi Dương khí ra ngoài, nó sẽ áp bức tà khí ra ngoài như vậy là tà chinh tranh nhau làm cho mồ hôi phải thoát ra, vì thế xem việc châm Hợp cốc ở đây đóng vai trò “quân”. Khi châm tả Phục lưu là nhằm “tả” cho Hợp cốc, nó sẽ làm sơ thông và điều hoà huyền phủ (lổ mồ hôi), tăng thêm sức mạnh bên trong, ngoài ra nó còn làm công việc “tư” cho Âm của Thận, làm sung cho cái “nguồn” của mồ hôi, phù chính khí, đuổi tà khí. Như vậy là Phục lưu đóng vai trò “thần”,: “quân” và thần hợp sức nhau làm sao tà khí chống lại nổi? Làm sao mồ hôi không ra? Khi mồ hôi ra, tức là tà khí bị đuổi, bệnh sẽ khỏi. Câu “dị bệnh đồng trị” chứng tỏ sự áo diện của phép châm cứu trị liệu, mong quý vị học giả để tâm nghiên cứu sâu hơn.
NHÓM THỨ 4
a) Phối huyệt: Bách hội, Nhân trung, Phong phủ
b) Hiệu năng: khai quan tiết, giảm cấm khẩu, thông dương, an thần c) Chủ trị: mọi chứng thuộc mê man, hôn quyết d) Phép châm và cứu: châm Nhân trung 5 phân, hướng mũi kim về phía mũi và sau đó về phía môi, dùng phép bổ; châm Bách hội, sâu 3 phân, bổ, trước hết bổ theo phép “cửu Dương” (ngón cái hướng về phía trước xoay kim 9 lần), lúc rút kim ra thì tả nhẹ, tức là xoay kim về phía hữu. Sau khi châm, cứu 3 tráng; châm Phong thủ, sâu 5 phân, tả, không lưu kim, cấm cứu. e) Giải phương: Bách hội là hội huyệt của Đốc mạch và các kinh của Thủ, Túc Tam Dương, nó lại là hội của mạch Túc Quyết âm Can, lại là hội huyệt của Thủ Túc Dương minh kinh. Châm huyệt này sẽ làm cho thông Dương, an thần, làm thanh tĩnh đầu nấc. Nhân trung là giao hội huyệt của Đốc mạch và Thủ Túc Dương minh kinh. Đốc mạch là biến của các kinh Dương, kinh Dương minh là 1 kinh đa khí vừa đa huyết. Châm huyệt này theo phép tả là làm thông tiết Đốc mạch, thanh lý tà nhiệt hữu dư ở nơi kinh Dương minh, nó sẽ làm nhiệm vụ khai chiếu, cứu cấp, điều hoà Âm Dương. Phong phủ là giao hội huyệt của Túc Thái dương kinh, Dương duy mạch, và Đốc mạch. Châm huyệt này sẽ xua đuổi được Phong tà ở não phủ, điều hoà Âm Dương. Nếu phối châm 3 huyệt này sẽ làm cho quan tiết và các khiếu khai ra tức khắc, người bệnh sẽ hồi tỉnh, nói năng như cũ, chuyển nguy thành an. Nhóm huyệt này trở thành 1 trong những yếu phương của phép châm cứu trị liệu, có khả năng “cải tử hồi sinh” 1 cách kỳ diệu. f) Ghi chú: đây là nhóm huyệt có nhiệm vụ cấp cứu, cũng là phương huyệt trị về “tiêu” mà thổi. Nếu muốn trị bản, phải tùy theo nguyên nhân gây bệnh và tùy chứng mà gia giảm. Ví dụ gặp bệnh Hàn, nên châm cho ôn, cho thông Dương khí, nếu gặp Nhiệt, nên tả Hoả, tư Âm, nếu nhiều đàm, phải tiêu đàm giáng khí, nếu khí bị quyết, nên châm để thanh lý khí và giải uất…
NHÓM THỨ 5
a) Phối huyệt: Kiên ngung, Khúc trì
b) Hiệu năng: sơ thông khí huyết, khu phong thấp c) Chủ trị: phàm các chứng thuộc tà khí ở khách tại kinh lạc, khí huyết bị trở trệ như trung Phong bị bất toại, bị tý, từ nửa người và từ thượng chi trở lên. d) Phép châm và cứu: châm Kiên ngung hay ở chỗ lưu châm, sâu từ 5 phân đến 1 thốn, bình bổ tả. Khi châm vào nên vê kim, khi nào đắc khí thì áp dụng phép tả, lưu kim 15 đến 20 phút. Sau khi châm, nên cứu từ 3 đến 5 tráng. e) Phép gia giảm:
Nếu tay và cánh tay bị đau buốt nặng, châm thêm Hợp cốc 5 phân, châm Thủ Tam lý 5 phân, đều châm tả.
Nếu ngón tay bị co giật, châm thêm Dương cốc 3 phân, Hợp cốc 5 phân, dùng cả bổ lẫn tả.
Nếu cánh tay không đưa lên cao được, châm thêm Cự cốt 5 phân, châm Tý não 5 phân, đều châm tả.
Nếu các ngón tay bị liệt không dùng được, châm thêm Bát tà 3 phân, cứu 5 tráng, bình bổ bình tả.
f) Giải phương: nhóm huyệt này đều thuộc Thủ Dương minh Đại trường kinh Phế và Đại trường đều là biểu lý nhau, vì thế nó chẳng những trị được những bệnh thuộc Kinh Dương minh, ngoài ra nó còn điều lý 1 cách tuyệt vời về Phế khí. Châm Kiên ngung làm sơ thông huyết khí, tán Phong, đuổi Thấp, tả được Hoả trong khí của Dương minh. Châm Khúc trì sẽ tuyên khí hành huyết, đuổi Phong trừ Thấp, thông lợi quan tiết. Phối cả hai huyệt sẽ làm hành khí, hoà huyết. Khi khí huyết được hoà, kinh lạc được thông, ứ trệ bị đuổi, Phong Thấp sẽ bị trục ra. Kết quả quý như vàng ngọc, đúng với câu “một khiếu được thông thì trăm khiếu cũng sẽ thông”. Huyệt Thủ Tam lý và Hợp cốc tăng cường việc đuổi Phong, thông lạc, dứt được chứng tý thống. Huyệt Dương cốc làm tan Hàn khí ở Thái dương kinh, sơ thông khí huyết. Huyệt Cự cốt là huyệt hội của Thủ Dương minh Đại trường và Dương kiểu mạch, có khả năng làm thư sướng kinh lạc, thông lợi quan tiết. Huyệt Tý nao làm tăng cường thư cân hoạt lạc. Huyệt Bát tà la thư sướng lạc mạch, làm lợi quan tiết, trị được các chứng nuy, phế (tàn phế). g) Ghi chú: nhóm huyệt này có khả năng trị các chứng đau nhức ở vùng thượng chi. Đối với các chứng “ngoan cố”, việc châm phải mạnh hơn, nếu không hiệu quả sẽ kém. Đối với chứng đau yết hầu như có cái gì cứng chặn lại, nó có 1 kết quả nhất định.
NHÓM THỨ 6
a) Phối huyệt: Hoàn khiêu, Phong thị, Dương Lăng tuyền b) Hiệu năng: làm sơ thông, tuyên tán, trừ dược Phong, Thấp, tý, thống, thư cân, lợi tiết. c) Chủ trị: trúng phong, bán thân bất toại, tê không còn cảm giác, co giật gân, liệt thuộc vùng hạ chi. d) Phép châm và cứu: châm Hoàn khiêu, mũi kim hướng xuống dưới, châm thẳng sâu 1 thốn, 5 phân cho đến 2 thốn, lưu kim 15 phút, châm Phong thị sâu 8 phân; châm Dương Lăng tuyền hướng vào phía tất nhãn sâu 1 thốn; tất cả đều châm vê kim, tiên bổ hậu tả. Nếu bệnh thuộc thực chứng trì tiên tả hậu bổ, khi rút kim ra cứu 3 đến 5 tráng. e) Giải Phương: Hoàn khiêu là hội huyệt của Túc Thiếu dương Đởm kinh và Túc Thái dương Bàng quang kinh, có khả năng trừ được chứng tỳ, Phong và Thấp; huyệt Phong thị cũng đuổi Phong trừ Thấp, cả 2 huyệt đều trị được những chứng nuy, tý thuộc hạ chi. Dương Lăng tuyền là huyệt Hợp của Túc Thiếu dương Đởm kinh là nơi hội của “cần trong toàn thân”, vì thế châm nó sẽ làm cho thư cân hoạt lạc, thông lợi quan tiết, cũng là huyệt thường dùng để trị bệnh thuộc Can và Đởm. 3 huyệt trên phối nhau sẽ chữa được các chứng bệnh về nuy và tý, nhất là đối với các bệnh ở thắt lưng, hông sườn và hạ chi.
NHÓM THỨ 7
a) Phối huyệt: Khúc trì, Uỷ trung, Hạ liêm b) Hiệu năng: thông Dương khí, tán Thấp khí, đuổi Phong khí, Hàn khí, sơ thông kinh lạc, tả Nhiệt khí, dứt đau. c) Chủ trị: trị các chứng tý thuộc Phong, Hàn, Thấp, Nhiệt.
d) Phép châm và cứu: châm Ủy trung, châm thẳng sâu 1 thốn đến 1 thốn rưỡi, tả; châm Khúc trì sâu 8 phân đến 1 thốn, tiên tả hậu bổ, cứu từ 3 đến 5 tráng; châm Hạ liêm, thẳng sâu 5 phân, cả bổ lẫn tả. Các chứng thống, tý châm tả huyệt Ủy trung là chủ. Các chứng hành tý châm tả huyệt Khúc trì là chủ, tiên tả hậu bổ, thêm Hạ liêm. e) Phép gia giảm: nếu thượng chi bị đau nhức nặng châm thêm Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc. Nếu hạ chi đau nhức nặng châm thêm Hoàn khiêu, Phong thị, Dương Lăng tuyền. Nếu đau nhức từ cánh tay đến các đốt ngón tay, châm thêm Bát phong, Bát tà, đều sâu 3 phân, dùng phép tả. d) Giải phương: châm 3 huyệt này sẽ làm cho mạch khí đi từ biểu nhập vào lý, làm thông được khí bị trệ, bị mãn, thông kinh lạc, đuổi được 4 khí Phong, Nhiệt, Thấp, Hàn, giải được chứng tý.
NHÓM THỨ 8 a) Phối huyệt: Khúc trì, Dương lăng tuyền. b) Hiệu năng: hành khí huyết, thông kinh lạc, thư cân, lợi quan tiết. c) Chủ trị: ngực và hông sườn bị đau, bụng trướng, tiểu tiện đục do nhiệt kế ở Trường Vị, chi dưới và chi trên bị tê, bất toại… d) Phép châm và cứu: châm nhóm huyệt này đều sâu 5 phân, bình bổ tả, lưu kim 15 phút, cứu 3 tráng. e) Phép gia giảm: nếu tiểu tiện bị đục, châm thêm Quan nguyên sâu 3 phân; nếu thượng chi bị tê, châm thêm Kiên ngung sâu 5 phân; nếu hạ chi bị tê, châm thêm Hoàn khiêu sâu 1 thốn 5 phân, tùy theo tình hình mà bổ tả. f) Giải phương: châm Khúc trì làm hành khí, hoà huyết, thanh Phế giải biểu; châm Dương Lăng tuyền là để tả Can và Đởm, bình được uất nhiệt. Phế chủ khí của toàn thân, Can chủ cân của toàn thân. Nếu Phế khí được thanh, khí huyết được lưu hành, Can khí được thư thả thì cân mạch sẽ được dưỡng, như vậy chứng tê và đau hông sườn sẽ đứt. Huống chi vị trí của 2 huyệt này lại nằm ở chỗ quan yếu của “tứ đại quan tiết” thuộc thượng hạ chi, nó có khả năng tuyên thông giáng khí, sơ thông, tiết cả...
NHÓM THỨ 9
a) Phối huyệt: Khúc trì, Tam Âm giao b) Hiệu năng: thanh nhiệt, mát huyết, đuổi ứ huyết sinh tân huyết. c) Chủ trị: phụ nữ bế kinh, băng lậu đái hạ, tích tụ loét độc, các chứng sưng thũng, đau nhức, co giật... d) Phép châm và cứu: châm Khúc trì sâu 5 phân đến 1 thốn; châm Tam Âm giao sâu 5 phân, cả 2 đều tiên tả hậu bổ, lưu kim 10 phút, cứu 3 tráng. e) Phép gia giảm: nếu bị bế kinh không thông, châm thêm Huyết hải sâu 1 thốn, tả, sau khi rút kim cứu 3 tráng. Nếu bị tích tụ châm thêm Can du sâu 3 phân, châm Dương Lăng tuyền sâu 1 thốn, tả. Nếu bị đái hạ, châm thêm Tỳ du sâu 3 phân, bổ, cứu 3 tráng. f) Giải phương: nhóm huyệt này gồm 2 huyệt, một thuộc Âm kinh, một thuộc kinh Dương, thông bên trong, đạt đến bên ngoài, hài hoà Âm Dương; châm Khúc trì là để thanh nhiệt, giải độc, đuổi Phong, lợi Thấp; châm Tam Âm giao vì huyệt này là cái then chốt của Túc Tam Âm kinh, là 1 yếu huyệt trị về huyết chứng. Châm 2 huyệt này sẽ làm cho ứ huyệt tự tán, huyết tự hoà, tà nhiệt tán, chứng băng lậu ngừng, kinh bế tự thông. Nếu chúng ta “tư” Thân Âm thì thủy sẽ nuôi được Mộc. Can chủ về sơ tiết, Tỳ chủ về vân hoá. Nếu Can và Tỳ được hoà thì các chứng tích tụ, co giật sẽ khỏi. Đối với vấn đề loét độc, sưng thũng đó là huyết phân thọ tà, khi đã điều được khí, đã thông được ứ thì nhiệt sẽ tán, việc sưng thũng sẽ tiêu. Huyệt Huyết hải có khả năng hoà huyết, hoá ứ, huyệt Can du và Dương Lăng tuyền tăng cường cho việc hoà Can khí, huyệt Tỳ du làm kiên Tỳ lợi Thấp, khi mà Tỳ vận hành được kiện thì đái hạ sẽ tự ngưng.
34 CÔNG THỨC CHÂM CỨU ( Phần 2) (09/08/2012) NHÓM THỨ 10
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Tam Âm giao b) Hiệu năng: ích khí, dưỡng Âm, kiện Tỳ bổ hư c) Chủ trị: Tỳ Vị hư hàn, ăn không biết ngon, ăn không tiêu, hình thể gầy yếu, thường hay ẩu hoặc tả, hoặc “ngũ canh tiết tả”, chân bị tê không có cảm giác, đau nhức, bụng bị đau... d) Phép châm và cứu: châm Túc Tam lý sâu 5 phân, sau khi rút kim cứu 7 tráng; châm Tam Âm giao sâu 5 phân, mũi kim hướng lên trên, sau khi rút kim cứu 3 đến 5 tráng, đều dùng phép tả, sau khi đắc khí lưu kim 10 phút. e) Giải phương: Túc Tam lý là huyệt Hợp của Túc Dương minh Vị kinh, có thể thăng Dương ích Vị, ôn trung, tán Hàn. Huyệt Tam Âm giao là hội huyệt của Túc Thái âm Tỳ kinh, Túc Quyết âm Can kinh và Túc Thiếu âm Thân kinh, nó có khả năng tư Âm kiện. Tỳ, hoạt huyết khử ứ. Vả lại, Vị chủ về thọ nạp cốc khí, Tỳ chủ về vận hoá. 2 huyệt này nếu phối nhau sẽ làm khởi phát được Dương khí của Trung tiêu, kiện Tỳ, tưới thắm Âm dịch, làm sung cho Vị dịch. Khi mà khí huyết được điều hoà, kinh mạch được thông sướng, Tỳ Vị được kiện thì việc ăn uống sẽ tăng lên và khi mà cái nguồn sinh hoá được sung túc thì tà khí không thể tấn công được. Nhóm huyệt này chuyên để chữa cho những chứng bệnh thuộc hư tổn, các nhà dưỡng sinh trân trọng. Tuy nhiên, bệnh nào đó phải được chữa bằng phương nào đó, gia giảm cho đúng cách, kết quả sẽ rất tuyệt vời.
NHÓM THỨ 11
a) Phối huyệt: Dương Lăng tuyền, Túc Tam lý b) Hiệu năng: điều hoà Can và Tỳ, thư Can kiện Tỳ
c) Chủ trị: trị các chứng do Can và Tỳ bất hoà như “trung tiểu”, “đình ẩm”, tích trệ, nuốt nước chua, miệng đắng, tiêu chảy, ẩu thổ… d) Phép châm và cứu: Cả 2 huyệt này đều châm tả, không cứu, lưu kim 10 phút. e) Phép gia giảm: nếu miệng đắng, nuốt nước chua nặng, châm thêm Can du, Đởm du, sâu 3 phân, tả, nếu ẩu thổ châm thêm Nội quan, sâu 5 phân, tả. f) Giải phương: Túc Tam lý là Hợp huyệt của kinh Túc Dương minh, thuộc Thổ trong Thổ. Khi châm tả Túc Tam lý là để làm sơ tiết trọc khí trong Vị, làm thông Dương khí trong Vị, làm cho trọc Âm phải giáng xuống và thanh Dương được sinh ra. Dương Lăng tuyền là huyệt quan trọng của Túc Thiếu dương kinh, châm tả sẽ làm “thanh” được nhiệt khí của Đởm kinh, sẽ “bình” được hoành nghịch của Can Mộc, từ đó giáng được khí đang thượng nghịch. Can thuộc Ất Mộc, đởm thuộc Giáp Mộc, đây là chúng ta đã làm cho Mộc hoá được Thổ. Can và Vị được hoà, Tỳ và Vị được kiện, bệnh sẽ được khỏi.
NHÓM THỨ 12
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Thái xung b) Hiệu năng: mở rộng và vận hành khí huyết, trấn Can, trừ Phong. c) Các chứng: cuồng điên, đầu thống, choáng váng, mắt đỏ, sưng thũng đau… d) Phép châm và cứu: châm Thái xung sâu 3 phân; châm Hợp cốc sâu 5 phân; nếu thể trạng người bệnh bị hư thì tiên bổ hậu tả; nếu thực thì tiên tả hậu bổ. Khi nhiệt thịnh thì dùng phép tả, không lưu kim, không cứu, nếu hàn thì lưu kim. e) Phép gia giảm: nếu có thêm đàm phối với Phong long, sâu 5 phân, bình bổ bình tả, Dương Lăng tuyền sâu 5 phân, tả. Nếu bị chứng, “thiên phong” thì châm thêm Thần môn, Bách hội, đều sâu 2 phân, tả Thần môn, bổ Hợp cốc. f) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh. Thái xung là Du huyệt của kinh Túc Quyết âm, Cả 2 huyệt đều nằm chỗ vùng gối và khuỷ tay, nơi quan trọng trong người. Tuy nhiên, công năng của chúng lại khác nhau: Hợp cốc chủ về khí, Thái xung chủ về huyết. Do đó, Hợp cốc có công năng điều khí,
phát hạn giải biểu, đuổi Phong trần thống; Thái xung lại có công năng điều huyết, khai lợi quan tiết, đuổi Phong trấn áp được nỗi lo sợ, trừ đau nhức, dẫn khí hạ hành. Phối cả 2 huyệt sẽ điều được khí huyết, hoà được Âm Dương, trừ Phong, bình Can khí. Châm thêm Phong long, Dương Lăng tuyền sẽ trừ đàm, tiết Hoả châm thêm Bách hội, Thần môn sẽ làm an thần, bớt lo sợ… g) Ghi chú: nhóm huyệt này trị những chứng điên giản quá thực rất có kết quả, khi châm thêm Thần môn, Bách hội sẽ trị được chứng ngũ giản. Nhóm này chính là nhóm mà Châm cứu đại thành gọi là “Tứ quan huyết”…
NHÓM THỨ 13
a) Phối huyệt: Dương Lăng tuyền, Phong long, Chi câu b) Hiệu năng: Thư Can hoá đàm tả nhiệt thông tiện c) Phép Châm và cứu: các huyệt trên đều châm sâu từ 5 phân đến 1 thốn, đều tả, không cứu, lưu kim 5 phút. d) Phép gia và giảm: nếu là chứng đại tiện bí kết nặng châm thêm Đại hoành, sâu 5 phân tả, châm Đại trường du 3 phân, tả. e) Giải phương: Phong long là huyệt lạc của Túc dương minh vị kinh, liên lạc đặc biệt với Túc Thái âm tỳ, có thể giáng tức là đi xuống dưới để hợp với túc thái âm kinh, khi nó có được khí của Thái âm thấp thổ, nó sẽ làm cho nhuận trường để thông xuống dưới. Dương Lăng tuyền là huyệt Hợp thuộc Thổ của kinh Túc thiếu dương, tính của nó là trầm giáng, là thư giải được khí của Can và Đởm, đặc biệt là châm xuyên qua đến huyệt Túc Tam lý, nó sẽ đóng vai trò dùng Mộc để sơ thông được Thổ. Huyệt Chi câu là huyệt của kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu, nó làm thanh được khí tam tiêu, tức là thông được khí ở phủ, làm giáng nghịch hoả đó là ý nghĩa của câu nói “khí tam tiêu được thông thì tân dịch được hạ, vị khí nhờ đó mà được hoà”. Ba huyệt này phối với nhau có sự thừa khí lẫn nhau, là một phối hợp huyệt làm được hạ khí một cách hoà hoãn. Nếu châm thêm đại hoành, đại trường du sẽ tăng thêm công năng “Đại thừa khí”. Ghi chú: ba huyệt này được phối với nhau không những có kết quả tốt với thực chứng của phủ, ngoài ra các bệnh chứng đưa tới do đàm hoả như điên cuồng, lỗi nghịch, quai bị, cao huyết áp... cũng rất có kết quả. Các học giả nên nghiên cứu thêm, nhóm huyệt này không những có tác dụng của “thừa khí” ngoài ra còn có hiệu quả làm thay đổi vai trò của thang “ôn đởm trường” và “cồn đàm hoàn”...
NHÓM THỨ 14
a) Phối huyệt: Khí hải, Thiên khu b) Hiệu năng: bổ thận, tráng dương, sơ thông Đại tiểu trường, làm tiêu trệ khí. c) Chủ trị: phúc thống, phúc trướng, trường minh, tiết tả quyết nghịch, thoát dương, khí suyễn, thất tinh, âm súc, tiểu tiện bất lợi, phụ nhân chuyển bảo, nguyệt kinh không đều, xích bạch đái… d) Phép châm và cứu: ở người già, huyệt Khí hải không nên châm sâu hoặc không nên châm, nên dùng ngải cứu của phép “Thái ất thần châm cứu” là ổn nhất. Khi nào khí huyết hư, lấy việc châm bổ khí hải làm chủ, sâu 3 đến 5 phân, cứu 5 đến 7 tráng. Huyệt Thiên xu là nơi ở của hồn phách, thông thường không nên châm, nếu như cần, có thể dùng hào châm, châm cạn nên cứu nhiều hơn. e) Giải phương: khí hải là huyệt quan trọng của Nham mạch, là nơi phát ra mạch khí của Nhâm mạch, là nơi gọi là “biển của sự sinh khí”, là nơi hội của khí huyết, là gốc rễ của việc hô hấp, là: “phủ tàng tinh” cho nên nó được xem là huyệt quan yếu của vùng hạ tiêu. Châm nên dùng phép bổ, bổ Mệnh môn, làm “ích” thêm cho khí Nguyên dương, ví như thêm cũi dưới đáy nồi nước không bị suy, ngoài việc có khả năng trị bệnh, nó còn làm cho con người sống được lâu, kéo dài tuổi thọ huyệt Thiên xu có nhiệm vụ làm phân lợi thủy cốc, hấp thu khí tinh vi, truyền hoá cặn bã, làm thanh khiết được các trọc khí… Tóm lại, châm huyệt Khí hải là để làm phấn chấn Nguyên dương, làm tán được khí Âm tà, đúng với câu nói: “Làm ích được cái nguồn của Hoả nhẫm đánh tan màn Âm khí”. Huyệt trên phối với Thiên xu nhằm làm điều hoà khí của Trường Vị, làm lợi được sự vận hành của nó. Đây là phối huyệt quan trọng trong việc trị các chứng hư lao, thân thể suy nhược, tạng bị suy, trừ được tích hàn cố lãnh… Nó tương đương với các phương “Thiên hùng tán, Thận khí hoàn”…
NHÓM THỨ 15
a) Phối huyệt: Trung hoãn, Túc Tam lý
b) Hiệu năng: làm táo được Thấp khí, kiện Tỳ, làm thăng Dương và “ích” Vị. c) Chủ trị: trị chứng hư hàn trong Vị, ăn uống không xuống, vùng hoãn phúc bị trướng và thống bị tích tụ và đình đàm, đình thực, túc ẩm, bĩ khối, hoắc loạn… d) Phép châm và cứu: châm Trung hoãn sâu 5 phân đến 1 thốn, cách 3 ngày tái châm, thông thường nên bình bổ bình tả. Châm Túc Tam lý sâu 5 phân đến 1 thốn, hư bổ thực tả, sau khi châm xong, nên cứu cả 2 từ 3 đến 5 tráng. Nếu bị ẩu thổ và phản Vị có thể tùy theo tình hình mà dùng phép tả. e) Phép gia giảm: nếu vùng Thượng tiêu bị uất nhiệt, châm thêm Thông cốc (tả) sâu 5 phân. Nếu tạng khí bị hư, châm bổ thêm Chương môn sâu 3 phân. Trong Trường Vị bị tích trệ, châm tả Đại trường du, sâu 3 phân, châm Thiên xu cạn, cứu 5 tráng, châm Tiểu trường du sâu 3 phân, tả, hoặc châm Thượng liêm sâu 5 phân, tả. Nếu vùng Hạ nguyên bị hư hàn, châm bổ thêm Khí hải, sâu 3 phân, cùng cứu như Thiên xu 5 tráng. Nếu bị nhiệt hoắc loạn, châm Ủy trung, Xích trạch xuất độc huyết sau đó châm bổ thêm huyệt Trung hoãn. f) Giải phương: huyệt Trung hoãn là hội huyệt của Nhâm mạch, với Túc Dương minh Vị kinh, Thủ Thái dương Tiểu Trường kinh, Thủ Thiếu dương Tam tiêu kinh, nó cũng là hội huyệt của lục phủ, là huyệt mô của Vị. Vì thế chúng ta thủ huyệt Trung hoãn làm “Quân” để thống trị các bệnh thuộc lục phủ. Khi gặp chứng hư, nên dùng phép bổ, đó là làm cho tráng được trung khí. Khi châm tả huyệt Trung hoãn là nhằm làm sơ thông trệ khí, khi mà Vị khí giáng Tỳ khí thăng, khí tân dịch sẽ dâng tràn lên trên, các chứng ẩu thổ… sẽ tự trừ. Thủ huyệt Túc Tam lý đóng vai “thần và tá” chỉ vì nó có khả năng làm “thăng” Dương khí, làm “ích” Vị khí, nó sẽ trợ cho Trung hoãn trong việc làm an Vị khí, “ích” Tỳ khí. Châm tả Túc Tam lý sẽ làm giáng trọc khí, dẫn đạo trệ khí, nó sẽ “tá” cho Trung hoãn để làm “lợi” cho sự vận hành. Hai huyệt hợp lại thành nhiệm vụ của “quân thần”, trong lâm sàng, chúng có những công dụng xác thực. Thủ huyệt Ủy trung, Xích trách xuất huyết là nhằm làm trừ khử được tà khí ô uế của thử khí, trừ được chứng hoắc loạn. Khi châm bổ Khí hải, Thiên xu là để làm ấm vùng hạ nguyên, bổ Thận, kiện Tỳ. Châm tả Thông cốc là làm cường Tỳ kiện Vị, bởi vì huyệt này là huyệt giao hội của kinh Túc thiếu âm Thận và Xung mạch… Nếu châm tả có thể làm tiêu trướng, chỉ thống, định được ẩu thổ, trợ cho Trung hoãn, làm lợi được sự vận hành. Khi bổ Chương môn sẽ làm tán được hàn khí của ngũ tạng, vì nó là nơi hội của ngũ tạng. Châm tả Đại và Tiểu trường du là để làm sơ điều Đại Tiểu trường, thông khí, hoá trệ. g) Ghi chú: châm Ủy trung và Xích trạch để trị chứng nhiệt hoắc loạn quả thức co những kết quả rất cao. Đây là kinh nghiệm mà tôi đã được thầy tôi truyền lại. Trong 30 năm trời, tôi đã dùng nó để trị không biết bao nhiêu người khỏi bệnh. Nhất là huyệt Xích trạch, có những trường hợp và châm kim xuống xong đã làm cho chứng phiền Tâm dễ chịu ngay.
NHÓM THỨ 16
a) Phối huyệt: Nội quan, Tam Âm giao b) Hiệu năng: làm khoan khoái vùng ngực, làm lợi được khí ngăn vùng hoành cách, tư Âm, dưỡng huyết. c) Chủ trị: trị các chứng lao tổn, Âm hư, ví dụ như Vị bị chứng phát nhiệt, mồ hôi trộm (đạo hạn) ho kha, thất huyết, sốt cao, mất ngủ, phụ nữ nguyệt kinh bị bế tắc, nam tử bị di tinh, muốn ăn nhưng ăn không ngon, ngực đầy bụng trương, Tâm hung phiền muộn… d) Phép châm và cứu: châm Nội quan sâu từ 3 đến 5 phân, tiên bổ hậu tả, không cứu. Châm Tam Âm giao sâu 5 đến 8 phân, tiên bổ hậu tả, sau khi châm, cứu 5 tráng, lưu kim 10 đến 12 phút. e) Phép gia giảm: khi bị ho khan nặng, châm thêm Thái uyên, sâu 3 phân, bổ. Nếu bị thất huyết châm thêm Cách du, sâu 2 phân, bổ. Nếu bị đạo hạn nặng châm thêm Phục lưu sâu 3 phân, bổ. Hợp cốc sâu 8 phân tả. Nếu bị di tinh, châm thêm Thái khê, sâu 3 phân, bổ, Thận du sâu 3 phân. f) Giải phương: Nội quan là huyệt lạc của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc, tách biệt đi theo kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu, nó lại là huyệt thuộc Âm duy trong bát mạch. Âm mạch trong Thủ Túc Tam Âm kinh và Âm mạch trong kỳ kinh bát mạch, tất cả đều phải lấy Âm duy mạch để làm vai trò quan hệ và duy trì nhau, nó mang tác dụng trong việc trị liệu một cách chính thể. Các đường kinh của Thủ Tam Âm đi từ ngực chạy ra đến tay, các đường kinh của Túc Tam Âm chân đến ngực. Cho nên, Nội quan có thể trị được các tật bệnh thuộc vùng ngực và Tâm, ta gọi nó là yếu huyệt của vùng Tâm ngực, nó có đặc tính làm thư thái vùng ngực, làm lợi cho hoành cách, hành khí tan uất. Phối nó với Tam Âm giao, chúng có thể tư Âm dưỡng huyết, kiện Tỳ, ích Vị. Nó hợp lại sẽ làm giao tế được Thuỷ Hoả, bình hành được Âm Dương. Huyệt Thái uyên là huyệt Nguyên của Phế, thuộc Thổ. Châm Thái uyên là để bồi Thổ sinh Kim. Huyệt Cách du là hội huyệt của huyết, thống trị mọi chứng về huyết trị về hạn. Các huyệt Thận du và Thái khê làm tư Âm bổ Thận. g) Ghi chú: phép phối huyệt này có khả năng cao làm cho Thủy Hoả (Khảm Ly) giao tế (ký tế). Các chứng về lao tổn, đa số là do ở cuộc sống túng dục làm thương đến tinh khí, làm cho Thận tinh bị hư tổn: Thuỷ không còn hàn (nuôi, sinh) Mộc, tướng Hoả sẽ vọng động để viêm lên trên. Thế là Quân Hoả và Tướng Hỏa hợp lại hình (phạt) Phế Kim. Khi Phế Kim bị đốt nóng, nó sẽ mất đi chức năng làm thanh nhuận cho bên dưới. Thế là Kim không sinh được Thủy, do đó Thuỷ mất đi nguồn cung cấp ở nguồn bên trên, dĩ nhiên vùng hạ lưu sẽ bị khô kiệt. Nói khác đi, nếu Khảm và Ly không còn “tương tế” nhau nữa, Thủy Hoả không còn “ký tế” nhau
nữa, tức là Khảm Thủy không còn dâng tràn lên để chế Hoả, Ly Hỏa càng bừng lên không còn đi xuống để chứng Thủy, Âm Dương không còn duy trì quan hệ với nhau, như vậy là chứng Âm hư lao tổn sẽ thành. Do đó, các chứng thượng thịnh, hạ hư, thượng nhiệt hạ hàn, đau nhức xương, thắt lưng bị đau buốt, di tinh, sốt mất ngủ, mồ hôi trộm, ho khan tăng huyết, con gái bị bế kinh, Tâm hồi hộp…Thủ Tam Âm giao để tư bổ Thận thủy; thủ Nội quan là để bổ Tâm Âm và làm giáng Hoả. Tâm Thận được tương giao, quan hỏa giáng xuống, tướng hoả tiềm phục, Phế kim được giải khốn; bệnh sẽ giảm dần. Vì thế 2 huyệt này có khả năng làm Thuỷ Hoả giao tế, khi lâm sàng gặp bệnh, chúng ta sẽ tuỳ theo chứng mà phối thêm huyệt khác, hiệu quả trị liệu sẽ rất cao, đặc biệt là các tật bệnh thuộc phụ khoa.
NHÓM THỨ 17
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Tam Âm giao b) Hiệu năng: tư âm giáng hoả, dưỡng huyết thanh Can. c) Chủ trị: các chứng Thận khí hư tổn ở người phụ nữ, nguyệt kinh không đều, kinh bế bất thông huyết lâu, hoặc Âm hư hoả vượng, thương nhiệt hạ hàn, Dương kháng Âm hư, đầu mắt choáng váng, ho và phát nhiệt, suyễn gấp, chảy mũi, lưng hàn, chân lạnh. Nó còn có thể làm hạ thai và bảo thai. d) Phép châm và cứu: nếu thượng nhiệt hạ hàn châm Hợp cốc sâu 5 phân đến 1 thốn, tả, không lưu kim, không cứu; châm Tam Âm giao, sâu 3 đến 5 phân, bổ, lưu kim 15 phút, sau khi rút kim cứu 3 đến 5 tráng. Nếu muốn bảo thai, châm tả Hợp cốc, bổ Tam âm giao, muốn hạ thai châm bổ Hợp cốc, châm tả Tam Âm giao. e) Phép gia giảm: khi kinh huyết không điều hoà châm Hợp cốc sâu từ 3 đến 5 phân, tiên bổ hậu tả; châm Tam Âm giao sâu 3 phân, bổ; châm thêm Huyết hải, sâu 5 phân, bổ; cứu Thiên xu 7 tráng, không châm. Nếu kinh huyết bế tắc không thông, châm thêm Quan nguyên, Túc Tam lý, dùng phép châm hạ thai, bổ Hợp cốc, sâu 5 phân, trùng tả Túc Tam lý, sâu 1 thốn, bổ Quan nguyên, sâu 5 phân, tả Tam Âm giao sâu 1 thốn. f) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh Đại trường là nơi tập trung tinh hoa của khí huyết của bản kinh, có khả năng thăng, tán, thanh nhiệt giải hàn. Tam Âm giao là cái chốt của 3 kinh Can Tỳ Thận, là hội huyệt của Túc Tam âm kinh, cũng là nơi tụ hội của tạng phủ, khí huyết cân mạch, cốt, tủy…, nó quan hệ bao trùm cả Âm Dương của Can, Thận, Tỳ. Nó có thể bổ Tỳ, có thể tư Âm dưỡng huyết, cố Thận, thanh Can.
Vì thế huyệt Hợp cốc có nhiệm vụ thanh thông vùng thượng, tức là thanh cái nhiệt của Trung tiêu, Tam Âm giao có nhiệm vụ tư dưỡng vùng trung, tức là tư dương cho Âm khí của Hạ tiêu. Vì thế nên các chứng Âm hư, Dương kháng, thượng nhiệt hạ hàn đều có thể dùng phối huyệt này để trị. g) Ghi chú: Châm tả Hợp cốc, châm bổ Tam Âm giao có khả năng hữu hiệu trong việc bảo dưỡng an lành cho cái thai. Chủ yếu là dựa vào huyệt tính thanh nhiệt của huyệt Hợp cốc và bổ Tỳ Thận của Tam Âm giao. Đại phàm những thai phụ trong lúc sinh bị lậu hạ, hoạt thai vì thân thể suy nhược, đa số đều do Hoả thịnh Âm suy làm cho huyết không làm nhiệm vụ dưỡng được thai nhi. Cổ nhân nói: “Thai đắc lương thì an”. Các nhà y học Đông Phương phần lớn dùng Hoàng cầm là vị thuốc chủ yếu trong phép “an thai”, chính vì vị này có công dụng thanh nhiệt. Ngoài ra Tỳ là cái gốc của hậu thiên, là cái nguồn của sinh hoá, nó còn có nhiệm vụ thống huyết, người xưa còn dùng bạch truật là “tá”: Tỳ thổ được “kiện”, nội nhiệt được thanh thì thai nhi được an. Do đó, tôi tham khảo vào phép này để thủ huyệt Hợp cốc trong vai trò thanh nhiệt, thủ huyệt Tam Âm giao trong vai trò kiện Tỳ, bổ Thận, dưỡng huyết. Lý do nào giải thích tại sao châm bổ Hợp cốc, châm tả Tam Âm giao lại là cho trụy thai? Vì Hợp cốc thăng được, tán được, chỉ có đi chứ không có giữ lại, căn cứ vào câu nói “Thai đắc lương thì an”, ta biết rằng nếu châm bổ Hợp cốc thì nhiệt khí không tán mà cũng không giáng, vì thế Phế mất đi vai trò thanh thông của mình, Kim không sinh Thủy làm cho Thận bị hư tổn. Riêng Tam Âm giao nếu bị trùng tả làm cho cả 3 tạng Can, Tỳ, Thận đều hư. Huyết đã hư thì lấy gì để dưỡng thai? Tỳ hư không còn vận hoá được nữa. Như vậy là hậu thiên không còn được tư dưỡng, Thận hư bị bế tàng, bào cung dĩ nhiên sẽ bị khô cạn, thương thịnh, hạ hư, Âm Dương nghịch loạn, như vậy cái thai làm sao không “trụy” xuống cho được? Một điều đáng chú ý là trong lúc lâm sàng trị liệu, phép châm “an thai” hay “trụy thai” đòi hỏi người châm phải có 1 kỹ thuật điêu luyện, thuần thục, người sơ học, chớ nên vọng động.
NHÓM THỨ 18
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Túc Tam lý b) Hiệu năng: thăng dương ích khí, kiện Tỳ hoà Vị, tuyển được khí ở phủ, vận hành trệ khí, tiêu trừ trướng khí.
c) Chủ trị: thanh dương hạ hãm, Vị khí hư nhược, cơm không ngon, khí thấp nhiệt làm ủng tích, khí uế trọc làm trệ ở Trung tiêu, ăn uống không tiêu, phúc trướng, ợ… d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc 3 phân, bổ Châm Túc Tam lý sâu 5 phân, tiên bổ hậu tả, tất cả đều lưu kim 10 phút, sau khi châm cứu 5 tráng. Nếu người bệnh bị hư, mạch hãm xuống, nên bổ Túc Tam lý, còn muốn giáng trọc khí, châm tả Túc Tam lý. e) Giải phương: đây là 2 huyệt quan trọng của 2 kinh Thu và Túc Dương minh. Hợp cốc là huyệt Nguyễn của kinh Thủ Dương minh Đại trường, tính của nó thăng và tán, có thể mở được bế tắc, khai được kinh lạc, thuộc về huyệt quan trọng của Thương tiêu. Túc Tam lý là huyệt Hợp của kinh Túc Dương minh Vị. Mạch khí của kinh Vị, do từ nơi này vận chuyển vào nơi quan yếu của tạng phủ. Nó có thể thăng, có thể giáng, khai thông được bế tắc, nó là huyệt quan yếu của Vị kinh. Hai huyệt này phối nhau có thể làm thông điệu cho Trường Vị, vận hành được trệ khí, làm tiêu tán được trướng khí. Nếu khi bị khí thanh Dương hãm xuống dưới, sự ăn uống (nạp cốc) không còn được “thông sướng” nữa, ta châm bổ Túc Tam lý nhằm ứng với Hợp cốc trong việc làm kiện cho Tỳ. Khi mà Tỳ khí được thăng, Vị khí được giáng thì việc ăn uống sẽ khá hơn. Nếu bị khí Thấp nhiệt làm ủng tích gây nên việc ăn uống không tiêu, khí trọc trệ đình ở Trung tiêu… ta tả Túc Tam lý nhằm dẫn khí của Đại nghịch khí, Trung tiêu sẽ thông sướng và Vị khí sẽ tự điều hoà. f) Ghi chú: phép phối huyệt này nhằm mục đích điều lý khí ở trung cung. Nếu chúng ta châm thích nghi thì kết quả rất là to lớn.
NHÓM THỨ 19
a) Phối huyệt: Túc Tam lý b) Hiệu năng: điều lý Tỳ Vị, điều hoà trung khí, thăng thanh giáng trọc, thông Trường, tiêu trệ sơ Phong, hoá Thấp, phù trợ chính khí, bồi dưỡng nguyên khí, phòng bệnh... c) Chủ trị: trị các tật bệnh thuộc vùng Trung tiêu ví dụ như Hàn tà ngưng trệ, bĩ khối, đái dầm, bệnh ở mắt, sưng thũng, bệnh ung ở vú, Tâm hồi hộp, hư phiền, các ngón tay bị tê dại...
d) Phép châm và cứu: thông thường người ta châm huyệt này sâu từ 5 phân đến 1 thốn. Nếu hư thì bổ, nếu thực thì tả, hoặc là bình bổ bình tả, lưu kim khoảng 15 phút. Nếu bệnh hư hàn thì sau khi rút kim nên cứu. Căn cứ vào các bệnh khác nhau, chúng tùy theo chứng mà có thêm huyệt để gia giảm. e) Giải phương: Túc Tam lý là huyệt thuộc “Thổ trong Thổ” vì Tỳ Vị trong ngũ hành thuộc về Thổ, trong ngũ du huyệt thì Túc Tam lý cũng thuộc Thổ, vì thế nó được xem là “Thổ trong Thổ”. Túc Tam lý là huyệt Hợp của kinh Túc Dương linh Vị, Thổ có thể sinh vạn vật mà cũng có thể làm hủ nát vạn vật. Vị là biển của ngũ cốc, là cái gốc của hậu thiên. Ngũ tạng lục phủ của con người đều phải dựa vào sự thịnh vượng của Vị khí để “doanh dưỡng” cho mình. Nếu có đủ Vị khí thì sinh, không đủ Vị khí thì chết. Vì thế huyệt Túc Tam lý có thể làm kiện Vị khí và bổ sự hư tổn của tạng phủ, nó có giá trị như thang “Độc sâm” vậy. Vì thế Túc Tam lý là yếu huyệt bảo dưỡng cho toàn thân... f) Ghi chú: vị thuộc Mậu Thổ của Trung tiêu lấy hòa và giáng là con đường thuận. Tỳ thuộc Kỷ Thổ, lấy thăng và phát làm sở trường. Vị thuộc phủ, thuộc Dương, tính của nó khéo về làm nhuận mà ghét táo. Tỳ thuộc tạng, thuộc Âm, tính của nó là ưa táo mà ghét Thấp. Tỳ chủ về thăng thanh khí, Vị chủ về giáng trọc khí. Tỳ và Vị cùng biểu lý còn kinh mạch của chúng làm lạc và thuộc Tỳ và Vị đồng có nhiệm vụ làm tiêu hoá, hấp thu và chuyển hoá cái tinh vị. Hai huyệt này phối nhau sẽ hoàn thành chức năng thu nạp và vận hoá. Do đó nếu Tỳ Vị được kiện sẽ ăn uống được, dinh dưỡng sung túc thì thân thể tráng kiện. Châm bổ Túc Tam lý sẽ thăng Dương ích Tỳ, châm tả sẽ thông Dương giáng trọc, tiêu tích, trừ trướng. Vì nếu không, Vị khí bị tuyệt, tạng phủ mất đi nguồn nuôi dưỡng, sinh mạng sẽ nguy.
NHÓM THỨ 20
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Thừa sơn. b) Hiệu năng: làm thông điều Trường Vị, làm thư cân khí, hoá được ứ huyết. c) Chủ trị: Huyết trĩ, xích ly, hung và phúc bị ứ trệ, đau đớn, hoắc loạn chuyển cân... d) Phép châm và cứu: Túc Tam lý sâu 5 phân, Thừa sơn sâu 1 thốn, đều dùng phép tả, cứu 3 tráng. Khi nào hung và phúc bị đau, châm thêm Cách du sâu 2 phân, bổ, không cứu.
e) Phép gia giảm: khi nào bị chuyển cân nặng, châm thêm Trung phong sâu 3 phân, tả, cứu 3 tráng. Khi nào hung và phúc bị đau, châm thêm Cách du sâu 2 phân, bổ, không cứu. f) Giải phương: Thừa sơn là huyệt thuộc kinh Túc Thái dương Bàng Quang, đường kinh này đi từ dọc theo cột sống để đi xuống dưới. Bàng quang và Thận cùng làm biểu lý nhau cho nên có thể làm điều hoà khí ở Đại Tiểu trường và khí của Hạ tiêu. Túc Tam lý đi từ ngực đi dọc xuống bụng, cùng làm biểu lý với Tỳ, vì thế nó có thể làm sơ thông trệ khí ở vùng ngực và bụng. Hai huyệt phối nhau có thể làm thông điều Trưởng Vị. Khi Trường và Vị hoà, nhiệt độc được thanh thì bệnh lỵ và trĩ sẽ khỏi. g) Ghi chú: huyệt Thừa sơn trị chứng huyết trĩ rất hay. Phàm châm Tam lý kiêm Thừa sơn có thể trị ứ huyết trong bụng.
NHÓM THỨ 21
a) Phối huyệt: Túc Tam lý, Lao cung b) Hiệu năng: thanh tả Hoả khí trong Tâm và Vị, khai được sự nghẽn tắc ở ngực, giáng được khí nghịch. c) Chủ trị: trị Tâm và Vị có nhiệt khí, Tâm hoả bốc lên trên đưa đến làm cho Tâm thống, phản Vị, phiền muộn, muốn ói. Bệnh thương hàn kết ở ngực, bĩ khối làm cho bứt rứt, trướng mãn, hay ợ không dễ chịu, nuốt nước chua, mệt mỏi. d) Phép châm và cứu: châm Lao cung sâu từ 3 đến 5 phân. Châm Túc Tam lý sâu 1 thốn, đều dùng phép tả, không cứu, lưu kim 5 phút. e) Giải phương: lao cung là huyệt huỳnh của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc. Chữ “huỳnh” có nghĩa là nước từ mới trong suối ra còn chảy rất nhẹ, nó chữa được huyết khí uất trệ do sự mệt nhọc làm thương tổn, nó làm cho thư làm cho thông sự uất kết của thất tình, nó sở trường về vai trò làm nhẹ được nhiệt khí làm bứt rứt và trướng mãn ở lồng ngực. Nó dẫn Hoả đi xuống, phối với Túc Tam lý, có thể thăng, có thể giáng, có thể khai có thể bế. Nó sở trường về tả được Hoả tà ở Tâm và Vị, giảm khí xung nghịch, giáng tà nhiệt mà không có hậu quả xấu, kết quả rất thần tốc. Khi châm tả Lao cung có thể làm thanh được Tâm hoả, nó chỉ có thể trục được hoả ra khỏi bên ngoài Bào Lạc mà thôi, nó không thể làm cho Hoả giáng xuống và ra ngoài thân thể. Như vậy Lao cung chỉ thanh tả Hoả ở
Thượng tiêu còn Túc Tam lý làm giáng được Hoả từ Trung Tiêu. Hai huyệt này phối lại nhau có thể chữa bệnh ngang hàng với “Tả lâm thang”.
NHÓM THỨ 22
a) Phối huyệt: Tam Âm giao b) Hiệu năng: tư âm, kiện tỳ, bổ huyết, ích tinh. c) Chủ trị: trị các chứng hư lao, ho, nguyệt kinh không đều, bế kinh, băng lậu, kinh huyết khô thiếu, phúc thống, sán, hà, trưng, tụ, chuyển bào... d) Phép châm và cứu: châm Tam Âm giao sâu 3 phân đến 1 thốn. Bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả, thông thường bình bổ bình tả, hoặc tiên bổ hậu tả, hoặc tiên tả hậu bổ, tất cả đều nên biện chứng cho rõ trước khi châm, châm bổ hư thì sau khi châm nên cứu 3 đến 5 tráng, lưu kim 15 phút, châm tả thực thì không lưu kim, không cứu. e) Giải phương: Tam Âm giao là hội huyệt của 3 kinh Túc Thái âm Tỳ, Túc Thiếu âm Thận, Túc Quyết âm Can. Tuy nó thuộc vào kinh Tỳ nhưng cũng là giao hội huyệt của Túc Tam Âm kinh cho nên nó có thể tư Can Âm, còn có thể bổ Thận Dương, là 1 trong những huyệt quan trọng của phụ khoa. Nó làm thông được khí trệ, sơ tán khí ở Hạ tiêu, điều hoà huyết thất ở tinh cung, phù chính đuổi tà, ... Các phương như “Lý trung”, “Kiến trung” và “Bát trân thang” còn kém nó. f) Ghi chú: huyệt Tam Âm giao còn có thể dùng để bảo vệ sức khoẻ, xem phần cứu dưỡng sinh.
34 CÔNG THỨC CHÂM CỨU ( Phần 3) (09/08/2012) NHÓM THỨ 23
a) Phối huyệt: Tam Âm giao, Chí âm b) Hiệu năng: tuyên thông Hạ tiêu, lý khí, vận hành được ứ huyết. c) Chủ trị: trị các chứng nan sản, tử thai, bào y không ra, chuyển thai vị, kinh bế... d) Phép châm và cứu: Tam Âm giao, châm sâu từ 5 phân đến 1 thốn, tiên bổ hậu tả. Châm huyệt Chí âm sâu 1 phân, tả. Sau khi châm cứu 3 đến 5 tráng, lưu kim 5 phút. Nếu muốn chuyển thai vị, không châm chỉ cứu 3 đến 5 tráng là được. e) Giải phương: Chí âm là Tỉnh huyệt của kinh Túc Thái dương Bàng quang. Tỉnh là nơi khi khí xuất ra, ví như dòng nước từ nguồn chảy ra. Bàng quang và Thận cũng làm biểu lý nhau. Nay châm và cứu Chí âm là điều lý khí ở Hạ tiêu, đuổi được ứ huyết (khí) sinh ra khí mới. Tam Âm giao là giao hội huyệt của Túc Tam Âm mà cũng là nơi then chốt của Tam Âm kinh. Khi phối huyệt này có thể lý khí, điều huyết, tuyên thông Hạ tiêu, ích Âm khí để Âm khí hạ hành... Phó Thanh Chủ nói: “Nam sản là do ở huyết hư”, “nan sản là do ở khí nghịch”. Khí nghịch mà được điều lý, huyết hư mà được bổ, ích, thai nhi làm sao không xuống được. f) Ghi chú: làm hạ thai (bao gồm cả tử thai) nên phối 4 huyệt sau đây sẽ rất hiệu nghiệm. Bổ Đơn điền, tả Túc Tam lý, Tam Âm giao, tiên bổ hậu tả, sau đó là tả Chí âm. Sau khí châm Chí âm dùng cây ngải cứu to bằng hạt lúa mạch cứu 3 tráng.
NHÓM THỨ 24 a) Phối huyệt: Đại chùy, Nội quan b) Hiệu năng: khai hung, lợi khí, ôn Dương hoá khí, trừ đàm ẩm
c) Chủ trị: ho, nhiều đàm, khí suyễn, hung cách đầy, phiền muộn, hoặc thở gấp, đàm kéo khò khè, cách tích thủy... d) Phép châm và cứu: châm Đại chùy sâu từ 5 đến 8 phân, tiên bổ hậu tả. Châm Nội quan sâu từ 3 đến 5 phân, tiên tả hậu bổ. Tất cả đều lưu kim 10 phút cứu 3 tráng. e) Giải phương: đại chùy là hội huyệt của Thủ Tam Dương kinh và Đốc mạch. Nội quan là huyệt lạc của kinh Thủ Quyết âm Tâm bào lạc, nó vận hành riêng vào với kinh Thủ Thiếu dương Tam tiểu, tương thông với Âm duy mạch, khởi lên ở giữa lồng ngực thuộc vào Bào lạc, đi xuống dưới xuyên qua cách đến bụng, thông cả Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. Các đường kinh Âm đi từ tức lên trên đến bụng, xuyên qua cách đến ngực, vì thế nó trị các tật bệnh thuộc vùng ngực. Thủ Đại chùy nhằm điều hoà khí của Thái dương khi mà khí được điều hoà thì thủy sẽ tự nó được lợi Châm phối với Nội quan là nhằm tuyên thông Dương khí ở Tâm, thông lợi được các màn mỡ (Tam tiêu) sơ thông được ứ tắc. Khi mà Tam tiêu được thông sướng thì nước uống sẽ đi tới Bàng quang, đàm sẽ tự trừ. Phối huyệt có thể sánh với “Đại Thanh long”, “Tiểu Thanh long thang” và “Linh quế truật cam thang”... f) Ghi chú: Kinh Thủ thiếu dương Tam tiêu và Thủ Quyết âm Tâm bào lạc cùng quan hệ lạc thuộc. Tam tiêu là 1 trong lục phủ, là 1 phủ mà ngoại vi rộng nhất trong các phủ. Nan kinh nói: “Tam tiêu là con đường thông lộ, con đường chung thỉ của khí”. Nội kinh nói: “Tam tiêu là quan năng khai thông lạch nước, đường thủy đạo xuất ra từ đây”. Như vậy là Tam tiêu đã thống lãnh nguồn khí, có tác dụng sơ thông thủy đạo. Phàm khi uống nước thành chứng thủy ẩm, đàm tích, khí trệ, phần lớn có quan hệ với Tam tiêu. Khi thủy nhập vào Vị, từ Vị thẩm thấu ra, trải qua con đường của Tam tiêu để đạt xuống tới Bàng quang, vì thế Tam tiêu có vai trò sơ thông thủy đạo. Nếu thủy đạo được thông sướng, lạch nước không bị bế tắc thì con đường nước chảy sẽ không có lý do “đọng” lại. Giả sử con đường “màu mỡ” của Tam tiêu bị tắc trệ không thông thì con đường nước chảy cũng sẽ bế tắc, như vậy là khí hoá không vận hành gây nên chứng “ẩm” vậy. Do đó khi thủ huyệt Nội quan để tuyên thông Dương khí ở Tâm, để sơ lợi Tam tiêu, rồi phối thêm Đại chùy để điều hoà khí của Thái dương. Dùng 2 huyệt này sẽ trừ được chứng “đàm ẩm” rất tuyệt.
NHÓM THỨ 25
a) Phối huyệt: Ngư tế, Thái khê.
b) Hiệu năng: Tuyên Phế khí, thanh nhiệt khí, tư Âm, giáng Hỏa. c) Chủ trị: các chứng hư lao, cốt chưng, phát nhiệt, ho, khạc ra huyết... d) Phép châm và cứu: châm Thái khê sâu 3 phân, bổ. Châm Ngư tế, sâu 2 phân, tả, không cứu, lưu kim 10 phút. e) Giải phương: huyệt Ngư tế là huyệt huỳnh của kinh Thủ Thái âm Phế, đây thuộc huyệt Hoả trong ngũ du. Khi châm tả huyệt này là làm thanh Phế Hoả. Thái khê là du huyệt của kinh Túc Thiếu âm Thận, nó cũng là 1 trong 12 Nguyên huyệt thuộc Thận kinh. Châm bổ huyệt này là để tư Thận Âm, toái hư nhiệt, thượng thì thanh, hạ thì tư, làm cho Âm Dương giao nhau theo que Thái. Nó có giá trị như “Thanh táo cứu Phế thang”. Thủ Ngư tế là làm thanh Phế, nhuận Phế; Châm Thái khê là bổ Thận Âm nhằm chế Tâm Hoả. Khi Hoả không còn bốc lên thì kim sẽ không bị khắc, các chứng hư lao sẽ được bình... f) Ghi chú: phối huyệt này còn trị được sự tổn thương do tửu sắc gây ra, điều lý được ý niệm dục tính. Các chứng bệnh thuộc hư lao như thân thể gầy yếu, ngũ tâm phiền nhiệt, ho khan, khạc ra huyết, Tâm hồi hộp, khí thở ngắn, cốt chưng lao nhiệt. Truy ra nguyên nhân gây bệnh, chúng ta thấy nó do ham mêm sắc tửu, tư lự quá độ, nguyên nhân này đã chiếm đến 8 hoặc 9 phần 10. Sự ham muốn trên làm thương cả Tỳ lẫn Thận, Âm tinh hao tổn, Vị không còn thọ nạp, cơ nhục bị khô cằn. Thận hư tinh tổn, Thủy không còn nuôi dương Mộc, Mộc lại sinh Hỏa, như vậy là Mộc Hỏa “hình” kim, bốc lên đến Phế. Phế là 1 tạng mềm, non, khi nó bị Hoả khắc sẽ mất đi khả năng tiêu giáng gây nên bệnh. Do đó, châm Thái khê làm “quân” tư bổ Thận Âm, châm huyệt Ngư tế làm “thần” nhằm tả Kim Hoả. Thần phụ cho quân, quân trợ cho thần, quân và thần hợp lực, đó là phép trị.
NHÓM THỨ 26
a) Phối huyệt: Thiếu thương, Thương dương, Hợp cốc. b) Hiệu năng: thanh nhiệt giải độc, tuyên Phế, làm lợi cho yết (thực quản). c) Chủ trị: trị các chứng cổ họng bị sưng to, hầu tý, sưng quai bị, ho nghịch, chứng nhũ nga của trẻ con, nhức răng, mất tiếng nói, đau mắt…
d) Phép châm và cứu: châm Thiếu thương và Thương dương xuất huyết, châm Hợp cốc sâu 5 phân đến 1 thốn, tả, không lưu kim, không cứu. Nói chung, căn cứ vào bệnh tình cụ thể để nhiệt thì thanh, thực thì tả, hư thì bổ, vận dụng 1 cách linh hoạt. e) Phép gia giảm: nếu là kiêm thêm bệnh ngoại cảm phát nhiệt, yết hầu sưng đau, Tâm phiền, tiểu màu đỏ, trước hết nên châm xuất huyết các huyệt Tỉnh và Thập tuyên, sau đó châm các huyệt trên.
Nếu bị nhiệt độc nặng, châm thêm Quan xung, Trung xung, Thiếu trạch, xuất huyết.
Nếu cổ họng đau kéo dài không hết, châm thêm Chiếu hải sâu 3 phân, tiên bổ hậu tả, lưu kim 10 phút.
Nếu nội thương do ẩm thực đến thành thổ tả, châm thêm Trung hoãn, sâu 5 phân, Túc Tam lý sâu 5 phân đến 1 thốn, tiên tả hậu bổ, lưu kim 10 phút.
Nếu nhiệt cực sinh Phong, làm lo sợ, co giật, cắn răng, nghiến răng, mặt tái xanh, ngó thẳng lên trên..., châm thêm 12 Tỉnh huyệt, Thập tuyên và bát tà. Như bệnh tình chuyển thành nguy hiểm, châm thêm Thủy câu, Phong phủ. Nếu đã châm như trên mà chưa thấy hồi chuyển gì thì châm thêm Bách hội, Phong phủ, Phong trì, Tiền đỉnh, Tố liêu, Mệnh môn.
f) Giải phương: Thiếu dương là huyệt Tỉnh của kinh Thủ Thái âm Phế, huyệt này thuộc Mộc, mạch khí của Phế kinh xuất ra từ đây, đi theo huyệt huỳnh, du, kinh để rồi sau đó đến huyệt Hợp là Xích trạch, sau đó, lại tập hợp vào tạng. Châm cho xuất huyết nơi đây là để tà khí nhiệt độc của nội tạng. Thương dương là huyệt Tỉnh của kinh Thủ Dương minh Đại trường, huyệt này thuộc Mộc? (Kim), mạch của nó lạc với Phê châm xuất huyết nó sẽ làm thanh Phế và lợi cho cổ họng (yết), làm sơ tiết tà nhiệt. Châm Hợp cốc là để thông giáng kinh khí của Dương minh, nhiệt đi từ Dương minh giáng xuống dưới để giả làm thanh được Phế khí. Phối cả 3 huyệt nhằm thanh nhiệt giải độc, khai phát mao khiếu, thanh Phế lợi yết, sơ tiết Trường Vị, nhằm chữa các chứng ở yết hầu, đầu mắt. g) Ghi chú: phối huyệt này trị các chứng ở yết hầu rất hiệu nghiệm, nhất là đối với 1 số bệnh của trẻ con càng hiệu nghiệm hơn. Tất cả lấy việc làm cho thanh tiết khí nhiệt độc của Thủ Thái ẩm Phế kinh là chính. Đó là vì Phế là cái nắp đậy, là trưởng của trăm mạch, chỗ ở cao mà vận hành xuống thấp. Nếu kinh Dương minh bị nhiệt hay là bị tà khí Phong nhiệt ngoại cảm, trước hết tà khí này phạm vào Phế. Khi mà Phế khí uất bế thì nhiệt độc công lên trên đến yết hầu. Trẻ em là thuộc khí thuần Dương, phần lớn là có nội nhiệt, tạng phủ lại rất
mềm non, Vị khí chưa được sung vì thế dễ bị ngoại cảm mà cũng dễ bị nội thương. Vì thế ta thấy chúng thường bị chứng phát nhiệt, ho, nhũ nga, quai bị. Phép châm trên rất kiến hiệu.
NHÓM THỨ 27
a) Phối huyệt: Đại đôn, Quan nguyên b) Hiệu năng: làm thư Can, ôn kinh, điều lý Hạ tiêu, xua đuổi khí hàn thấp, vãn hội chứng quyết nghịch. c) Chủ trị: các loại sản khí, phụ nữ bị Âm đỉnh đau bụng quặn xuống, điên giản, đái dầm, đại tiện không thông. d) Phép châm và cứu: châm Quan nguyên sâu 3 phân, châm Đại đôn sâu 1 đến 2 phân, đều châm bổ, lưu kim 15 phút, cứu 3 đến 5 tráng. e) Phép gia giảm: nếu hàn khí quá thịnh đến nỗi buồng trứng bị co lại dẫn đến tình trạng thiếu phúc đau, châm thêm Tam Âm giao, sâu 5 phân; châm Ấn bạch sâu 1 phân, đều châm bổ, cứu 3 tráng. Sau đó nếu phương huyệt có kết quả, nên châm thêm Tam Âm giao, sâu 5 phân, Thái xung sâu 3 phân, Hành gian sâu 3 phân, Lãi câu sâu 3 phân, Khúc tuyền sâu 5 phân, đều bổ, cứu 3 đến 5 tráng. f) Giải phương: huyệt Đại đôn thuộc huyệt Tỉnh của kinh Túc Quyết âm Can, thuộc Mộc, Can chủ Cân mà tiền Âm là nơi tụ của tông cân. Kinh Túc Quyết âm Can quay vòng nơi Âm khí, lên trên nương theo thiếu phúc, ấp vào Vị, thuộc Can và lạc Đởm. Vì thế châm nó sẽ làm thư cho Can, bổ Can, ấm Can, làm sơ lý nguồn khí của Tam tiêu. Huyệt Quan nguyên là giao hội huyệt giữa kinh của Tam Âm và Nhâm mạch, nó lại là mộ huyệt của Tiểu trường, là nơi tàng chứa và quan yếu của Nguyên khí. Châm bổ Quan nguyên có thể cường tinh ích Thận, làm ấm lại Hạ nguyên. Hai huyệt này phối nhau sẽ làm thư được khí Quyết âm, ấm Thận, ấm kinh xua đuổi được hàn khí ở Hạ tiêu, thăng Đương ích khí, do đó mà các chứng thuộc sán khí sẽ khỏi. f) Ghi chú: phối huyệt này trị sán khí kết quả rất rõ ràng, nếu trị đúng phép, có thể tận được căn.
NHÓM THỨ 28
a) Phối huyệt: Ẩn bạch, Trung hoãn. b) Hiệu năng: kiện Tỳ bổ khí, thăng Dương… c) Chủ trị: Tỳ Dương không phát chẩn, vùng bụng trướng mãn, tiết tả, trung khí bất túc, mệt mỏi không còn sức, ăn không ngon, phụ nữ kinh nguyệt không điều, kinh huyết băng lậu, xích, bạch đái hạ… d) Phép châm và cứu: châm Ẩn bạch, thông thường sâu hơn 1 phân, dùng cây ngãi cứu nhỏ cứu từ 3 đến 5 tráng; châm Trung hoãn, thẳng từ 5 phân đến 1 thốn, bổ, lưu kim 20 phút, cứu từ 5 đến 9 tráng. e) Giải phương: Ẩn bạch là huyệt Tỉnh của kinh Túc Thái âm Tỳ. Đường kinh này lấy căn ở huyệt Ẩn bạch, lên trên kết với Thái dương (tức Trung hoãn), có khả năng bổ ích cho Tỳ Vị, điều lý khí huyết. Trung hoãn là huyệt của Nhâm mạch, cũng là huyệt mộ của Vị, là nơi hội của các phủ. Hai huyệt Ẩn bạch và Trung hoãn cùng phối nhau, có quan hệ giữa kinh lạc với nhau, ngoài ra còn có quan hệ tương hợp giữa tạng phủ và biểu lý nữa. Vì thế nó có khả năng làm kiện Tỳ, ích Vị, bổ trung ích khí, tiêu hoá ăn uống, thăng thanh, giáng trọc… f) Ghi chú: Tỳ chủ về vận hoá, Vị chủ về thọ nạp, Tỳ Vị tương hợp nhau cùng làm nhiệm vụ ổn định trung châu, từ đó làm vững chắc cho tứ duy (các nơi như tay chân...) Phàm khi trung khí bị hãn xuống làm thương đến việc ăn uống, nên gia giảm để trị.
NHÓM THỨ 29
a) Phối huyệt: Cự cốt, Nội quan b) Hiệu năng: tuyên thông Phế khí, khai hung giáng nghịch c) Chủ trị: ho nghịch khí nghịch lên trên, Can hoả xung lên trên, dễ tức giận, ẩu thổ, thổ huyết, ... Tất cả các chứng do tà khí nghịch lên trên. d) Phép châm và cứu: châm Cự cốt, sâu 3 phân, tiên tả hậu bổ, mũi kim hướng xuống dưới, có cảm giác như đang mang 1 vật nặng. Châm Nội quan, sâu từ 5 đến 7 phân, tả, lưu kim từ 5 đến 10 phút, cứu 3 tráng.
e) Giải phương: huyệt Nội quan vận hành đặc biệt theo kinh Thủ Thiếu dương Tam tiêu. Tam tiêu là “quyết độc chi quan”, nó có nhiệm vụ thống lãnh các khí. Nay nếu Tam tiêu không còn làm nhiệm vụ của mình thì khí của nó sẽ nghịch loạn, kéo theo Can khí, Cung khí, Vị khí đều nghịch lên trên, như vậy là Phế khí bị ủng bế, Phế khí không còn thanh túc để giáng xuống, vì thế sẽ gây ho nghịch, suyễn... Châm tả Nội quan là để điều hoà khí của Tam tiêu. Cự cốt là hội huyệt giữa kinh Thủ Dương minh và Dương kiểu mạch, vị trí của nó nằm ở đầu vai, tính của nó là trầm giáng xuống. Mọi thứ tà khí làm cho khí nghịch lên trên, nó đều có thể đẩy lui xuống, như vậy nó có vai trò “ở trên cao mà xuống đến dưới thấp”, tức là làm giáng được nghịch khí. Hai huyệt này phối với nhau có khả năng khai hung, giáng nghịch, giáng khí xung lên để làm an Vị, tuyên thông Phế khí, làm cho hoả khí đang nghịch lên phải theo kinh Dương minh để đi xuống. Khi tà khí bị đuổi thì bệnh sẽ khỏi. Vì thế các chứng bệnh giữa ngực bị ứ trệ đau đớn, lồng ngực bứt rứt, khí thở gấp, ho suyễn... dùng phép phối huyệt trên sẽ rất hiệu quả.
NHÓM THỨ 30
a) Phối huyệt: Thiên trụ, Đại trữ, Côn lôn. b) Hiệu năng: xua phong, giáng nghịch, khai khiếu, tỉnh não. c) Chủ trị: các chứng choáng váng của đầu, mắt, tình trạng mê loạn bất an, tai kêu, nhức đầu. d) Phép châm và cứu: châm Thiên trụ, sâu 5 phân; châm Đại trữ, mũi kim hướng xuống dưới, sâu 5 phân, nếu có hàn tà thì cứu 3 tráng. Châm Côn lôn, thẳng sâu 3 đến 5 phân, cứu 3 tráng. Tất cả đều không dùng phép bổ tả, chỉ cần châm vào là được, lưu kim 10 phút. e) Giải phương: Thiên trụ là 1 huyệt vị, nơi đó phát ra mạch khí của kinh Túc Thái dương Bàng quang, châm nó sẽ làm khai khiếu tỉnh não. Đại trữ hội huyệt của kinh Thủ Thái dương và Túc Thái dương. Cốt khí hội nhau ở huyệt Đại trữ. Cốt do tủy dưỡng, tủy do não rót xuống huyệt Đại trữ rồi do từ Đại trữ để thấm nhập vào giữa cột sống, đi xuống dưới xuyên đến xương cùng và thấm nhập vào các đốt tiết. Vì vậy nên châm huyệt này sẽ bổ tủy làm tỉnh lại đầu và mắt. Côn lôn là huyệt Kinh của Kinh Túc Thái dương Bàng quang, châm nó để xua Phong tán Hàn, thư cân hoá thấp. Kinh Thái dương thống nhiếp Dương khí của toàn thân. Các du huyệt của ngũ tạng lục phủ đều nằm ở vùng lưng, khí của ngũ tạng đều thông với Thái dương. Cho nên, 3 huyệt này làm thông Dương, hoá Thấp, tán
Hàn, giáng được nghịch khí, khai khiếu tỉnh não, điều hoà Âm Dương, dẫn dắt nghịch khí tuần hành theo kinh dần dần đi xuống dưới. Như vậy kinh khí sẽ thông sướng, nghịch khí sẽ bình, các khiếu bị bế trên đầu sẽ được trong sáng. f) Ghi chú: phương này không dùng phép bổ và tả. Bởi vì khí cơ đang bị phiền loạn, xung lên trên đến các khiếu trên đầu. Nay nếu thi hành các phép bổ tả sẽ làm cho nghịch khí bị loạn thêm. Mục đích châm theo phương này là nhằm điều hoà khí loạn, đợi chừng nào kinh khí điều hoà, thuận hành thì nghịch khí sẽ tự đi xuống. Chúng ta phải theo dõi cái thế của khí, không nên vội vàng. Phép này cũng cho phép trị các chứng do tà khí của Phong hàn ở khách tại kinh Thái dương, chứng biểu hiện là đầu cổ (đỉnh đầu), cột sống lưng bị cứng và đau nhức. Nếu như nghịch khí vào sâu rồi ở lại không đi nữa, ta có thể suy tính để dùng phép tả. Đây là 1 trong những tâm đắc mà tôi có được trong lâm sàng.
NHÓM THỨ 31
a) Phối huyệt: Du phủ, Vân môn b) Hiệu năng: thanh Phế giáng nghịch, ngưng ho, định suyễn. c) Chủ trị: ho, khí suyễn, lồng ngực bị phiền muộn, nhiệt, thở gấp, ẩu thổ làm ngây người... d) Phép châm và cứu: châm Du phủ, mũi kim hướng xuống phía dưới sâu 3 phân, bổ; châm Vân môn, châm thẳng sâu 3 phân, không dễ vượt quá 5 phân, tiên tả hậu bổ, nếu hàn thì cứu 3 tráng, nhiệt thì không cứu, lưu kim 10 phút. e) Phép gia giảm : nếu ho nặng, châm thêm huyệt Nhũ căn, châm xiên, mũi kim hơi lệch lên trên, sâu 3 - 5 phân. f) Giải phương : huyệt Vân môn là nơi phát ra mạch khí của kinh Thủ Thái âm Phế; huyệt Du phủ là nơi phát ra mạch khí của kinh Túc Thiếu âm Thận. Cả 2 huyệt đều nằm ở vị trí trên cao của ngực, thế nhưng con đường vận hành kinh mạch của chúng không giống nhau : Kinh Thủ Thái âm Phế đi từ ngực ra cánh tay, kinh Túc Thiếu âm Thận đi từ chân lên đến ngực. Kinh đi với tay thì tuyên thông phía trên, đi với chân thì có nhiệm vụ liễm và giáng xuống dưới. Chứng bệnh ho mà khí thở gấp đặt ‘tiêu’ ở Phế và đặt ‘bản’ ở Thận, Phế và Thận đồng bệnh. Phế thọ tà khí thì ho, trong lúc đó Thận hư không còn khí để nạp tàng, vì khí không còn quy về ‘căn’ mà lại đi nghịch lên trên thành ra suyễn. Vì thế thủ huyệt Vân môn là để tuyên thông Phế khí, tuyên
sướng khí ở ngực, giáng được nghịch khí; thủ huyệt Du phủ là để bổ thận, nạp khí, liễm được xung khí, giáng được nghịch khí, châm thêm Nhũ căn là để làm an được xung khí, làm giáng được xung khí, nó thuận theo khí của Dương kinh, trợ cho Vân môn trong việc tuyên khí và giáng khí, trợ cho Du phủ trong việc liễm khí và nạp khí. g) Ghi chú : ‘Ngọc long ca’ viết: “chứng suyễn khò khè nhổ ra đàm nhiều, nếu dùng kim để châm thì bệnh sẽ khỏi, châm cả Du phủ và Nhũ căn, khí suyễn phong đàm sẽ bớt dần”. Lời nói của bậc tiên sư do ở kinh nghiệm lâm sàng dồi dào, nay tổi xin trích ra đây để chúng ta tham khảo.
NHÓM THỨ 32
a) Phối huyệt: Khí hải, Quan nguyên, Trung cực, Tử cung. b) Hiệu năng: dưỡng huyết, tư Âm, bồi bổ chân khí và Nguyên khí, bổ Mệnh môn, làm ấm Tử cung, điều hoà kinh nguyệt và đái hạ, dưỡng bào thai. c) Chủ trị: trị các chứng Tử cung hư hàn, cửa bào môn bịi bế tắc, lâu không có thai, Âm súc, Dương nuy, bụng bị đau và trướng mãn, chuyển bào... d) Phép châm và cứu: bị hư hàn, châm sâu từ 3 đến 5 phân, bổ, sau khi châm cứu 3 đến 5 tráng, bị thực châm sâu 5 phân đến 1 thốn, tả, không cứu. e) Giải phương: cả 4 huyệt đều thuộc Nhậm mạch, dưới Trung cực là bào cung 3 mạch Nhậm, Xung và Đốc đều khởi lên ở bào cung và xuất ra ở Hội âm. Nhậm mạch đi từ Hội âm rối xuất ra vận hành theo bụng, Đốc mạch xuất ra từ Hội âm rồi xuất ra vận hành ở lưng, Xung mạch đi từ Hội âm để đi theo Thận kinh, cho nên người ta gọi đây là nhất nguyên tam ký : một nguồn mà 3 nhánh. Khí hải là nơi biển sinh ra khí, là nơi tồn giữ nguyên khí. Quan nguyên là nơi mà con trai tàng tinh, con gái chứa huyết. Trung cực là hội của Mạch Nhậm và Túc Tam Âm kinh, cũng là cánh của bào cung. Tử cung là huyết thất của con gái. Vì thế thủ huyệt Khí hải nhằm ‘ích’ cho khí ở Hạ nguyên, thủ Quan nguyên nhằm bổ sung tinh huyết, Trung cực làm điều kinh khai thông sự bế tắc. Châm Tử cung là lấy thẳng huyệt trị phần ‘tiêu’, hiệp đồng với các huyệt trên đều nhằm dưỡng huyết, điều kinh, bồi bổ nguyên khí và làm ấm tử cung.
f) Ghi chú : Nội kinh nói : ‘con gái tuỏi nhị thất thì Thiên qúy đến, Nhâm mạch thông, mạch Thái xung được thịnh, Nguyệt sư theo đúng với ‘thời’ để chảy xuống, cho nên có thể có con’. ‘Con trai tuổi nhị bát Thận khí thịnh, Thiên qúy đến, tinh khí tràn chảy ra’. ‘Âm Dương được hòa thì có con’. Chiếc chìa khóa nằm ở chỗ ‘Âm Dương hòa’. Âm Dương hoà thì con trai tinh khí tràn chảy, con gái Thận khí vượng và thịnh, chân Âm được sung túc, nguyệt sự theo đúng với ‘thời’ để chảy xuống : hai tinh tương hợp nhau do đó có con. Nay nếu con trai dâm dục quá độ, Âm tinh bị hư tổn, hoặc tinh bị lỏng, nhạt quan trọng hơn nữa là ở người con gái Thận khí bất túc hoặc Xung Nhậm bị hư khí huyết, ví như bào cung bị hư hàn, ứ huyết trệ và lưu lại, tinh huyết bị hư tổn, đàm thấp ủng tắc... tất cả làm cho mạch Xung và Nhậm bị hư tổn, nguyệt kinh mất điều hoà, không chảy xuống đúng thời, do đó bị băng lậu, bế kinh, tiếp là xích bạch đái hạ. Tình trạng như vậy làm sao có con được ? Dùng 4 huyệt trên để bồi dưỡng nguyên khí, làm ấm tử cung, điều lý mạch Xung và Nhậm, dưỡng huyết bổ tinh. Nếu như bị kiêm thêm đàm, thêm ứ huyết thì tùy theo chứng mà gia giảm. Nếu trị đúng phép bệnh làm sao không khỏi cho được
NHÓM THỨ 33
a) Phối huyệt: Thần khuyết, Khí hải, Thiên xu, Thủy phân. b) Hiệu năng: làm ấm vùng rốn và làm tán hàn, hồi Dương, ích khí... c) Chủ trị: trị các chứng hạ nguyên hư hàn, rốn và bụng bị lạnh, đau, hoắc loạn, thổ tả, trúng Phong, trúng đàm, đàm quyết, tiểu nhi kinh phong… d) Phép châm và cứu : châm Khí hải sâu 5 phân, bổ, sâu khi châm cư 15 đến 20 tráng. Thần khuyết, cấm châm; chỉ cứu thôi, cứu cho đến chừng nào bệnh nhân hồi Dương mới thôi. Thủy phân không châm, cứu 15 đến 25 tráng. Thiên xu không châm, cứu 15 đến 25 tráng. Cứu bằng ngãi cứu cách gừng. e) Phép gia giảm: nếu bệnh nhân bị ói nặng, châm thêm Trung hoãn, sâu 5 phân, cứu 5 tráng, châm thêm Thiên đột, sâu 2 phân, cứu 3 tráng. Khi nào đau bụng, ẩu thổ do khí trệ thì châm Tam tiêu du, sâu 3 phân, tiên tả hậu bổ, sau khi châm, cứu 1 tráng, châm Quan nguyên sâu 5 phân, tiên tả hậu bổ, cứu 3 tráng. f) Giải phương : 5 huyệt này còn gọi là Mai hoa huyệt vùng bụng. Thần khuyết thuộc Nhâm mạch, có thể thông với tạng trong việc cấp cứu hồi Dương. Thiên xu thuộc kinh Túc Dương minh Vị, là mộ huyệt của Đại
trương, nó hóa chất cặn bã phân lợi thanh trọc. Khí hài là “biển của Nguyên khí”, bổ Thận hồi Dương. Thủy phân thuộc Nhâm mạch, kiện Tỳ lợi Thấp, phân lợi thủy cốc. 5 huyệt phối nhau thành tá sứ, có khả năng kiện Tỳ, dứt bệnh tả, ôn trung, cứu nghịch. Châm thêm Thiên đột, Trung hoãn nhằm giáng khí trừ đàm, dứt được chứng ói. Châm thêm Tam tiêu du, Quan nguyên nhằm làm thông khí Tam tiêu, ôn bổ vùng Hạ nguyên, giải uất, tán ngưng, dứt được chứng ói mà đau. f) Ghi chú : phàm khi Hàn tà trúng vào Tam Âm kinh thì sẽ xuất những chứng thuộc Tam Âm như đau vùng bụng, rốn, tứ chi quyết lãnh, trên ẩu dưới tả (trong phân còn có những thức ăn chưa tiêu), khi dùng ngải cứu để cứu Thiên xu là nhằm làm ấm Trường Vị để trục đuổi khí hàn tà. Phép cứu này đối với các chứng cứu cấp như hoắc loạn ẩu tả, mang lại kết quả rất rõ, như khởi tử hồi sinh. 5 huyệt phải cứu 1 lúc, không được cứu cái trước cái sau không đồng bộ. Nếu như bị ẩu thổ, cứu thêm thiên đột 1 lượt với các huyệt trên, không tăng giảm riêng, Cứu Thần khuyết thẳng cho đến khi nào bệnh tả ngưng lại mới thôi, như bệnh gần tuyệt vọng, nên cứu cho đến khi nào hồi Dương mới thôi, phải nhẫn nại trong khi cứu thì tự nhiên phải hồi Dương. Nếu như trong lòng nóng nảy, bỏ dở nửa chừng thì có khi bỏ dở cứu 1 mạng người, ta không nên xem thường. Thần khuyết cũng có tên là Khí xã, cấm châm. Nếu châm sẽ làm cho người bệnh ẩu thổ và đại tiện bất thông. Áp dụng phép cứu hay hơn dùng thuốc vì nó có thể hồi Dương không để thoát khí. Cho nên muốn trị thoát khí nên cứu huyệt này.
NHÓM THỨ 34 a) Phối huyệt: Xích trạch, Ủy trung. b) Hiệu năng: làm thanh được huyết độc, tán được uế tà. c) Chủ trị: các chứng mê loạn do hoặc loạn, Tâm phiền, thượng thổ hạ tả, đau bụng, tả ly… d) Phép châm và cứu: châm thẳng Xích trạch sâu 5 phân, có thể dùng kim tam lăng châm xuất huyết, không cứu. Châm thẳng huyệt Ủy trung 5 phân đến 1 thốn, hoặc dùng kim tam lăng châm xuất huyết, không cứu. e) Phép gia giảm: nếu là chứng ẩu thổ không ngừng, châm thêm Kim tân, Ngọc dịch, xuất huyết, châm xuất huyết Thiếu thương, Thương dương, châm tả Hợp cốc sâu 5 phân. Nếu trong lòng phiền loạn, châm thêm Thiếu xung Trung xung xuất huyết, châm Bách hội sâu 2 phân bình bổ bình tả. Sau khi châm mà vẫn còn đau bụng, thổ tả vẫn chưa dứt, châm thêm Trung hoãn sâu 5 phân đến 1 thốn. f) Giải phương: hai huyệt này là hai huyệt ở tay và ở chân, có tác dụng giải cơ, thông kinh. Vì vậy nên có tác dụng thông thanh huyết độc, tán được uế tà. Do đó chống nôn mửa, ỉa chảy nên dùng công thức này.
Những người không nên xoa bóp, bấm huyệt (02/01/2013) Châm cứu, bấm huyệt là những phương pháp chữa bệnh đơn giản, nhưng có công hiệu rất lớn trong phòng và chữa một số loại bệnh, tuy nhiên, nó lại trở thành con dao hai lưỡi nếu bị lạm dụng. Các bác sĩ hiện đang áp dụng một số phương pháp châm cứu thông dụng như: Điện châm: Dùng dòng điện để tăng kích thích của kim vào huyệt khi mắc điện cực của máy điện châm vào kim châm cứu và điều chỉnh cường độ của dòng điện phù hợp với ngưỡng của bệnh nhân. Điện châm hiện đang là phương pháp điều trị rất phổ biến trong lĩnh vực y học cổ truyền. Thủy châm: Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào các huyệt.
Ảnh minh họa
Cứu ngải: Dùng điếu ngải (được làm từ cây ngải cứu khô đã sao vàng và nghiền thành bột, sau đó lấy giấy bản quấn chặt lại giống như điếu xì gà) đã được châm lửa rồi hơ vào huyệt (y học cổ truyền gọi là cứu). Bác sĩ sẽ dùng điếu ngải đã châm nóng, để cứu thẳng vào huyệt hoặc cứu vào đốc kim châm cứu, khi đó, tinh dầu của ngải cứu và hơi nóng sẽ tác động sâu vào huyệt giúp phục hồi những tổn thương nhanh chóng. Châm
cứu
thường
được
dùng
để
điều
trị
các
bệnh
cấp
và
mãn
tính
như:
Thần kinh: liệt dây VII ngoại biên (thường do nhiễm lạnh đột ngột), đau dây V và các dây thần kinh ngoại biên khác, máy mắt, sụp và mỏi mi mắt, liệt nửa người, đau thần kinh tọa, và nhiều chứng đau khác.Cơ xương khớp: giãn dây chằng, thoái hóa khớp gối, đau do thoái hóa cột sống cổ, lưng. Tuần hoàn: Huyết áp cao, thấp, rối loạn thần kinh tim. Tiêu hóa:Các bệnh về dạ dày, ruột.Sinh dục: Các bệnh rối loạn kinh nguyệt, đau bụng kinh,di mộng tinh. Tiết niệu: Tiểu dầm, tiểu bí. Những trường hợp không nên châm cứu:Những người cơ địa yếu, không thích nghi được. Những người có thể trạng yếu,suy kiệt,châm cứu dễ bị sốc.Bệnh nhân bị bệnh tiểu
đường. Mặc dù châm cứu tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị một số loại bệnh, nhưng nếu không cẩn thận dễ gây ra những rủi ro nguy hiểm. Nếu bác sĩ châm cứu thẳng vào dây thần kinh, có thể dẫn đến bị liệt, teo cơ… Khi châm kim, nếu người bệnh có cảm giác rất buốt, bác sĩ cần phải rút kim ra ngay lập tức. Bởi nếu châm sai huyệt, châm vào những huyệt nguy hiểm, châm quá sâu, có thể gây tử vong. Do đó, để châm cứu chữa bệnh đạt hiệu quả, người bệnh chỉ nên đến bệnh viện, viện châm cứu đã được xác nhận của Bộ Y tế. Khônglạm dụng xoa bóp, bấm huyệt Xoa bóp, bấm huyệt là một kích thích cơ học, trực tiếp tác động vào da thịt, thần kinh, mạch máu và các cơ quan cảm thụ gây nên những thay đổi về thần kinh, thể dịch, nội tiết, qua đó nâng cao năng lực hoạt động của hệ thần kinh. Đó là nền tảng đem lại những ứng dụng đột phá trong phòng, điều trị bệnh và nângcao sức khỏe. Đây là hai phương pháp thường được phối hợp nhuần nhuyễn trong phòng và chữa bệnh. Trước khi bấm huyệt, bác sỹ cần tiến hành xoa bóp để cơ vùng huyệt mềm mại, tránh tình trạng làm cơ phản ứng đột ngột gây co và tổn thương cơ. Đối với cơ xương khớp, xoa bóp, bấm huyệt có tác dụng làm giãn cơ, đặc biệt là những nhóm cơ đã bị co cứng trước đó. Xoa bóp, bấm huyệt thường xuyên còn làm tăng tính linh hoạt của khớp và làm giảm khả năng bị chấn thương, cải thiện tư thế. Ngoài ra, xoa bóp còn kích thích hệ thống lympho, làm tăng miễn dịch và cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ thể. Xoa bóp, bấm huyệt tác động trực tiếp lên các thụ cảm thần kinh dày đặc ở dưới da tạo ra các đáp ứng phản xạ thần kinh có tác dụng điều hòa quá trình hưng phấn hay ức chế thần kinh trung ương, làm thư giãn thần kinh, giảm đau, giãn cơ, và cải thiện chức năng tiêu hoá, làm da bóng đẹp. Xoa bóp còn có nhiều tác dụng phục hồi sức khỏe. Theo y học cổ truyền, xoa bóp, bấm huyệt thông qua tác động vào các huyệt, kinh lạc (kinh cân) có thể đuổi được ngoại tà, thông kinh hoạt lạc và điều hòa chức năng tạng phủ. Do đó, bấm huyệt còn được kết hợp với châm cứu để trị bệnh. Bấm huyệt trước khi châm cứu sẽ làm tăng tác dụng của châm cứu lên rất nhiều. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bác sỹ khuyến cáo chỉ nên bấm huyệt mà không được châm cứu như: cơ địa bệnh nhân không chịu được châm cứu, người mắc bệnh tiểu đường…Khi cơ thể bị mệt mỏi sau thời gian lao động căng thẳng cả về thể xác lẫn tinh thần, xoa bóp, bấm huyệt cũng được xem là giải pháp hiệu quả và nhanh nhất để giúp lấy lại sự thăng bằng và tươi trẻ. Đối với phụ nữ muốn kéo dài tuổi thanh xuân, thường xuyên xoa bóp, bấm huyệt sẽ giữ gìn sức khỏe và sắc đẹp được lâu dài. Đặc biệt, khi phụ nữ bước sang tuổi trung niên, xoa bóp, bấm huyệt thường xuyên sẽ giúp lưu thông khí huyết và tạo hưng phấn để nội tiết tố được duy trì dồi dào. Ở người tuổi trung niên, đặc biệt là người cao tuổi, hoạt động của hệ thống cơ xương khớp và tạng phủ đã trì trệ, khí huyết lưu thông kém thì việc xoa bóp, bấm huyệt đều đặn là biện pháp rất tốt giúp khí huyết lưu thông, tăng cường nuôi dưỡng các tế bào và thải độc tố, làm giảm đáng kể quá trình lão hóa và ngăn ngừa phát sinh bệnh tật ở tuổi già.Những trường hợp không được xoa bóp, bấm huyệt: Chấn thương: cả vết thương kín và vết thương hở khi bị tổn thương ở cơ, xương, khớp.Vùng bị viêm nhiễm tấy đỏ hoặc lở loét.Các chứng bệnh ngoại khoa: viêm ruột thừa, thủng dạ dày, viêm vòi trứng vỡ.
Điều trị đau vai gáy bằng xoa bóp bấm huyệt (10/05/2012)
Ấn vào các cơ thang và cơ ức đòn chũm thấy đau và co cứng vồng lên so với bên lành. Toàn thân sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch phù. Đau vai gáy là một bệnh hay gặp trong lâm sàng, gây đau nhức khó chịu, ảnh hưởng đến sức khỏe và công tác của người bệnh. Bệnh xảy ra tức thời sau khi ngủ dậy hoặc quay cúi cổ đột ngột, khi gặp lạnh, sau khi gánh vác nặng hoặc tư thế gối cao đầu một bên (đau vai gáy cấp tính). Cũng có thể đau vai gáy do thoái hóa đốt sống
cổ
hoặc
do
bệnh
nghề
nghiệp
(đau
vai
gáy
mạntính).
Theo Y học cổ truyền, đau vai gáy (lạc chẩm) thuộc phạm vi chứng tý. Nguyên nhân do vệ khí của cơ thể không đầy đủ, tấu lý sơ hở nên phong hàn thấp thừa cơ xâm nhập, bì phu kinh lạc làm tắc trệ mà gây ra đau (ngoại nhân). Hoặc do người già can thận bị hư hoặc bệnh lâu ngày làm khí huyết giảm sút dẫn đến can thận bị hư, thận hư không chủ được cốt tủy, can huyết hư không nuôi dưỡng được cân cơ mà gây bệnh (nội nhân). Hoặc do khi ngủ gối đầu cao bất thường (bất nội ngoại nhân). Người bệnh có biểu hiện đột nhiên cổ gáy vai đau cứng (có thể đau 1 bên hoặc cả 2 bên cổ gáy), quay cổ khó khăn, hạn chế hoặc không thể Phương pháp chữa:
trục
phong
tán
hàn,
thông
kinh
hoạt
lạc.
Châm cứu và xoa bóp là phương pháp điều trị của Y học cổ truyền dân tộc không cần dùng thuốc, dễ học dễ làm, có thể thực hiện ngay tại các tuyến y tế cơ sở, mọi cán bộ y tế hoặc những ai say mê đều có thể học và làm
được.
Sau
đây
là
những
thao
tác
cơ
bản:
- Bệnh nhân ngồi trên ghế, thả lỏng cơ, thầy thuốc đứng và làm lần lượt các động tác sau: xoa, day, lăn, bóp từ vùng bả vai qua huyệt kiên tỉnh đến đại trùy và lên huyệt phong trì. Từ huyệt đốc du lên huyệt phong trì, mỗi động
tác
làm
từ
3-5
lần.
- Bấm và day các huyệt phong trì, đại trùy, phong môn, kiên tỉnh, đốc du (vừa bấm vừa vận động cổ quay sang phải
và
sang
trái).
Riêng
huyệt
bá
lao
khi
bấm
thì
không
vận
động
cổ.
- Khi xoa bóp nếu kết hợp xoa thêm dầu gió hoặc cao sao vàng thì kết quả điều trị sẽ tốt hơn. - Kiểm tra cơ ở vùng huyệt đốc du nếu thấy co cứng thì ta bấm, bật cơ, day nhẹ thì bệnh nhân sẽ đỡ đau và vận động
cổ
gáy
dễ
dàng
ngay.
- Khi vận động cổ bệnh nhân: thầy thuốc nắm một bàn tay kê ngang cổ bệnh nhân làm điểm tựa, còn tay kia của thầy thuốc điều khiển cổ bệnh nhân nghiêng sang phải, sang trái, cúi cổ và ngửa cổ. Lưuý: - Đối với những bệnh nhân từ 45 tuổi trở lên do mật độ khoáng chất của xương giảm dần nên cần cho đo kiểm tra
mật
độ
khoáng
chất
xương
trước
khi
làm
xoa
bóp.
- Với những trường hợp bệnh nhân bị đau vai gáy mạn tính thì cần cho chụp film X-quang phổi để loại trừ các bệnh lý ở phổi và bệnh lý ở trung thất.
Đau nửa đầu: Châm cứu đúng, hiệu quả dài lâu (18/03/2012)
Một nghiên cứu mới vừa công bố trên tạp chí Hiệp hội Y khoa Canada cho biết phương pháp châm cứu đúng huyệt đạo có thể giúp giảm triệu chứng đau nửa đầu và tác dụng này có thể kéo dài trong nhiều thángCác nhà khoa học Bệnh viện Trường ĐH Charite (Berlin, Đức) đã tiến hành nghiên cứu trên 500 người lớn bị chứng đau nửa đầu, trong đó một nhóm được châm cứu đúng huyệt đạo và một nhóm chứng (châm kim vào những huyệt không đặc hiệu). Bệnh nhân được yêu cầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của chứng đau nửa đầu vào thời điểm bắt đầu nghiên cứu và sau 4 tuần điều trị châm cứu. Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều có giảm tần số cũng như cường độ của triệu chứng đau nửa đầu sau 1 tháng điều trị. Tuy nhiên ở nhóm điều trị đúng huyệt, tác dụng giảm đau kéo dài đến 3 tháng trong khi nhóm chứng không có được hiệu quả giảm đau kéo dài này
Đau lưng, châm cứu hiệu quả hơn (08/09/2011)
Nếu đau lưng, hãy nghĩ tới những cây kim. Bởi các chuyên gia phát hiện ra rằng liệu pháp đông y này điều trị đau lưng tốt hơn bất cứ phương pháp nào. Phải đến 85% chúng ta đã từng có cảm giác đau nhói một vài lần nào đó. Chỉ riêng tại Anh, đau lưng tiêu tốn khoảng 500 triệu bảng (tương đương với khoảng 750 triệu đô la Mỹ) mỗi năm. Một nghiên cứu cho thấy châm cứu là dùng các cây kim đặc biệt xuyên vào các huyệt đạo trên cơ thể, giúp giảm đau hiệu quả hơn hẳn các các điều trị khác. Hàng trăm người bị đau thắt lưng mãn đã tham gia vào nghiên cứu. Họ được chia thành 4 nhóm. Nhóm thứ nhất chỉ châm cứu 1 lần, nhóm thứ 2 điều chị theo liệu trình, nhóm thứ 3 là châm cứu bằng kim điện cực và nhóm cuối cùng dùng các phương pháp tây y. Sau 8 tuần, tình trạng đau lưng của 60% những người được châm cứu có sự cải thiện. Trong khi phương pháp thông thường là 39%. Sau 1 năm, 59 - 69% người được điều trị bằng châm cứu báo cáo kết quả cải thiện đáng kể, so với 50% ở những người dùng phương pháp thông thường. Nhà nghiên cứu, TS Daniel Cherkin cho biết: Tất cả các hình thức châm cứu đều có hiệu quả và tác động lâu dài đối với chứng đau lưng mãn” khi so với phương pháp thông thường. Với nghiên cứu này, châm cứu hứa hẹn sẽ trở thành một lựa chọn quan trọng trong điều trị đau lưng mãn. Bởi châm cứu không chỉ an toàn, ít tác dụng phụ mà còn có tác dụng lâu
Xoa bóp bấm huyệt bổ trợ châm cứu (01/09/2011)
Châm cứu là phương pháp chữa bệnh dùng kim châm vào các huyệt sau đó kích thích bằng xung điện (điện châm) để khí huyết lưu thông. Theo ThS, BS. Hồ Thị Lan Thái và ThS, BS. Vũ Thu Giang - Khoa Thăm dò chức năng Bệnh viện Châm cứu Trung ương, khi xoa bóp bấm huyệt cũng mục đích tương tự như vậy, đồng thời có tác dụng bổ trợ hiệu quả cho châm cứu. Vì khi xoa bóp bấm huyệt tác động trực tiếp vào các khối cơ co cứng, các khối cơ được mềm hóa, tuần hoàn tại chỗ được tăng cường hơn. Các khớp xương khi được vận động, tập luyện sẽ bớt cứng, giảm sự co rút các bó cơ, làm đỡ đau và làm chậm quá trình thoái hóa của các khớp. Nhất là trong những trường hợp cơ bị co cứng như vẹo cổ cấp hay đau lưng cấp thì xoa bóp bấm huyệt đặc biệt có hiệu quả tốt. Tuy nhiên ThS.BS. Vũ Thu Giang cho biết: khi áp dụng xoa bóp bấm huyệt để điều trị cần một liệu trình nhất định, không nên lạm dụng vì dễ bị “nghiện”. Nghĩa là người bệnh khi được xoa bóp bấm huyệt thì thấy rất thoải mái, dễ chịu nhưng nếu ngày nào không được xoa bóp thì cảm thấy mệt mỏi, chân tay buồn bực. Cũng theo BS. Giang, tốt nhất là nếu có điều kiện 1 tuần nên đi xông hơi, massage tại những cơ sở có uy tín, đặc biệt tại các Khoa điều trị hay Trung tâm xoa bóp bấm huyệt của các bệnh viện Y học cổ truyền. Và để tránh sự phụ thuộc vào xoa bóp bấm huyệt, sau những đợt điều trị bệnh nhân có thể học các động tác tự tập luyện tại nhà để duy trì sức khỏe. Theo Sức khoẻ & đời sống
Châm cứu & bấm huyệt trị ốm nghén (23/08/2011)
Cách hay trị ốm nghén (Ba bau) - Châm cứu, bấm huyệt là một trong những phương pháp điều trị của Đông y rất công hiệu. Phương pháp này đã được sử dụng để chữa nhiều bệnh như đau khớp, đau đầu, cận thị, giúp lưu thông khí huyết… "9 tháng 10 ngày" là cuộc thi đang thu hút sự quan tâm của các mẹ trên Eva.vn. Hãy tham gia và trở thành bà mẹ tuyệt vời nhất cùng các phần quà hấp dẫn. Châm cứu, bấm huyệt là một trong những phương pháp điều trị của Đông y rất công hiệu. Phương pháp này đã được sử dụng để chữa nhiều bệnh như đau khớp, đau đầu, cận thị, giúp lưu thông khí huyết… Châm cứu, bấm huyệt là một phương pháp trị bệnh đơn giản. Phương pháp này rẻ tiền, không phải dùng thuốc, và đem lại nhiều kết quả kỳ diệu cho người bệnh, vì thế nó được dùng để trị những con ốm nghén gây khó chịu cho bà bầu. Phương pháp chữa trị này nhằm tác động đến dòng năng lượng qua các mạch chính của cơ thể, các huyệt đạo liên quan đến các trung tâm năng lượng và cơ quan chủ chốt trong cơ thể được kích thích giúp lưu thông khí huyết và thư giãn. Huyệt kiểm soát tình trạng ốm nghén có tên là huyệt Đại Lăng nằm ở giữa nếp gấp cổ tay. Khi huyệt này được kích thích bà bầu sẽ thấy không còn cảm giác ốm nghén, cơ thể được thoải mái, thư giãn. Để xác định được vị trí của huyệt Đại Lăng, hãy dựa vào các nếp gấp của da ở cổ tay, sau đó dùng kim châm hoặc ngón tay ấn vào huyệt này, bấm một lúc rồi thả ra. Kết hợp xoa bóp và mát xa để thư giãn. Làm như vậy một ngày vài lần, cơn ốm nghén sẽ không còn hoành hành nữa. Thực tế, khi chưa qua một lớp học về bấm huyệt châm cứu thì rất khó xác định vị trí huyệt đạo và cách thức bấm huyệt. Bà bầu có thể đến các trung tâm châm cứu, bấm huyệt hoặc mời bác sĩ về nhà để bấm huyệt giúp thoát khỏi những cơn ốm nghén hoành hành.